Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Hãy Tự Phong Dũng Sĩ
Các bạn cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hay các cựu chiến sĩ Đồng Minh Hoa Kỳ. Các bạn chua sót lắm ư? Buồn bả lắm ư? Khi nhìn thấy các đường phố New York hay những nơi khác tưng bừng tràn ngập cờ xí, hoa giấy, và hàng ngàn người tung hô những người lính Mỹ vừa thắng trận trở về từ Trung Đông.

Các bạn đừng buồn mà hãy tự hào về quá khứ của mình. Các bạn hãy trang trọng tự phong cho mình chức Dũng Sĩ.

Hãy để cho lương tâm của các bạn ban cho bạn những huy chương, những bằng tưởng lục, những chức tước với những giá trị đích thực của nó.

Bạn đừng buồn bả rút mình trong xó tối mà hãy mở cửa cho ánh sáng tràn vào căn phòng, tràn vào tâm tư, chói sáng đầu óc và thân thể bạn.

Bạn hãy xoa vào những phần mất mát trên thân thể mình, những vết thương bị bom đạn tàn phá. Chỉ có chính bạn, chính lương tâm của bạn mới biết rõ những đóng góp bằng mồ hôi và xương máu của bạn đối với quốc gia, quê hương tổ quốc bạn.

Riêng các bạn sắp sửa bước vào ngành truyền thông. Xin các bạn hãy suy nghĩ cho kỹ. Nếu các bạn nghĩ rằng có thể hành nghề một cách trung thực có lương tâm với lý tưởng phục vụ cộng đồng, quốc gia hay rộng hơn là nhân loại thì bạn hãy bước vào. Nếu bạn nghĩ rằng mình sẽ bị ảnh hưởng của đám đông, có thể bẻ cong ngòi bút vì một áp lực nào đó xin bạn hãy chọn một ngành khác.

Vì sao?

Vì sức mạnh của ngành truyền thông, nhất là ở Hoa Kỳ, có thể giúp cho loài người tiến bộ, bao nhiêu trẻ nghèo đói ở Phi Châu được giúp đỡ, có thể giúp cho một trận chiến được toàn thắng. Nhưng nó cũng có thể tàn phá cả một quốc gia và đưa đất nước đó đi đến họa diệt vong. Đó là quốc gia nhỏ bé đau thương, chiến tranh triền miên của chúng tôi. Đất nước Việt Nam!

Đất nước nhỏ bé của chúng tôi mỗi giây phút đều có hàng triệu người rên xiết dưới chế độ cộng sản. Vậy mà ngành truyền thông của Mỹ hoặc là bỏ quên hay vẫn tiếp tục chiếu những chương trình bóp méo sự thật.

Là một nhà báo Việt Nam, tôi tức giận giới truyền thông Mỹ vô cùng. Tôi nghĩ họ có trách nhiệm và bổn phận phải phục hồi chánh nghĩa cho người lính Việt Nam Cộng Hòa, và họ phải có phận sự phục hồi danh dự cho những cựu quân nhân Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam. Những người bất đắt dĩ đã phải thua trận và sống trong đau khổ tủi nhục vì sự thiếu lương tâm bóp méo sự thật của họ.

Sự trung thực là một cá tính không thể thiếu của một nhà báo, của một người mang sứ mệnh truyền thông đại chúng với đầy đủ lương tâm chức nghiệp để phục vụ SỰ THẬT.

Nhiều lần tôi tự hỏi, những người đã dùng ngòi bút của mình, kỷ thuật làm phim hay thực hiện những chương trình truyền hình để bóp méo sự thật hay hướng dư luận theo một nhóm có thế lực nào đó. Liệu lương tâm của họ có bằng an khi thấy cả một dân tộc bị chết chóc tù đầy, cả một thế hệ trẻ thiếu dinh dưỡng, thất học ốm đau đói khổ?

Nếu có nhân tính họ phải trả lời câu hỏi này với chính họ!

Nguyễn Huỳnh Mai
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Con người và cái chết của Tướng Lê Văn Hưng

(Lý Minh Hào trích dịch – Last man out của James E Parker Jr)
Trong suốt thời gian về làm việc tại vùng châu thổ Cửu Long (Vùng 4), chủ yếu tại Cần Thơ và các tỉnh lân cận, tác giả do vai trò “case officer” trong ngành CIA nên luôn có dịp gặp Tướng Hưng. Ngày đầu tiên diện kiến ông Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tác giả “hơi lấy làm lạ” về cách đánh giặc và điều quân của Tướng Hưng là “thủ nhiều hơn công” khi đôi bên trao đổi và thảo luận, về kế hoạch quân sự trong vùng. “Tại sao lại đánh một trận chiến đang thua?” tác giả thắc mắc thì tướng Hưng cười và hỏi lại: “Tôi còn có những lựa chọn gì nữa đâu?” rồi chậm rãi nói tiếp – “Đây là đất nước của tôi.”

Sau nhiều tháng liên tục làm việc để lập mạng lưới tình báo tại vùng châu thổ, tác giả ghi nhận tướng Hưng dành rất nhiều thời giờ cho việc trận mạc: Sáng sớm thường đáp trực thăng đi thị sát và trao đổi với các đơn vị trưởng địa phương. Trở về họp tổng kết tại Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn và thỉnh thoảng họp khẩn về đêm. Càng về sau tác giả mới hiểu ra thêm tổng quan (outlook) của một ông tướng Việt Nam trong cuộc chiến giữa những người Việt Nam ngay trên quê hương của mình. Tướng Hưng tin rằng sự chiến đấu thực sự cho vùng châu thổ đang diễn tiến ở những nơi khác, có thể trong các cuộc họp hành ở Sài Gòn. Vả lại, là một người theo đạo Phật, ông tin vào định mệnh, những gì xảy ra với những hậu quả gì đem đến đều là sự an bài, xếp đặt trong vạn vật cả.

Tuy nhiên, tháng 2 năm 1975, theo đòi hỏi của cấp trên từ Cần Thơ và Sài Gòn, Tướng Hưng đã phát lệnh tấn công một lực lượng quân sự trọng yếu của Cộng Sản tại mạn đông của tỉnh Chương Thiện, nằm trong một mật khu lâu đời thuộc rừng U Minh – Theo tác giả, đây là chiến dịch động binh lớn nhứt và khổ cực nhứt của Tướng Hưng với những điều kiện khó khăn và phương tiện hạn hẹp. Chỉ còn cách tấn công địch theo lối “liệu cơm mà gắp mắm” thiếu hụt đủ thứ: Phi vụ không quân hạn chế nên không vận chuyển kịp thời các quân cụ, khí giới nặng, điều động nhanh các đơn vị chiến đấu tấn kích thần tốc. Quân đội Hoa Kỳ tuy để lại nhiều súng đại bác nhưng thiếu đạn, còn nhiều mìn claymore nhưng không có đủ bộ phận khởi động (activators) , còn nhiều loại đạn dược, nhưng ngòi nổ đã tịt! Tuy vậy nhờ sự chỉ huy tài giỏi, sự can trường và thiện chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, lực lượng cộng sản Bắc Việt đã bị đẩy lùi sâu vào rừng U-Minh khi kết thúc chiến dịch. Trận đánh lớn như vậy hẳn nhiên chiến trường tàn cuộc phải tang tóc, sự chết chóc và thương tật cả đôi bên phải nhiều. Tác giả ngậm ngùi ghi chép tâm trạng Tướng Hưng trong hoàn cảnh tàn cuộc chiến đó: Tướng Hưng không biết chắc là trong thực tế mình có thắng lợi thực sự hay không. Ông ta gần như đã xả láng những gì còn có trong tay. Để cho gì đây? Ông đã chịu đựng bao thứ tai ương.

Trong con người võ tướng còn có một văn nhân. Tác giả đã sống với Tướng Hưng những buổi chiều đằm thắm: Hỏi thăm chuyện gia đình, bàn chuyện nước Mỹ, chuyện thời sự, thảo luận văn chương. Kiến thức ông tướng uyên bác, nhiều nhà văn và tác phẩm văn chương Mỹ ông đề cập phần tác giả còn chưa đọc tới dù rằng là “mọt sách” đọc không dưới hai ba cuốn sách mỗi tuần. Còn Tướng Hưng ưa kể chuyện lịch sử Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương. Ông ăn nói cân nhắc, từ tốn, luôn tươi cười, ngay cả những khi tranh luận các vấn đề quan trọng. Tướng Hưng có được những nét tự tin đặc biệt và quanh người ông như toát ra vẻ thanh thản, trầm tĩnh. Tánh tình khả ái, rất dễ gây được cảm tình của mọi người từ ông tướng đã thu phục “con tim” của một điệp viên Mỹ, tạo thành tình bạn thân thiết giữa hai người.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đúng lúc 7 giờ tối, Tướng Hưng, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là người bạn của tôi, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ. Tướng Hưng cho vợ biết là có mười người dân địa phương đến thỉnh cầu ông đừng chống trả với lực lượng Việt Cộng đang tiến quân vô thành phố. Họ nói bọn Cộng Sản sẽ pháo kích nát Cần Thơ thành đống gạch vụn và gây thương vong cho nhiều dân lành. Tướng Hưng nói với vợ rằng ông hiểu rõ chuyện đó và đồng ý sẽ không để thành phố Cần Thơ biến thành một bãi chiến trường tuyệt vọng. Ông cũng cho biết kế hoạch khẩn cấp rút lui cùng một số thuộc hạ vào một mật khu xa xôi vùng châu thổ đã hẹn trước, nơi sự sống khó tồn tại. Đầu hàng giặc không phải là một giải pháp lựa chọn.

Tướng Hưng cũng không hề nghĩ tới việc diện kiến và thảo luận với một quan chức Việt Cộng trách nhiệm trong vùng, Thượng Tá Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Châu thổ Nam Bộ cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có một trách nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định sinh mạng của mình.

Vợ của Tướng Hưng bật khóc và năn nỉ ông hãy suy tính lại. “Tại sao mình không thể bỏ ra ngoại quốc giống như những người khác?,” bà hỏi chồng.

Tướng Hưng lập lại lần nữa với vợ về trách nhiệm riêng đối với xứ sở và binh lính. Ông ôn tồn và chậm rãi nối tiếp: “Mình đừng để anh bị mất lòng kiên định. Giờ đây cứ đánh tiếp cũng chỉ đem lại rắc rối và mất mát không những cho gia đình và bà con mình, mà còn cho binh lính và dân lành nữa. Và anh không muốn thấy mặt thằng Cộng Sản nào hết.”

Rồi Tướng Hưng đứng dậy, ôm vợ vào lòng, và rớt nước mắt. Sau cùng, ông nói cùng vợ: “Lẹ lên đi mình, tới mời Má và dẫn các con vô đây gặp anh.”

Khi người Má vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông rồi, Tướng Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con.

Bên ngoài văn phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh.

Tướng Hưng tuyên bố việc chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi cho ông, nếu như cá nhân ông đã có những lỗi lầm nào đó. Bầu không khí xung quanh nặng nề. “Tôi xin chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em,” Tướng Hưng dứt câu.

Tướng Hưng đưa tay lên chào và đưa tay bắt từng người một. Ông yêu cầu mọi người ra về. Một vài quân nhân vẫn đứng tại chỗ không chịu lui bước, nên tướng Hưng buộc lòng phải bước tới đẩy và giục họ về. Rồi ông bảo vợ đừng có nài nỉ thêm điều gì nữa và chỉ một mình bước vô văn phòng làm việc.

Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng.

Sau phần Lời Bạt, và xếp cuối trang sách “Last Man Out” James E. Parker Jr. đã chọn bài thơ của một chiến binh Mỹ ẩn danh (Làm tại Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, khoảng năm 1969). Từ và ý bài thơ hoa mỹ, lãng mạn và phảng phất siêu thoát, nhưng dứt bằng một câu thơ đầy hào khí tang bồng hồ thỉ như khí tiết của những chiến sĩ, hiệp khách Đông Phương:

Đừng đứng bên mộ anh và nhỏ lệ:
Anh không ở trong mộ này. Anh không ngủ đâu em.
Anh là ngàn ngọn gió thổi khắp phương trời
Anh là kim cương lấp lánh trên tuyết lạnh
Anh là ánh nắng nhuộm vàng hạt lúa chín
Anh là giọt mưa của trời thu êm ả
Khi em thức giấc lúc ban mai thinh lặng
Anh là lực xua đàn chim vụt bay cao
Những cánh chim lặng lẽ lượn những đường vòng
Đừng đứng bên mộ anh và khóc lóc:
Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em.


Bài thơ không tựa và tác giả ẩn danh trên, tác giả James E. Parker Jr. xếp liền ngay sau phần mô tả cái chết của Tướng Hưng để xem như vòng hoa tang cho một ông tướng cốt cách hào hoa. Bởi vì trong đời thường và trong quân ngũ, tướng Hưng vẫn không giấu được ngay cả dưới lớp quân phục những nét nho nhã và dáng hào hoa của một người đàn ông. Nhiều người nhận xét, Tướng Lê Văn Hưng “có tướng quan văn hơn là võ tướng,” chẳng qua ông quan văn này phải khoác chiến y, áo giáp đỡ đạn trong thời chiến và trên chiến trường mà thôi! Tướng Hưng cũng có tiếng là “người chịu chơi,” nhứt là thời còn trai trẻ, sĩ quan còn mang lon cấp úy, cấp tá, nhiều phen “quậy tới bến” sau chiến trận được về lại hậu cứ nghỉ ngơi. Ôi, đó là những năm anh còn trẻ của một người trai thời ly loạn sống nay chết mai. Thiết nghĩ không ai quá khắt khe đối với ông tướng.

Nhưng rồi ông tướng không mấy năm sau đó cũng có cơ hội, gặp thời thế để trả nợ chí trai và làm đẹp non sông: Khí tiết Lê Văn Hưng đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử trong lịch sử và quân sử Việt Nam.

Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm “Last Man Out,” tác giả James E Parker, Jr. chính vì vậy đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt:

I am not there. I did not die.

Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur:

“Duty, Honor, Country.”
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Image

Thứ Bảy 14-8-2010 Xin Mời Thăm Mộ Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn,
Người Tử Thủ 1975 tại Nam California.



Xin Mời Thăm Mộ Cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Người Tử Thủ 1975

Sau đây là Thư Mời viếng mộ cố Đaị Tá Hồ Ngọc Cẩn, người chiến đấu tới khi bị bắt và bị tử hình ở sân vận động Cần Thơ tháng 8-1975.

Chúng tôi là những Đồng Đội đã từng kề vai sát cánh chiến đấu và có những kỷ niệm vui buồn bên cạnh cố Đại Tá HỒ NGỌC CẨÃN, người đã lần lượt giữ các chức vụ chỉ huy các đơn vị thiên chiến của QLVNCH như Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân, Sư Đoàn 21 Bôä Binh, Trung Đoàn 15 thuộc SD 9BB, và chức vụ sau cùng của ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện thuộc vùng 4 chiến thuật (đồng bằng sông Cửu Long)

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại Tá Hồ Ngọc Cẫn đã không tuân lệnh đầu hàng của Đại Tướng Dương Văn Minh và đã dũng cảm chỉ huy chiến đấu, cuối cùng, khi Tiểu khu Chương Thiện bị thất thủ, Đại tá Hồ Ngọc Cẫn, một tín đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo đã không tự sát. Mặc dù bị thương, ông vẫn hiên ngang khi bị cộng quân tràn ngập bắt giữ và nhục mạ.

Ngày 14 tháng 8 năm 1975, vẫn với thái độ hiên ngang bất khuất, Đại tá Hồ Ngọc Cẫn bị cộng quân lên án tử hình và bị bắn tại sân vận động Cần Thơ trước lòng ngậm ngùi, thương tiếc lẫn khâm phục Ông của hàng vạn đồng bào miền Tây đã bị cộng quân cưỡng bách đến để chứng kiến, dằn mặt.

Chúng tôi được biết có một vị chân tu Phật Giáo đã âm thầm đưa hài cốt của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn qua Hoa Kỳ cải táng để ông gần gũi với gia đình vợ con cháu đang sống ẩn dật tại tiểu bang California. Cho nên, nhân ngày giỗ của Ông sắp tới, chúng tôi TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI quý Đồng hương, Quân, Dân, Công, Cán, Chính VNCH. Quý vị thuộc mọi ngành mọi giới, và các thế hệ con cháu dành chút thì giờ quý báu để cùng nhau đến thăm viếng mộ phần của Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẫn để tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ, và biết ơn đối với một biểu tượng can trường, tiết tháo về một quân nhân của quân lực VNCH vì nước hy sinh.

