Hùng Tâm/Người Việt
Tết Nguyên Đán năm Bính Thân, Bắc Hàn Cộng Sản đã tặng thế giới vài món quà mặn.
Đầu tiên là việc bắn hỏa tiễn tầm xa để đưa một vệ tinh lên quỹ đạo. Chỉ một tháng sau việc thử nghiệm võ khí hạch tâm lần thứ tư kể từ năm 2006, quyết định này khiến thế giới giật mình và Bắc Kinh lúng túng. Ngay sau khi trình bày hình ảnh của lãnh tụ Kim Chính Ân theo dõi việc đưa vệ tinh lên quỹ đạo thì có tin là Kim Chính Ân vừa ra lệnh xử tử hình viên Đại tướng Tổng tham mưu trưởng của quân đội. Rồi lại có tin rằng Bắc Hàn sẽ triệu tập Đại hội đảng lần thứ bảy vào Tháng Năm tới đây. Từ năm 1980, đây là lần đầu tiên mà đảng Công nhân Triều Tiên có đại hội và giới quan sát cho rằng Kim Chính Nhật đã củng cố được quyền lực sau bốn năm lãnh đạo để rồi sẽ tiến hành… cải cách kinh tế theo chiều hướng tiếp cận với thị trường.
Giới quan sát phân vân về những động thái vừa qua của Bắc Hàn. Hai ngày sau, người ta được biết việc phóng vệ tinh thất bại và Bắc Hàn chưa thể có một Hoàng Minh Tinh cấp 4 bay trên không gian, nhưng có thừa ý chí vượt trời xanh. Việc hành quyết một viên tướng cao cấp nhất quân đội thì xác nhận rằng chế độ lạnh lùng này cũng vẫn có những quyết định khá điên khùng sau khi đả thủ tiêu hơn một trăm người trong vòng cai trị cao cấp nhất quanh Kim Chính Ân. Lạnh lùng hay điên khùng, người ta chưa rõ, những người cả tin thì vẫn cho rằng sau khi n8ám chặt quyền lực trong tay, cậu bé họ Kim này bắt buộc phải cải cách kinh tế vì chế độ không có tương lai, với những thành tựu khoa học kỹ thuật trên một nền móng cực kỳ lạc hậu.
Hồ sơ Người Việt sẽ tìm hiểu chuyện ấy, nhưng đi ngược diễn tiến và thời gian để nói về từng chuyện.
Bắc Hàn cải cách kinh tế?
Khi xứ Venezuela đã khủng hỏang sau khi lãnh tụ Hugo Chavez lao vào việc thử nghiệm “xã hội chủ nghĩa”, và Cuba được Chính quyền Baracl Obama giải vây để đưa một xứ cộng sản vào quỹ đạo Tây phương, việc Bắc Hàn sẽ tiến hành cải cách kinh tế là một giấc mơ của nhiều người. Với chế độ Cộng sản Bình Nhưỡng, đây là giấc mơ ôm ấp từ 10 năm trước!
Đầu tiên, Thứ Sáu mùng hai tháng 11 năm 2007, Thủ tướng Bắc Hàn là Kim Yong-il, ta có thể phiên âm thành Kim Anh Nhật để khỏi lầm với lãnh tụ Kim Jong-il Kim Chính Nhật – thên phụ của Kim Chính Ân - đã du thuyết bốn nước Đông Nam Á, bắt đầu là Việt Nam rồi Malaysia, Cambốt và Lào, về các cơ hội đầu tư và mậu dịch với Bắc Hàn. Với Việt Nam, phái đoàn Bắc Hàn ký một số hiệp ước về hợp tác nông nghiệp, thể thao và văn hoá. Chuyến thăm viếng là một biến cố mới, nối tiếp thượng đỉnh giữa hai lãnh tụ Nam và Bắc Hàn cách đấy đúng một tháng, vào mùng bốn tháng 10 năm 2007.
Hôm 28 tháng 10, tuần báo Yazhou Zhoukan, tức là "Á châu tuần san" hay "Asia Week", có tiết lộ rằng trong dịp Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thăm viếng thủ đô Bình Nhưỡng vào trung tuần tháng 10, lãnh tụ Kim Jong-il có nói Bắc Hàn có thể áp dụng mô thức của Việt Nam để hồi phục nền kinh tế của mình. Trước những biến cố ấy, dư luận Đông Á kết luận là đã đến lúc Bắc Hàn mở cửa! Mười năm sau, cửa vẫn đóng then vẫn cài.
Về mục tiêu, thì lãnh đạo Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Hàn đều cùng nhắm vào một điểm then chốt, là làm sao mãi mãi cầm quyền. Vì mục tiêu ấy và cũng vì muốn thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cả ba quốc gia vẫn bị chi phối bởi chủ nghĩa cộng sản đều muốn cải tổ kinh tế trong một chừng mực nhất định cho dân khỏi chết đói, bằng cách hợp tác với bên ngoài để thu hút tư bản và kỹ thuật của thế giới. Nhưng đồng thời vẫn duy trì được hệ thống chính trị độc đảng của mình.
Trong chiều hướng ấy, Bắc Hàn có thể tìm hiểu hai mô thức cải cách của Trung Quốc và Việt Nam để lượm lặt bí quyết chiêu dụ quốc tế. Khách quan mà nói thì họ có thể thấy mô thức Việt Nam thích hợp hơn, chẳng phải vì Hà Nội sáng suốt hơn mà vì Trung Quốc là một xứ cực lớn, với rất nhiều bài toán đa diện, nên có hoàn cảnh khác với Bắc Hàn.
Tuy nhiên, và đây cũng là điều mà dư luận cần chú ý, thật ra Bắc Hàn đã muốn xoay từ lâu rồi chứ không phải bây giờ mới bắt đầu nghĩ đến việc mở cửa.
Cách mạng là thường trực
Thời Chiến Tranh Lạnh, chứng tật của chủ nghĩa Mác-Lênin và lề lối quản lý kinh tế tập trung bị dìm sâu dưới yêu cầu về an ninh cho chế độ. Nhưng kinh tế chính trị học Mác-Lenin của các nước như Bắc Hàn hay Việt Nam chỉ có thể tồn tại như vậy nếu có một hậu phương yểm trợ là Liên Xô và Trung Quốc. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô tan rã, Bắc Hàn phải dựa vào Trung Quốc.
Thời ấy, Trung Quốc tiến hành chính sách mở cửa của Đặng Tiểu Bình để thoát cơn khủng hoảng, và bình thường hoá quan hệ với Nam Hàn để du nhập tư bản, kỹ thuật và cả kiến thức về công nghiệp hoá của Nam Hàn. Vì vậy, lãnh đạo Bình Nhưỡng chột dạ. Năm 1992, lãnh tụ Kim Nhật Thành đành tiến hành cải cách, một cách dè dặt, như Hà Nội thời đó. Khốn nỗi, ông tạ thế năm 1994 và con trai là Kim Chính Nhật mất mấy năm để củng cố quyền lực của mình, trong khi xứ sở lụn bại, kinh tế khủng hoảng, hai triệu người chết đói vì Bắc Hàn tự cô lập dưới khẩu hiệu gọi là "tự chủ". Và càng lệ thuộc nhiều hơn vào nguồn trợ cấp rất đáng ngại của Trung Quốc.
Qua thế kỷ 21, từ năm 2001, Bắc Hàn muốn xoay ra và dùng võ khí hạch tâm như một lối bắt bí thiên hạ để tống tiền, thực chất là để Hoa Kỳ phải quan tâm, đối thoại và dắt mình ra khỏi cơn khủng hoảng. Là chuyện đang xảy ra. Nếu nhớ lại như vậy, người ta có thể hiểu vì sao Bắc Hàn sẽ không áp dụng mô thức Trung Quốc.
Bắc Hàn cần mở ra để tiếp nhận tư bản và kỹ thuật hầu công nghiệp hoá một xứ sở bị khoá trên vùng Đông-Bắc Á giữa hai đồng chí cũ là Liên bang Nga, Trung Quốc và một kẻ thù nhưng đồng bào là Nam Hàn. Ở vòng ngoài là Nhật Bản. Tuy nhiên, vì yêu cầu của chế độ độc tài, họ chỉ muốn mở ra một cách hạn chế, ở những khu vực nhất định hầu việc cải cách hay kinh tế thị trường không gây quá nhiều biến đổi trong xã hội dẫn tới những biến đổi về chính trị mà chế độ không chấp nhận được.
Họ có thể đang lần mò vào vết xe của Việt Nam gần 20 năm trước, khi lập khu chế xuất hay vùng kinh tế trọng điểm. Nôm na là các đặc khu kinh tế, chẳng khác gì các tô giới thời thực dân vào thế kỷ 19. Cái khác là xưa kia, các nước Á châu bị ép như vậy, bây giờ là lãnh đạo độc tài Á châu tái lập vùng thuộc địa ngay trong nước. Bên trong, một thiểu số có quyền thì được tiếp xúc với - và trục lợi nhờ - giới đầu tư và thị trường bên ngoài, cả xã hội còn lại vẫn tiếp tục sống dưới cái gọi là sự ổn định lạc hậu của xã hội chủ nghĩa.
Tại Bắc Hàn, lãnh đạo bị ám ảnh bởi nhu cầu kiểm soát và bị cột trong tư duy xã hội chủ nghĩa, lấy công nghiệp nặng làm cơ sở và mở ra bên ngoài theo nhãn quan Nga - Tầu.
Họ khởi đi từ hai đặc khu kỹ nghệ đã có từ xưa. Một ở phiá Đông-Bắc, sát biên giới với Nga và tỉnh Cát Lâm của Tầu là Najin, gọi theo Nam Hàn, hay Rasin-Songbong, tức là La Tân Tiền Phong Quận. Khu thứ hai là Sinuiju - hay Tân Thọ Châu - đối diện với thành phố Đan Đông của tỉnh Liêu Ninh bên sông Áp Lục. Năm 2003, họ lập ra đặc khu kinh tế thứ ba, là Kaesong - hay Khai Thành - sát biên giới Nam-Bắc Hàn. Đặc khi này vừa bị Nam Hàn quyết định đóng cửa sau vụ bắn hỏa tiễn vào dịp Tết Bính Thân.