Ngày giờ thăm viếng: Thứ Bảy 14 tháng 8 năm 2010 từ 10 giờ sáng đến 5giờ chiều.

Địa điểm mộ phần: Rose Hills Memorial Park. 3888 S. Workman Mill Rd, Whittier, CA 90601.

Mọi sự xin liên lạc:

- Cựu Trung Tá Vương Văn Trổ: 832-462-9097 (Tỉnh Trưởng Rạch Giá, TĐ42 BĐQ, SĐ 21/BB)

- Cựu Thiếu Tá Lê Nguyễn thiện Truyền: 714-468-7080 (Chiến đoàn 33, SĐ21/BB)

- Cựu Thiếu Tá Trần Văn Khiết: 714-588-9967 (SĐ21/BB).
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

Image

Chuyến xe buýt và
khúc hát người lính mù


Nguyễn Mạnh Trinh

Sài gòn, năm 1980. Lúc đó, cuộc “cách“ cái ”mạng” ngày 30 tháng tư đã năm năm. Nhưng xem ra không khí chiến tranh vẫn còn bao phủ. Đời sống càng ngày càng đi vào bế tắc. Hè đường đầy những người đi kinh tề mới trở về hoặc vượt biên mất nhà sinh sống. Họ trở thành những người không nhà không hộ khẩu sống lây lất trong một thành phố đầy đe dọa. Những trại giam đầy áp người tù, tù chính trị và tù hình sự. Đêm đêm là thời gian của kiểm tra hộ khẩu, của bắt người, của đe dọa chập chờn ngoài cánh cửa. Với người dân thường còn như vậy. Huống chi những người tù bị gọi là “cải tạo” trở về. Đời sống lại càng bị đe dọa hơn biết bao nhiều. Tôi cũng bị ảnh hưởng trong thời thế ấy. Sống bất hợp pháp trong nhà của mình và trong đầu óc lúc nào cũng chờ đợi một chuyến vượt biển ra đi. Cột đèn mà cũng muốn xuất ngoại, huống chi…

Lúc ấy, phương tiện giao thông đi lại hầu như chỉ có xe buýt ở trong thành phố và xe đò đi xa ngoài thành phố. Ở bến xe, sinh hoạt thật nhộn nhịp. Như ở Xa Cảng Miền Tây lúc nào cũng đầy người mà số đông là những người chờ đợi một chuyến xe. Có người phải ngủ đêm chầu chực nhiều ngày. Nhưng nếu có tiền mua vé chợ đen, thì được đi ngay. Bao nhiêu con buôn đi hàng ngày mà còn chở theo hàng hóa cồng kềnh mà đâu có chờ đợi gì đâu. Còn xe buýt, thì là chỗ hỗn tạp. Đi xe luôn phải coi chừng, ăn cắp móc túi như ranh. Chỉ một loáng thôi, dù đã giữ gìn nhưng bị mất mát ngay một cách nhãn tiền. Thời mạt pháp, ai có thân thì giữ...

Trên một chuyến xe, có hai người lính cũ, một mù một què, dắt díu nhau đi hát để kiếm miếng ăn độ nhật. Người què thì dẫn đường cho người mù không có mắt để đi lần theo từng hàng ghế. Họ mặc bộ quần áo trận đã rách te tua bạc phếch nhưng vẫn còn phảng phất đâu đó hình ảnh của người lính thời xưa. Trên tay người lính mù là chiếc dàn mandoline cũ kỹ và anh hát những bản nhạc lính của cuộc chiến ngày cũ đã tàn nhưng còn nhiều hậu quả nhức nhối. Những bản nhạc đã vinh danh những anh hùng như “Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc“ hoặc ”Người Ở Lại Charlie”. Khi hát tôi thấy dường như trong đôi mắt đen đục của người lính mù có chút nước mắt. Đi lần qua những hàng ghế, cũng có những người cho tiền, mặc dù họ không phải là những người khá giả trong xã hội này. Và nếu có một vài chú bộ đội phê bình nào là nhạc phản động, nào là nhạc vàng bị cấm thì họ lại bào chữa bảo vệ ”Người ta tàn tật đi kiếm ăn mà còn làm khó!”...

Trong không khí đe dọa, họ vẫn cất tiếng hát. Hình như, họ đang chiến đấu với tiếng hát của mình. Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…Hay : Anh không chết đâu anh người anh hùng mũ đỏ tên Đương… Hay Anh Quốc ơi từ nay trong gió ra khơi từ nay trên cánh mây trôi có hồn anh trong cõi lòng tôi. Ơi những tiếng hát nhắc lại một thời binh lửa mà những người bây giờ đang hát đã hiến dâng cho đất nước những phần thân thể của mình. Tự nhiên, tôi cảm thấy mình xúc động quá. Những người lính thời trước chịu bao nhiêu điều thua thiệt mà bây giờ vẫn còn cất tiếng hát bất chấp đe dọa bất chấp công an để vẳng lên tâm sự của mình. Và qua từng chuyến xe này qua chuyến xe khác, họ vẫn hát dù có khi bị bò vàng bắt hoặc đánh chửi. Những lời hát vẫn cất lên, mặc kệ bạo lực mặc kệ ngục tù.

Có một bài thơ, đã được viết từ cảm xúc đó. Bài thơ ”Chuyến xe bus và khúc hát người lính mù”

Trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi

Ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng

Và lãnh đạm chẳng còn người nhắc đến

Người trở về từ cuộc chiến lãng quên

Đôi mắt đục nhìn mỏi mòn kiếp khác

Đắt dìu nhau khập khiễng chuyến xe đời

Người thua trận phần thịt xương bỏ lại

Trên ruộng đồng sầu quê mẹ rã rời

Chuyến xe vang lời ca nào năm cũ

Nhắc chặng đường binh lửa lúc xa xưa

Khói mịt mù đường chiến tranh bụi phủ

Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa

Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc

Thưở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay

Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược

Dấu giầy buồn còn vết giữa sình lầy

Ôi tiếng hát nhớ những người gục ngã

Ngồi chuyến xe sao vang vọng nỗi niềm

Âm thanh cao xoáy tròn tim gỗ đá

Thúc hồn người theo nhịp thở chưa quên

Ôi tiếng hát vinh danh đời lính chiến

Cho máu xương không uổng phí ngày mai

Có sương khói trong mắt đời cầu nguyện

Để lỡ làng không chĩu nặng bờ vai

Người thản nhiên những tia nhìn cú vọ

Đây tàn hơi còn sót lại một đời

Đây ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ

Vẳng không gian chợt héo một nụ cười

Ta nghe rực cuối hồn trăm bó đuốc

Một đời hoài tìm kiếm ánh đèn soi...”


Bài thơ đó tôi viết ở Sài Gòn năm 1980. Bây giờ năm 2010, như vậy đã ba chục năm. Tôi đã rời thành phố thân yêu và cũng đã định cư ở Hoa Kỳ 30 năm. Hôm nay ngồi đọc tin về Đại Nhạc Hội tổ chức ở ngoài trời “Cám Ơn Anh” để gây quỹ cứu giúp thương phế binh của QLVNCH còn kẹt lại ở quê nhà bỗng dưngsinh ra nhiều hồi tưởng. Bài thơ dắt tôi trở về những ngày tháng năm năm 1975, khi Cộng sản đã chiếm được đất nước đã thẳng tay dã man đuổi tất cả thương bệnh binh trong quân y viện ra ngoài bất kể tình trạng nguy hiểm hay không. Nạn nhân nặng nề nhất ngay lập tức chịu ảnh hưởng thua trận chính là những người thương binh. Biết bao nhiêu là thảm cảnh xảy ra. Không hiểu họ đã xoay sở thế nào để sống còn trong hoàn cảnh cực kỳ bi đát ấy.

Chính Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn 4, trước khi quyết định tự sát đã đến thăm thương binh ở quân y viện Cần Thơ lần cuối vì ông biết số phận đáng thương của những người lính này. Trước khi tử tiết, ông đã đến từng giường bệnh để an ủi những người lính đang điều trị tại đây. Ông đã não lòng khi trả lời một câu nói của người lính đang nằm viện : ”Thiếu Tướng đừng bỏ chúng em !”. “Không, Thiếu Tướng không bỏ đâu”. Phải, mặc dù đã đến lúc cờ tàn, ông không còn giúp đỡ gì được những anh hùng nhưng là nạn nhân của cuộc chiến nhưng tấm lòng nhân hậu của ông đã là gương sáng cho đời sau.

Gần đây tôi có đọc một lá thư của một người lính bị tàn phế gửi cho một người bạn từ Việt Nam. Bức thư có nhiều đoạn làm tôi suy nghĩ:

“… Các anh ạ! Bây giờ thì buồn quá! Các anh - những sĩ quan QLVNCH, những người anh của chúng tôi, những Đại Bàng, những Bắc Đẩu, Hắc Báo của ngày nào một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến trường... các anh đã có một thời quang vinh và một thời nhục nhã, giờ đây sau 30 năm vẫn lặng lẽ, các anh cũng nhòa đi hình ảnh của ngày xưa?

Các anh đã quên rồi sao? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của các anh đã nằm xuống vĩnh viễn trên đất mẹ thiêng liêng quên những đồng đội còn sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ, sống lây lất ở đầu đường xó chợ. Xin cảm ơn các anh về những đồng đô la mà các anh gửi về cho chúng tôi trong chương trình giúp đỡ thương phế binh QLVNCH. Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên nỗi nhục nhã mất nước! Chúng tôi cần ở các anh những chuyện khác, các anh có thấu hiểu cho chúng tôi hay không? Tôi đã hiểu vì sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở đầu đường, thằng chống nạng đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đã từng tuân lệnh những Đại Bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đã từng chắt chiu từng đồng bạc nghĩa tình chung thủy gửi vào tận chốn tù đày thăm các anh. Họ đã từng uống với các anh chung rượu ân tình ngày đưa các anh lên phi cơ về vùng đất mới. Họ từng nuôi nấng một hoài vọng, một kỳ vọng ngày về vinh quang của QLVNCH.

Nhưng chính các anh đã làm họ oán ghét đến độ khinh bỉ khi các anh áo gấm về làng, chễnh chệ ngồi giữa nhà hàng khách sạn năm sao tung tiền ra để tỏ rõ một Việt Kiều yêu nước. Các anh có biết không? Từ trong sâu thẳm của cuộc đời, những người lính VNCH đang lê lết ở ngoài cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống vui chơi, đang nhìn các anh với ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người lính là sự bội bạc, là sự phản bội! Không biết khi tôi kết tội các anh là phản bội có quá đáng hay không, nhưng các anh hãy tự suy nghĩ một chút sẽ thấy rõ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các anh đã biến thái thành những tên Việt gian nhưng sự trở về như các anh trong hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đã phản bội lại Tổ Quốc và rõ ràng nhất các anh đã phản bội lại chúng tôi…”

Đọc lá thư ấy, lòng tôi như chùng xuống. Mỗi một người đếu có hoàn cảnh cũng như cách chọn lựa riêng nhưng tôi không ngờ rằng trong sâu thẳm của những người lính cũ còn có những nỗi niềm như thế. Sự phân cách quá sâu đậm, những con sông chia cách vẫn chưa thể lấp bằng được. Ngẫm suy lại, từ một khía cạnh nhìn ngắm khác nhau, đã có những khác biệt cho từng hành động…

Tới bây giờ, với những người ở hải ngoại đã không quên các anh, những thương phế binh VNCH. Dù có một số ít vô ý thức trở về nước vui chơi trên nỗi nhọc nhằn của dân tộc nhưng phần đông đều hiểu và tri ân những người lính đã mang xương máu và thân thễ hiến dâng cho đất nước. Ở đại nhạc hôi “Cám Ơn Anh”, hàng chục ngàn khán gỉa đi xem không phải chỉ là đơn thuần mua vui mà là biểu lộ tinh thần biết ơn đối với người lính VNCH. Dù số tiền thu được lên tới cả triệu đô-la nhưng cũng không đủ cho nhu cầu của hàng chục ngàn người lính tàn phế cần giúp đỡ. Nhưng của ít tình nhiều, điều đó mới là đáng quý. Cũng như, với sự tham dự của cả hơn một trăm ca nhạc nghệ sỹ, cùng với cả trăm người thiện nguyện bỏ công sức và cả tiền của cá nhân, thì đó phải hiểu là một thành quả to lớn ở hải ngoại của những người dân luôn luôn tương trợ giúp đỡ nhau. Cám ơn anh! Những thương phế binh đã hiến dâng đời mình cho đất nước…

Nguyễn Mạnh Trinh
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Ba giờ thăm viếng chị Hồ Ngọc Cẩn

Image
Từ trái: Ðặng Ðức Thắng, Chu Trọng Ngư, Hồ Ðắc Huân và chị Hồ Ngọc Cẩn.
Trước khi tổ chức Ðại Hội Tình Nghĩa Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Nha Trang kỳ 2 tháng 9-1999, ban tổ chức được tin gia đình chị Hồ Ngọc Cẩn hiện đang định cư tại miền Nam Cali, Hoa Kỳ. Dựa vào tin trên, ban tổ chức cố gắng tìm chị qua các chiến hữu thân quen, các đồng môn có quan hệ quen biết với anh chị Cẩn trước năm 1975 vì có người đã gặp chị. Rất tiếc chị đã di chuyển chỗ ở... Gần tới ngày đại hội, Niên Trưởng Ðặng Văn Sơn cũng gợi ý cho ban tổ chức là gắng tìm chị để đại hội có sự hiện diện của chị. Ðại hội một ngày mỗi sát gần vẫn chưa có tin tức, đành hy vọng Ðại Hội kỳ 3 năm 2000 sẽ mời được chị tham dự vậy.

Trong một buổi chiều trung tuần tháng 2-2000, chuông điện thoại reo. Tôi nhấc máy, nghe đầu dây bên kia là tiếng của chị Huy*. Tôi nói:

- Rất vui được tiếp chuyện với chị! Anh chị vẫn khỏe chứ?

Chị Huy nói:

- Dạ chúng tôi vẫn khỏe. Cám ơn anh. Bây giờ báo tin vui cho anh đây!

Tôi hỏi:

- Tin vui gì đó chị?

Chị Huy nói:

- Thì tin anh nhờ tìm chị Cẩn đó! Tôi vừa tìm ra và nói chuyện với chị cách đây 5 phút!

- Dạ, mừng quá đi chứ chị. Cám ơn chị nhiều! Chị có nói là chúng tôi đang tìm chị ấy từ lâu không?

- Dạ có chứ! Anh ghi số điện thoại của chị Cẩn rồi liên lạc đi!

Tôi ghi cẩn thận, nhờ chị lập lại và không quên gởi lời thăm anh Huy cùng các cháu. Sau khi gác máy với chị Huy, tôi liền bấm máy tiếp số của chị Cẩn. Nghe tiếng đàn bà trả lời tôi đoán là chị Cẩn. Qua sự tự giới thiệu, trong lòng tôi thấy nhẹ nhõm là đã được trực tiếp nói chuyện với chị sau bao ngày mong tìm. Trong lần thăm hỏi, tuy chưa một lần gặp mặt, tôi thấy chị là người vui tính, cởi mở và chân tình. Tôi liền đi ngay vào mục đích là ban chấp hành hội có ý muốn viếng thăm chị và các cháu trong một ngày thuận tiện. Chị cười nói lời cám ơn và hẹn ngày Chủ Nhật tới nếu không có gì trở ngại với các anh! Tôi vui vẻ nhận lời mặc dù chưa hội ý với các anh trong ban chấp hành. Suốt chừng 30 phút điện đàm hỏi thăm về sức khỏe, cuộc sống hàng ngày, việc học hành của các cháu và hẹn sẽ được nói chuyện nhiều khi gặp mặt.

Gác máy với chị Cẩn, tôi liền liên lạc với anh Ngư, anh Diệm, anh Cầu để báo cuộc điện đàm vừa qua và đề nghị sắp xếp chuyến đi.

Sau khi được tôi báo tin, anh Ngư liền điện thoại với chị Cẩn để hỏi chi tiết về đường sá và gọi lại cho tôi quyết định chuyến đi như đã hẹn.

Sáng Chủ Nhật 20 tháng 2 năm 2000, anh Ngư và tôi khởi hành từ thành phố Westminster lên thành phố Pacoima đón anh Thọ và anh Thắng, riêng anh Diệm và anh Cầu vì bận việc nhà nên không có mặt. Khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi gặp nhau tại nhà anh Thắng rồi cùng nhau tiếp tục lên đường tới nhà chị Cẩn. Chừng nửa giờ sau chúng tôi tới một khu đồi núi chập chùng trong một khu nhà mới xây dựng cách nay không lâu. Anh Ngư xem kỹ lại số nhà rồi xuống xe cùng vào. Ngang qua hành lang vào cửa chính, hai bên có nhiều chậu hoa quý đang trổ bông tạo thành nhiều màu sắc đẹp mắt và tỏa hương thơm dịu dàng. Sau khi nhấn chuông, một cô gái duyên dáng, thùy mị mặc bộ đồ xanh nước biển mở cửa bước ra với nụ cười và hỏi chúng tôi:

- Thưa các bác có phải là Hội Thân Hữu SVSQ Nha Trang không ạ?

Anh Ngư trả lời:

- Vâng, chúng tôi đây!

- Xin mời các bác vào, mẹ cháu đang đợi!

Chúng tôi an tọa nơi phòng khách. Như đã chuẩn bị từ trước, cô gái mang trà ra rót mời. Tôi liền hỏi:

- Cô đây là...

Như hiểu ý, cô gái nói:

- Dạ, cháu là Lưu Thị Kim Lan, con dâu của mẹ cháu.

Trong lúc chúng tôi quan sát quanh phòng khách để tìm xem có hình ảnh của anh Cẩn bận quân phục chụp trước năm 1975 không? (một kỷ vật mà chúng tôi đang tìm kiếm). Vừa lúc đó một người đàn bà từ trên lầu đi xuống, miệng mở một nụ cười thật tươi. Cô Lan liền nói:

- Mẹ cháu đang xuống.

Chúng tôi đứng dậy chào. Chị Cẩn giơ tay làm dấu mời ngồi và nói:

- Xin chào mừng các anh đã đến thăm gia đình chúng tôi. Từ sáng tới giờ tôi đợi các anh. Ði đường xa có mệt lắm không các anh?

Anh Ngư tiếp lời:

- Từ ngày lập hội, chúng tôi lấy tình nghĩa làm phương châm hoạt động nên mong gặp chị từ lâu. Mãi tới hôm nay mới được gặp nên rất mừng! Tuy đường có xa nhưng đến thăm chị bằng xe hơi chứ đâu có phải lội sình như đi trận ngày xưa mà mệt chị.

Tất cả cùng cười.

Chị Cẩn:

- Thôi mời các anh dùng nước cho ấm bụng.

Chị vừa nói vừa châm thêm trà. Mùi hương trà tỏa thơm ngào ngạt. Qua câu chuyện, chúng tôi thấy chị Cẩn là mẫu người đàn bà miền Nam vui tính, hiền hòa, phúc hậu.

Sau một tuần trà, anh Ngư đứng lên. Chúng tôi đứng lên theo. Anh nói:

- Thưa chị Cẩn. Hôm nay chúng tôi thay mặt Hội Thân Hữu cựu SVSQ Nha Trang đến để thăm sức khỏe chị và gia đình, đồng thời muốn chị cho chúng tôi biết một số tin tức về hành động anh hùng của anh Cẩn trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến mà báo chí ở hải ngoại đã nói đến rất nhiều nhưng có lẽ chị là người trong cuộc nên đúng với sự thật hơn.

Và hướng về phía chúng tôi anh giới thiệu:

- Ðây là anh Hồ Ðắc Huân, anh Nguyễn Xuân Thọ, anh Ðặng Ðức Thắng. Tất cả đều cùng Khóa 2 với anh Cẩn và tôi Chu Trọng Ngư khóa trước anh Cẩn, nhưng chúng tôi cùng xuất thân tại một quân trường.

Anh tiếp:

- Thưa chị. Lẽ ra cuộc thăm viếng này phải xảy ra cách đây hơn một năm, song rất tiếc chúng tôi không có cách nào tìm được chị. Mãi đến nay may nhờ chị Huy, qua sự dò hỏi điện thoại với người thân quen vì chúng tôi không muốn nhờ phương tiện truyền thông đại chúng, sợ làm phiền chị chăng?

Chị Cẩn cám ơn chúng tôi đã vì tình nghĩa bạn bè đến thăm và thực tình chị cũng không muốn nhắc lại chuyện cũ nên mỗi khi nghĩ đến lại càng thêm đau lòng vì với anh Cẩn, chị có quá nhiều kỷ niệm khó quên.

Sau khi cùng ngồi anh Ngư tiếp:

- Thưa chị! Khi còn sống trong lao tù Cộng Sản, chúng tôi được nghe anh em kể lại anh Cẩn và anh Trịnh Tấn Tiếp Quận Trưởng Kiên Hưng - Chương Thiện, cả hai cùng xuất thân Khóa 2 Nha Trang, đã cùng các chiến sĩ thuộc cấp chiến đấu tới giờ phút cuối cùng và sa vào tay giặc tại Chương Thiện sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975 và chúng đã dã man bắn các anh vào ngày 14 tháng 8 năm 1975 tại sân vận động Cần Thơ. Vì vận nước nổi trôi nên từ đó tới nay đã 25 năm rồi chúng tôi không được gặp chị. Hôm nay, nhân cuộc viếng thăm này, với tư cách là Hội Trưởng Hội Thân Hữu cựu SVSQ Nha Trang, trước hết tôi xin chuyển lời thăm hỏi của cựu Niên Trưởng Ðặng Văn Sơn, nguyên là Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng khi anh Cẩn còn học trong trường, cùng tất cả các niên trưởng, cựu cán bộ và huấn luyện viên và thay mặt cho tất cả các cựu SVSQ xuất thân từ Ðồng Ðế, Nha Trang hiện đang sống tại Hoa Kỳ và rải rác khắp nơi trên thế giới chia buồn cùng chị và các cháu. Cầu nguyện Thiên Chúa đưa linh hồn anh Cẩn về hưởng phúc đời đời trên nước Thiên Ðàng.

Sau đó chúng tôi được biết chân dung anh Cẩn được thờ trên lầu. Chúng tôi xin chị hướng dẫn để được đốt nén nhang cầu nguyện cho anh. Trên bàn thờ, một tấm chân dung bán thân mặc quân phục tác chiến, ngực kín huy chương. Tấm hình này được chụp lúc còn thiếu tá. Phía trên bàn thờ anh Cẩn là bàn thờ Ðức Mẹ.

Thực tình trong chuyến đi này, ngoài vấn đề thăm viếng, chúng tôi muốn được một số tài liệu và hình ảnh của anh Cẩn, nhất là hình của một đại tá chỉ mới có 34 tuổi mà báo chí ở hải ngoại chưa có báo nào đăng. Tôi liền hỏi chị Cẩn:

- Ngoài tấm hình này chị còn tấm nào khác của anh không chị?

Chị cho biết chỉ còn duy nhất tấm hình này do một người bà con còn giữ được, vì tất cả đều để trong dinh Tỉnh Trưởng Chương Thiện mà lúc chạy ra thì đi người không.

Xuống lại phòng khách, chúng tôi muốn biết một số tình tiết của gia đình chị. Chị đã lần lượt cho biết như sau:

- Tôi và anh Cẩn lập gia đình với nhau trước khi anh theo học Khóa 2 Nha Trang. Khi anh ở trong trường thì tôi và cháu Nguyên thuê nhà ở ngoài Nha Trang. Cuối tuần anh được phép là về thăm mẹ con tôi. Chúng tôi chỉ có một cháu trai duy nhất là Hồ Huỳnh Nguyên. Hiện nay cháu đã có vợ và sanh một cháu trai tên Nelson Lưu Hồ. Vợ chồng cháu hiện sống với tôi tại đây. Ðáng lẽ hôm nay cháu ở nhà đón tiếp các anh nhưng rất tiếc vì bận việc nên vắng mặt. Cháu có nhờ tôi chuyển lời chào và thăm các bác và mong có ngày được gặp các bác. Bây giờ các anh muốn biết gì? Tôi nhớ đến đâu xin trả lời đến đó!

Anh Ngư hỏi:

- Thưa chị! Anh Cẩn sinh năm nào, tại đâu?

- Thưa các anh! Anh Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại xã Vĩnh Thanh Vân, tại Rạch Giá, Việt Nam.

Anh Thọ:

- Thưa chị! Trước khi giữ chức vụ Tỉnh Trưởng Chương Thiện, anh Cẩn giữ những chức vụ gì? Ở đâu? Anh thăng trung tá và đại tá ngày nào chị còn nhớ không?

- Tôi nhớ nhà tôi thăng cấp Trung Tá năm 1970, lúc đó 32 tuổi, làm Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 15, Sư Ðoàn 9 Bộ Binh. Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, Cộng quân vây hãm và tấn công An Lộc, tỉnh Bình Long. Bộ Tổng Tham Mưu điều động Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, một trung đoàn thuộc Sư Ðoàn 7 và Trung Ðoàn 15 do anh Cẩn chỉ huy cùng một số đơn vị khác lên giải vây An Lộc. Sau chiến thắng này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã thăng cấp mặt trận cho tất cả các quân nhân tham dự. Nhà tôi được vinh thăng đại tá trận này (năm 1972 lúc đó 34 tuổi). Tháng 6 năm 1973 nhậm chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện cho tới ngày 1 tháng 5 năm 1975 thì bị Cộng quân bắt.

Tôi hỏi:

- Vào những phút cuối cùng của ngày 1 tháng 5 năm 1975, tại dinh Tỉnh Trưởng, anh Cẩn có nói gì với chị không và chị rời dinh vào lúc nào?

- Thưa anh! Ngày 30 tháng 4 năm 1975 thật là ngày đau buồn đến với tất cả chúng ta. 25 năm trời trôi qua. Mỗi lần đến ngày 1 tháng 5 năm 1975, ngày mà anh Cẩn chiến đấu tới giờ phút cuối cùng và bị sa vào tay giặc vẫn là ngày dài nhất mà tôi không thể nào quên được.

“Tôi nhớ rõ là sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau khi ăn sáng xong, anh Cẩn cùng Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu vào Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu điều động các đơn vị trực thuộc khai thông liên tỉnh lộ 31 đi Cần Thơ và củng cố hệ thống phòng thủ. Tình hình lúc này quá căng thẳng nên trưa và chiều đó anh Cẩn không về dinh, do đó tôi và anh không gặp nhau nữa. Sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975, vào khoảng 5 giờ, tất cả các loại súng nổ giòn khi Cộng quân vượt qua con rạch để chiếm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và trong nhiều giờ đồng hồ, các loại súng lớn nhỏ của cả hai bên, kể cả mìn và lựu đạn, thi nhau nổ. Hỏa châu sáng rực bầu trời. Tôi sợ quá, cùng cháu Nguyên tìm chỗ núp đạn. Cuộc chiến giằng co chừng tới 10 giờ sáng thì tiếng lựu đạn nổ nhiều và nhiều tiếng hét xung phong. Sau đó tiếng súng ngưng hẳn. Nhìn ra đường tôi thấy Cộng quân di chuyển rất đông và dân chúng tấp nập chạy khỏi khu vực giao tranh. Tôi đoán trận chiến đã kết thúc và lo cho số phận của anh Cẩn! Tôi đưa cháu Nguyên tìm cách len lỏi khỏi vòng vây lẫn lộn vào đoàn người di tản chạy về Cần Thơ. Sau đó ít ngày ông nội cháu xuống đón mẹ con tôi về Thủ Ðức.

Tôi hỏi tiếp:

- Thưa chị! Khi nào chị được tin anh Cẩn bị bắt và theo chị tại sao anh Cẩn không hành xử như các vị tư lệnh của anh như Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng?

- Thưa anh! Hôm 1 tháng 5, sau khi về tới Cần Thơ, tôi lo lắng cho số phận của anh ấy lắm nên có nhờ người dò hỏi. Ngay hôm sau thì tôi biết ảnh bị bắt! Còn việc tại sao anh Cẩn không tự hủy mình, trước đây cũng đã có rất nhiều người hỏi tôi. Nhân dịp này tôi cũng xin thưa với các anh là anh Cẩn theo đạo Công Giáo và rất ngoan đạo. Anh thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thường nói trước khi đi trận: “Sống chết nằm trong tay Chúa”. Hơn nữa luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử.

Anh Thắng:

- Xin hỏi chị, từ ngày anh bị bắt cho tới lúc hiên ngang lên đoạn đầu đài (14 tháng 8 năm 1975), chị có đi thăm nuôi anh ấy không, hoặc có ai thăm anh được không?

- Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mẹ con tôi luôn luôn phải lẩn trốn và thay đổi lý lịch. Cháu Nguyên phải nghỉ học (lúc này cháu đã 15 tuổi). Thời gian này ở đâu Cộng Sản cũng điều tra lý lịch. Chúng bắc loa kêu gọi mọi người tố cáo hàng ngày, về sau hàng tuần. Bà nội cháu và chị tôi đi nuôi chứ không được thăm. Hơn nữa anh Cẩn có nhắn là tôi không được đi vì sẽ gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm!

Anh Ngư:

- Xin chị cho biết ngày chúng bắn anh Cẩn, chị và cháu ở đâu? Có biết trước không và chúng có bắt chị chứng kiến không?

- Dạ hôm đó tôi vẫn ở Thủ Ðức. Không được biết trước nhưng ngay ngày hôm sau thì thím Tâm lén cho biết ngay. Trời ơi! Khi nghe tin này tôi rụng rời chân tay và trời đất như sụp đổ. Muốn khóc cũng không thành tiếng! Thật khó diễn tả nổi tâm trạng của tôi lúc đó. Cho tới bây giờ, 25 năm đã trôi qua nhưng tôi thấy như mới xảy ra hôm qua, hôm kia gì đó!

Anh Thọ:

- Thưa chị. Sau khi bọn Cộng Sản bắn anh Cẩn, thi hài anh được chôn cất tại đâu?

- Khi biết tin bọn chúng bắn ảnh, bà nội cháu có xuống xin đem về mai táng! Chúng đã trả lời là bọn chúng có quyền bắn chứ không có quyền cho. Mãi mấy năm sau bà nội cháu Nguyên mới cải táng đem về chôn tại quê nhà ở Rạch Giá. Hiện nay tro cốt của ảnh tôi đã mang được sang Hoa Kỳ.

Anh Ngư:

- Chị và cháu sang Hoa Kỳ theo diện nào và cuộc sống lúc ban đầu ra sao?

- Các anh kẹt lại Việt Nam sau 1975 thừa biết, người dân bình thường sống với bọn Cộng Sản còn không nổi huống gì mẹ con tôi. Ðầu năm 1979, tôi và cháu liều chết vượt biển như hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi khác. Tới đảo BiDong, Mã Lai, ở đó chừng 10 tháng. Sau khi thanh lọc lý lịch, phái đoàn Mỹ đã chấp thuận cho mẹ con tôi sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện ưu tiên có chồng và cha bị Cộng Sản bắn tại Việt Nam.

“Cuối năm 1979, thành phố đầu tiên chúng tôi đặt chân đến là Riversick, sau về Sacramento để cháu Nguyên đi học lại và cuối cùng đến Los Angeles làm ăn sinh sống như bây giờ”.

Anh Thắng:

- Cuộc sống của gia đình chị hiện nay như thế nào?

Chị Cẩn:

- Xin báo để các anh mừng! Cháu Nguyên nay đã trưởng thành. Cháu đã có gia đình. Con dâu tôi tên Lan như các anh vừa thấy đó. Hai vợ chồng cháu đều đi làm. Phần tôi ở nhà trông nom cháu nội trai đã được hai tuổi. Cuộc sống của chúng tôi đã tương đối ổn định.

Nhìn đồng hồ đã hơn 1 giờ trưa, anh Ngư thay mặt chúng tôi nói:

- Hôm nay chúng tôi lên thăm chị và thành thật cám ơn chị đã cho chúng tôi biết một số tin tức về anh Cẩn mà 25 năm trời qua chúng tôi chưa được biết.

Ðáp lời, chị Cẩn nói:

- Tôi và các cháu thành thật cám ơn các anh vì tình, vì nghĩa đã không quản ngại đường sá xa xôi đến thăm gia đình tôi. Nhân dịp này tôi nhờ các anh vui lòng chuyển lời của chúng tôi đến cựu Ðại Tá Sơn, quý vị niên trưởng, cựu cán bộ và huấn luyện viên cùng tất cả anh em cựu SVSQ khóa sinh Hạ Sĩ Quan xuất thân từ Ðồng Ðế, Nha Trang cùng gia đình lời thăm hỏi thành thật và chúc sức khỏe cùng sự an lành, hạnh phúc. Giờ này cũng trưa rồi xin các anh nán lại dùng một bữa cơm do cháu Lan chuẩn bị cùng với chúng tôi.