Được khai thông bằng đường xá và thiết lộ, các đặc khu ấy thu hút được một số đầu tư Nga, Tầu hay Nam Hàn, tức là không nhiều và ít thành công. Chưa kể là năm 2006, Trung Quốc còn đóng cửa không cho doanh gia đi qua làm ăn tại đặc khu Tân Thọ Châu vì sợ cạnh tranh với luồng xuất khẩu của họ từ Đan Đông!
Do kinh nghiệm ấy, Bắc Hàn có thể dùng các đặc khu làm thỏi nam châm thu hút đầu tư quốc tế và mở thêm các hải cảng Nampo và Haeju làm thương cảng giao lưu với Hoàng hải và Nhật Bản và thế giới bên ngoài. Ưu thế họ nghĩ là mình có là khối lượng nhân công rẻ và bị kiểm soát chặt chẽ để phục vụ các đặc khu được khoanh vùng trong thành lũy hầu ngăn ngừa được mọi sự ô nhiễm xã hội hay chính trị.
Kết qủa? Thành công hay không là căn cứ trên những mục tiêu của lãnh đạo. Chế độ Cộng sản Bình Nhưỡng chỉ cần huy động tư bản, thiết bị và công nghệ cho nền kinh tế lạc hậu mà vẫn hạn chế ảnh hưởng của Tây phương hay tư tưởng tự do dân chủ. Cho nên mục tiêu không khác, nhưng khắt khe hơn Việt Nam. Trong các khu vực ấy, nhân viên được tuyển chọn và kiểm soát rất kỹ để cùng lắm thì học nghề của tư bản chứ không thể reo rắc những tư tưởng mà lãnh đạo gọi là phản động. Nếu chỉ nhắm vào mục tiêu đó thì sự thành bại tùy thuộc vào thiện chí đầu tư của quốc tế.
Quốc tế chưa thấy việc chiêu mại này là hấp dẫn thì đã giật mình về kế hoạch chế tạo bom khinh khí, võ khí hạch tâm hay hỏa tiễn Đại Pháo Đồng bay qua đầu các lân bang Đông Bắc Á.
Nam Hàn tính sao?
Mươi năm về trước, lãnh đạo Nam Hàn có thể tiếp tay Bắc Hàn theo hướng hợp tác vì lý do chính trị, khi chính quyền khuyến khích doanh nghiệp đi vào hợp tác, là điều người ta đã thấy.
Một số liên doanh quốc tế cũng có thể nhảy vào và sở dĩ liên doanh là để phân tán rủi ro chính trị với nhau. Nhiều tập đoàn về năng lượng cũng muốn thăm dò một thị trường còn khép kín và có nhiều tài nguyên khoáng sản. Chủ yếu thì vẫn là giới đầu tư Trung Quốc, Nam Hàn và Âu châu, như Đức, Anh, Ý, Thụy Sĩ. Họ lập nhà máy, mở trường đào tạo, lập quỹ đầu tư, v.v... và nếu Bắc Hàn hết bị phong tỏa thì đến lượt doanh nghiệp Mỹ rồi Nhật cũng sẽ không lỡ cơ hội, vì rủi ro chính trị của một chế độ bị sụp đổ coi như sẽ được đẩy lui.
Nếu ta so sánh với tình hình khủng hoảng và hoàn cảnh chết đói mươi năm về trước váo đầu thập niên 1990 thì việc mở cửa như vậy quả là một tiến bộ và Bắc Hàn có thể sẽ thành công. Nhưng chỉ thành công chừng ấy thôi.
Lý do là đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào khoáng sản và nguyên liệu theo mô thức khai thác thời thuộc địa, với rất ít lợi ích toả rộng hay nhỏ giọt xuống dưới cho người dân. Thứ hai, mô thức đặc khu kinh tế hay khu chế xuất không thể có chuyển giao công nghệ sâu và rộng cho người dân. Tức là người dân Bắc Hàn tiếp tục làm nô lệ và không học hỏi được gì để cải thiện cuộc sống của họ. Trong hoàn cảnh ấy, người ta khó thấy một làn sóng đầu tư quốc tế tràn vào Bắc Hàn để tiếp cận và trao đổi với xã hội rồi sẽ thay đổi được mức sống của người dân xứ này, như ta thấy phần nào tại Việt Nam.
Vì vậy, chính quyền của Tổng Thống Phác Cận Huệ không còn lạc quan như các tiền nhiệm và mong rằng quan hệ khắng khít của bà với Bắc Kinh sẽ giải quyết được bài toán Bắc Hàn. Và để khuyến khích Bắc Kinh răn đe đứa trẻ ngỗ nghịch, bà đang quyết định chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ là thiết lập hệ thống bảo vệ chiến lược tới tân nhất, là THAAD, và làm Bắc Kinh bực mình không ít.
Vì chiều dài có hạn, qua kỳ sau, chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp về chuyện rắc rối của Bắc Hàn.