Bước vào phòng ăn, tất cả đã được bày sẵn trên bàn. Khi ngồi chúng tôi không quên dành chỗ danh dự để mời anh Cẩn cùng hội ngộ với chúng tôi. Một cái bát, một đôi đũa, một ly nước để lại. Trước khi ăn, chị Cẩn và chúng tôi thay nhau gắp đồ ăn vào bát của ảnh. Tuy anh Cẩn đã vĩnh viễn hy sinh vì Tổ Quốc Việt Nam nhưng tinh thần của anh vẫn còn sống mãi trong chúng tôi, những người đồng môn và đồng khóa.

Trong khi dùng cơm tôi có ý nghĩ: Thế hệ chúng tôi sinh ra vào giai đoạn đất nước triền miên khói lửa. Tới khi tiếng súng đã dứt lại bị lũ Cộng Sản trả thù bằng cách bắn giết hoặc đẩy vào trong trại tù khổ sai với nhiều năm tháng đói lạnh. Hiện nay, thân phận lưu vong tuy được tự do nhưng vẫn là đất khách quê người và nhìn lại tất cả đã luống tuổi. Thời gian chẳng còn bao lâu nữa rồi cũng lần lượt ra đi như anh Cẩn. Bây giờ thời gian còn lại chúng ta phải sống ra sao và phải làm những gì đây? Những gương chiến đấu của các chiến hữu đã anh dũng hy sinh như Hồ Ngọc Cẩn, như Trịnh Tấn Tiếp v.v... Phải làm sao để các thế hệ mai sau biết đến mà noi theo.

Gần 3 giờ chiều, chúng tôi tạm biệt gia đình chị Cẩn với tấm hình và ba bài báo nói về anh Cẩn do chị trao cho. Người con dâu trao chị một bao thư để chị trao lại chúng tôi, trong có một trăm Mỹ kim nhờ chúng tôi chuyển cho ủy ban xây dựng tượng đài tưởng niệm chiến sĩ Việt-Mỹ trong cuộc chiến chống Cộng Sản Việt Nam tại thành phố Westminster.

Chị Cẩn, người con dâu và cháu nội tiễn chúng tôi ra tận cửa xe. Chiếc xe từ từ chuyển bánh được một đoạn, tôi quay đầu nhìn lại, ba thế hệ vẫn còn đứng nhìn theo như tiếc nuối một tình cảm chân thật vừa đi qua.

Trên đường về, cơn mưa tháng 2 mỗi lúc một nặng hạt. Chiếc xe Camry từ từ đổ dốc. Anh Ngư giữ vững tay lái nói:

- Hai chữ “Tình Nghĩa” của hội chúng ta quả thật có ý nghĩa.

Ánh sáng giảm dần. Chiếc quạt nước quay với tốc độ nhanh làm chúng tôi nhớ lại cơn mưa chiều 30 tháng 4 năm 1975 tại thủ đô Sàigòn. Tôi chợt nghĩ “sau mưa trời lại sáng”. Mọi người chúng ta và vong hồn mọi chiến sĩ, trong đó có anh Cẩn sẽ góp phần làm cho bầu trời Quê Hương Việt Nam tươi sáng một ngày gần đây.

Viết trong ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6 năm 2000

Hồ Ðắc Huân
Cựu Sinh Viên Khóa 2 Nhân Vị Nha Trang

* Anh Nguyễn Văn Huy và anh Hồ Ngọc Cẩn là hai trong 5 Ngũ Hổ tại chiến trường cực Nam 1966. Từ năm 1973, anh Huy và anh Cẩn đều là Tỉnh Trưởng nên hai gia đình có sự thân quen từ trước.
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Những Oan Hồn trên Đại Lộ Kinh Hoàng

Tác giả: Trần Đức
Trích nguồn: tudovis.com

Image
Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị
(Hình trích nguồn)
Thấm thoắt đã 30 năm trôi qua kể từ ngày một đoạn đường số 1 dẫn từ Mỹ Chánh ra Quảng Trị đã được đặt cho cái tên là "đại lộ kinh hoàng."

Một người lính nhẩy dù, nước mắt chan hòa, đứng lặng giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóe.

Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn.

Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm đạn giặc...

Tất cả im lặng. Không có tiếng người, không có tiếng chim. Chỉ có những tiếng phành phạch của những tấm bạt xe, những mảnh quần, vạt áo cứng còng vì bê bết máu khô đang bị gió lùa bay lên như những cái vẫy tay kêu cứu. Thỉnh thoảng, có một mảnh vải, một mảnh băng tuột ra, bay bổng theo gió rồi mắc trên những bụi cây gai trên đồng trống khô cằn... Trên mặt lộ, mỗi xác chết như đã in hình dáng của mình trên nhựa đường bằng một quầng đen đậm.

Đó đây, giữa đám xác người, người ta còn nhìn thấy rải rác những đuôi đạn súng cối 61 lý và B40 là những vũ khí có tầm xa không quá 1 cây số nằm ngổn ngang. Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn.

Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công "Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972" ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của những người cộng sản. Đoàn quân tiến ra Quảng Trị, trả lại sự lặng yên, hiu quạnh cho đoạn đường chết chóc. Thoáng nhìn trong đội hình, có người làm dấu thánh giá, có người chắp tay niệm Phật. Chỉ tiếc không có nén hương, ngọn nến thắp lên để sưởi ấm những oan hồn mà thân xác còn phơi giữa đồng khô, cỏ cháy.

Đoạn đường mang tên "Đại Lộ Kinh Hoàng" nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Nhưng từ năm 1975 mỗi năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời.
Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ dược là 30 năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ.

Tin từ trong nước cho biết, trong thời gian từ ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị. Đại lễ được sự hộ niệm của quý thầy từ các vùng lân cận, đặc biệt của Tăng Đoàn Thừa Thiên - Huế. Người ta ghi nhận, có quý Hòa Thượng Thích Thiện Hạnh, Hòa Thượng Thích Như Đạt, Hòa Thượng Thích Phước Duyên cùng đông đảo quý Thượng Tọa, Đại Đức và Tăng Ni.

Trong suốt thời gian đại lễ, đồng bào hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị đã tề tựu rất đông để tham dự, có những buổi lên đến vài ngàn người, mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xe. Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.

Trước khi khai đàn, theo nguyện vọng của đồng bào, quý Thầy đã vào tận Đại lộ kinh hoàng, từ Cầu Dài về phía Hải Lăng, để rước thỉnh các hương linh của nạn nhân cộng sản về đạo tràng chùa Long An. Một tiết mục đặc biệt khác của đại lễ là lễ Phóng sinh đăng, kết thuyền hoa đăng cúng ngay trên dòng sông Thạch Hãn. Vào ngày cuối của đại lễ, cũng có một trai đàn chẩn tế để giúp đỡ cho các gia đình nghèo khổ tại địa phương.

Người lính nhẩy dù của 30 năm trước, hôm nay cũng chan hòa lệ rơi khi được tin những oan hồn uổng tử trong Mùa Hè Đỏ Lửa trên Đại Lộ Kinh Hoàng đã được tăng ni phật tử tới tận nơi rước vong về chùa giải oan, siêu thoát.
Họ không những được sự tế độ của chư tôn đức mà còn được sự tưởng nhớ của hàng ngàn Phật tử Thừa Thiên, Quảng Trị và hàng triệu đồng bào ta tưởng nhớ tới họ. Hơn 2 triệu người Việt sống tha hương trên đất khách quê người cũng hướng về Quảng Trị, hướng về Đại Lộ Kinh Hoàng và thắp nén hương lòng tưởng nhớ tới họ, cầu nguyện cho họ được siêu thoát và được tiêu diêu miền cực lạc
.
Việt Nam còn nhiều oan hồn còn dật dờ nơi nhà tù, trại giam, ven rừng, ven suối, hoang đảo, đại dương. Việt Nam còn nhiều anh linh những người đã hy sinh để bảo vệ bờ cõi, chiến đấu giải phóng dân tộc. Những vị này đã bỏ mình vì sự độc ác của đảng và chế độ cộng sản trên quê hương thân yêu của chúng ta. Cả nước cần cầu siêu cho họ.

Nhưng điều cần phải làm là rửa hờn cho họ và tiếp nối ý chí anh dũng của họ

QYHD-Khóa 13 Trần Đức Tường
mudo
Posts: 21
Joined: Sat May 29, 2010 7:40 am
Contact:

Post by mudo »



Image

Sự Lui Binh, Có Một Không Hai, Trong Chiến Tranh Việt Nam



Trong tâm trí của thằng lính binh nhì như tôi, trong những ngày ở Hải Lăng, Quãng Trị, trong đơn vị Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 1, Lử Đoàn 147. nơi đơn vị hành quân, trực thuộc vào Lử Đoàn 369 SĐ/TQLC. cuộc lui binh từ nơi đó! (Hải Lăng) đến Huế – đèo Đá Bạc – Lăng Cô – đỉnh đèo Hải Vân – rồi vào rừng núi âm u, đơn vị ém quân giữ an toàn thành phố Đà Nẵng chừng 2 ngày, vào 2 giờ sáng ngày 29/03/1975 đơn vị được lệnh rút quân giữa đêm tối như mực (có lẽ là đêm 30 âm lịch) với những đồng đội tay nắm tay với nhau, di chuyển ra khỏi núi rừng phía bắc thành phố Đà Nẵng.

Khi vào đến bờ biển gần phi trường Non Nước, Đà Nẵng lúc 6:20 sáng ngày 29/03/1975 trong trật tự và kỷ luật, cũng như các đơn vị bạn trong cùng chung Lữ Đoàn 369 TQLC. đến 9 giờ sáng đơn vị được lệnh giải thể (tan hàng) mạnh ai nấy thoát thân lội ra biển để đến chiếc vận tải hạm số tàu 404 mang tên Mỹ Tho đang chập chờn ngoài khơi cách đất liền chừng 200m, Tàu há mồm đợi đón lính lên sàn tàu, nhưng bất hạnh thay cho những người lính rã ngũ cố tìm đường lên tàu thoát thân bởi lúc đó biển động mạnh, tàu vô gần bờ không được vì bãi biển thì cạn, cũng như những người lính như chúng tôi lội ra cũng không xong! (người nào lội ra được năm sáu chục mét, chỉ cần một đợt sóng là tất cả điều bị cuốn trở lại trên bờ hết ráo!) bốn lần lội biển cũng không đến được tàu! Trong tình cảnh đó những người lính Thủy Quân Lục Chiến chúng tôi nghĩ cách sử dụng thiết vận xa M113 lội ra tàu, trong số những thiết vận xa đó đã có một số lính trên bờ đeo theo, tôi bám vào nấc thang của thiết vận xa, ra khỏi tầm sóng biển, khi thiết vận xa chìm vì bị nước tràn vào, tôi buông tay khỏi thiết vận xa, ở vị trí nầy sóng biển nhẹ hơn ở gần bờ, cho nên lội ra tàu cũng dễ,chúng tôi lội ra và leo lên tàu vận tải hạm số 404 mang tên Mỹ Tho.

Trên boong tàu tôi nhìn vào bãi biển Non Nước, thật là một cảnh tượng hãi hùng : việt cộng đang pháo kích vào phi trường, những người lính TQLC chúng ta còn kẹt lại trên bờ, chẳng khác nào một đàn vịt giữa đồng trống! Đạn pháo rớt chỗ nầy thì đàn người chạy chỗ kia, pháo chỗ kia thì chạy ùa chỗ nọ v.v.

Để an toàn tránh bị trúng đạn pháo của Việt Cộng cho nên con tàu rời khỏi bờ biển của phi trường Non Nước.

Tấm hình phiá dưới bài viết nầy. tôi tình cờ bắt gặp trên đặc san Sóng Thần, ngày đại hội TQLC tại Houston, Texas. 2004. nhìn xem tấm hình bình dị như bao nhiêu tấm hình quân sử đã có. Nhưng những ai có mặt nơi tấm hình nầy, đó là tấm hình đã chất chứa biết bao nỗi kinh hoàng và đau thương, máu và nước mắt của những người lính thuộc Lữ Đoàn 369 SĐ/TQLC và các đơn vị bạn. hôm nay là ngày 14/03/2010, chỉ còn đúng 15 ngày nữa là đúng 35 năm trôi qua.

Để bổ túc thêm chi tiết về tấm hình Lịch Sử nầy!!!.

Tấm hình lịch sử nầy, chắc rằng đã được chụp trên đài chỉ huy của vận tải hạm 404 Mỹ Tho, vào thời điểm đó.

Những ruột xe và phao nổi, trôi lềnh bềnh trên mặt biển, của các đơn vị quân cụ, công binh, quân xa.

Trên đất liền nơi phi đạo, trên bãi cát trắng, với hầu như nhiều quân binh chủng, nhiều nhất là các đơn vị trực thuộc LĐ 369 TQLC đang lao nhao dọc bờ biển để tìm đường lội ra tàu.

Trong những đốm đen lớn bên trái của tấm hình, đó là những người lính TQLC chờ bám theo những chiếc thiết vận xa M113 để lội ra tàu, trong đó tôi đang đu nấc thang M113.

Quý vị nhìn thấy có những chiếc trực thăng đậu trên bờ biển, tại sao phi công không tải lính ra gần tàu để nhảy xuống biển lội lên tàu ?, bởi vì những chiếc trực thăng nầy từ nơi đâu bay tới đó, 2 càng trực thăng chưa chạm đất thì đã bị loạn quân bắn... phi hành đoàn nếu thoát chết là may mắn lắm rồi, đừng nói chi đưa người ra tàu!, như kẻ đi được lên tàu, người không đi được lại dùng những loại vũ khí nặng nhẹ đã bỏ lại trên bờ để bắn bừa . Cũng như đã diễn ra nhiều vụ thanh toán rất dã man, rất nghịch lý với những người lính (sĩ quan) trong lúc đó còn mang cấp bậc như úy/tá " trên cổ áo". Cho nên ai đã được may mắn trước khi lên tàu, đều tự động trở thành lính "binh nhì vô chủ soái" hết ráo!.

Vào thời điểm đó. từ những bãi đáp, cũng như phi đạo của phi trường Non Nước, đủ loại máy bay chiến đấu và những loại chiến xa - công binh cơ giới - quân xa - pháo binh đủ loại - và các loại vũ khí nặng… nhẹ… cũng như quân trang quân dụng của lính tác chiến đã gom về đó, và số đông những người lính trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đa số là lính TQLC trực thuộc của LĐ 369 SĐ/TQLC.

Vận tải hạm mang tên Mỹ Tho, số tàu 404, khi rời khỏi bờ biển Non Nước với số người đã vớt được trên dưới 1 Tiểu Đoàn tác chiến (HQ), hơn chục khẩu tiểu liên M16, cũng như một số ít col 45 và số ít lựu đạn M67 được đem theo, trong đó tôi có đem theo 1 khẩu colt 45 về đến vũng tàu, còn lại những người khác đem theo bao nhiêu tôi không rõ, tất cả đã bị bỏ lại, với đoàn hùng binh TQLC vô chủ tướng, vào lúc 11:40 trưa, ngày 29 tháng 03 năm 1975! nơi bờ biển Non Nước Đà Nẵng. Sau ngày đó! Không biết số phận những người bị ở lại rồi sẽ ra sao ?!!!.

Khi tàu ra biển khơi, vận tải hạm 404 sắp cặp hông tàu chiến West 2, 1 trong 5 chiếc tàu chiến lớn nhất, West 1,2,3,4,5 mà hải quân Mỹ đã để lại cho hải quân VNCH sử dụng. khi chúng tôi đến gần tàu, là đã thấy trên boong tàu West 2 rất nhiều lính mà đa số là lính thủy quân lục chiến trong binh chủng của chúng tôi đã được các vận tải hạm vớt được từ nơi khác? Khi sang qua W2 cũng là chuyến cuối cùng mà con tàu nầy đã cưu mang chúng tôi từ nơi tan hàng rã gánh tại bờ biển phi trường Non Nước Đà Nẵng, trên đường biển 1 ngày 1 đêm về đến cảng Cam Ranh, Nha Trang khoảng hơn 10 giờ sáng vào ngày hôm sau!.

Trong đời quân ngũ, trước kia khi còn tại ngũ trong đại đội 2 & đại đội CH / Tiểu Đoàn 35/ KBC 4400, Liên Đoàn 6 BĐQ, tôi đã từng tham gia những trận đánh cũng gọi là ác liệt, nhưng tôi chưa bao giờ khiếp sợ. Sự lui binh vô trật tự và dẫn đến loạn quân loạn quan, đó là sự khủng hoảng nhất trong đời thuộc cấp mà tôi đã có dịp chứng kiến cũng như là nhân chứng trong lịch sử cận đại !!!.


Đó là một sự lui binh vô tiền khoáng hậu không riêng gì trong SĐ/TQLC, nói chung là Quân Đoàn 1 & 2 của QL/VNCH. theo tôi nghĩ đó là trách nhiệm của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vì thấu cáy với Washington... và rơi vào ý đồ “phủi tay” của Washington, cho nên QL/VNCH tan hàng rã gánh rất là nhanh chóng!!!.

Thưa quý vị, chiến hữu, thân hữu, và cũng như những đàn anh trong sư đoàn TQLC chúng tôi năm xưa, dù những trận chiến có ác liệt đến đâu..., như những trận chiến mùa hè đỏ lửa vào năm 1972, tuy ác chiến trên phương diện bán chính qui - kẻ nào xui...là thương vong phải chịu, nhưng công tâm mà nói cũng không bằng một sự lui binh dẫn đến "Loạn Quân Loạn Quan" trong sự bi hùng gấp trăm lần so với những trận chiến ác liệt!!!. vì chiến trận dù ác liệt…, biết rằng sự sống còn rất là mõng manh “nhưng” tinh thần vẫn còn nghĩ nơi tuyến sau vẫn còn cấp chỉ huy….

Từ Quãng Trị về đến Đà Nẵng không 1 lần đối đầu với địch quân (CSBV). Một sự lui binh đã dẫn đến binh sĩ chết lần chết mòn cho đến ngày chết chung trong sự “co cụm một chỗ”, đó là sự đau đớn của những đơn vị trong sư đoàn tăng phái, và cũng như toàn thể quân dân cán chính trong quân đoàn 1 chiến thuật!.

Vào thời điểm đó ai là người có thẩm quyền?, Lữ/ Liên/ Trung Đoàn Trưởng ư?, Tư Lệnh sư đoàn 1- 2 - 3 và Tư Lệnh Sư Đoàn tăng phái đến Quân Đoàn 1, cũng điều bó tay và bỏ chạy một cách phi lý vì địch chưa trực diện!, cũng như tất cả các thuộc cấp quân binh chủng còn đang lẻo đẻo chạy phía sau!.

Những lời tường thuật như trên, đó là trí nhớ tôi đã dẫn ra, cũng như những gì mắt thấy tai nghe, cũng là người trong bi hùng cuộc, và hy vọng rằng trí nhớ của tôi không bị sai lệch.

Theo sự hiểu biết cá nhân tôi, trước kia, trong cấp tiểu đội, chỉ biết theo tiểu đội, cấp đại đội, biết theo đại đội, cấp lữ đoàn biết theo lữ đoàn. nhưng ngày hôm nay tuy đã 35 năm trôi qua, biết bao sách sử cũng như thông tin đã được giải mật, nhưng không nhất thiết phải dựa vào đó gọi là đúng sự thật 100%, tất cả mọi người có quyền suy luận theo quan điểm của mỗi cá nhân dù là người ngoài cuộc, "nếu là người trong cuộc", cũng như tôi, tôi có quyền suy luận những gì tôi đã thấy và đã trãi qua của 35 năm về trước (nhân chứng sống, tuy rằng cấp hàng binh sĩ).

Dù rằng trong hệ thống chánh phủ (nội các). Phủ Tổng Thống (Dinh Độc Lập) kỳ vọng vào Chánh Phủ Mỹ, nơi Quân Đoàn 1 tiền phương thì trông chờ vào Dinh Độc Lập. khi làn sóng thần mới manh nha rã ngũ (bể bờ) và đã trào dâng khắp nơi, khi đó các ông Tướng có thẩm quyền của quân đoàn 1 chiến thuật không còn ngồi ở bộ tư lệnh, án binh bất động để trông chờ vào Dinh Độc Lập, mà các ông ấy bay, hoặc chạy về sài gòn để chờ lịnh, lịnh gì ?, đám ma tập thể?- chạy giặc tập thể? - hay là lịnh đi tù tập thể ?!!! (đông vui, chăng?). cũng như có sự tiếp tay của truyền thông BBC cũng như VOA trong chiến dịch phao tin đồn thất thiệt do C.I.A chủ xướng, thì Hà Nội mới vào được Sài Gòn vào ngày 30/04/1975.

Trong quân đội. quân đội nuôi quân chỉ dụng 1 giờ, hoặc trong giai đoạn cần thiết?. còn Quốc Gia dụng Tướng, trong những điều quan trọng khi quốc gia xã tắc nguy biến, thì dụng vào tài của các ông Tướng trấn ải để điều binh khiển tướng, nếu là Tướng tài, vô phước dưới trướng của tướng sĩ tượng, thì chỉ có ôm hận thiên thu cho đến ngày rời khỏi cuộc đời!.

Như rất nhiều bài viết kể truyện, cũng như viết sử, của những ông Úy, Tá, Tướng về những trận đánh, hoặc chiến sử cũng như về lịch sử lui binh cho đến khi chính nghĩa VNCH đã bại vong, họ thường hay nói chung chung?, hoặc đề cao cá nhân mình thì nhiều, cũng như cố tránh né khuyết điểm của họ. Con người được sinh ra, dù tài ba lỗi lạc cũng không tránh khỏi trong phạm trù "nhân vô thập toàn", nếu “không dám vô tư nói thật” những gì đã có liên quan đến lịch sử, và ưu / khuyết điểm của cá nhân mình, thì đừng bày đặt VIẾT SỬ LIỆU ?.

Nói tóm lại. cuộc chiến N/VN là cuộc chiến quân sự, cũng là cuộc chiến dành sự sống còn của toàn dân N/VN. Còn cuộc chiến của Washington tại Việt Nam là cuộc chiến chính trị, khi chiến lược của Washington đã xong, thì sự hoạch định của Central Intelligence Agency đem đến Washington sớm ngày rảnh tay nơi Việt Nam!.

Đã 35 năm trôi qua, dù cho những đồng đội chúng tôi “dù hiện tiền hay đã khuất”, đã và đang sống trong nước, sống trong sự kỳ thị của đảng cộng sản Việt Nam. cũng như cuộc sống của chúng tôi nơi hải ngoại đã rơi vào cảnh đang thọ ơn vừa tủi phận khi chợt nhớ về quá khứ!?, và thỉnh thoảng có những Cô, Cậu em, nếu có cơ hội đi vào đường chính trị thường hay nhắc đến, dù không chính danh, hay mượn tay người khác? nói lên cho mình những chữ Thọ Ơn - Mang Ơn - Biết Ơn với những lão già quá đát vì tuổi đời đang rút ngắn sự sống, và đang xếp hàng chờ về trình diện ngũ hổ tướng Tư Lệnh, và đồng đội nơi vùng 5 chiến thuật, như chúng tôi!.

Đây là những lời ghi lại. mong nối lại nhịp cầu với những ai đã từng có mặt, vào sáng ngày 29 tháng 03 năm 1975 tại bãi biển gần phi trường Non Nước ở Đà Nẵng năm xưa.

Cao Vững.
KBC 4400 & 3333. B2, QL/VNCH.
Viết để ôn lại, để mà suy gẫm....!.
Last edited by mudo on Sat Aug 28, 2010 10:08 pm, edited 1 time in total.
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image
Đại Hội Thường Niên
Quân Trường Đồng Đế Nha Trang


http://DaiHoiDongDe.blogspot.com
Lễ Truy Điệu Cố Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

KHÓA LÊ LAI
“70 TUỔI ĐỜI 50 TUỔI LÍNH”.


Captovan
Ngày 30/3/1963 Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt tên cho khóa 17 trường VB/QGVN là khóa Lê Lai.
“Quỳ xuống SVSQ”. “Đứng dậy 180 tân sĩ quan”.

Ngày 30/5/2010 Khóa Lê Lai họp mặt với chủ đề “70 tuổi đời 50 tuổi lính”. Mọi người về hội cùng 82 ngọn nến lung linh tượng trưng cho các cựu SVSQ K17 đã hy sinh vì Tổ Quốc.

Ba vị thầy đáng yêu và cũng “đáng sợ” về họp mặt với học trò là các thầy Huỳnh Bửu Sơn, Trần Mộng Di và Lưu Vĩnh Lữ. Huynh đệ đến chia và chung vui với K17 gồm đàn anh k16, đàn em k18 và chú út k19. Đặc biệt có một người nhỏ nhất mà to nhất (càng nhỏ càng to) đến tham dự là K29 Tsu A Cầu, hội trưởng hội VB Nam CA, người chịu trách nhiệm tổ chức đại hội 17/VB. A/C Cầu đến dự nhưng có dám cầu cứu khóa “Lê Lai cứu Chúa” cứu Cầu khi Cầu cần các anh k17 cứu?

Ngoài ra còn có đại niên trưởng K15 Nguyễn Công Hiến, người đã có công dẫn dắt, mở mắt cho K17 vào đời và nhiều thân hữu khác nữa. Riêng k19 vì thấy các anh vui quá nên chúng tôi rủ nhau đến khá đông để xin chia bớt, chia niềm vui nhưng các anh đã không cho mà còn hét lên:

“Chung” chứ không “chia”.

Võ Bị vo tròn chứ không bóp ..méo. Nghiêm.

Ông lùn nhất khóa và cũng là người ruồi gieo máu lửa TQLC Lê Văn Cưu hô nghiêm xong bắt k19 chúng tôi ngồi xuống rồi đi tìm “cái châm anh cài”. Lại tái diễn cái màn hành xác tân khóa sinh 50 năm về trước, vẫn vị cay, ngày xưa trái ớt nay thì cái ly XO! Khổ ơi là khổ! Phạt nữa đi anh, k19 chúng tôi tự giác thi hành.

Phải thú thật buổi họp mặt 50 năm của k17 lại là buổi họp mặt với kỷ niệm đau khổ và hạnh phúc nhất cùa chúng tôi! Kỷ niệm đau khổ vì ngày ấy ba ông anh 16, 17, 18 luân phiên đè đầu cỡi cổ thằng út 19. Bậc sư phụ thì gồm đệ nhất cao thủ võ lâm múa súng Huỳnh Bửu Sơn, ông nhốt K19 tại vũ đình trường mỗi sáng Chủ Nhật để luyện cơ bản thao diễn. Sĩ quan cán bộ Trần mộng Di là ác mộng đối với sinh viên chui rào gương mẫu cổng Tôn Thất Lễ! Đáng sợ nhất là huấn luyện viên chiến thuật Lưu Vĩnh Lữ, TKS đang ngồi dưới nắng cháy, ôm súng “gật gù” đồng ý những gì ông giảng thì ông cho nổ TNT phá tan giấc mộng đang ôm eo dạo phố!

Hạnh phúc vì hôm nay đây, vẫn đầy đủ các “hung thần” (HT) ấy, nhưng chúng tôi không còn thấy khiếp sợ mà chỉ có kính mến. Trải qua 50 chiến tranh tù đày, tha phương, các thầy vẫn là thầy, huynh vẫn là huynh, chúng tôi, k19 vẫn hãnh diện được đứng nghiêm, đưa tay chào và sau đó thì được bắt tay, tay các thầy các huynh vẫn ấm và đầy sức mạnh. Xin chúc các thầy các huynh mạnh khỏe, xin cám ơn các cựu “HT/ k17” đã cho k19 vui ké một buổi họp mặt đầy ý nghĩa.

Mấy ngày trước đó, chúng tôi í-ới gọi nhau bàn chuyện “50 năm phục hận”, nhân dịp này kéo nhau đến sờ vai, bóp tay các ông 17 cho bõ nỗi hờn căm năm xưa. Thứ nữa lả thử tài xem các ông “phản ứng cấp thời” ra sao như thuở xưa mỗi khi gặp điều bất ngờ các ông đã hét vào mặt chúng tôi “các anh phải biết phản ứng cấp thờ”. Từ WA xa xôi có BĐQ Đỗ Văn Mười về, từ miền Bắc CA xuống có A/CTrương Khương, A/C Phan Nghè, phần còn lại là Nam CA, khẩu phần 20 có lẻ. Nhưng chúng tôi vẫn thua, các anh vẫn vỗ vai trước, đưa tay ra trước, phản ứng cấp thời là bắt chúng tôi ngồi còn các anh đứng. Chúng tôi có gỡ gạc được chút đỉnh là dám “cười tình” với niên trưởng?
Khi còn là TKS, trên đồi 1515 mưa phùn gió bấc, K19 đứng gặp cằm tê cóng muốn chết, mắt lồi ra nhìn thẳng về phía trước, nghiến răng, mím môi cho khỏi bật ra tiếng nấc. Mưa ướt áo, mồ hôi ướt quần, sợ run lên bần bật vì bị cán bộ 17 quần và quật, vậy mà vẫn nghe tiếng thét:

_“Anh kia, sao anh dám cười tình với cán bộ hả? Bò cho tôi”!

Ôi đời trai tan nát!
Tôi đâm thù ghét những tên TKS cùng khóa ba-gai khiến chúng tôi bị vạ lây! Nhưng chỉ khi là đàn anh, là cán bộ tôi mới biết đó là phịa, là “nói dối” là các ông vi phạm nội quy. Bị vu oan cười tình với cán bộ, cười giao duyên với thợ giặt là những “danh ngôn” đã ăn sâu vào tim óc, nay xin được cười cùng các anh với kỷ niệm cho đến thác vẫn không quên.

Sau nghi thức chào cờ là lễ truy điệu truyền thống Võ Bị thay cho một phút mặc niệm. Các niên trưởng k17 đã đưa toàn thể cựu SVSQ về vũ đình trường Lê Lợi, chúng tôi thấy rõ trên đài tử sĩ, những ngọn đuốc bập bùng theo gió hú “trên đồi thông đang trổi dậy”, lạnh nổi da gà. Thiết tưởng tổng hội nên thực hiện một lễ truy điệu thống nhất từ hình thức tới nội dung như của k17 để toàn thể các khóa sử dụng trong những dịp đại hội.

Khóa 17 đã dạy k19 chúng tôi khi xem văn nghệ không được cười, cấm vỗ tay, hẳn HT Nguyễn Tiến Đức còn nhớ rõ điều này. Vào một buổi xế chiều, ông đứng trên bục gỗ cao trước phạn điếm, gằn giọng trong cổ họng, nẹt TKS19:

_ Tối nay là buổi văn nghệ ra trường của các tân thiếu úy K16, các anh mới chỉ là TKS, được cho phép tham dự, nhưng.. (ngừng lại 1 phút để liếc trái liếc phải hàng quân TKS).. không được phép cười, không được phép vỗ tay. Rõ chưa?

_ Rõ oooo!

Nhưng cây TKS muốn im lặng mà gió K17 chẳng dừng, ông lùn Lê Văn Cưu đứng sau lưng xúi chúng tôi vỗ tay, không vỗ thì hét! Thế là sau khi tàn cuộc chơi, tân thiếu úy K16 ôm eo.. dạo phố, còn tân khóa sinh K19 ôm em garant chạy quanh doanh trại theo lệnh ông Đức!
Lệnh ấy dù đã 50 năm chúng tôi vẫn còn nhớ nên đêm nay 30/5/2010,

chúng tôi im lặng cúi đầu nhìn hai vị quả phụ K17 thắp 82 ngọn nến trên “mô đất lạ chôn vùi 82 thân chiến sĩ k17” với súng M16 treo ngược trên cành cây khô bên cạnh cái nón sắt, đôi giầy. Văng vẳng đâu đây lời ca não lòng: “Tôi đi tìm anh! Anh ở đâu?”. Thật tuyệt vời, một hoạt cảnh từ hình thức tới nội dung. Trong ánh nến mờ mờ tôi nhận ra nhiều người đưa tay dụi mắt. Quá cảm động, quá hay nhưng nhớ lời “cán bộ” Nguyễn Tiến Đức ra lệnh năm xưa, chúng tôi im lặng cúi đầu, không dám vỗ tay và cũng không thể cười với màn trình diễn này.

MC Hoàng Đình Ngoạn giới thiệu chương trình văn nghệ bằng ca khúc “Biệt Kinh Kỳ” do các liền chị k17 trinh diễn. NT Ngoạn chính là cán bộ dạy k19 hát bản nhạc “Tiểu Đoàn TKS”, bản nhạc mà chúng tồi vừa hát vừa khóc nên tới nay tôi không còn nhớ một câu nào. Đêm nay, ông lại đi một đường ngoan mục là mở đầu bằng bài ca “Biệt Kinh Kỳ”, bản nhạc mà TKS19 vừa nhai cơm vừa khóc, đêm nay chúng tôi lắng nghe các chị hát hay quá khiến chúng tôi tạm quên đi những tiếng hò hét nổi gai ốc năm xưa.

Hồi ấy, 50 năm về trước, mỗi khi khi tân khóa sinh 19 bước vào phạn điếm để nuốt bữa cơm chiều chan nước mắt thì K17 thương, ưu ái cho nghe nhạc:

_ “Bạn ơi! Quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã ..đã đi xa rồi ..”

Đúng một phút ba mươi giây sau là các ông cắt cái “cụp”, tiếng nhạc ngưng, thay vào đó là hò hét vang lừng khắp bốn cõi của k17, các ông quát tháo sỉ vả chúng tôi ủy mỵ, còn dân chính, tại sao khóc? Chui xuống gầm bàn mà nhẩy xổm, leo lên bàn ăn mà hít bàn. “Biệt Kinh Kỳ” ơi, nỗi buồn của nhiều ngưới chứ đâu phải riêng của k19 mà nỡ hành tỏi nhau? Đêm nay 30/5/2010, khách mời ngồi bàn VIP là cựu TKS/19 rung đùi ngồi nghe các bà chị 17 hát. Cám ơn các chị đã thương đàn em, cho “tụi nó” trẻ lại 50 tuổi và dĩ nhiên chúng tôi không theo lệnh của TQLC Nguyễn Tiến Đức nữa, chúng tôi cứ vỗ tay, tôi đố ông dám phạt tôi. Đêm nay tôi khen bà chị, ông mà phạt tôi một cái hít đất thì khi về nhà ông bị phạt gấp 19 lần à nha, liệu hồn với bà chị.
Văn nghệ cứ tiếp diễn, vỗ tay mệt nghỉ, phải nói thật là với những tiếng hát của tuổi đời tuy chưa già nhưng không còn trẻ, là vợ lính, mặc quần áo lính, hát cho lính-chồng và đồng đội của chồng nghe như vậy là quá hay rồi, không nên đòi hỏi các chị quay về “tiếng hát học trò” tuổi đôi mươi. Ông “thầy pháp” Nam Sinh Tín hy sinh mái tóc mexicana để đóng trọn vai một sinh viên sĩ quan trong quân phục dạo phố mùa Đông với bản nhạc Mimosa, đẹp thật, trẻ thật. Đây là một sự hy sinh không nhỏ của “thầy pháp” Tín, chuẩn khóa 16, cho khóa đàn em K17.

Cái hình ảnh đáng sợ nhất đối với K19 chúng tôi ngay từ thuở ban đầu vừa bước vào cổng trường rồi theo đuổi chúng tôi suốt 8 tuần lễ sơ khởi là cái ông đội nón nhựa, thắt lưng cổ truyền, găng tay trắng, bốt-đờ-sô bóng láng, miệng lúc nào cũng hét “chạy theo tôi”. Nhưng đổi giọng ngay, “anh này hít đất cho tôi”, anh kia “bò cho tôi”! TKS thắc mắc tại sao ông không nói “bò theo tôi”. Hình bóng xưa ấy đêm nay xuất hiện đều đều trên sân khấu, cũng hò cũng hét nhưng K19 chúng tôi không còn ngán ông nữa vì lý do cái nón nhựa không chịu đánh bóng, không chịu kéo nó lên mà để 2 ống quần xệ xuống và chỉ một mình ông là hung thần hò hét, sau lưng ông là những bông hồng đang chờ ông hét cho xong để các chị hát cho mọi người nghe. Vừa sợ vừa vui.

Cựu trung đoàn trưởng Ngô Văn Xuân kể về những cái nhất của khóa 17, trong đó câu chuyện về cây cung và mũi tên của thủ khoa Vĩnh Nhi đáng suy nghĩ tùy theo niềm tin của mỗi người. Ngày mãn khóa K17, hơn 400 SVSQ/k19 chúng tôi được tham dự, được biết thủ khoa k17 bắn cung bị trục trặc. Nay xin ghi tóm tắt theo lời kể của NT Ngô Văn Xuân:

_ “Thủ khoa mỗi khóa đều phải tập thật kỹ mọi động tác bắn cung trong ngày lễ tốt nghiệp trước vị chủ tọa và quan khách. Thủ khoa K17 Vĩnh Nhi bắn 4 mũi tên đi 4 hướng trước vị chủ tọa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Mũi tên thứ nhất vút lên trời cao, bay xa. Nhưng 3 mũi tên còn lại thì không đi xa được mà rớt gần ngay đó! Sự kiện này gây rúng động trong lòng mỗi người nhưng không ai dám nói ra, không dám suy đoán cái gì sẽ xẩy ra trong tương lai. Nhưng sau này ứng nghiệm vào trường hợp của thủ khoa 4 khóa 16, 17, 18, và 19.
Mũi tên thứ nhất bay vút lên cao, đi xa, trùng hợp với sự thành công binh nghiệp của thủ khoa K16 Bùi Quyền.

Mũi tên thứ hai không bay được, mà rơi xuống, trùng hợp với thủ khoa K17 Vĩnh Nhi, anh là TĐTT tiểu đoàn 3/12 thuộc SĐ.7 Bộ Binh, tử trận năm 1968.

Mũi tên thứ ba trùng hợp với thủ khoa K18 Nguyễn Anh Vũ, anh Vũ chọn Binh Chủng Nhẩy Dù và Anh đã tử trận năm 1966 tại Bời Lời!

Mũi tên thứ tư trùng với trường hợp của thủ khoa K19 Võ Thành Kháng, anh chọn Binh Chủng TQLC và tử trận tại Bình Giả vào ngày 31/12/1964”!.

Niên trưởng Ngô Văn Xuân đã khéo léo dùng chữ “trùng” trong những trường hợp kể trên, vì đây là vấn đề tâm linh, là niềm tin của riêng mỗi cá nhân. Ngoài biến cố bất ngờ về 3 mũi tên, cái tên khóa cũng khiến tôi suy nghĩ về vai trò “Lê Lai cứu chúa”. Những gì xẩy ra ở đơn vị khác tôi không biết, nhưng ở TQLC thì các “Lê Lai 17” hy sinh và cứu chúa hơi nhiều. Phải nói thẳng là các anh rất giỏi, nhưng quan lộ thì chẳng thênh thang chút nào, cứ nửa đường thì gẫy gánh, chỉ có 2 anh làm tới tiểu đoàn trưởng là Huỳnh Văn Lượm và Đinh Xuân Lãm! Theo chân ông thầy 17, các trò 19/TQLC cũng sứt tay gẫy gọng hết, hơn 30 tên mà chỉ có Trần Văn Hợp là với tới chức tiểu đoàn trưởng, và vào giờ thứ 25 thì có thêm Đinh Long Thành, TĐT chưa biết mặt hết các trung đội trưởng thì gẫy súng, tan hàng! Có lẽ tại 4 khóa 16, 17, 18, và 19 đã sống chung trong cùng một thời gian ngắn, dài trên đồi 1515 nên có nhiều chuyện liên quan mật thiết với nhau.
Nếu tính theo già trẻ và uy quyền của một gia tộc 4 thế hệ nối tiếp thì riêng cá nhân tôi, tôi gọi K18 là “bố”, K17 là “ông nội” và K16 là “ông cố nội”. Đêm hội ngộ của các ông nội tôi được bắt tay hai ông cố nội Lục Sĩ Đức và Trọng Vĩnh, nhưng sao thấy hai ông cố nội này lại trẻ hơn cháu? Có sửa chữa tu bổ gì không đây? Không gặp “bố” nào hết mà đi đâu cũng dụng các “ông nội”. Chỉ trừ một số rất ít tôi phải vạch bảng gọi tên vì ngày xưa các ông không “dạy dỗ” chúng tôi, không phạt ngọ chiến mà cũng chẳng thưởng dạ chiến khiến ông cháu không nhận ra nhau, còn hầu như “miếng ngon nhớ lâu điều đau nhớ đời”, nhận diện được khá nhiều các ông nội, vui biết chừng nào. Đa số là hung thần dạy dỗ chúng tôi trong quân trường, một số là “thầy” ở chiến trường, tại đơn vị, một số là “sư phụ” trong ngục tù. Chính tại đây, nơi bị “lột trần ai cũng như ai” tôi mới nhận ra ai là thầy ai là tớ. Tôi phục tư cách của các cựu SVSQ/VB nói chung và K17 nói riêng. Không phải tôi nịnh các anh, chả còn giải rút gì mà ăn, nhưng phải nói lời cám ơn muộn màng, tư cách trong tù của các anh làm gương nên chúng tôi cũng không đến nỗi tệ. Tôi ủ-tờ chung với những Đinh Xuân Lãm, Trần Kim Hoàng, Lê Văn Cưu, Lê Văn Huyền, Huỳnh Văn Lượm, Ngô Văn Xuân, Nguyễn Duy Diệm, Nguyễn Hoài Cát v.v.. Ngày nay các anh vẫn hiên ngang ngước mặt nhìn đời và tôi vẫn hãnh diện được đứng nghiêm chào các niên trưởng này là một minh chứng cho thái độ những cây tùng trước bão của K17 trong lao tù Cộng Sản. Dĩ nhiên ở khắp các nơi, các khóa, cũng không tránh khỏi có một vài người làm nồi canh “vỏ bí” bị tanh! Nhưng nếu không mục kích thì chớ nên đồn thổi làm buồn lòng nhau những người bị hàm oan

Chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn của K17 là “mối đe dọa” cho ca sĩ Hoàng-Oanh Trung-Chỉnh! Ông anh em-xi duyên dáng Võ Ý nói như thế và tôi cũng thấy thế. Vì còn nuối tiếc nên khi ra về K19 bao vây K17 ở ngoài cửa nhà hàng, cãi lộn mãi không muốn dứt. Những hung thần 17 nào lỡ dịp họp mặt lần này là mất một dịp vui. Nhưng đừng lo, lỡ chuyến “tàu chợ” này thì còn đoàn tàu tốc hành liên khóa đang lao tới.

Có đến tham dự những đại hội khóa như thế này mới thấy hết tình huynh đệ đáng quý, đáng trân trọng và là niềm vui, niềm an ủi tuổi xế chiều. Bỏ lỡ những dịp này thì phải 2,4,6 năm nữa mới hy vọng gặp lại.
Lâu quá!

Thưa quý anh chị cựu SVSQ trường VBQGVN, nếu ai lỡ chuyến tàu họp khóa thì đoàn tàu tốc hành toàn khóa đang từ từ vào bến và sẽ khởi hành trong chốc lát. Xin quý anh chị mau mau ghi danh và chuẩn bị lên tàu, tất cả những cựu SVSQ đi chung một tàu, ngồi chung một toa, cùng du ngoạn một chuyến thì còn gì vui bằng, nhất định vui hơn anh chi đi hu-ni-mun một mình.

Đoàn tàu deluxe mang số ĐHVB/XVII đang chờ, giá vé tượng trưng, dù xa dù gần xin cố gắng lên tàu. Mau “mau lên đi chiều hôm tồi rồi”! Kẻo khi tàu khởi hành mang theo tiếng cười mà ngồi lại một mình trong sân ga vắng buổi hoàng hôn thì buồn quá!
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975
(Nghiên cứu của nhà sử học Bill Laurie)


Dịch giả: Nguyễn Tiến Việt
Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc Ðại Học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 Tháng Ba năm 2006.

Trong số nhiều diễn giả Việt-Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm. Bài này được chuyển ngữ từ nguyên bản bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ. Những chữ viết ngả để trong ngoặc đơn là chú thích của tác giả để câu văn chuyển dịch mang được đầy đủ ý nghĩa của nó.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông tin tức (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1968.

Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay phủ nhận rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây hiểm họa cho khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể bị xóa khỏi trang lịch sử vinh quang.

Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971 và phục vụ 1 năm tại MACV(Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam), rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở Phòng Tùy Viên Quân Sự. (DAO)

Khởi thủy, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự khóa huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Ðông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao gồm công tác liên lạc giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh thị của Việt Nam, và cả các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa mà cả với người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao cấp trong những buổi thuyết trình ở tổng hành dinh của MACV cũng như ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuần lễ sau đó tôi có thể đã lội trên những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong cùng với các binh sĩ Ðịa Phương Quân, hay bay ngang tỉnh Ðịnh Tường trên một chiếc trực thăng Huey của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt Ðộng Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Ðông.

Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu quả thật tất cả những người ở Mỹ đang nói về Việt Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?”

Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê, mì, cháo... háo hức lắng nghe người dân, người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tôi từng học ở Hoa Kỳ.

Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hằng feet/khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ với những cựu chiến binh gốc Ðông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam và Ðông Nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những người ở các xứ ấy tự trình bày lên thì lại không phù hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.

Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Ðúng là có những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến với Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hỏa lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư Ðoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, đơn vị cứ mãi bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thái thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Ðịa Phương Quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những 1 mà tới 3 trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ ra nguyên cả lực lượng xung kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó.

Ðịa Phương Quân không được Pháo Binh và Không Quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy Việt Nam Cộng Hòa, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe dọa Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến Sĩ James H. Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư Ðoàn 21 tuy không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến trường An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt.

Nói vắn tắt, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày trước... và ngày nay cũng vậy.

***

Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Ðiều này là hiển nhiên. Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó.

Tuy nhiên, còn có những chỉ dấu cho thấy lực lượng Việt Nam Cộng Hòa khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu.

Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của tổng thống Hoa Kỳ”. Ðại Úy Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, Ðại Úy Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, mang huy hiệu Trâu Ðiên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản miền Nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”...

Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hóa phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời kỳ, thời kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ quên dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lại.

Rốt cuộc thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang bị thời Thế Chiến Thứ Hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội Việt Nam Cộng Hòa được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt. Ðồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày:

(Bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính quy và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 triệu 48 ngàn quân. Trong đó, Không Quân gia tăng quân số tới 163%, Hải Quân tăng 110%, Lục Quân tăng gần 8% quân số)

Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục Quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam's Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm Cảnh Sát Dã Chiến, Nhân Dân Tự Vệ, và các toán Xây Dựng Nông Thôn.

Lực lượng xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế diễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North Vietnam's Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào tài liệu.

Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (Trích từ các sách vở của các tác giả người Mỹ).

“Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân tự vệ khác xuất hiện, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M1 (không ghi rõ garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly.”

Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ.”

Còn nữa: Một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu hủy tại An Lộc trong cuộc bao vây năm 1972.

Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây:

“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng bạn (Việt cộng).”

Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại.

Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Ðịa phương quân với sự trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:

“Chúng tôi vừa vượt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hỏa lực từ một rặng cây trước mặt bắn tới. Nước văng tung tóe xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hỏa lực địch. Khi toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ. Dưới hỏa lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá hay.”

Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970:

“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”

Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của Việt Nam mà họ không hòa thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.

Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thủy quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thuộc sư đoàn 1 bộ binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt:

“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc... Ðây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hiện những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện... Các cố vấn của trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hỏa lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta.' Chúng tôi có các cố vấn người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau.” (tác giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii).

Ở miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Ðịnh Tường thuộc quân khu IV, sư đoàn 7 bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của sư đoàn 7 bộ binh:

“Vùng giải phóng bị thu hẹp... Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.

Ở Bến Tre (tức tỉnh Kiến Hòa) sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi.” (tác giả trích dẫn David Chenoff và Ðoàn văn Toại, sách Chân dung kẻ địch, Random House ở New York xuất bản năm 1986).

Tình hình còn tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía Bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực lượng chính. (Tài liệu trích dẫn).

Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt:

(Bảng thống kê trong bài ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cuộc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9.8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%).

Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, dưới tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Ðiều này xảy ra trong khi quân số tham chiến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích.

Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và không có bằng chứng dù về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu diệt hoàn toàn, và những ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kiểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện, Ðịnh Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa trong hồ” (thật khôi hài, là cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “riêng phía Việt cộng không phải là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn.”

Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa sả om sòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn những điềm gở. Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu thổ:

“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đã tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng tượng được. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”

Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hỏa tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hỏa tiễn công phá điều khiển bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 được yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gãy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó.

Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “...Nam Việt Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc.” Nhiều nhà bình luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH đã được. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: Không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vượt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hỏa tiễn 122 ly chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km).

Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nội. Hà Nội có hằng trăm hỏa tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm. Tựu chung, trở lại đề tài không lực, thì không quân Việt Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lục vào vị trí quân Bắc Việt:

“Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công của không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả... Hỏa lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam.

“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công không quân Việt Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vượt hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ.”

Ðây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ chứng thực:

“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972... Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu.”

QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận Tết Mậu Thân 1968, về khía cạnh quân số và hỏa lực. Ước lượng có khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết 1968 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế. (ngoại trừ ở quân khu I).

QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hiệp định Paris gian lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối Tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc nhiệm VNCH đã đánh đuổi sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới nỗi sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba tỉnh Ðịnh Tường-Kiến Tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các đon vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến của VNCH.

Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Ðến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu đội bắn trong một ngày:

Năm 1972 Năm 1975 Tỉ lệ giảm

Ðạn 105 ly 180 viên 10 viên; 94%

Ðạn 155 ly 150 viên 5 viên; 97%

Ðạn 175 ly 30 viên 3 viên; 90%

Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tủy. Nhiều binh sĩ bộ binh được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một tuần lễ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay... nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của gia đình. Ðói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém?

Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh ông Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối.

Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được biết đến. Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu nòng do các Trung Úy Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hỏa lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các Trung Úy Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu Tá Trương Phụng và Ðại Úy Phúc lái, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng chỉ còn Ðại Úy Phúc sống sót, oanh kích đến khi hết đạn. Hai Trung Úy Thanh, Hiền và Thiếu Tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!

Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, vói thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp. Trước một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt viện trợ như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại, Ðoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi Tết Mậu Thân 1968.

Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hỏa lực quyết định chiến trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị ám sát, trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 triệu. Nước Mỹ với dân số 200 triệu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ.

Ðiều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:

“Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hoảng quốc gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một triệu quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều này.” (được nhấn mạnh và thêm vào).

Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ:

“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”

Kế hoạch Việt Nam hóa có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực lượng chiến đấu có khả năng?

Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam Hóa có hiệu quả, nhưng lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hóa thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:

1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.

2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương lai?: 57% đồng ý.

3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng Việt cộng-Bắc Việt trong tương lai?: 25% nghi ngờ.

4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%.

Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Ðịa phương quân, Nghĩa quân, vân vân... cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi: “Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu?”

Ðiều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm lược Bắc Việt trong năm 1972, thường là không cần tới sự yểm trợ hỏa lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa quân và Ðịa phương quân. Ðiều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy.

Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hết lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:

“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tưởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”

Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Ðoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh hưởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư:

“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng ta... Họ phải cung cấp viện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba à, hãy can thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết... Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị trí và không rút lui.”

Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường.

Bác sĩ Phan Quang Ðán là quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối lập với ông Ngô Ðình Diệm, nổi tiếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Ðại Úy Tuấn bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi, tử trận.

Những cá nhân ấy không phải là duy nhất. Người viết bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng võ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thủy quân lục chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “lưỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn.

Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tụy với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị quốc gia Ðà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:

“- Anh sắp bị giết đó!

- Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.

- Sao vậy? Ðã kết thúc rồi mà!

- Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản.”

Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết.”

Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là trường nội trú, trong học trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:

“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!... Nhiều người trong số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiếu sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”

Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.

Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình. 0.7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0.8% về bình định. 2.7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình, tức 2.7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi công “Ong Chúa” (King Bee) lừng danh của trực thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không ai biết Trung Sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu Ðông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW của anh:

“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe tăng không có ý nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm phấn khích đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm đến thế... Sự anh dũng lạ thường của người lính thủy quân lục chiến Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”

Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi đã trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt:

“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim... Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.”

Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại Ðông Nam Á đều nhìn cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay gắt.

Phải chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại phản bội văn hóa và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ. Một thủy quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975 đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của điều quyết tâm ấy.

Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vào cái chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chỉ viết rằng: “Việt Nam hóa thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân Việt Nam Cộng Hòa tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã tấn công trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở Cambodia. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).

Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài liệu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu trung tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chế độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bôi xóa tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?

***

Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức cái chính phủ Hoa Kỳ.

Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần phải có hội nghị đó. Những chiến lược giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh. Không có con đường này thì cuộc chiến tranh của Hà Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Ðông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực. Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù lòa, lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn. (Những chữ in đậm là những chữ tác giả viết bằng tiếng Việt)

Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược dòng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh (Việt Nam đã qua) là một cuôc chiến không thể nào thắng được.

Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cánh những chiến hữu của họ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tụy, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Ðông Nam Á đã biết yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương”.

Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của người Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Ðông Nam Á đã trải qua loại thử thách khổ đau nào. Ðầy dẫy những dữ kiện lịch sử quý giá và những nét quan sát sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người Lào). Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diện. Những tác phẩm của Lý Tòng Bá, Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt, và nhiều người khác, đang kêu gào đòi được dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là Chiến Tranh Ðông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.

Bill Laurie - March 18, 2006;
Nguyễn Tiến Việt chuyển ngữ
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Kỷ Vật Cho Em
Tiếng hát : Vũ Khanh & Thanh Lan
Nhạc : Phạm Duy
Thơ : Linh Phương



Image

khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

Chân Dung:
ĐỨC THÁNH TRẦN

Chân dung đức Trần Hưng Đạo, không những khắc ghi trong sử sách, trong kho tàng văn học và trong chiến tích lẫy lừng của cuộc chống quân xâm lăng Mông Cổ, mà còn khắc tạc vào lòng mỗi con dân nước Việt là một nhà chính trị lỗi lạc về mặt an dân, một thiên tài quân sự về mặt giữ nước và một nhà văn hóa uyên bác trong sinh mệnh của Việt Tộc được kết tinh từ nơi bể trầm luân của nhân loại.

Cách đây hơn bảy trăm năm, đức Trần Hưng Đạo là một vị Nguyên soái, đã qua ba lần đại chiến, và đánh bạt quân Mông Cổ ra khỏi bờ cõi để giữ yên sơn hà. Đúng bảy trăm năm sau: vào tháng 2 năm 1984, Hội Hoàng Gia Anh, tức là viện Khoa Học Hoàng Gia Anh bầu ra 10 vị Tướng soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại qua các thời đại. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là vị Tướng Soái duy nhất được chọn với tuyệt đại đa số của thời trung cổ. Ngài đã từng đánh bạt ba lần một đoàn quân mạnh nhất thế giới trải từ Âu sang Á, đó là Mông Cổ.

Tiếc thay rằng; đến thời mạt vận, kẻ xâm lăng từ phương Bắc vào thời nhà Minh bên Tàu, chiếm cứ hơn hai mươi năm trên đất Việt. Không những cướp bóc muôn vàn thứ vật quý giá như vàng ngọc và châu báu. Không biết dường nào kể hết ! Mà còn tóm thâu cả kinh sách của biết bao nhiêu đời được lưu truyền trong kho tàng văn học. Chúng cướp về có thể sửa lại với ý đồ bóp méo lịch sử, nhằm mục đích cho lãnh vực tuyên truyền. Còn về phần tinh bản, chúng có thể thiêu hủy hay cất dấu. Không những thế còn có thể làm sai lệch đối với các nhà khảo cổ học trên thế giới là một điều có thể xãy ra. Nhưng khi đã thanh tựu một nền văn hiến, thì dù thời vận có thế nào đi nữa; chân lý của bậc vĩ nhận vẫn luôn luôn tồn tại. Bởi vì, văn hóa là một cái gì tự thân nó trong từng thời đại của tiến trình văn minh từ dân tộc đó lưu lại, không ai có thể sửa lại được cái văn hóa ấy dù bất kỳ trong một tình huống nào.

Nay, kẻ sưu tầm xin ghi lại dành cho các bạn trẻ trong và ngoài nước, đã và đang cưu mang trong lòng một nước Việt mến yêu, và đặc biệt gởi đến các bạn trẻ sinh ra và lớn lên tản mát khắp cùng thế giới, bởi vận mệnh đất nước nổi trôi sau một cơn lốc thời đại, đã bao trùm trên quê hương một nỗi bất hạnh khôn cùng vào 30-04-1975. Dù đây chỉ là chút đóng góp thật là nhỏ bé như một giọt máu hòa trong đại dương mà nỗi lòng mãi canh cánh; một quê đang trong khổ nạn còn mù khơi bên kia bờ biển Thái vẫn là sự quan tâm hàng đầu của lẽ sống tinh thần của kẻ chạy giặc vây.

Và sâu xa hơn nữa, lịch sử chính thống của một dân tộc đối với các bạn trẻ là hành trang quan yếu, bởi vì chính thế trẻ là những lớp người tiếp bước cho tiền đồ của Quốc gia Dân tộc, phải nhận chân đâu là quê Cha và đâu là đất Tổ qua một truyền thống ngoan cường và một tinh thần bất khuất để tồn tại là điều không thể thiếu được.

Các bạn trẻ quý mến, chính các bạn hôm nay và ngày mai luôn luôn là luồng sinh khí thật trong sáng và kỳ diệu nhất sẽ mang về cho đất nước Việt Nam những nụ hoa Nhân Bản, Tự Do và Công Lý nở trên khắp quê hương Việt Nam vậy. Và cũng chính thế hệ các bạn tiếp nối và giữ gìn di sản quý báu của Tổ Tiên. Và cùng đóng góp vào di sản chung của nhân loại theo tài năng các bạn là hoài vọng ngàn đời của lớp ngươì đi trước. Nên, những nét đặc trưng trong nền văn hóa của một dân tộc nơi bầu vũ trụ, mà chúng ta đang sống; chắc chắn trong niềm hy vọng của thế hệ các bạn sẽ cảm nhận sâu xa không cùng và chính đây là một trong những biểu tượng vô cùng trân quý cho lý tưởng sống còn của một dân tộc dưới ánh mặt trời trong cộng đồng nhân loại về chân dung của Đức Trần Hưng Đạo.

Khởi đầu về giai thoại là chuyện tiếp sứ Nguyên của Đức Trần Hưng Đạo vào thời kỳ (1281) đấu tranh ngoại giao thật cực kỳ căng thẳng, mà chúng (Mông Nguyên) bắt vua Trần phải sang chầu. Nhưng trong thế kéo dài sự hòa hoãn của Trần triều để chuẩn bị cho một cuộc đọ sức bằng vủ trang của một dân tộc không thể sơ hở. Lúc đó là vua Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái thay mình sang gặp vua Nguyên. Vì thế, Hốt Tất Liệt nắm ngay cơ hội, mà phong cho Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương. Bọn tùy tùng Trần Di Ái được phong nốt chức tước, cùng với khoảng một ngàn quân và sứ giả Sài Thung. Trong tình thế ngày càng căng thẳng hơn, nên phải đối xử thế nào với tên Sài Thung sứ giả ? Một tên vốn chỉ biết chạy theo bạo lực của một giống người ngồi trên lưng ngựa để bắn cung, mà đánh đâu thắng đó đã từng làm rúng động đến máu chảy thịt rơi, kéo từ Âu sang Á.

Giai thoại được chép như sau trong sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:

“Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng đầy màn trướng , hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, Thung nằm khểnh không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, Ông đi thẳng vào phòng. Thung đứng dậy, vái chào và mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, bởi cứ ngỡ người gọt tóc, mặc áo vải nầy là nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Sau, người hầu của Thung nhận ra Ông, cầm cái tên chọc vào đầu Quốc Tuấn đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không thể thay đổi. Khi về, Thung ra tận cửa tiễn Ông.” Nói đến đại sự quốc gia là một chứng cứ hùng hồn, mà Ngài đã xử trí trong một phong thái ung dung mà vẫn giữ vững được quốc thể, không phải là một bậc thánh sao?

Sự cư xử mật thiết và thân tình giữa Đức Trần Hưng Đạo và Thượng Tướng Trần Quang Khải. Mặc dù, giữa hai bậc thân sinh của hai vị trong cảnh tình trái ngang, đã để lại một vết thương lòng không nhỏ. Nhưng đối với quốc gia đại sự, ắt phải ở trong một phạm trù rộng lớn, không thể đặt tình cá biệt lên trên tình đại thể. Trong Khâm Định Lịch Sử Thông Giám Cương Mục đã để lại một giai thoại rất thâm tình và cảm động :

“Trước kia Trần Thánh Tông thân đem quân đi đánh Mán Bà-la, Quang Khải đi theo. Khi sắp đi, sứ thần Trung Quốc tới . Thánh Tông triệu Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn đến bảo rằng:

-Thượng tướng Trần Quang Khải theo quan gia đi đánh giặc, trẩm muốn phong cho nhà ngươi làm tư đồ, sung vào việc ứng tiếp.

Quốc Tuấn thưa rằng:

-Việc ứng tiếp sứ thần Trung Quốc, tôi xin đảm nhận, còn việc tư đồ, tôi không dám nhận. Nay quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu, Bệ hạ lại tự phong chức cho tôi, e rằng tình nghĩa trên dưới chưa được ổn thỏa.

Việc ấy bèn thôi. Quang Khải với Quốc Tuấn vốn trước không hòa hiệp với nhau. Có một hôm, Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp về, Quang Khải cùng Quốc Tuấn đánh cờ chơi đùa suốt ngày. Quang Khải tính không hay tắm gội. Quốc Tuấn cởi áo và lau rửa giúp Quang Khải rồi nói:

-Hôm nay tôi tắm được cho Thượng Tướng.
Quang Khải cũng nói:

-Hôm nay tôi được Quốc Công tắm rửa cho.
Từ bấy giờ, hai người chơi với nhau thân mật lắm.”

Cổ ngữ có câu: “Ôn lại cái xưa để biết được cái nay”; âu đó là một chân lý chẳng phải chỉ riêng cho trí nảo mà còn có cả con tim mới giữ vững được lòng tin cho đại sự.

Trước lúc Hưng Đạo Vương lâm chung đã để lại cho hậu thế những lời vàng ngọc cuối cùng về thế giữ nước, được sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục trân trọng ghi lại:

“Trước đây Quốc Tuấn bị bệnh, nhà vua ( chỉ Trần Anh Tông) thân đến nhà riêng thăm viếng và hỏi rằng:

-Nếu có sự không lành xãy ra, mà quân Nguyên lại
sang xâm lấn thì chống cự bằng cách gì ?

Quốc Tuấn thưa:

- Ngày trước Triệu Võ (chỉ Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán sai quân
sang đánh, bây giờ, dân thì phá hết hoa màu ở đồng nội, quân thì kéo sang, dùng đỏan binh tập hậu mà đánh phá châu Khâm, châu Liêm và châu Trường Sa. Đó là một thời kỳ. Đến đời nhà Đinh, nhà Lê thì dùng người hiền tài. Lúc ấy phương Nam đang mạnh, phương Bắc đang suy, trên dưới một dạ, dân không có lòng ly tán, đắp thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó cũng là một thời kỳ. Nhà Lý dựng cơ nghiệp, người nhà Tống sang xâm lấn. Lúc ấy, Lý Thường Kiệt đánh châu Khâm, châu Liêm, nhiều phen đánh đến tận Mai Lĩnh, ấy là có thế lực mạnh. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt đánh phá bao vây. Lúc ấy, vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước ra sức nên giặc phải chịu bó tay. Đấy là lòng trời xuôi khiến.

Quân giặc cậy vào trường trận, ta cậy ở đoản binh, đem đoản binh chống trường trận là việc thường dùng trong binh pháp. Nhưng cần phải cân nhắc cho kĩ, giả sử quân giặc tràn sang như gió như lửa thì có thể chống cự được, nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân , không mong đánh được ngay thì mình phải dùng tướng giỏi, xem tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy cơ mà ứng biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính như cha con một nhà thì mới có thể chiến thắng được. Vả lại phải khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách, không có gì hơn được.

Vua phục lời của Quốc Tuấn là đúng”.

Đã một lòng vì Dân Nước, thì tình thương dân và yêu nước lúc nào cũng cánh canh bên lòng của những bậc ái quốc. Trước khi lâm chung Ngài đã để lại cho vị Hoàng-đế Trần Anh Tông một chiến sách giữ Nước. Nhưng với ngần ấy mẫu giai thoại về Ngài so với cả một kho tàng văn hóa và sử liệu đối với một nước có một nền văn hiến lâu đời, thì thật là qúa ít ỏi lắm thay !

Vĩnh Nhất Tâm 20-8-2010
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image

Những Vị Tướng Tự Sát :

* Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975)
Vào lúc 11 Giờ 30, ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các binh sỉ đã tự kết liễu đời mình.
* Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 (19??-1975 )

Tướng Hưng đã được vinh danh “Anh Hùng An Lộc” trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc Bình long. Tướng Hưng đã tự sát vào tối ngày ngày 30.04.75 tại văn phòng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối.

* Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1933-1975)
Sau khi nhận được lệnh phải đầu hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành dinh ở Lai Khê.


* Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh (1925-1975)

Vào đêm ngày ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Hai đã tự sát tại trung tâm Ðồng Tâm.

* Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975)
Thiếu Tướng Phú là người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên, đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân sử cận đại. Tướng Phú tự tử tại nhà vào ngày 30.04.75.

* Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)

Ðại Tá Hồ ngọc Cẩn đã anh dũng chiến đấu tới cùng và không chịu đầu hàng. Ðại Tá Cẩn đã bị quân cộng sản đem ra xử trước công cộng và sau đó bị xử bắn tại chỗ.

* Ðại Tá Ðặng Sĩ Vinh
Vào lúc 2 giờ ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

* Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long
Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long tuẩn tiết sáng 30-4-75 dưới chân tượng đài Thủy quân lục chiến.

Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trước ngày mất nước


01. Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tồng Thống kiêm Tư Lệnh Việt Nam Cọng Hoà. Lúc từ chức (ngày 21 tháng 4, 1975), ông tuyên bố là ông trở về quân đội để tiếp tục chiến đấu. Ngày 25,4,1975 ông Thiệu cùng ông Trần Thiện Khiêm rời Việt Nam trên một chuyến bay do Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ tổ chức.
02 Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Kiêm Tồng Trưởng Quốc Phòng – từ chức thượng tuần tháng tư 1975 và rời Việt Nam cùng lúc với Nguyễn văn Thiệu .
03 Ðại Tướng Cao văn Viên, Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
04 Trung Tướng Ðặng văn Quang, Phụ Tá An Ninh Quốc Gia, Phủ Tổng Thống.
05 Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Phụ Tá Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
06 Trung Tướng Ðồng văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng, Tổng Tham Mưu, Kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
07 Trung Tướng Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
08 Trung Tướng Phan Trọng Chinh, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Quân Huấn.
09 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1. Người hùng của chiến trường Thành nội Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 và chiến trường Huế-Quảng Trị trong trận chiến Mùa Hè đỏ lửa 1972.
10 Trung Tướng Nguyẽn văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, Quân Khu 3.
11 Trung Tướng Nguyẽn văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
12 Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 1.
13 Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Khu 1.
14 Chuẩn Tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
15 Thiếu Tướng Nguyễn duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
16 Chuẩn Tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
17 Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù.
18 Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
19 Phó Ðề Ðốc (Trung Tướng) Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân.
20 Trung Tướng Trần văn Minh, Tư Lệnh Không Quân.
21 Thiếu Tướng Võ xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân.
22 Chuẩn Tướng Ðổ Kiến Nhiễu, Ðô Trưởng Sài Gòn.
23 Thiếu Tướng Nguyẽn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo Trung Ương, cùng các vị Tướng nắm giữ các ngành của lực lượng Cảnh Sát.
Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trong ngày mất nước :


01 Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ, cựu Tư Lệnh Không, cựu Phó Tổng Thống. Những ngày cuối cùng, ông tuyên bố là sẽ rút về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức tử thủ.
02 Trung Tướng Vĩnh Lộc, nhận chức Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà lúc 3 giờ chiều 29.04.1975.
03 Chuẩn Tướng Nhuyễn Hữu Tần, Tư Lệnh Sư Ðoàn 4 Không Quân, kiêm Tư Lệnh Không Quân từ ngày 29.04.1975.
04 Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận lúc 5 giờ chiếu 29.04.1975. Khi nhận chức ông nói rằng: Nếu không xong thì ông xuống Cần Thơ đem Liên Ðoàn 7 Công Binh Kiến Tạo lên Thất Sơn (tỉnh Châu Ðốc) tổ chức chiến đấu.

Những Vị Tướng đã bị kẹt lại va` da~ bi Cong San dua di cac trai Tap Trung, lao dong kho sai:
Những Vị bị Cộng Sản đày đọa trong các trại tù tập trung từ 12 năm đến 17 năm
01 Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 3 tại chiến trường Phan Rang, bị bắt khi thất thủ.
02 Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Ðoàn 6 Không Quân, bị bắt cùng Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi khi chiến trường Phan Rang thất thủ.
03 Chuẩn Tướng Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2.
04 Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3.
05 Chuẩn Tướng Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh.
06 Thiếu Tướng Lê minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh.
07 Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh.
08 Thiếu Tướng Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
09 Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, Tư Lệnh Phó Quân Khu 4.
10 Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân.
11 Chuẩn Tướng Phạm duy Chất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân Quân Khu 2, chỉ huy cuộc hành quân rút bỏ tỉnh Cao Nguyên hồi tháng 3.1975.
12 Ðại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
13 Ðại Tá Lê hữu Ðức, Quyền Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
14 Chuẩn Tướng Lê văn Thân, Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Ðộ. Nhận chức chiều 29.04.1975.
15 Chuẩn Tướng Lê trung Trực, Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng.
16 Ðại Tá Nguyễn xuân Hường, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh.
17 Ðại Tá Nguyễn đức Dung, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh.
18 Chuẩn Tướng Trần quang Khôi, Tư Lệnn Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh.
19 Ðại Tá Trần ngọc Trúc, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 4 Kỵ Binh.
20 Thiếu Tưóng Trần bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
21 Chuần Tướng Vũ văn Giai, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
22 Chuần Tướng Lê văn Tư, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
23 Thiếu Tướng Văn Thành Cao, Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
24 Thiếu Tướng Ðoàn văn Quảng, cựu Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
25 Trung Tá Bùi thế Dung, Thứ Trưởng Quốc Phòng trong thành phần chánh phủ chưa kịp trình diện.
26 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn May, Tư Lệnh Vùng 5 Duyên Hải.
27 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn bá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Nhiệm Thủy Bộ 211.
28 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn Tấn, Quyền Tư Lệnh Hải Quân vào những giờ cuối cùng.
29 Chuan Tướng Cảnh Sát Bùi văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
30 Cựu Thiếu Tướng Huỳnh văn Cao, Nghị Sĩ.
31 Chuần Tướng Hồ trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra Quân Ðoàn 3.
32 Ðại Tá Nguyễn khắc Tuân nhận chức Tham Mưu Trưởng Tổng Tham Mưu chiều 29.04.1975. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
33 Ðại Tá Lại Ðức Chuẩn, Trưởng Phòng Nhất Tổng Tham Mưu
34 Ðại Tá Phạm bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
35 Ðại Tá Ngô văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Ðô.
36 Ðại Tá Vũ Ðức Nghiêm.
Những Vị bị Cộng Sản đày đọa trong các trại tù tập trung, lao dong kho sai:


01 Cựu Trung Tướng Nguyễn hữu Có.
02 Cựu Ðề Ðốc Trần văn Chơn.
03 Cựu Thiếu Tướng Nguyễn chấn Á.
04 Cựu Thiếu Tướng Phan Ðình Thứ, Tự Lam Sơn.
05 Ðại tá Ðàm Trung Mộc cưụ Viện Trưởng Học Viện Cảnh Sát QG. Sau 30-4, ông bị giam tại Chí Hòa để rồi tháng 10/1976, ông bị đưa ra Trai Vinh~ Quang, Vĩnh Phú rồi về Hà Tây, và ông mất tại đó vào ngày 14/11/1982, thọ 65 tuổi.
Nhung Vi bi tu Cong San duoi 3 nam:


01 Thiếu Tướng Quân Y Vũ ngọc Hoàn, cựu Cục Trưởng Cục Quân Y.
02 Chuẩn Tướng Quân Phạm bá Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y.
03 Ðại Tá Nguyễn văn Lộc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 106 Biệt Ðộng Quân. Sư Ðoàn này thành lập vào những ngảy cuối tháng 4.1975 và bảo vệ vùng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Sài Gòn. Thời gian trong tù chưa đến một năm.
04 Ðại Tá Dương thanh Sơn, em ruột Tổng Thống Dương văn Minh.
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân
– Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh


Image
Trương Quang Ân (1932-1968) Dương Thị Kim Thanh (1931-1968)

Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952.
Thiếu úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt.
Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ)

Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội của Tiểu đoàn 7 Dù tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC – Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có danh hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường. Phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953) Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi.

Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam hợp vàng xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh…

Bộ tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận.
Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu.

Trung úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy.

Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954.

Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị.

Thành phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba.

Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26 tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia qui về một mối.

Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn… cũng không hề được lập lại thêm lần thứ hai.
Năm 1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu.

Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân độị Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính hôn cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn.

Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương.


Năm 1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng.



Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn.

Năm 1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn Nhất về trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7.


Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ.


Vào một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp:

- Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi!

Thiếu tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của người lính.


Hàng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của Thiếu tá Nguyễn văn Minh, người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5, 7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn.


Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng chiến đoàn:
- Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe!
- Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá!
- Đại úy Hợp vội vã trả lời.
- Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố?
- Thiếu tá Ân hỏi gấp.
- Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau!
- Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc!

Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu.


- Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! – Người tài xế ái ngại nhắc nhở.
- Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải thích với người tài xế, không quên hỏi thêm:
- Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa?
Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời:
- Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi!

Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc.


Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến naỵ Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ.

Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng:
- Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã!
Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu:
- Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu!
Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười:
- Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn lắm!
Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại.

Nhưng nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định.

Vào một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định:
- Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định hành chánh cho phép, nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được!

Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần:
- Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai.

Kết quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương Quang Ân rời tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ đô vào thời điểm 1966-1967):
- Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn!

Nếu Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh)… để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở.
***
Phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh. Phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách.
- Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?!


Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán.
Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ “Ân” đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng:
- Vào hàng! Vào hàng! Phắc!

Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát:
- Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích:
- Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh!

Ông lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định.


Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù.

Ngay sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà thị xã Ban Mê Thuột với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại đội địa phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã.

Sở Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ quan và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng.

Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã.

Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân khố, Sở Hành chánh tài chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại.

Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống.

Nhưng mỉa mai thay, có một “lạnh nhạt cố ý” rất đáng chê trách: suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột “hình như” được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968″, danh tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại.

Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện. Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh Chiến Sĩ – Tướng Quân.

Một ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3 ra bãi đáp trực thăng cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập.


Theo thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ.

Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan:
- Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chữa.

Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước đi ngập ngừng. “Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!”
Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắc son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc.


Người dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng, con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng:
- Chết rồi! Chết rồi trời ơi! – Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!!
Image
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ
đến chia buồn cùng tang quyến tại tư gia cố Chuẩn Tướng Trương Quang Ân, số 58 cư
xá Lê Đại Hành, Phú Thọ, Sài gòn vào thứ tư ngày 11 tháng 9 năm 1968.



Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời.


Tướng quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu trời Tổ Quốc.

Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc áo dài nội hóa của phu nhân.

Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam: Thiếu Sinh Quân – Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân.
Image
Hài cốt tướng Trương Quang Ân và Phu Nhân


31-07-2010
Phan Nhật Nam
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Thập Bát La Hán

Bao Bất Đồng

Đêm qua, Bao Bất Đồng sờ lên đầu bỗng thấy đầu rối beng, sờ vào tim bỗng thấy tim đau nhói, sờ xuống bụng chợt thấy bụng ngậm ngùi. Sợ bị tẩu hỏa nhập ma, nên một mình một đao, nên một thân một ngựa đến gõ cửa nhà một hán tử đầu bạc. Gọi là đầu bạc, bởi xuân xanh chưa xấp xỉ lục tuần mà tóc đã trắng phau như sợi tuyết, mà râu đã lê thê tới quá cằm. Lại cao nhòng như cây tre, lại gầy guộc như cây mía. Nhưng đôi mắt thì thần quang lấp lánh, nhưng thanh âm thời sang sảng như chuông đồng.

Xưa, là tay bút tài tử của phóng sự chiến trường. Trước, là tay viết sử trong Bộ Tổng Tham Mưụ Sau mười mấy năm tù ngục, người vừa mới đến Úc theo diện đoàn tụ gia đình. Sau ba tuần rượu, Hán tử luận :

- Trong cuộc chiến tranh giữ nước vừa qua, anh hùng không chỉ có ngũ đại tướng quân Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vĩ, Phạm Văn Phú và Lê Văn Hưng. Mà còn hàng vạn những chiến binh vô danh đứng rợp trời dọc theo suốt chiều dài của Quân Lực.
Tỷ như cái chết cực kỳ anh dũng của...18 ông La Hán.

- Thập bát La Hán ?

- Phải. Đó là 18 dũng sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Khi tướng Dương Văn Minh đọc bản văn đầu hàng thì họ đang múa súng tại rừng Tân Uyên. Khi xe tăng VC húc đổ cánh cửa dinh Độc Lập thì họ đang đánh vỡ mặt bọn du kích ở mật khu Biên Hòa.

- Hách thật !

- Sáng ngày mùng 2 tháng 5, họ rút tới bờ sông Đồng Nai, định bơi qua phía bên kia để chơi một cú chót thì bị bao vây, bị bắt. Trước khí phách ngất trời của những người lính Biệt Cách, trước thần oai lẫm liệt của những ông La Hán thời đại, kẻ địch vừa sợ toát mồ hôi, vừa phát hoảng dựng tóc gáy. Nên chúng đem xử bắn hết rồi ném xác xuống sông !
- Thảm lắm thay ! Thảm lắm thay !

- Đồng bào quanh vùng, phần vì cảm thương cho các chiến sĩ đã vị quốc vong thân, phần vì ngưỡng phục phong thái bất khuất của những đại anh hùng, nên đã vớt xác anh em và chôn dọc theo bờ sông.

Hỡi ơi, khi sống thì đứng trên đầu sóng ngọn gió, lúc chết thì chẳng có được một mảnh gỗ đề tên.

Tựa như những câu thơ...

"Lính Biệt Cách Dù không trích nghĩa trang
Yêu cô đơn nên mến lá thu vàng
Ghét nghi lễ nên âm thầm nằm xuống...

hoặc :

"Một mai anh chết trong rừng thẳm
Muôn lá vàng rơi niệm xác thân".

Bao mỗ thở dài :

- Họ thuộc Biệt đội nào ?

Hán tử trợn mắt :

- Mày cũng biết Biệt-Cách Dù à ?

- Bẩm, xưa tại hạ với Liên Đoàn 81 cũng có một chút duyên.

Hán tử nghẹn ngào :

- Theo bản tin Biệt Cách Dù từ Hoa Kỳ, họ thuộc về ba toán thám sát. Thứ nhất là Biệt đội 1 của Trung-úy Trần Bá Long, thứ nhì là Biệt đội 2 của Trung-úy La Cao, thứ ba là Biệt đội 4 của Trung-úy Nguyễn Văn Quý.

Hán tử chép miệng :

- Cựu Đại-tá Phan Văn Huấn, đương kim gia đình trưởng Biệt-Cách Dù đã liên lạc với các chiến hữu ở Việt Nam để bằng đủ mọi cách phải tìm cho ra các nấm mồ của 18 đại dũng sĩ này. Tin giờ chót cho biết rằng đã tìm được một hố chôn tập thể tám người, rằng đã truy cứu được tên tuổi, rằng đã thông báo với thân nhân và đang chuẩn bị tìm nơi an táng.

- Cảm động quá ! Cảm động quá !

- Than ôi, vật đổi sao dời, thấm thoát mà cũng đã hơn hai mươi năm. Trong suốt chiều dài của cuộc chiến tranh đã có hàng vạn chiến sĩ ta đã hy sinh cho tổ quốc, trong đó có hàng ngàn tử sĩ mà xác thân còn gửi đâu đó ở hốc núi, xó rừng, bên lau sậy, ven suối. Không có được một tấm bia đá, không có được một nén hương thơm. Hỏi sao mà hồn phách được siêu thoát, hỏi sao mà nấm xương khô được nguyên vẹn.

Tựa như lời ai điếu :

"Anh hùng hữu hận diệp diệp tiêu"

Nghĩa là

"Người anh hùng mang nỗi uất hận, trong khi bao lá cây xào xạc rụng xuống".

Thôi thì, xin được chắp tay cúi đầu trước Anh Linh của Thập Bát La Hán.

Bao Bất Đồng
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests