Thủ Đức Gọi Ta Về

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Góc Chiến Trường Xưa:
KHI RỜI THỦ ÐỨC
Bài học cuối cùng cho một người sắp sửa xuống núi. Ðạn mã tử bắn rát trên đầu, hai đầu cùi chỏ trầy trụa. Hàng rào dây kẽm chằng chịt như màng nhện giăng ngang dọc. Trườn. Chỉ trườn. Trườn và lết. Nắng lớn. Mặt trời chói chang, nhức mắt. Ðạn đại liên tiếp tục quạt. Ráng đi con. Nay mai con sẽ rời chốn này, sẽ chạm vào thực tế khác. Dữ dội hơn, khủng khiếp hơn, tàn bạo hơn.

Ðoạn đường chiến binh. Có bao nhiêu đoạn đường để đôi giày ta thêm một lần vẹt đế. Và ta phải tiếp tục thêm bao nhiêu đoạn đường nữa, cho xong. Mới đó mà như thể một chuyện không tin. Thằng trẻ tuổi hôm nào, tóc dài quá ót, mang trong lòng những tra vấn, những phẫn nộ, những thao thức, nôn mửa hiện sinh, bây giờ hắn sợ phẫn nộ, sợ thao thức, hay tra vấn bâng khuâng. Hắn sợ tự do. Ôi, tự do tuyệt vời. Tự do Alexis Zorba. Mái tóc tuyệt vời. Ðôi dép Nhật tuyệt vời. Bây giờ chúng trở thành những món quà đầy bất trắc. Cán bộ chửi mày là con bò, mày cũng vẫn câm, không được cãi lại. Ðàn anh phạt mày hít đất, nhảy xổm, chạy máy vòng quanh Vũ Ðình Trường mày cũng phải tuân hành. Mày không có quyền phẫn nộ khi con cá mối cứ ăn hoài, hay bữa cơm khi thì khê khi thì sống. Mày không có quyền thao thức trước một xã hội ngày một tan rã... Người ta dạy mày phải cúi đầu tuân lệnh. Ðó là bài học huấn nhục. Ðoạn đường chiến binh đầu tiên mà mày bắt đầu thử thách.

Huấn nhục. Thương vô cùng cái quyền của ta. Cái tôi yêu, yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, hay nếu ai bẻ ngòi bút của tôi, tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá... Cái tôi bây giờ chỉ là một thân xác vô hồn, một con người máy không hơn không kém... Cái tôi của ta đã mất, đã chạy, đã sợ trốn đi rồi. Ðừng xem ta là kỹ sư, bác sĩ hay là tú tài II thi hỏng, đau lòng ta muốn khóc nữa... Ðừng luyến tiếc chiếc áo sơ mi và chiếc quần tây nhẹ tênh nữa. Ðừng rưng rưng nhìn đầu tóc chất ngất thanh xuân và mơ ước tiếp tục rơi rụng trên nền nữa. Mới ngày đầu tiên, mà đã bị choáng ngợp bởi một đổi đời kỳ cục, lạ lùng. Quân đội là thế ư? Hàng ngũ là thế ư? Những doanh trại tiền chế, dãy nhà đại đội, những khu giảng dạy, những khu thăm nuôi, thiết giáp, hội quán, những cổng số 1, số 9... ngay cả những người chung quanh mình, từ cán bộ đến sinh viên khóa đàn anh, hay đến những chú lính học trò bỡ ngỡ... Tất cả xa lạ. Tất cả bỡ ngỡ. Tất cả như đè nặng bao quanh đến ngạt thở khiến mình không thể cục cựa, không thể tách rời ra khỏi đám đông, không thể nhìn lên bầu trời để đếm những vì sao mà thầm thì được bao nhiêu thì anh yêu em bấy nhiêu. Những bộ quần áo trận, nhận đôi giày bố đen, đôi giày da, chiếc nón sắt, súng trường. Nhận căn phần chiến tranh cho một bản án mà tuổi trẻ không hề gây nên mà phải gánh chịu. Nhận lấy như nhận một gia tài của Việt Nam, của những xâu xé tranh giành, những hận thù ngút ngàn, không ngưng nghỉ. Nhận lấy mang về phòng trại, mang vào soi gương. Rộng thùng thình. Gia tài của mẹ để lại cho con. Nhưng còn gia tài của con. Gia tài của tuổi trẻ sinh ra và lớn lên trong chiến tranh thì sao. Mẹ để lại cho con những gì? Cha anh để lại cho con em những gì? Hay chỉ là cái gia tài nhét trong chiếc sac marin và khẩu súng trường M1 bắn bằng đạn mã tử. Thôi, bỏ qua đi, hỡi thằng trẻ tuổi Việt Nam sinh lầm thế kỷ, mà guồng máy luôn luôn ca ngợi tận mây xanh, người trai thời loạn, bổn phận thiêng liêng, trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử, anh hùng hào kiệt, chí trai tang bồng hồ thỉ. Chẳng hiểu những tay ấy có dám chứng tỏ những điều họ nói bằng hành động hay không...

Như vậy, ta đã bắt đầu, thưa bạn bè, bằng hữu, thưa học trò của ta, thưa mẹ, thưa em, thưa đất nước. Không có gì đáng lo, đáng nghĩ ngợi. Ai cũng như ai. Chỉ việc học tuân lệnh. Thế thôi. Tay phải đã bắt đầu làm quen những lần chào tay bỡ ngỡ. Mắt phải nhìn thẳng, mặt phải ngẩng, và ngước lên, hiên ngang hào kiệt nam nhi. Trên ngọn đồi Tân Nhơn Phú ít thấy bóng cây, bóng lá, chỉ có chăng là ánh mặt trời chói lọi, làm cát sỏi, như hừng hực làm mái tôn doanh trại như thiêu đốt, làm bốn bề tám hướng như thể một lò luyện thép. Trong lò ấy, những con người đang trở thành những con người máy, những bộ phận tội tình, bị xào nắn, lột xác, lột vỏ, lột cả tâm tình. Mới vào mà đã thấy những chàng đàn anh một hai ba bốn một hai ba bốn... vừa nhịp nhàng bước vừa hát “đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn”... Ai mang ta đến chốn này. Ta không bao giờ mơ tưởng đến một ngày trở thành một vị danh tướng lẫy lừng, cũng chẳng xem nghề võ biền là nghề nghiệp. Ấy vậy, bạn và ta, phải lặn ngụp cùng cõi võ. Thấy thương bạn vô cùng. Một giáo sư từ giã mái trường, học sinh, viên phấn bảng xanh. Một kỹ sư bỏ lại những dự án, những kế hoạch. Một Tiến sĩ bỏ lại đứa con mới sanh. Một người tình bỏ lại em đôi mắt bồ câu buồn đưa anh ra bến sông, thui thủi trở về tập thành chinh phụ.

Tiếng gọi nào kỳ bí bắt người trong cuộc phải cố gắng vươn lên, vượt qua những gian truân nhọc nhằn trong lò tôi luyện. Ôi tiếng gọi không hề nghe, chẳng hề nhận, sao lại bão bùng. Tiếng gọi thúc hối con tim, luân lưu và hâm lại dòng máu. Tuổi trẻ chấp nhận, như bạn đã chấp nhận. Ít ra, mình cảm thấy không là kẻ hèn. Có phải vậy không.

Phải. Vì không muốn mình hèn nên mới trình diện quân vụ thị trấn, mới chấp nhận cuộc chơi buồn bã trên một quê hương buồn bã tang thương.

Như vậy ta đã nhập cuộc rồi, hỡi những kẻ áo thụng tháp ngà miệng môi dạy thanh niên là rường cột nước nhà, chí trai hào kiệt. Con ngựa đã bị thúc thủ bỏ lại thảo nguyên xanh và vó câu tung bụi lốc. Thủ Ðức. Ta đang có mặt. Bộ quần áo đã được mang đi sửa lại. Chiếc quần đùi trắng, có lỗ hổng kỳ dị cũng phải làm quen. Này là đôi giày bố, giày da, giày đi phép... Này là sợi dây nịt, chiếc mũ nồi. Này là cà mèn hay bi đông nước. Và thẻ bài. Và một chỗ của ta giữa tập thể người máy. Trung đội. Ðại đội. Tiểu đoàn. Thân ta như nàng Kiều mười hai bến nước. Thủ Ðức là một trong mười hai bến. Cái bến được phong tỏa bởi những hàng rào dây kẽm gai, những đôi mắt diều hâu của cán bộ xoi mói, những luật lệ nghiêm ngặt bao vây. Như vậy, Thủ Ðức đâu có đáng gì để mà nhớ. Ngọn đồi trọc với những dãy nhà mái lợp ngói đỏ, với Vũ Ðình Trường, với Trung Nghĩa Ðài, với hội quán sinh viên sĩ quan, với khu nhà ăn gần cổng số 9, với khu gia binh, thiết giáp, và xa hơn là những bãi bắn, đồi mẹ bồng con, xa hơn nữa là giòng sông, là lũng thấp... Nơi đó đâu có phong cảnh tuyệt vời, mỹ lệ. Ðâu có hàng thông reo vi vu hay hoa tươi thắm nở. Chỉ có chăng là mồ hôi gian khổ, những con cá mối quanh năm, những giấc ngủ mê mệt chập chờn, những tiếng mớ thảng thốt, cùng với âm thanh của muôn vàn tiếng nổ của đạn mã tử vang rền trên bãi bắn bốc khói. Nó chỉ là cái lò để hấp luyện da thịt trở nên chai sạn hơn, bỏ quên cái tôi của mình ở đàng sau. Nó chỉ là chiếc nón sắt nặng trĩu đè nặng trên đầu hay khẩu súng trường M1 đè nặng trên vai. Lúc này mới hiểu thế nào là giấc ngủ quý như vàng. Nó chỉ là những trận phạt dã chiến, hay những tiếng còi ré lên giữa đêm hôm khuya khoắt. Nó là một cửa ải bắt đầu cho một bản án định mệnh. Dù phản chiến hay không phản chiến, cũng vậy. Lò luyện chẳng từ một ai.

Có gì để mà nhớ, ở đó. Không, nhớ lắm chứ. Bởi ở đó cát sỏi đã thấm cùng mồ hôi của ta. Bởi nó thấy ta đổi lốt, đổi cách sống, cách nhìn. Bởi nó cho ta sức mạnh, ít ra. Bởi nó dạy ta tự tin, và tự thắng. Bởi ở đó dậy ta thế nào là một cuộc lên đường. Dậy ta thế nào là người lính.

Phải. Người lính là phải thử thách, là phải lao về phía trước, là ngẩng đầu, vươn cao, không sợ, không lo, không bịn rịn. Người lính là người đi san bằng bất công, bạo lực. Người lính là người chỉ được sử dụng khi đất nước cần, chứ không phải trở thành công cụ cho ông tướng, ông tá, ông lãnh tụ... Người lính Thủ Ðức mà ta biết, anh cũng có vợ trẻ con thơ, cũng có bằng cấp kỹ sư hóa học, mắt mang kính cận thị, thế mà ra trường anh tình nguyện đi Cọp Ba Ðầu Rằn và sau đó tử trận... Người lính Thủ Ðức dù chưa ra trường mà cũng sắm sẵn áo rằn ri, mũ nâu, mũ đỏ, mũ xanh... Cả lò tôi luyện nay trở thành một núi hỏa diệm, phun lên những nhiệt tình đỏ thắm...

Phải. Cám ơn Thủ Ðức ít ra cho ta được lon chuẩn úy để ta biết thế nào là một cấp bậc tang thương nhất của hàng ngũ. Xin các ngài đừng buộc tội tôi không có chí trai nếu các ngài chưa bao giờ biết cảnh 5 người chuẩn úy trình diện thì 4 người đã tử trận, và một người còn lại bị thương tật. Tang thương lắm các ngài ạ. Chức vụ của chuẩn úy bộ binh còn nguy hiểm và nặng nề hơn người lính binh nhất binh nhì nữa. Thử hỏi ai cầm địa bàn để hướng dẫn trung đội đi cho đúng phương giác? Trong trường hợp này chàng chuẩn úy phải đi sau người tiền sát viên. Và nếu người tiền sát viên mở đường sợ quá đến nỗi đái trong quần thí ai là kẻ làm gương, và là kẻ nghe đại đội trưởng chửi trong máy? Còn biết bao nhiêu chuyện khác nữa, mà người lính Thủ Ðức phải chịu đựng, phải thử thách, phải trả với cái giá rất đắt để bây giờ các anh sống mãi trong con tim của chúng tôi trong những buổi dạ vũ có áo hở ngực, vai trần trắng nuột, mắt lim dim trong tiếng nhạc lời ca dìu dặt như một miền Nam trước năm 1975.

(Trích trong “Thủ Ðức ta về, Thủ Ðức ta đi”)

Trần Hoài Thư
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Image

GÓI QUÀ ĐẦU NĂM

Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật ngồi dươi gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền não.

Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im ắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.

Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút nữa, vì thầy trụ trì đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.




Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học trò của trường huyện An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên QL 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê tương đồi bình yên, nhờ Sư Đòan 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của mình.

Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hơp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới, thay thế lực lượng đồng minh, đồn trú ở đây.

- Tôi nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.

Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì "sao y bản chánh" từ một bài luận văn tháng trước, nên hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ sẽ có hai "người tình không chân dung" nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô "em gái hậu phương". Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám học trò chúng tôi được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê, bị địch quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.


- Nam Mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đã chờ tôi lâu lắm phải không ?

Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.

- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có muốn đi một vòng xem cảnh chùa không ? Xin mời bà.

Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.

- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.

- Mô Phật ! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.

Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.

Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm :

- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà


Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, vì dạy một trường trong khu người Thượng, nên bị nghi ngờ hợp tác với lực lượng Fulro chống lại chính quyền, bị bắt năm 1979 ), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.

Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này tìm đường để vượt biển tiếp.Và lần này anh đã đươc tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện đoàn tụ gia đình.


- Mô Phật! Tôi nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.

Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.

- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.

- Mô Phật ! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.

Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng :

- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám .

Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng :

- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin bà cứ tự nhiên

- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế ?

Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không, nhíu mày.

- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi ?

- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư Đoàn 23 BB, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972 ?

- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở Kontum từ mùa hè 72 . Bà có biết không?

Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẳn sàng tâm sự đã là một điều hỉ xả rồi.

- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ anh đã chuyển đi đâu .

Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.

- Vậy là Xuân ? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này.


Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.

Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát, thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.

Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười :

- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới .

Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn :

- Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn ? Mà sao hai anh biết được tên em ?

Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đã "sao y bản chánh" bỏ trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng :

- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì Phương Hồng Quế . Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn nghe!

Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:

- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà ?

Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng :

- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!

Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo dạn hay không tôi khoanh tay:

- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.

Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.

Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn :

- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe .

Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười :

- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không ?

Cả lớp vỗ tay .

Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê- rê :

- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân rồi . Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ý.

Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi :

- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn để dành cho đứa khác nữa chứ!

Đúng là nhất quỉ nhì ba, còn thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục :

- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn .

Tôi cũng phục tài ăn nói khá "tâm lý chiến" của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng trong đầu.

Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.

Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với tất cả cảm xúc, làm dao động trái tim mọi người. Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis…

Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.

Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người lính chiến.




- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.

- Mô Phật ! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.

- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.

- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là "cư trần lạc đạo" mà thôi, thưa bà.

- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?

- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.

- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đã có căn duyên từ trước, phải không thầy ?

- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành Phật được, thưa bà .


Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để thi tú tài vào mùa hè này. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.

Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyên cho anh được bình yên trở về.

Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát..

Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích..Một số người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong các trường học, được chính quyền dùng làm trại tiếp cư

Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc đầu, không nói.

Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế rượt bắt gà trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm dịch mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.

Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa..Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua bên kia cầu .


Xuân ơi,

Anh đang ở phi trường Pleiku để chuận bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố này đang bị cô lập bởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quôc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia tay ở nhà em , anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em..

Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.

Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.

Hôn em

Đỗ Lân

Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi công gởi cho tôi từ Pleiku , sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo, anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong gói quà tết hôm nào.


- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống NhaTrang tìm thăm thầy, thì thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không biết thầy ở đâu.

- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuồi.

- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu .

- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.

Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ tay về hướng sau chùa :

- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều kỳ diệu.

Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyêt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi thầy.

Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy dòng chữ trên mô bia :
Image
Giuse Đỗ Lân
Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế
Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum
Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế tục.

Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ : Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích.Từ nay, xin bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của bà. Nam Mô A Di Đà Phật.


phạmtínanninh


(Tác giả viết lại phỏng theo lời kể của một nữ độc giả. Độc giả này sau khi đọc bài Trên Chiến Trường Xưa (Kontum) của tác giả, được phổ biến trên nhiều số báo nhân ngày 30.4.2008 đã tìm cách liên lạc với tác giả để tìm hiểu vế cái chết của người tình cũ. Anh đã tử thương trong trận tái chiếm Bệnh Viện 2 Dã Chiến, Kontum ngày 11.5.1972)
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Post by tranphuongdong »

Giấc mộng kinh hoàng

(Thân tặng các bạn trẻ hải ngoại, các chiến hữu, bạn bè đã từng sống, làm việc và ở đi tù cải tạo với tôi.)

Phan Ðức Minh
Ba hồi kẻng báo thức vang lên, tôi bật đầu dậy như cái máy đã hoạt động như thế lâu ngày. Suốt cuộc đời ba chìm bẩy nổi, chín cái lênh đênh, từ lúc lúc 14, 15 tuổi bỏ trường học đi kháng chiến, đánh Tây, chui hầm, rúc hố, 2 lần bị Tây bắt nhốt đầu vào tù, rồi 23 năm lính, hơn 12 năm tù cải tạo, phiêu bạt giang hồ qua bao nhiêu trại toàn là rừng với núi âm u, hiểm hóc, giáp biên giới Lào, bao phen chết lên chết xuống, cho tới lúc này, tôi vẫn không ghét cái gì bằng ghét những tiếng kẻng báo thức ác ôn, khốn nạn đó. Nó lại bắt đầu một ngày lao động kinh khủng trong cái đói khát, khổ sở, nhục nhằn đến tận cùng của cuộc đời.

Tất cả chung quanh đều tối om. Ngọn đèn dầu là chiếc lọ đựng thuốc, đốt bằng dầu cặn, lớn cỡ quả trứng gà, thường treo ở góc tường phía trước cầu tiêu cuối phòng đã tắt ngủm từ lúc nào vì số lượng dầu cặn nhà bếp phát, không đủ cho 1 đêm thắp sáng. Có tiếng la chí chóe, chửi thề tùm lum vì thằng nọ đái vào thằng kia. Tên ngồi trên bàn cầu tiêu chưa kịp lên tiếng thì đã bị thằng đứng phía dưới, kẹt quá vội vã... đi một đường vòng cầu, tưới ướt sũng từ cổ trở xuống. May mà vì ngồi trên cao cho nên mắt mũi, mồm miệng chưa phải lãnh cái thứ nước ghê gớm đó của tù cải tạo, tích tụ cả đêm, nay được dịp xả ra. Cảnh náo loạn này thường xuyên xẩy ra vì tay nào cũng khôn ngoan, kinh nghiệm đầy mình, cứ thức dậy sớm hơn người khác một tí là phải lò mò, rón rén trong cái tối đen như mực Tầu, lần vào cái cầu tiêu duy nhất ở cuối phòng, lo “giải quyết bầu tâm sự” cái đã. Nếu không, khi kẻng báo thức vang lên là gần một trăm tên tù cải tạo của nhà 10, cái nhà nhốt những tên được coi là ác ôn côn đồ thượng hạng: cấp chức cao, có thành tích chống phá cách mạng hung hãn nhất, nhiều phen bị nhốt chuồng cọp và sẽ đổ xô vào cái nhà cầu chỉ có 2 bàn cầu dành cho việc “đại sự” còn “tiểu sự” thì cứ việc thoải mái tưới xuống cái rãnh trước bồn nước, do tên tù trực phòng gánh nước giếng đổ vô đó từ chiều hôm trước. Ðèn điện bật sáng 10 phút cho tù dọn dẹp đủ thứ trên đời trên cái “lãnh thổ” dành cho mỗi tên: chiều dài 2 mét theo bệ xi măng, chiều ngang đo đúng 3 gang tay của tôi. Khi ngủ mà nằm ngửa là đụng hay đè lên nhau cho nên ban đêm khi ngủ chỉ có cách nằm nghiêng mà thôi.

Bệ xi-măng làm giường ngủ là ở trình độ cao cấp nhất, do công an “phát minh” ra. Những năm đầu, quân đội nhân dân quản lý tù, người ta cho tù ngủ trên những cái sạp đan bằng nứa, tre rừng, cây nhỏ. Sài kiểu này, đập cho chết dân tù nhà ta vẫn tìm cách giấu giếm, gùi nhét đâu đó vài ba mẫu giấy linh tinh, mấy thứ đồ “quốc cấm, nguy hiểm, bí mật.” Công an sài bệ xi- măng thì tù chỉ còn nước khóc mà thôi, nhét cái gì xuống bệ xi- măng được nữa?

Có tiếng chìa khóa mở cửa sắt, rồi tiếng kéo cây sắt chặn ngang bên ngoài kêu rầm rầm. Tên tù trong ban trật tự trại (gốc con ông, cháu cha nón cối, hay có dây mơ rễ má với cán bộ của trại) quát to “Nhà 10 ra tập họp điểm danh, mau lên!” Những con người vọt ra khỏi cửa, đứng sau hàng rào kẽm gai, vặn mình, vặn mẩy, vung tay, vung chân cho khỏi mỏi sau một đêm ngủ theo cái kiểu co quắp, úp thìa (xếp muỗng). Vùng núi ban đêm lạnh nhiều hơn nóng. Mùa Ðông thì thôi, lạnh khỏi nói, lạnh muốn chết luôn.

Ba hồi còi rít lên, tất cả dân tù ngồi chồm hổm xuống đất, 10 tên 1 hàng cho cán bộ trực trại điểm danh, ghi sổ. Xong màn điểm danh, một số chạy vô trong nhà lo dọn dẹp, chuẩn bị lãnh khoai sắn, đồ đem theo đi lao động. Riêng tôi, cái bao cát có quai đeo, nắp đậy, cài nút áo, do vợ con đem cho khi “thăm nuôi” đã sống chết theo sát bên tôi bao nhiêu năm rồi, không nhớ nữa. Công an mà nghe nói “thăm nuôi” là có chầu bị hỏi thăm sức khỏe vì Ðảng và Nhà Nước có để cho ai đói đâu mà phải “nuôi,” phải nói là “đi thăm” mới đúng chính sách. Trong túi là phần khoai sắn ăn trưa nhét trong cái lon gô đen sì, nham nhở vì đã qua nhiều phen “trận mạc, khói lửa,” là cái lon đựng sữa bột Guigoz cho con nít trước 1975 được bọn tù chúng tôi dùng làm nồi niêu, xoong chảo, nấu nướng đủ thứ trên đời, bất cứ thứ gì kiếm được, khi công an đóng chốt ở xa, thả tù vào núi, vô rừng lao động. Ngoài ra còn có bi đông nước, lãnh theo tiêu chuẩn nhà bếp, uống cho một ngày, một cái bao ni lông để nếu hoàn cảnh cho phép thì “cải thiện” tức là kiếm chác tí rau hoang, cà dại, con cóc, con nhái bỏ vô, đến trưa nghỉ giải lao, tìm cách xoay xở biến thành thức ăn bồi dưỡng, không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc. Con gì cũng ăn hết, trừ có con dao và con bù-loong là chịu chết, chưa bao giờ dám ăn thử. Một số anh em vọt ra phía cầu tiêu công cộng của trại, có khi để “giải quyết bầu tâm sự” mà cũng có khi là để liên lạc, trao đổi dấm dúi cái này cái nọ với bạn bè ở nhà khác hay với đám tù hình sự. Phải đóng tuồng cho khéo, kẻo công an hay đám ăng-ten (bọn tù được công an tuyển chọn, cho hưởng đặc ân: lon gạo, miếng thịt, miếng cá mỗi tháng, giao nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về mọi hành động lén lút, vi phạm nội quy) biết được thì cuộc đời khốn khổ, khốn nạn ngay. Tôi chê ghét cộng sản từ A đến Z, nhưng tôi phải phục chúng nó ở cái chỗ biến được một số ít sĩ quan đi tù cải tạo trở thành cái thứ “ăng ten” ghê tởm như thế đấy!

Một hồi kẻng dài điểm thêm 3 tiếng đằng sau là chúng tôi ào ra phía cổng trại, ngồi chồm hổm trên cái sân đất rộng, xếp hàng điểm số, đi lao động. Tên công an trực trại, ngồi trong “lô cốt” dò sổ rồi kêu: “Nhà 10!” Chúng tôi đứng bật dậy, đi ra cổng, thứ tự hàng 1 theo sự điều khiển của tên tù Ðội Trưởng hay Ðội Phó (được công an tuyển chọn theo tiêu chuẩn của chúng), đếm số rồi bước ra khỏi cổng. Mấy tên trực dụng cụ chạy vào kho nhận và vác đi theo mấy bó rựa (dao đi làm rừng) vì hôm nay, nhà 10 chúng tôi có nhiệm vụ đi lấy mây, tiêu chuẩn tối thiểu 70 cây, dài 2 mét. Nghe qua thì coi bộ ngon ăn, nhưng tìm cho ra chỗ rừng nào có mây hay còn mây, sau cả chục năm trời dân tù nhà ta càn lui quét tới, rồi vác bó mây như thế từ đỉnh núi nào đó xuống chân núi, tới địa điểm tập họp đúng giờ, theo công an dẫn về trại, có khi cách xa cả chục cây số thì không phải chuyện dễ, dù rằng chúng tôi đã có kinh nghiệm cả chục năm lên rừng xuống núi theo sư phụ nón cối học võ “Lao động là vinh quang”. Dao rừng phải cột lại thành từng bó, tới địa điểm do công an quyết định mới được tháo ra, phát dao cho từng người. Phát trước, sợ tù dùng làm vũ khí xơi tái bọn công an áp giải. Trại của chúng tôi đã có một vụ âm mưu nổi loạn, cướp súng, giết công an, đốt trại rồi kéo nhau qua biên giới Lào, ngay sau vụ Trung Quốc kéo quân sang đánh phá 6 Tỉnh Miền Bắc hồi đầu năm 1979, dậy cho Hà Nội “Một bài học” vì đã dám theo Sư Phụ Liên Xô, đem quân sang Căm-Bốt oánh cho bọn cầm quyền Khờ-Me đỏ, con đẻ của Trung Quốc, rách như cái mền, chạy tá hỏa tam tinh lên rừng lên núi. Âm mưu nổi loạn này sắp hoàn thành thì bị bại lộ, cộng sản đã lập Tòa án nhân dân ngay tại trại, xử tử hình Sĩ Quan cầm đầu, còn lại thì lãnh án từ 15 năm tù tù trở lên cho đến chung thân khổ sai. Trung Úy Nguyễn Văn Sĩ, Biệt Ðộng Quân, Trưởng Ban tuyên truyền, chắc nó thương tôi, chớ không phải nó quên. Vì quên làm sao được khi có tin tức chi, công việc ra sao, nó cũng chớp nhoáng cho tôi hay để lo liệu công việc, ở ngay góc đống rác cạnh hàng rào kẽm gai ngăn nhà 10 của tôi với nhà 11 của nó, khi chập choạng tối, sau khi điểm danh và trước khi tù phải vào phòng để khóa cửa sắt. Nó còn có dịp giới thiệu tôi với sĩ quan thủ lãnh âm mưu nổi loạn này nữa chớ! Ít lâu sau nó được thả ra, về Sài Gòn rồi cưới vợ, cưới cô con gái thương yêu nó hết mình. Chưa cưới hỏi chi cả mà cứ 6 tháng 1 lần, cô từ Sài Gòn ra Trung, lên núi thăm nó đàng hoàng. Mối tình sao mà cao đẹp đến thế! Vậy mà khi điều tra ra, nó bị công an Sài Gòn bắt lại, đưa về trại cũ, đánh đập, tra khảo tàn nhẫn. Nó phải khai ra vô số những người đã liên lạc với nó, nhưng nó lại không khai tôi vào số đó. Tôi chỉ biết thầm cảm ơn và cầu xin Trời Ðất phù hộ cho nó mà thôi vì sau đó, nó bị tống vô xà-lim, ngục tối, tôi chẳng bao giờ gặp nó nữa, trừ 1 lần cuối cùng nó bị điệu ra trước Tòa án nhân dân lập ngay trong trại, xét xử theo “Luật Rừng” cho 5, 6 trăm tù thứ dữ coi cho sợ. Ði tù cải tạo thì bao giờ mà chẳng lao động khổ sai, cho nên có thêm 2 tiếng khổ sai vào bản án “chung thân khổ sai” của nó, coi bộ hơi dư thừa, phí phạm.

Mỗi khi lên rừng lấy mây, tôi thường đi cặp đôi với thằng bạn thân, Ðại Úy H. trước làm ở Tiểu Khu Quảng Nam. Nó ít tuổi hơn tôi, cấp chức cũ cũng nhỏ hơn nên nó luôn gọi tôi là Bác. Còn tôi cứ gọi hắn bằng tên cúng cơm cho thân mật. Thằng bạn này thuộc loại “Số đỏ” bởi vì có 2 vợ mà khi đi tù, cả 2 bà vợ đều nhất trí cao coi nhau: vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Hai Bà vẫn một lòng chia sẻ với nhau anh chồng chung như thuở nào, thay phiên nhau đi thăm nuôi đàng hoàng. Thật đáng khen, đáng phục hai bà này, không như nhiều tay khác, khi mũ mãng cân đai thì vợ cả, vợ hai, vợ ba nữa chưa biết chừng, nhưng khi đi tù cải tạo thì vợ hai, vợ ba lễ phép trả lại ông chồng cho bà vợ cả mà mình đã trót dại cầm nhầm, sài ẩu khi ổng còn lên xe xuống ngựa. Bà vợ cả thì hận thù chất ngất như dẫy Trường Sơn đối với anh chồng ham của mới mà phụ lòng của cũ, thành ra anh chồng “đa vợ” này cuối cùng trở thành mồ côi, chẳng có vợ nào đi thăm nuôi cả. Lâu ngày, đói quá, còm cõi, lao động hết xí quách cho nên ra chân đồi, chân núi mà ngủ, làm bạn, làm đồng chí, đồng chóe với dế, với giun hồi nào không hay. Các cụ nhà ta vẫn bảo “Tham thì thâm - Bắt cá hai ba tay thì rốt cuộc chẳng được con nào hết trơn.” Mấy ông bà già trầu của Mỹ cũng phán “All covet, all lose - Grasp all, lose all” chớ bộ không đâu!

Hai đứa chúng tôi luôn đi lấy mây cùng với nhau vì nhiều lý do: hạp tính tình, vui vẻ, tin cậy lẫn nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Vả lại đi đông người thì cánh rừng nào có mây là quân ta càn quét mau hết, bữa khác sẽ ợchết nhăn răng ra với nhau. Cứ đi hai thằng, cố tìm trong những khu rừng hoang vu, xa lạ dễ ra chỗ có mây, nếu trúng mánh, vớ được “Kho vàng” thì hai thằng cứ thủng thẳng sài dần, yên chí lớn, khỏi lo, bữa nào đi làm “công tác lấy mây” sẽ đỡ tổn thọ. Bữa nay, thằng bạn Ðại Úy H. bị đau, ói mửa cả đêm, trạm y tế cho nằm nhà, nhưng phải quét dọn vệ sinh trong phòng và chung quanh. Cán bộ bảo “Ði học tập cải tạo là không được phép đau. Mà nếu đau thì cũng phải cố gắng lao động nhẹ, chớ nằm một chỗ là con người hư hỏng, bết bát rồi chết luôn.” Trại có vô số bác sĩ thứ thiệt nhưng đám bác sĩ là dân chuyên môn cho nên sớm được về, sau vài ba năm chi đó để chính quyền mới có thể sài trong các bệnh viện vì đám bác sĩ thời gian này từ ngoài Bắc kéo vào, đa số dốt và ngu bỏ mẹ. Bậc trung học ở Bắc lúc đó về trước chỉ có 10 năm, thay vì 12 năm như trong Nam. Lên đại học theo ngành y khoa lại phải học cấp tốc bậy bạ vài ba năm để ra phục vụ ngay cho chiến trường, con ông, cháu cha thì ở bệnh viện. Trình độ đã kém, học thêm sách vở thì chỉ có ít sách tiếng Nga, sách Anh-Mỹ đế quốc phản động không có. Mãi sau này mới có ít sách y khoa bằng tiếng Pháp, nhưng không đủ trình độ để đọc thành ra dốt vẫn hoàn dốt. Còn lại một mình anh bạn của tôi gốc gác là bác sĩ thiếu tá quân y. Anh ta phải ở lại khá lâu vì hai tội: Không ra trình diện theo lệnh chính quyền mới, kèm thêm cái tội mưu toan vượt biển để làm Việt Kiều phản động hay yêu nước chi đó. Vì là bác sĩ thứ thiệt nên anh ta được làm trưởng bệnh xá của trại, có 5, 7 cái chõng tre và mớ dụng cụ y khoa do thợ rèn trong trại làm ra từ những mảnh kim khí tháo gỡ ở mấy chiếc xe G.M.C. của quân đội cũ bỏ lại đâu đó trong vùng. Bọn tù chúng tôi đã từng phải đem ba lô đi gùi mỗi đứa dăm mảnh kim khí do đám tù có tay nghề, tháo gỡ ra từ mấy hôm trước. Ðeo ba lô đựng sắt thép trên lưng thì phải biết, trông thấy ông nội, ông ngoại, lè lưỡi cả ra với nhau. Bữa đó, tôi đi cùng anh bạn thân, tốt bụng. Hắn to con, khỏe mạnh hơn tôi, lại có vợ và em gái mới thăm nuôi khá đậm nên đi đường, thấy tôi sắp lè lưỡi ra, hắn cười toe, ghé tai tôi nói nhỏ “ngài quan tòa đưa nhà cháu gùi đỡ cho một mảnh nhỏ, nhà cháu không chết đâu, mà ngài cũng khỏi hết sống!” Hắn nheo mắt cười tình rồi rút trong ba lô của tôi một mảnh nhỏ, đút vào ba lô của hắn. Xin một lần nữa cảm ơn hắn dù hắn đã chết hay còn sống và đang có mặt trên đất nước Hoa Kỳ, Canada, Úc Ðại Lợi hoặc một quốc gia nơi nào đó...

Anh bạn bác sĩ thiếu tá, trưởng bệnh xá nói trên có lần bị đuổi ra khỏi bệnh xá vì cái tội nói thật với phái đoàn thanh tra ở Trung Ương về thăm trại. Có công an lớn nhỏ đứng bên cạnh, mà khi phái đoàn hỏi về ăn uống của bệnh nhân, anh bảo quá thiếu thốn, hỏi về thuốc men, anh bảo chẳng có gì ngoài quinine trị sốt rét và APC, của quân đội cũ để lại, trị cảm sốt và hầm bà lằng đủ thứ bệnh, vài ba thứ thuốc Nam làm từ cây lá do tù trồng lên, hỏi về vệ sinh thì anh bảo: bệnh xá ở ngay cạnh khu vực làm phân tươi để trồng rau, trồng lúa, mất vệ sinh Bị tống ra ngoài, đi làm lao động, một hôm đi nhổ sắn, lúc gánh lên đỉnh đồi, ngồi nghỉ, lấy sức xuống dốc, tìm gói đồ ăn trưa quý hóa vợ đem cho, buộc ở thắt lưng bằng dây rừng, thì gói đồ ăn đã rơi rớt đâu mất tiêu, chắc là mất trong khi len lỏi trong rẫy sắn, chặt cây, nhổ gốc, chặt củ, xếp vô quang gánh đầy ụ gần 50 kí lô, ngày làm 2 chuyến. Bọn chúng tôi ngồi quanh đó phải bóp mồm, bóp miệng, mỗi đứa cho cậu bác sĩ nhà ta miếng khoai, miếng sắn để “cứu nguy dân tộc.” Buồn quá, anh bác sĩ nhà ta bèn hát mấy câu đầu của Bài “Quốc Tế Ca” là bài hát hàng đầu số 1, gốc tiếng Nga, dịch ra đủ thứ ngôn ngữ, cả tiếng Việt nữa, xài chung cho phong trào cộng sản thế giới. Anh hát “Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn.” Ðói và buồn vì mất gói đồ ăn, anh ta hết hát nổi được nữa. Vậy mà tối về trại, công an quản giáo lôi anh ra hỏi tội (vì có ăng-ten báo cáo): Tại sao anh lại hát như thế? Anh cãi “thưa cán bộ, tôi hát bài Quốc Tế Ca là bài ca cách mạng cơ mà!” - Nhưng tại sao anh chỉ hát có mấy câu đầu, kêu gọi ai vùng lên, trong lúc anh dang phấn đấu lao động mệt mỏi? - Thì tôi chỉ thuộc có ngần đó câu thôi. Vả lại càng lao động mệt mỏi tôi càng phải phấn đấu. Muốn phấn đấu có hiệu quả, tôi phải hát bài ca của cách mạng, nhất là Bài Quốc Tế Ca. - Anh ngoan cố lắm biết chưa? Bài Quốc Tế Ca, bài ca cách mạng quan trọng mà bạ đâu hát đó, lại chỉ thuộc có mấy câu đầu là thiếu phấn đấu học hỏi. Cách nào cũng chết! Ngay chính cái thân tôi, kẻ viết bài này, nếu hát, chắc cũng chỉ thuộc ngần đó mà thôi, thêm tí ti câu đầu bằng tiếng Pháp “Debout! Esclaves de la terre” mà tôi được biết từ hồi đi kháng chiến đánh Tây, được làm trong ngành Tuyên-Huấn. Ngay ngày hôm sau anh bạn bác sĩ của tôi bị tống vào chuồng cọp, cùm chân 1 tháng chi đó! Nghe đâu bây giờ anh và gia đình ở Úc Ðại Lợi. Xin cảm ơn anh bạn đã 2 lần cho tôi 2 ống thuốc tê 2cc (vợ đem cho) rồi 2 lần vặn bể tan nát 2 cái răng của tôi, lôi chúng nó ra bằng cái kìm to tổ bố do thợ rèn của trại sản xuất. Ðau quá, tôi chỉ biết ngồi trên cái ghế đẩu gỗ, dựa lưng vào tường, 2 tay níu lấy cái mặt ghế đẩu cứng ngắc, chịu trận. Rồi cũng xong. Bác sĩ sản khoa, giải phẫu, không phải nha sĩ mà như thế cũng giỏi chán!

Ấy chết! Ðang nói chuyện lên rừng lấy mây cơ mà! Thằng bạn đau nằm nhà, tôi lên rừng một mình theo hướng đi thường lệ. Bắt đầu tới con suối nhỏ, tôi quan sát thấy mấy đám cát trắng bên bờ giáp bìa rừng, có vô số dấu chân thú rừng, ban đêm mò xuống suối uống nước. Theo kinh nghiệm của dân vùng núi tôi học được, thì dấu chân hầu hết là của bầy heo rừng, nhưng cũng có cả dấu chân của “Ông Ba Mươi” tức là cọp nữa chớ. Tôi hơi ngán, nhưng hoàn cảnh này không ai cho phép ngán cả. Ban ngày cọp đi đâu mất tiêu, nhưng nếu gặp nó thì bắt buộc tôi phải quay lưng vào gốc cây lớn mà chiến đấu với nó bằng con dao rừng cho đến chết thì thôi. Mà có chết cũng xong cái kiếp tù tội ghê gớm, kinh khủng, không biết có ngày nào ra. Tôi leo lên núi dựa theo con suối chừng nửa cây số (kilometer), ngó lên cao thấy có bóng dáng lá mây quen thuộc. Tôi dừng lại ở điểm đó, không vào sâu nữa, rồi leo ngược dốc đi thẳng lên, lấy tiếng suối róc rách làm chuẩn cho khỏi lạc. Thỉnh thoảng tôi lấy con dao rừng chặt một mảng vỏ thân cây lớn đánh dấu đường đi, chốc nữa biết đường mà về. Càng leo lên núi cao, cây cối càng chằng chịt, nhưng như thế mới dễ có mây. Trời Ðất không nỡ hại tôi, một vùng mây chằng chịt hiện ra trước mắt. Mây nằm la liệt đười mặt đất, mây leo lên tuốt cây cao, toàn mây là mây thôi. Ðúng là “Kho vàng của Hoàng Ðế Salomon thời Cổ La Mã rồi! “Tôi mừng hết lớn, bèn ngồi xuống hòn đá to bự để thở cái đã. Có tiếng sột soạt càng lúc càng rõ ràng hướng về phía trước mặt tôi. Chết cha! Thú dữ đuổi theo con mồi nào đó. Tôi núp vào sau một thân cây to bự, dựa lưng vào cây, thủ con dao rừng thật chắc trong tay, sẵn sàng liều mạng. Tôi chợt thoáng nhớ tới câu “Plutôt souffrir que mourir - Thà khổ cực còn hơn là chết” của La Fontaine, trong bài thơ “La Mort et le bucheron (*) - Thần chết và người tiều phu đốn củi.” Bản năng con người lúc này bảo tôi phải sống để hi vọng có ngày trở về như những người bạn tù khác. May quá! Con thú dữ đuổi mồi vòng theo hướng khác, xa dần. Tôi ra khỏi chỗ núp, quan sát rồi bắt đầu lấy mây, kẻo không kịp giờ tập họp ở điểm qui định. Với con dao rừng, tôi rút những sợi dây mây nằm ngổn ngang dưới đất, lẫn lộn với lá rừng đã khô, mục nát vì mưa gió, róc bỏ vỏ ngoài, chặt một đoạn dài 10 gang tay của tôi, tức là dài 2 mét đó. Cứ kéo rồi róc vỏ và chặt một hồi, vứt mỗi chỗ mươi đoạn, tôi đoán chừng đã được già nửa số ấn định. Ðói và mệt quá, tôi tìm một hòn đá ngồi thở ra và lôi mấy miếng sắn luộc lạnh ngắt, thâm sì, trong cái lon gô đen trũi ở trong cái túi xách đeo chéo trên vai, buộc chặt ngang bụng bằng dây rừng, ra ăn. Ði rừng là cái túi phải đeo kiểu đó, vật bất ly thân, nếu không lỡ ra lạc chỗ, không tìm thấy nó thì chỉ có nước chết mà thôi. Khoai sắn ăn trưa, bi đông nước lạnh là cả cuộc sống của tù cải tạo chúng tôi đấy! Thấy đã hồi sức, tôi lại rút mây, lấy dao róc vỏ khô và chặt tiếp. Khi kiểm lại thấy đủ số, tôi chặt dây rừng, buộc chặt làm ba bó nhỏ rồi cứ vác từng bó phóng dần xuống phía chân núi, nghe loáng thoáng có tiếng nước suối chẩy róc rách, rì rào. Có bó theo dốc trượt xuống ngon lành từng quãng. Có bó mắc dịch, mới trượt được vài mét đã mắc cây, dây leo chằng chịt, nằm quay cu lơ ra đó, làm tôi lại phải tới nơi, lôi lên và phóng xuống. Con suối đây rồi! Ba bó mây nằm ba chỗ, chênh vênh trên những mỏm đá. Ðồng hồ đeo tay đã bị công an tịch thu khi mới vô trại cho nên tôi không đoán rõ được giờ giấc ra sao, chỉ biết cố gắng phấn đấu di chuyển từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, gom ba bó mây lại, cột chung thành một bó to bự, cột chặt hai đầu, thêm vòng dây cột ở khúc giữa cho chắc ăn. Xong đâu đó, tôi lấy 2 đợi dây rừng lớn hơn buộc chặt vào vòng dây ở khúc giữa rồi tới vòng dây ở một đầu. Nghỉ một lát lấy sức, tôi thả bó mây bự xuống suối cho dòng nước đẩy đi, tôi chỉ việc giữ cho chắc hai sợi dây rừng để điều chỉnh cho bó mây trôi xuôi theo dòng suối, ra ngoài rừng. Thật là khó khăn, trơn trợt với mấy cái mỏm đá rêu xanh bám đầy, lắm lúc muốn té chết luôn. Có nhiều chỗ tôi phải lội luôn xuống suối, cầm dây hướng dẫn, bó mây mới chịu trôi đi. Nếu không, nó sẽ mắc cứng ở mấy cái chỗ khúc khuỷu, quanh co, lồi lõm những mỏm đá ác ôn, mất dậy.

Mấy miếng sắn luộc thâm sì, lạnh ngắt, chua lè được đưa vào bao tử của tôi hẳn hoi, đàng hoàng mà sao lúc này chúng nó đi đâu hết trơn . Ðói lại hoàn đói, đói muôn năm Ngó quanh, ngó quẩn chẳng thấy có giống chi ăn được, tôi bẻ đại một chùm trái cây lạ hoắc sà xuống bờ suối, trái to bằng đầu ngón tay. Tôi làm thử một trái rồi nghe ngóng. Làm tiếp trái thứ hai, trái thứ ba chẳng chết thằng Tây đen nào cả sau vài ba phút. Tôi dư biết là dù có chết, cũng chưa đủ thời gian để cho cái chết nó tới vì mới có mấy phút thôi, nhằm nhò chi. Cái đói nó xúi tôi : cứ ăn đại, ăn tới đi, đói chịu chi cho nổi, ra khỏi rừng còn phải vác bó mây dài, to tổ bố về trại nữa cơ mà. Thế là tôi làm luôn một bụng tỉnh bơ.

Hình như tất cả mọi sự học hành của tôi ở nhà trường ngày xửa ngày xưa, chỉ có mỗi một điều giúp ích cho tôi trong cuộc sống trong các trại tù cải tạỳo. Ðó là cái “Principe d'Archimède-Nguyên Lý Archimède” của môn học “Physique - Vật lý.” Nó chỉ cho tôi biết lợi dụng sức nước đẩy lên đối với một vật được thả xuống nước. Do đó, khi di chuyển cây cối làm cột nhà, cả 5, 7 cây 1 ngày hay di chuyển một bó mây dài và to bự như thế này, mà cứ vác trên vai, đi suối, đi rừng, rồi hàng chục cây số đường bộ, không nhờ tới nước suối giúp đỡ để nâng lên và đẩy đi, kéo được quãng nào hay quãng đó, thì chắc là tôi đã chết quách từ lâu rồi. Còn đang miên man suy nghĩ vớ vẩn đâu đâu thì thình lình, gặp chỗ dốc, bó mây lao vút xuống, kéo tôi ngã chúi theo luôn tá hỏa tam tinh, cả con người tôi nằm ngửa, trôi theo bó mây ào ào xuống dốc.

*

Tôi giật mình thức dậy, thấy mình đang nằm trên giường nệm êm êm, cái mền ấm áp, ánh sáng mờ mờ của chiếc đèn ngủ cũng đủ cho thấy căn phòng thân quen, chớ không phải sàn tre, sàn nứa, không phải bệ xi măng của những trại tù cải tạo hơn 12 năm kinh khủng đã đi sâu vào dĩ vãng Lâu lâu, tôi lại thấy cái cảnh lao động khổ sai kinh hoàng và cuộc sống thua kém cả súc vật ngay trong các trại tù cải tạo, vẫn trở lại với tôi trong những giấc ngủ không mấy ngon lành. Ðã 77 năm được sống làm người rồi còn chi! Nhiều tay vui tính thì lại kể là: 77 tuổi, cộng với hơn 12 năm đi tù cải tạo cực khổ kinh khủng thì kể như... 89 tuổi của một người bình thường mới đúng. Thức giấc, thấy mình đã thoát khỏi cảnh sống kinh hoàng ghê gớm đó, thấy mình đang sống với người thân, trong khung cảnh tự do trên đất Mỹ, một quốc gia hùng cường, vĩ đại nhất hoàn vũ ngày nay, không còn bị cảnh đói khát, rér mướt cắt da, mưa nắng dãi dầu, lao động quá sức chịu đựng của con người, không còn bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, hết bị những cặp mắt cú vọ của công an và cả một số bạn bè bị công an tẩy não, hù dọa, biến thành “ăng-ten, do thám” cho cộng sản, theo dõi bám sát ngày đêm, tôi lại âm thầm cảm ơn Thượng Ðế, vợ con gia đình, bạn bè, đã cho tôi sống, tiếp tế cho tôi nghị lực, thức ăn, đồ uống, niềm hi vọng để đủ sức mà sống dù đã nhiều phen tôi thật sự vô cùng tuyệt vọng, vì có lúc cả trại chỉ còn lại một mình tôi là sĩ quan, còn toàn một thứ tù hình sự đầu trộm, đuôi cướp, hiếp dâm, giết người. Tôi cảm ơn chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng tôi là những người tị nạn chính trị để cho thế hệ chúng tôi tàn lụi và qua đi thì thế hệ con cháu chúng tôi có được cơ hội để sống làm người, hữu ích cho Quê Hương Ðất Nước chúng tôi, cho xã hội loài người văn minh, tiến bộ, tốt đẹp hơn ở tương lai.

San Diego, California

Phan Ðức Minh
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Post by caubennoc »


Image

Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn,
của 20 năm văn chương miền Nam.


Tô Thùy Yên, theo tôi, là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn. Cái ảnh hưởng rộng, lớn ông có được, không phải vì ông cùng với Thanh Tâm Tuyền là hai “mũi nhọn xung kích” thổi bùng ngọn lửa thơ tự do ở miền Nam, như một số người ngộ nhận.

Sự thực, cùng với Thanh Tâm Tuyền, những người tận hiến tâm huyết mình, cho mục đích xiển dương thơ tự do ở miền Nam (giới hạn trong phạm vi tạp chí Sáng Tạo,) là Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Trần Lê Nguyễn, Ðỗ Quý Toàn, Ngọc Dũng, Người Sông Thương (bút hiệu của Nguyễn Sĩ Tế)... chứ không phải là Tô Thùy Yên. Những bài thơ của ông, được yêu thích nhất, cũng không phải là những bài thơ tự do mà, lại là thơ vần, điệu. Hoặc những bài ông dung hòa được đặc tính của thơ tự do và thơ cũ (như một số tác giả cùng thời khác đã thành công. Ðiển hình, như cố thi sĩ Nguyên Sa).

Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do, Tô Thùy Yên còn có nhiều, khá nhiều, những bài thơ có vần, điệu. Ðôi khi vần, điệu của ông, nơi những bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ.

Bài thơ đầu tiên (?)của Tô Thùy Yên được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết Tháng tư, năm 1956. Một bài thơ 7 chữ.

Bài thơ này có tất cả 15 câu, toàn vần “au.” Rất chặt chẽ. Bài thơ đó, nguyên văn như sau:

“Trên cánh đồng hoang thuần một mầu

“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi

“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.

“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.

“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.

“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.

“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.

“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.

“Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.

“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.

“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.

“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.

“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.

“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,

“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1)

Tôi nghĩ, có thể vì tính liên tục của cuộc rượt, đuổi giữa con ngựa và, chuyến tàu, nên tác giả đã cố tình không phân đoạn bài thơ của mình (?)

Nếu phân đoạn bài thơ trên với 4 câu cho mỗi khổ thơ, chúng ta sẽ có tất cả 4 khổ, mà khổ thơ chót, chỉ có 3 câu (Như thể đánh dấu sự bỏ cuộc, gục ngã bất ngờ, phút chót của con ngựa?!)

Dựa trên việc phân đoạn, để sự tìm hiểu bài thơ dễ dàng hơn; ghi nhận đầu tiên của tôi là, Tô Thùy Yên đã dùng âm “trắc” cho chữ cuối cùng của câu thứ hai - Nhưng không phải để hiệp vần “trắc” với chữ cuối cùng của câu thứ tư - Mà, nó chỉ là sự chuyển đổi vị trí. Bởi vì, ông vẫn cho hiệp vần “bằng” của các chữ cuối, ở những câu thứ nhất với các câu thứ ba và, thứ tư.

Nói về thơ 7 chữ, cũng như nói về thơ lục bát, những người có kinh nghiệm với cuộc chơi “chọn vần, lựa chữ,” đều hiểu rằng, ngoài luật định hiệp vần, còn có luật định về nhịp điệu riêng của thể thơ này nữa.

Nhìn lại những nhà thơ tiền chiến, từng được mô tả là thành công với thể thơ 7 chữ, tôi nghĩ, chúng ta có thể nhắc tới Huy Cận, với bài “Tràng Giang.”

Khổ thơ thứ nhất của bài “Tràng Giang,” nguyên văn như sau:

“Sóng gợn tràng giang/buồn điệp điệp,

“Con thuyền xuôi mái/nước song song.

“Thuyền về nước lại,/sầu trăm ngả;

“Củi một cành khô/lạc mấy dòng.” (2)

Tôi dùng dấu gạch chéo/slash để phân nhịp cho mỗi câu thơ. Kết quả, tất cả 4 câu thơ này, đều có nhịp 4/3.

Bước qua một bài thơ 7 chữ khác, cũng của Huy Cận, ta thấy, chúng cũng có chung một nhịp 4/3 như thế. Như bài “Vạn lý tình.” Cũng đoạn thứ nhất:

“Người ở bên trời,/ta ở đây;

“chờ mong phương nọ,/ngóng phương nầy.

“Tương tư đôi chốn/tình ngàn dặm,

“Vạn lý sầu lên/núi tiếp mây.” (3)

Nhịp 4/3 cũng là nhịp của hầu hết những bài thơ 7 chữ của Lưu Trọng Lư. Tôi xin chọn bài 7 chữ của ông, quen thuộc nhất với chúng ta. Bài “Nắng mới”:

“Mỗi lần nắng mới/hắt bên song,

“Xao xác gà trưa/gáy não nùng;

“Lòng rượi buồn theo/thời dĩ vãng,

“Chập chờn sống lại/những ngày không.” (4)

Ngay Xuân Diệu (người được coi là luôn có những đổi mới đáng kể về hình thức, cũng như tu từ,) cũng dùng nhịp 4/3 cho thơ 7 chữ của ông:

“Tôi nhớ Rimbaud/với Verlaine

“Hai chàng thi sĩ/choáng hơi men

“Say thơ xa lạ,/mê tình bạn,

“Khinh rẻ khuôn mòn,/bỏ lối quen.”

(Trích Tình Trai) (5)

Nhưng Tô Thùy Yên đã cho thơ 7 chữ của ông một nhịp, điệu khác.

Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4; ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Ðó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.”

Tuy nhiên, bài thơ không chỉ tạo được sự chú ý chỉ bởi nhịp đi mới mẻ của nó!

Sâu xa hơn, theo tôi, lại là những gì nằm sâu, sau phần hình thức này.

Tôi nghĩ, hình ảnh con ngựa rượt, đuổi chuyến tàu, với phông nền là những cánh đồng nối nhau, hút mắt; là một bức tranh sống động vẽ bằng... ngôn ngữ. Sức sống động mạnh mẽ tới độ, chúng cho ta cảm tưởng tác giả đã chụp được một bức ảnh thời gian... Bằng tài năng đặc biệt của mình.

Lại nữa, sự đuối sức, đầu hàng, từ giã cuộc đua của con ngựa, vẫn theo tôi, là một ẩn dụ, nhắc nhở rằng: Ý chí, sức mạnh của con người, dù kiên quyết, lớn lao tới đâu, cũng vẫn bị lưỡi dao hữu hạn, đời người, chém đứt!!!

Nói cách khác, bất lực trước, sau, vẫn là thuộc tính của con người, khi con người phải đối diện với chiều dài thời gian. Vô tận.

Ðọc lại bài thơ, một lần nữa, về phương diện nhịp, điệu, tôi chợt có cảm nhận rằng, khi Tô Thùy Yên chọn cho bài 7 chữ này của ông, những nhịp đi gập ghềnh, có dễ ông cũng muốn cho người đọc liên tưởng tới những hơi thở không đều của chuyến tàu, con ngựa trong cuộc rượt. Một cuộc rượt, đuổi với tốc độ “tàu chạy mau mà qua rất lâu,” hay “tàu chạy mau, tàu chạy rất mau”... dẫn tới kết quả là những hơi thở “hào hển” hoặc, “cúi đầu”...

Mọi ẩn dụ, liên tưởng mà, bài thơ đem được, đến cho người đọc, theo tôi là những chiếc chìa khóa quý giá, để độc giả được quyền thênh thang bay bổng, phiêu hốt trong đất, trời rất tư, riêng, của bài thơ ấy - Dù cho (cũng dễ hiểu thôi,) nếu những cảm nhận của độc giả, thường... xa lạ, không ăn nhằm, chẳng liên hệ gì, tới tình, ý (mơ hồ?) của tác giả, khi sáng tác!

Nhưng, điều đó, cũng chỉ có thể xẩy đến cho những bài thơ hay, đi ra từ những tài thơ lớn. Mà, “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” là một thí dụ cụ thể vậy.

Du Tử Lê
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

ĐẠP XÍCH LÔ

Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất “đô” con. Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: “Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì “xúc xích – phô mai” như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!”.

Cách đây hai năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây …

… Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ ! Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày.
Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước. Con cám ơn rồi bước ra ngoài.

Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ.
Bác biết không ? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay ! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó ! Ông xích lô của con đó ! Bác coi : con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không ?
Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang “ trúng mối lớn ”.

Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói :
- “Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây !”.
Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào.
Con hỏi :
- “Bác không đếm sao ?”.
Ổng cười, nhìn con :
- “ Khỏi ! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao ?”.
Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời:
- “Cậu lên ngồi, đi !”.
Con lắc đầu:
- “Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!”.
Nụ cười của ổng tắt mất:
- “Ủa! Gì kỳ vậy?”.
Con giải thích:
- “Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!”.
Ổng vỗ vỗ lên yên xe:
- “Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!”.
Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
- “Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ”.
Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng:
- “Cậu liệu được không cậu?”.
Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm:
- “Được mà … Dễ ợt hà!”.
Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết.
Một lúc sau bỗng ổng la lớn:
- “Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!”.
Từ đó, ổng chỉ cho con chạy:
- “Từ từ … Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít ….”
Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên:
- “Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!” …
Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì … làm gì … Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói:
- “Mình vô ăn cái gì đi”.
Ổng nói:
- “Cậu vô ăn đi, tôi không đói”.
Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại:
- “Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!”. Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên:
- “Ăn gì mau vậy cậu?”.
Con nói trớ:
- “Thấy không ngon nên không ăn”.
Rồi con nói tiếp:
- “Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi”.

Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên “ôm” đi thẳng !

Kể xong, Trung hỏi:
- “Nhà Nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?”.
Tôi nói: “Ờ … ”. Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời !

Tiểu tử
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

THIÊNG LIÊNG NHƯ NHỮNG LINH HỒN

(Nguyễn Kiến Việt)
Mẹ tôi chỉ là một thư ký thường cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30 tháng 4, 1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và Việt cộng đang từ từ tiến vô Sài Gòn, mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá cờ quốc gia, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giổ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt. Lúc đó chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai họa cho gia đình, huống chi là lá cờ quốc gia, nên mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ quốc gia mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được.

Mẹ tôi nói: “Biết bao nhiêu anh chiến sĩ quốc gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng !”

Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của Việt cộng. Hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính sách học tập cãi tạo đối với ngụy quân, ngụy quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản”, “chính sách kinh tế mới”,.. và nhiều nữa không kể hết. Ai nói Việt cộng ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy họ chỉ vô đạo đức và kém văn hóa, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật cao thâm ! Chính sách nào của Việt cộng cũng làm cho người dân miền Nam khốn đốn, dìm sâu con người đến tận bùn đen.

Đầu tiên là “chiến dịch đổi tiền”, họ phát cho mổi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mổi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai đươc. Họ tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của Nhà Nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu. Kế đến là “chính sách hộ khẩu”, tức là mổi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mổi người (mà họ gọi là “nhân khẩu”) được 13 kg lương thực mổi tháng.

Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, Việt cộng sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm, …

Như vậy là họ đã hình thành một cái chuồng gia súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói. Chính sách này còn cao thâm ở chổ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc “các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà” như Việt cộng đã đĩ miệng, phỉnh phờ người dân trước đây.

Ba tôi rồi cũng đi tù “cãi tạo” như bao nhiêu sĩ quan, công chức miền Nam khác, mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn trãi một mình để vừa nuôi chồng trong tù vừa nuôi một đàn con dại như vậy không ? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho mẹ tôi và những phụ nữ như mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.

Từ một công chức cạo giấy mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến lên” thành một “bà bán vé số, thuốc lá lẻ” đầu đường. Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có “chiến dịch làm sạch lòng, lề đường”, công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn. Thời bấy giờ, do chính sách “bần cùng hóa nhân dân” của Việt cộng đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả !

Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một anh bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. Hồi đó, bộ đội Việt cộng giấu, không mang quân hàm nên chẳng biết là cấp nào, chỉ đoán là anh nào trẻ, mặt mày ngố ngố là bộ đội thường, cấp nhỏ, anh nào người lùn tẹt, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt chuột thì có thể là công an hay chính trị viên,… Anh bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói: “Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn.” Anh bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng : “Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được !” À, thì ra những thằng oắt con Việt cộng này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng, giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà hắn đang mặc được may bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ ! Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe: “Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt…. Hắn mặc cái quần …, làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa !?, con hí ?”. Thì ra mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá cờ quốc gia và điều mà mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách !

Khi Việt cộng mới chiếm miền Nam, nhiều người vẫn tưởng Việt cộng cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đọa đồng bào. Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng Việt cộng xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, họ tự cho họ là phe chiến thắng “vẻ vang” và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.

Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể: “Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo cờ quốc gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là cờ quốc gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi !” Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.

Thời gian trôi mãi không ngừng … cuối cùng rồi ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù cộng sản, mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống. Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình !? “Mọi người sinh ra đều bình đẳng .. và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc …” câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.

Một ngày khoãng đầu năm 1990, công an phường đến đưa cho ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của Công An Thành Phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông “sĩ quan học tập” về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại ? Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tùy ý ?

Rồi ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, công an thành phố kêu ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi được Nhà Nước “nhân đạo” cho đi định cư ở Hoa Kỳ ! Thật không sao kể xiết nổi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới ! Những ngày sau đó lại cũng là mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”, … để làm thủ tục xuất cảnh.

Chỉ khoãng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được. Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nửa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm ! Tôi quay lại nhìn thấy ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, mẹ tôi mới nói: “Bây giờ mới tin là mình thoát rồi !” Sau khoãng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, Hoa Kỳ.

Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam bay phất phới trên mái nhà, mẹ tôi nói: “Ui chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái cờ quốc gia của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí ?”. Rồi mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá cờ quốc gia bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.

Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn). Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là “Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn” thì mẹ tôi lại viết về lá cờ quốc gia. Ý mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời đại này ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ. Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản). Tôi cầm bài luận của mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: “interesting !”, “Narrative”, “I can‘t believe it !”, … và cuối cùng bà cho một điểm “D” vì … lạc đề !

Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi. Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng của Việt cộng trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận, đồng bào đem cả ngàn lá cờ quốc gia, nền vàng ba sọc đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi: “Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết !” Ý mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng cờ quốc gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.

Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở mẹ tôi đi học ESL nữa nên mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, mẹ tôi nói: “Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hòa bình rồi thì mẹ mới về !” Ý mẹ nói “hòa bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.

Rồi mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.

Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tùy thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước,.. trong một ngăn ví là lá cờ vàng ba sọc đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì ra mẹ tôi vẫn giữ mãi lá cờ quốc gia bên mình, có lẽ lá cờ vàng hiền lành này đối với mẹ tôi cũng thiêng liêng như những linh hồn của người đã khuất.
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Thế Và Tôi
Thủy Quân Lục Chiến tuyệt đối không bỏ rơi đồng đội trong bất cứ trường hợp nào.
Thủy Quân Lục Chiến không được quyền chết khi chưa có lệnh của thượng cấp.

Năm 1990, tôi là Sĩ Quan Trung Úy của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Tôi là Tiểu Đội Trưởng Tiểu Đội 1 Thiết Giáp, Đại Đội Alpha, Lữ Đoàn Lưu Động 3 Thủy Quân Lục Chiến đóng tại Okinawa, Nhật Bản. Làm Tiểu Đội Trưởng được 4 tháng thì Thế đến trình diện và nhận chức Tiểu Đội Phó.

Tôi tên là Quốc Khánh và Thế tên là Quốc Thế, cùng tuổi, cùng số phận tị nạn vượt biên; nếu có cùng họ nữa thì có thể chúng tôi là 2 anh em sinh đôi.

Dân trẻ Hoa Kỳ gốc Việt đăng ký nhập ngũ trong các binh chủng Hoa Kỳ khá lai rai. Khi tới các căn cứ Lục Quân, Không Quân, Hải Quân tôi thường có gặp những sĩ quan hay quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt. Nhưng với Thủy Quân Lục Chiến thì có rất ít quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt; mà Sĩ Quan Hoa Kỳ gốc Việt lại càng hiếm. Vậy mà khi đóng ở Okinawa, tiểu đội tôi có Thế, tôi và Quốc (hạ sĩ nhứt) là dân Hoa Kỳ gốc Việt; đúng là 1 trường hợp hy hữu. Chắc những người cha mẹ trong các gia đình binh nghiệp thường đặt cho những đứa con trai của họ tên có chữ Quốc - đó là trường hợp của 3 chúng tôi.

Trong tiểu đội tôi cũng có một vài quân nhân gốc Phi, Đại Hàn. Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến là 1 gia đình, trong gia đình đó không có phân biệt màu da hay chủng tộc. Chúng tôi là những người anh em sống chết có nhau; mệnh lệnh của cấp trên ban xuống là tuyệt đối.

Tính tôi dễ dãi, hay nói dỡn. Tôi thường nói với đám lính trong Tiểu Đội là tụi bây không được quyền chết khi chưa có lịnh của thượng cấp; mà thượng cấp đó là tôi. Dựa theo lời nói trong phim Full Metal Jacket.

Thế thì ít nói, tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Có 1 Tiểu Đội Phó như Thế thiệt là phúc trời ban - tôi lo việc hành chánh và để Thế lo việc hành sự. Quân lính nghe lệnh Thế răm rắp; mọi chuyện trong Tiểu Đội êm xuôi, ít nhức đầu. Sau vài tháng ở Okinawa, chúng tôi như tay phải và tay trái, răng với môi và như anh em sinh đôi.

Qua những lần tâm sự và 1 lần nghỉ phép thăm nhà Thế, tôi biết Thế chỉ có người cha ở Florida, còn má và 3 em thì còn ở Việt Nam. Thế cũng có 1 vị hôn thê cũng ở Florida.

Cha Thế cũng như Thế, ít nói, ít cười, làm thợ máy cho 1 garage nhỏ gần nhà; khi ở nhà thì ông thường lo trồng tỉa mấy cái cây bông trong vườn. Thế nói ông ta đổi tính, ít nói, ít cười sau lần đi vượt biên năm 1978; trong lần đi đó người chị hơn Thế 1 tuổi bị hải tặc Thái Lan bắt đi mất tích. Ở trại tị nạn Mã Lai hơn 1 năm, thì cha con Thế được đi định cư tại tiểu bang Florida, Hoa Kỳ.

Tôi và hoàn cảnh gia đình cũng tương tự như gia đình Thế nhưng có phần may mắn hơn. Người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ vào những năm cuối 70 và đầu 80, phần đông đều có hoàn cảnh gia đình phân chia như vậy.

Cuối năm 1990, đầu năm 1991, Lữ Đoàn Lưu Động 3 Thủy Quân Lục Chiến trong đó có Tiểu Đội 1 Thiết Giáp tôi tham dự chiến dịch Bảo Sa Mạc. Trong vòng vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi chiến thắng vẻ vang. Đá đít Saddam Hussein. Giải phóng Kuwait.

May là trong chiến dịch đó trong Tiểu Đội tôi chỉ có vài người lính bị thương nhẹ khi xe tăng cán mìn; và may là không có ai chết. Tôi vẫn thường tụng cho đám lính trong Tiểu Đội nghe là Thủy Quân Lục Chiến không có được quyền chết khi chưa có lệnh của cấp trên.

Một trong những trách nhiệm của người sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ (trách nhiệm mà không 1 sĩ quan nào muốn làm) là phải viết thư báo tin cho thân nhân hay gia đình của người quân nhân trong hàng ngũ của mình đã hy sinh hay bị chết. Tôi chưa bao gìơ làm việc đó và không bao giờ muốn làm việc đó.

Trên đường về lại Okinawa sau chiến dịch Bảo Sa Mạc, thì Hạm Đội của Lữ Đoàn 3 được lịnh ghé vào Bangladesh để cứu trợ bảo lụt. Có gần 140 ngàn người dân Bangladesh chết trong trận bảo lụt năm 1991; xác người và xác thú vật trôi nổi đầy trong vịnh nơi tàu chúng tôi neo. Ở lại vịnh Bangladesh 1 tuần tiếp tế lương thực, nước uống, thuốc men cho dân bản xứ đã làm mềm lòng những người lính Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Tôi tưởng là tôi đã từng trải, dầy dạn, chai đá qua những kinh nghiệm bản thân, nhưng thấy thảm cảnh tại vịnh Bangladesh tinh thần tôi van bị ảnh hưởng. Thế cũng vậy! Thế ít nói hơn và càng lầm lì; suốt ngày lo đốc thúc đám lính làm việc. Tôi nghĩ Thế cũng như tôi, lo bận bịu với công việc để trốn và bớt thấy cảnh đau khổ của người dân Bangladesh.

Hạm Đội của Lữ Đoàn 3 tôi rời Bangladesh thì ghé lại Phukett, Thái Lan để nghỉ xả hơi 4 ngày. Tiểu Đội 1 chúng tôi phải ở lại tàu trực ngày thứ nhứt và sẽ được lên bờ chơi 3 ngày sau.

Gần 6 tháng ở trong sa mạc Saudi, rồi đánh đấm; không rượu bia, không ghệ gộc, lại tù túng; đám lính Thủy Quân Lục Chiến háo hức lo lên bờ nhậu nhẹt và quậy.

Tôi không muốn phiền phức, nên sáng ngày đầu tiên sau khi điểm danh tôi lên văn phòng lo thanh toán giấy tờ hành chánh. Đang làm việc thì Thế bước vào, thảy mớ thư lên bàn tôi rồi nói.

- Có tin mừng!

- Cho mày hay cho tao? Tôi hỏi.

- Lẽ dỉ nhiên là cho tao rồi. Mày đời nào có thư mà có tin mừng hay tin buồn. Đọc thư của tao thì biết.

- Đọc thư mày vui hơn; nhứt là thư của vợ mày. Nếu mà tao cưới 1 người như vợ mày thì giờ này tao đã có 5 con.

Tôi không bao giờ có thư và thường thì Thế đưa thơ của Thế cho tôi đọc để 2 thằng tâm sự. Tôi chưa kịp đọc thư thì Thế nói tiếp.

- Bà già và mấy em tao sẽ qua Mỹ đoàn tụ vào tháng 6 này.

- Chúc mừng! Chúc mừng! Mày muốn tao giựt dây cho mày bay về nhà khi tàu vô Singapore không?

- Dám chờ đến Noel thì tao xin về phép 1 tháng. Nếu mày cho và ký giấy cho tao. Có thể kỳ về phép này tao làm đám cưới luôn.

- Nếu mày không mời tao làm phụ rể, thì đến Tết Công Gô tao mới ký phép cho mày.

Tôi thấy Thế hôm nay khác hơn những hôm trước; nét vui vẻ hân hoan hiện ra mặt. Tôi cũng mừng và vui lây với Thế.

Qua hôm sau, sau khi điểm danh buổi sáng thì chúng tôi xuống đò vào bờ. Đặt chân lên bờ cát, tôi hỏi Thế.

- Mày muốn làm gì hôm nay?

- Mày làm gì thì tao làm đó. Thế nhún vai.

- OK! Vậy uống xong chai bia, tụi mình kêu taxi chạy vòng ra sau đảo. Tránh vô phố gặp mấy thằng lính say quậy, nhức đầu.

Xe taxi chở chúng tôi ghé vào những chùa Thái, những quán nước bên đường. Tụi tôi hết uống bia rồi tới uống nước dừa, nước mía. Taxi ghé đâu tôi cũng xổ nghề chọc ghẹo những cô gái Thái bán hàng. Phụ nữ Thái đẹp và có duyên; gần giống như phụ nữ Việt Nam.

Quá trưa thì chúng tôi ghé 1 quán cơm bên đường để ăn trưa. Trong khi ăn, tôi nói với Thế.

- Mày thấy bọn con gái Thái có tên giống như con gái Việt Nam không? Ngọc, Thảo, Chuối, Kim, Lan.

Nhưng bọn gái Thái dể chịu hơn nhiều; không làm gía, làm eo như gái Việt Nam.

- Hình như vợ tao là gái Việt Nam thì phải? Thế chọt tôi.

- Lẽ dỉ nhiên là trừ vợ mày ra! Tôi chống chế.

- Tao thấy con nhỏ ngồi ở quầy tính tiền nhìn hơi quen quen. Thế hất cằm chỉ cho tôi.

- Sau 6 tháng không đàn bà và lần đầu tiên mày tới Thái; thì đàn bà, con gái ai cũng đẹp và quen hết. Lần đầu tiên tao đến đây cũng vậy.

Tôi ra vẻ sành đời. Thế không nói gì, tiếp tục ăn cơm.

- Mày muốn tao dê con nhỏ đó cho mày không? Mày phải nhớ là mày sắp sửa cưới vợ đó; có gì thì đừng đổ thừa cho tao! Tôi hăng hái hy sinh cho thằng bạn.

Ăn cơm xong ra taxi đi lại; tôi nói với Thế.

- Con nhỏ mày kết tên Kim Hoa hay Kim Thoa gì đó; mày có quen biết gì với nó không? Tôi hỏi tên rồi nói lại cho Thế.

- Không! Thế lắc đầu.

Đi lòng vòng cho đến chiều thì taxi đưa về lại biển Phukett. Tôi hỏi Thế.

- Mày có chương trình gì tối nay không?

- Mày tính làm gì? Thế hỏi ngược lại tôi.

- Tao tính nhảy vô massage, ăn cơm chiều, đi coi Tiffany show rồi sau đó tính sau? Mày muốn theo tao không? Tôi nói cho Thế biết chương trình tính sẳn trong đầu tôi.

- Tao đi chổ khác. Thế nói.

- Chổ nào?

- Quán cơm hồi trưa.

- Thôi đi cha! Ở đây có 3 ngày; muốn thì tiền trao, cháo múc; đừng tốn thời giờ đi thả dê. Dính xong mày bỏ đi; chỉ mang theo phiền phức. Ai can du!

- Cả năm nay ngày nào cũng gặp mặt mày, tao mệt quá. Mày để cho tao yên.

- OK! Nhưng làm gì thì mày nhớ về tàu ăn sáng, điểm danh rồi ra phố lại với tao.

Tôi dặn Thế trước khi Thế lên xe taxi đi lại.


Sáng hôm sau, 2 thằng ra nằm trên bãi biển, tắm biển, đọc sách, uống bia và uống nước dừa.

- Tối hôm qua mày làm gì?

- Mày cũng thừa biết tao làm gì rồi, hỏi chi cho mất công? Còn mày?

- Tao ở với con nhỏ Kim Thoa.

- Còn gì cần cho tao biết nữa không? Tôi mồi cho Thế nói.

- Tao thấy con nhỏ đó có cái gì ngồ ngộ!

- Chúa thương sót và tha tội cho mày. Tôi nói với một vẻ buồn.

- Cái gì mà có Chúa trong đây nữa?

-Để tao nói cho mày nghe. Loài người bây giờ mang tội tổ tông vì ông A Dong khi gặp bà Ê Va cũng nói câu như mày nói - Tao thấy con nhỏ này có cái gì ngồ ngộ. Tội lỗi lắm đó mày! Tôi bẹt ra để chọc Thế.
- Mày tính làm gì tối nay? Thế hỏi tôi.

- Thì cũng như hôm qua. Massage, ăn cơm chiều, coi show, đi lòng vòng mấy cái bars, bát phố. Mày có muốn theo tao không?

- Không! Tao đi gặp Kim Thoa và tao có mướn phòng bên kia đảo để nghỉ.

- OK! Làm gì thì cũng nhớ mà cẩn thận nghe mày! Còn vợ, còn con ở nhà; có gì thì phiền lắm! Tôi nhắc Thế.

Tới trưa, Thế xách túi nhảy lên xe taxi đi mất.

**

Sáng ngày thứ tư ở Phukett. Tôi và Thế cũng ra bờ biển nằm phơi nắng, tắm biển, uống bia, nói dóc.

- Mày nhớ là tao có nói là con Kim Thoa có cái gì ngồ ngộ không?

- Thôi đi! Tao không muốn nghe! Mất công mày nói nó là trai đổi giống thành gái, pê-đê hay bóng lại cái. Tôi chọc.

- Nó là gái Việt Nam.

- Thôi đi tía! Tao không tin.

- Nó là gái VN nhưng nó không nói được tiếng Việt, mà nó nói tiếng Anh cũng không bao nhiêu. Bởi vậy tao không nói chuyện với nó được nhiều. Thế cho biết thêm.

- Vậy 2 ngày nay mày làm gì với nó? Í Quên! Đừng nói! Tao không muốn biết! Có gì vợ mày hỏi, mất công tao nói dối. Tôi chọc Thế.

- Mày muốn gặp nó để nói chuyện không?

- Thôi đi! Tao sợ gái Việt Nam lắm! Mày cứ việc nói chuyện với nó đi, rồi về kể lại cho tao là đủ!

- Mày có chương trình gì cho chiều nay không? Thế nói lảng qua chuyện khác.

- Không có gì đặc biệt! Có thể tao sẽ đi ăn chiều với mấy thằng sĩ quan bên Tiểu Đội 2. Còn mày tính làm gì?

- Dám tao đi gặp Kim Thoa lần cuối. Thế nói.

- Ai can du! Tao nói với mày nhiều lần rồi! Trừ vợ mày ra, đừng có ở với đứa con gái nào tới 3 ngày - nó tưởng mày thương nó thiệt. Phiền lắm! Tôi khuyên Thế.

-...

- Trong phố có cả ngàn đứa con gái Thái. Tha hồ cho mày chọn, tao bao mày tối nay. Trước mua vui, sau trả thù dân tộc! Tôi ca.

Thế mỉm cười nói.

- Để tao kể cho mày nghe chuyện Trả Thù Dân Tộc. Hồi tao qua Houston thăm thằng bạn, chiều Chủ Nhật nguyên 1 đám ngồi coi football, nhậu nhẹt, nói chuyện chơi bời; hăng tiết vịt nói lớn tiếng hay sao đó mà mấy bà trong bếp nghe được. Vợ thằng bạn tao trong bếp nói vọng ra cho cả đám nghe chung - Thù nhà trả hổng xong, mà đòi trả thù dân tộc!

Tôi cười sặc cả bia ra ngoài.

Đến trưa thì Thế xách túi nhảy lên taxi đi mất.

**

Hạm Đội của Lữ Đoàn 3 rời Phukett, Thái Lan vượt eo biển Malacca, không ghé vào Singapore mà tiến thẳng qua biển Đông. Ba ngày sau khi rời Phukett, ăn cơm chiều xong khoản 7 giờ tối, tôi kéo Thế lên boong tàu.

- Biển tháng 5 rồi mà vẩn còn động! Thế nhìn mặt biển mà nói.

- May là mình đi tàu lớn, biển động cở này thì cũng không đến nổi nào! Hồi tao đi vượt biên, ngồi trên chiếc ghe 12 mét, bị biển động 3 ngày ói ra mật xanh, mật vàng. Tôi kể.

- ...

- Mày biết tao kéo mày lên đây làm gì không? Tôi hỏi.

- Không! Thế đáp.

- Mày thấy ngọn lửa giàn khoan cuối chân trời không?

- Ừ, thì thấy!

- Hồi chiều tao lên phòng lái coi hải đồ nên biết đó là giàn khoan Natuna của Nam Dương. Hồi tao đi vượt biên, sau 6 ngày lênh đênh trên biển thì tới giàn khoan đó và được vớt. Có ai ngờ là 13 năm sau thì tao đi lại tuyến đường này, mà có mày và thằng Quốc đi nữa chứ!

- ...

- Hồi mày đi vượt biên ra sao? Tôi hỏi Thế.

- Tao không nhớ!

- Mày phải nhớ chớ! Mày phải nhớ để kể lại cho con cháu mày biết chớ! Tôi lên lớp dạy đời.

- Tao không muốn nhớ và cũng không cần nhớ! Mày để cho tao yên được không?

Thế nhăn với tôi và quay lưng đi vô lại trong khoang tàu. Trước khi mở cửa vào khoang tàu, Thế quay lại nói.

- Tao có để 2 lá thư để trên giường. Khi mày lên văn phòng thì ghé ngang bưu điện gởi giùm tao. Mày muốn đọc thì đọc, và nhớ dán bì thư lại cho tao.

- OK!

Đó là lần cuối tôi gặp và nói chuyện với Thế.

**

- Tụi bây có thằng nào thấy Trung Úy T... không? Tôi hỏi lớn trong lúc điểm danh sáng.

- Không!

- Không!

- Không!

- Quốc, mày đem theo 2 thằng đi kiếm Trung Úy T.. cho tao! Coi trong phòng ăn, phòng ngủ, bệnh viện hay phòng trực. Có gì báo cho tao biết. Tôi ra lệnh.

- Tụi bây có nhớ là gặp Trung Úy T.. lần cuối là lúc nào không? Tôi hỏi đám lính trong Tiểu Đội.

- 8, 9 giờ tối hôm qua!?!

- Tôi thấy ổng bận lể phục rời phòng cở chừng 9:30 tối hôm qua! Tôi tưởng ổng có chuyện đi gặp Trung Tá M.., nên mới mặc lể phục như vậy.

**

- Tìm mọi chổ mà không thấy Trung Úy T...! Quốc báo cho tôi biết.

- Báo cho phòng lái biết là có người rớt xuống biển. Tôi quyết định nhanh chóng và ra lệnh.

Chuông báo động, tiếng loa gọi và còi tàu hụ vang rần. Cả tàu nhốn nháo tập hợp điểm danh.

Cả 5 chiến hạm của Hạm Đội Lữ Đoàn Lưu Động 3 quay 180 độ, dàn hàng ngang cách nhau 2 dặm, đi ngược lại tuyến hải trình đã đi qua để tìm Thế. Mỗi tàu có hơn 20 người lính trực trên boong với ống nhòm để quan sát mặt biển. Vài chiếc trực thăng bay trước hạm đội phụ quan sát thêm mặt biển.

Thủy Quân Lục Chiến tuyệt đối không bỏ rơi đồng đội trong bất cứ trường hợp nào.

Sau 12 tiếng đi lui lại trên tuyến hải trình mà vẩn tìm không thấy Thế, 5 chiến hạm chuyển hướng đi để ghé vào Hồng Kông.

Mẹ Thái Bình Dương lại giang rộng vòng tay ôm thêm một người con vào lòng!

**

Thư của Thế viết về gia đình.

Thưa ba má,
...
Con đã gặp lại chị P.. ở Thái Lan. Chị P... hiện đang cư trú tại địa chỉ ... Ba má liên lạc với Sở Cư Trú và xin họ can thiệp để bảo lãnh chị P...
...
Đứa con bất hiếu,

Thư của Thế viết cho tôi.

Khánh,
...
Mày là người duy nhất hiểu tao và biết chuyện của tao, mày biết tao phải...

Đây là lần đầu và lần cuối tao làm trái lệnh mày; mong mày hiểu và thông cảm.

Tận trung (Semper Fi)!
Your brother,

**
Và tôi gởi 2 lá thư trước ngày tàu vào Hồng Kông. Một lá thư của Thế và một lá thư của tôi cho gia đình Thế.

Từ ngày đó, tôi sống với nỗi xấu hổ là tôi đã bỏ rơi một đồng đội, bỏ rơi người anh em của tôi. Thủy Quân Lục Chiến tuyệt đối không bỏ rơi đồng đội trong bất cứ trường hợp nào.

Tổ bà mày Thế! Mày không được quyền chết khi chưa có lệnh tao.

Chúa thương sót và tha tội cho mày!
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Marisa Miller là người đẹp sexy nhất hành tinh

Siêu mẫu nóng bỏng nước Mỹ được độc giả FHM trên khắp thế giới bầu chọn.

Image
Siêu mẫu Marisa Miller. Ảnh: Sun.
Vừa qua, nữ ca sĩ Cheryl Cole đứng đầu cuộc bầu chọn do FHM tiến hảnh ở Anh, đoạt danh hiệu Mỹ nhân sexy nhất thế giới. Tuy nhiên, độc giả trên khắp thế giới của FHM lại chọn Marisa Miller là Người đẹp sexy nhất hành tinh.

Theo Sun, “thiên thần” của Victoria's Secret đánh bại Megan Fox để giành chiến thắng, được quyết định từ những phiếu bầu của độc giả toàn cầu gồm Anh, Mỹ, Australia, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Nam Phi….
Image
Chân dài xứ cờ hoa có vẻ đẹp hút hồn. Ảnh: VS.
Biên tập viên FHM Colin Kennedy cho biết: “Siêu mẫu người California Marisa Miller có vẻ quyến rũ chết người, hút hồn phái mạnh trên khắp thế giới”.

“Cô ấy chiếm được nhiều phiếu hơn bất cứ ứng viên nào trong cuộc bầu chọn của độc giả tới từ 20 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều đó đã giúp cô ấy trở thành người đẹp sexy nhất hành tinh”, Colin khẳng định.

Marisa Miller cũng vừa được chọn vào top 10 mỹ nhân nóng bỏng nhất thế giới của tạp chí đàn ông Maxim.

Thanh Hương
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

HUẾ của một thời
Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.
Trong giọng nói, có một cái gì đó gọi là rất Huế, đối với Quảng Nam-Ðà Nẵng, cách nhau một ngọn đèo thì có khác, cũng là điều đương nhiên, nhưng với Quảng Trị, cách mấy mươi cây số đường đồng bằng, giọng Huế không lẫn vào đâu được. Dạ, dạ thưa tiếng nói nhỏ nhẹ dịu dàng.

Vì phải sống trong một hoàn cảnh đặc biệt nên phải kềm giữ sự yên tĩnh, nho nhã theo cung cách quý tộc, quan liêu hay bình dân thôn giã cũng phải nhu mì, gia giáo. Theo các nhà nghiên cứu về thổ âm thì cho rằng, “Ở nơi nước trong thì tiếng nhỏ, ở nơi nước đục thì tiếng tho.ạ” Ðiều rất Huế trong giọng nói này, lâu hóa thành thói quen, được xem là một phong thái lịch sự đặc bi t không đâu có. Làm sao người ta quên được cái tiếng dạ lạ kỳ của người con gái Huế, dạ để khỏa lấp, dạ để từ chối, dạ để đồng ý hay dạ có nghĩa là không gì hết. Làm sao anh chàng trong Quảng ra thi có thể hiểu hay chịu đựng nổi một lối trả lời vô thưởng vô phạt, nhưng nhỏ nhẹ, không thể trách vào đâu của một người con gái Huế mà anh ta muốn làm quen.

-Em tên chi? Dạ!
-Nhà em ở đâu? Dạ!
-Tôi có thể làm quen với em được không? Dạ!

Phải chăng ở nhà trước khi đi Mạ đã dặn không ăn trầu người, đừng để người lân la, trước ngoài sân sau lần vô bếp, tốt hơn hết là cứ dạ cho nhỏ nhẹ, cho lễ phép, cho tới khi mô hết dạ nổi thì thôi. E lệ, khép nép là những đặc tính của người con gái Huế mỗi khi nàng gặp khách lạ như thi sĩ Ðinh Hùng đã ghi lại, “Cô gái Huế đa tình, vành nón nghiêng khép nép.”

Người con gái Huế gặp người lạ, tay thì níu vành nón, sẵn sàng làm mạng che, tay thì quấn tà áo, vừa phòng thủ, vừa tránh những làn gió vô duyên quái ác. Cái thời áo trắng quần trắng đã làm cho bao nhiêu chàng trai phải xốn xang r5ng rời trước cái mờ mờ ảo ảo, nửa che mà nửa không của cái sương khói mờ nhân ảnh đó. Bạn cũng biết là nữ sinh Huế không bao giờ mặc quần đen, cái màu không tinh khiết, tội lỗi đó, có gì thì cũng phải che đậy, ngụy trang cho tới cùng.

Tính cách Huế thường là che dấu hay tự chế những cái phàm tục, bao gồm cả trong cách nói năng, ăn mặc, ứng xử. Khách đến nhà, thì gia chủ hay con cái trong nhà, phải quấn lại mái tóc, mặc vội chiếc áo dài, mới dám bước giáp mặt khách, dù thân hay sơ.

Tội nghiệp cho những người con gái Huế phải sinh ra trong những hoàn cảnh bần hàn, với một hai chiếc áo mà phải thay đổi luôn luôn, cứ bước ra khỏi cổng nhà là phải lên áo dài, bất kể đi đâu. Ngày nay phải chăng sự thanh lịch đó còn lại nơi chiếc áo dài, dù là chiếc áo dài cũ, bạc màu, vá víu của người con gái gánh một mớ bông thọ ra chợ, hay nơi bà bán đậu hũ trên vĩa hè, dù chân thì đi đất, miệng còn bập bập điếu thuốc Cẩm Lệ sâu kèn.

Cái ăn, cái ngủ là cái rất riêng tư của người Huế, nhiều khi phải giấu giếm đến mức sợ sệt, chớ có đột nhập nhà người ta vào cái thời điểm ấy. Cái nghèo muốn giấu đã đành, cái sang trọng, người Huế cũng không muốn cho ai biết. Cũng có khi cái nghèo mà nghèo kiểu cách, nghèo cái kiểu mệ chém củ khoai, buổi sáng trên chiếc mâm đồng chỉ có mấy chén cháo trắng thì gọi là “thời” cháo hoa.

Cái ăn không còn là cái khoái trá có thể hả hê trưng bày ra ngoài mà hình như phải giấu kín đi mới gọi là người nho nhã. Cơm đường, cháo chợ, cách đây vài mươi năm, trong xã hội Huế còn được xem là thứ tầm thường, hèn hạ. Bạn có biết là ngồi quán cà phê cụ Phấn là một sự cách mạng lớn trong xã hội Huế vào những thập niên năm mươi không? Ðến như khi cái xe nước mía từ Saigon du nhập ra Huế quả là đã thay đổi nhiều lắm. Ngay cả vào những năm 1950, Huế cũng chưa bao giờ có cái cảnh ăn đứng góc đường như chúng ta thB 0ờng thấy ở khu Pasteur-Lê Lợi Saigon.

Dân Huế ngày xưa thời phong kiến là vua chúa, quan lại, viên chức triều đình, binh lính và thư sinh, một thời sau đó là quân nhân, công chức và học sinh, sinh viên, không thấy có mấy ngành nghề công nghệ hay thương mãi, con buôn hình như không được trọng vọng mấy trong xã hội nho nhỏ này, cái lối xếp hạng sĩ nông công thương. Các ngành tiểu công nghiệp như chằm nón, đóng khăn, đóng giày, dệt lụa có khi được tuyển chọn từ các địa phương trong cả nước về kinh đô để phục vụ cho giới vua quan, sau đó ra cả cho thứ dân, nhưng không thấy có cơ hội phát triển ra rộng lớn.

Một nơi không có kỹ nghệ, không có nhà máy, không vận dụng nhiều đến cơ khí, thì cũng là một nơi yên tĩnh, nhịp sống lặng lẽ, chậm chạp. Thành phố mang một vẻ cổ kính hiền hòa, và không khỏi đượm một vẻ nghèo khó. Cũng như những thành phố cổ xưa, nhỏ bé khác, Huế như trong một chòm xóm nhỏ mà người dân hầu hết đều biết nhau, và vì sự giao thông hạn chế, chỉ có một chiều ngang theo quốc lộ, một mặt thì ngăn bởi biển, một mặt thì chặn bởi núi, ở đó thành kiến còn nặng nề, cố chấp, ít chấp nhận được cái mới lạ, tân thời. Khoảng năm 1948-49, khi mệ Sen (con vua Thành Thái), một người đàn bà Huế, lần đầu tiên dám lái một chiếc xe hơi Simca Aronde, thì cả thành phố coi đó là một hiện tư ợng dị thường.

Ðến với Huế, người ta như đi trở ngược lại dòng thời gian, ở đây, quá khứ bao trùm lên tất cả. Ở đâu cũng thấy những dấu vết nhắc ta nhớ tới những ngày tháng đã qua. Cung đình, bia mộ, lăng miếu thời Thăng Long hiện hữu trong gần tám thế kỷ, nhưng đã cách xa ta chừng hai thế kỷ, một phần đã mai một theo thời gian. Kinh đô Thuận Hóa thì vẫn còn đây với những di tích, đền đài, lăng tẩm, với những ngàn thông reo, với những bờ tre xanh mướt bên dòng sông Hương lặng lẽ. Những người đã khuất mà hình như linh hồn còn ở đâu đây, phảng phất bóng tinh kỳ hay tiếng trống chiêng, bát nhã, sênh phách cầm ca. Nơi đây, những dấu ấn cB Ba lịch sử còn ẩn hiện trên mỗi bờ thành, góc phố, nơi tấm bia mộ hay trên những lăng tẩm. Nơi đây là dĩ vãng, là tháng ngày qua, người ta về đây là để hồi tưởng, để nhớ nhung. Ở đâu cũng đượm một vẻ buồn, mà người ra đi thường ray rứt muốn có một ngày trở lại. Quê hương là cái gì mà người ta nặng lòng với nó như thế tôi thấy ở đây sao buồn quá! (Ðinh Anh Dũng trong Nhớ Huế).

Quá khứ của Huế được ghi nhận nhiều nhất qua những công trình lăng tẩm mà các vua nhà Nguyễn trước khi băng hà đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ kiểu cách và xứng đáng của một bậc đế vương, từ địa thế, khung cảnh tĩnh mịch đến các kiến20trúc lộng lẫy. Nơi nào cũng là núi rừng bao la, có đại thụ, có hồ sen cùng với tiếng chim, tiếng suối, tiếng thông reo đem lại cái cảm giác dịu dàng thơ mộng và yên tĩnh cho tâm hồn con người.

Huế không những là vùng đất của quá khứ, mà Huế còn như bao phủ bởi những linh hồn quá vãng, là của hương trầm, là của chuông mõ luôn luôn nhắc nhở tới sự hiện diện của những linh hồn oan khuất. Ðó là những linh hồn chưa siêu thoát trong một bề dày của Huế tang tóc, chết chóc, tức tưởi, của những ngày thất thủ kinh đô, khi giặc Pháp tấn công Huế năm 1885, lúc voi ngựa cùng người dày xéo lên nhau thoát ra bốn cổng thành, của giặc giã thanh toán hận thù nhau qua thời đại t=E 1 nguyệt tam vương của Tường-Thuyết, của hàng ngàn cái chết oan khuất giữa ngày Tết Mậu Thân mà máu xương rải rác từ đồng bằng Phú Thứ cho đến khe sâu Ðá Mài, của thây chất thây trên bờ biển Thuận An dưới cơn mưa pháo 75, của hàng trăm thân xác cuốn theo dòng nước lũ của mùa Thu năm Kỷ Mão. Có chỗ nào âm u, sầu thảm hơn Huế với những địa danh Ngã Tư Âm Hồn, Miễu Âm Hồn, cồn chém An Hòa, Mả Ông Trạng hay cả đến cái quán cơm có cái tên ma quái không đâu có là quán cơm Âm Phủ.

Ban đêm, Huế có chỗ nào là không có lập lòe nén hương, xuýt xoa khấn vái, cầu nguyện. Sau tang tóc Mậu Thân, hãy về Huế mà nghe, nửa đêm về sáng, láng giềng, hàng x m vang dậy chuông mõ và tiếng tụng kinh cầu nguyện cho những người đã mất sớm được siêu thăng. Huế là nơi đã trải qua nhiều biến cố đau thương, Huế đã than khóc với những tang tóc và oan khuất sẽ không bao giờ phai lạt. Nơi mỗi khu vườn của Huế đều có mỗi am thờ cho những người khuất mặt, với hoa quả, một cành hoa phượng và một ngọn đèo leo lét. Linh hồn những người khuất mặt hình như vẫn còn lẩn khuất đâu đây.

Ngày xưa mỗi năm vào ngày hai mươi ba Tháng Tư Âm lịch, để ghi nhớ ngày thất thủ kinh đô trong lịch sử, khắp nơi, nhất là ở vùng chợ Ðông Ba, người ta đã dựng trai đàn, chẩn tế suốt một tuần lễ theo nghi thức Phật Giáo đ3 cầu siêu cho những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát. Cũng như ngày lễ Vu Lan ở Huế có phần trọng đại hơn với những nghi lễ cúng cô hồn các đảng thập phương, phóng sanh, phóng đăng để hồi hướng công đức cho tất cả những người đã mất. Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.

Nói đến Huế, chúng ta liên tưởng đến những cảnh chùa chiền. Không đâu trên đất nước, trong một vùng đất nhỏ hẹp mươi chục cây số vuông, mà có tới trên một trăm cảnh chùa. Ðược cơ duyên như vậy là do từ gần bốn trăm năm trước. Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Ðế, tên húy Nguy ễn Hoàng trong khi vào Nam tìm Hoành Sơn nhất đái để dung thân, đã hạnh ngộ với một bà tiên (hay bụt) trong giấc mơ, chọn đất Hà Khê (Kim Long) để dựng chùa Thiên Mụ. Cho tới những đời vua sau, chùa chẳng những được trùng tu và xây dựng thêm (tháp Phước Duyên xây năm 1844 dưới thời vua Thiệu Trị) mà khắp đất thần kinh, chùa chiền được xây dựng thêm rất nhiều, khiến bây giờ Huế có những cảnh chùa rất đẹp, xét về mặt nguy nga tráng lệ, không thể so với lăng tẩm, nhưng không thiếu khung cảnh u tịch, nên thơ. Báo Quốc, Từ Ðàm, Diệu Ðế, Thuyền Tôn, Tường Vân và nhất là Linh Mụ, là những ngôi chùa đã ghi nhiều kỷ niệm trong lòng dân đất Thuận Hóa, Phú Xuân. Và trong tuổi ấu thơ của mỗi người Huế, ai không ghi dấu lại kỷ niệm của một=2 0ngày lên chùa?

Nhớ Huế làm sao khỏi nhớ đến những khu vườn. Vườn là khoảng không gian của thời thơ ấu của mỗi chúng ta, là bóng mát thời trẻ dại, là những nỗi hẹn hò, là những thứ trái cây ngọt ngào hay chua chát mà vẫn mang đầy hương vị của thời mới lớn. Những cây mít, những hàng ổi, những gốc thơm, những chùm khế. Nào nhãn lồng, nào vải trạng, nào là dâu. Có khi là bồ quân, có khi là lựu, có khi là đào. Tuổi ấu thơ và nhất là thời mới lớn, tuổi dậy thì, lòng ai không khỏi ngát hương hoa, trong một khu vườn tĩnh mịch nào đó, với nỗi lòng rung động thuở ban đầu còn trong suốt và đơn giản như những giọt sương mai.

Vườn của những vương phủ với giả sơn, hồ sen, thủy tạ, với những bức bình phong, tường ngăn trang trí bởi những mảnh sứ vỡ làm thành hình Long Lân Quy Phụng hay Mai Lan Cúc Trúc.

Những khu vườn đó đây ở Vĩ Dạ, ở Kim Long, ở Gia Hội, ở Ngự Viên, ở An Cựu là những khu vườn đã mang bao nhiêu lời thơ ý nhạc, mang bao nhiêu tình yêu thuở thiếu thời, là nơi của hẹn hò, mong đợi, thương nhớ

Có phải ngày xưa vườn Ngự Uyển
Là đây ho a cỏ giống vườn tiên
Gót sen nhẹ bước lầu Tôn Nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên
(Nguyễn Bính)

Vườn Huế ngày Hè còn rộn tiến ve, nhắc nhở tới mùa thi cũng là mùa chia cách. Giữa những buổi trưa yên lặng mùa Hè, một tiếng ve cất lên khởi đầu, rồi muôn ngàn tiếng ve vùng lên phụ họa, tạo nên một khúc hòa tấu, âm thanh lan ra từng vùng rộng lớn. Cùng với hoa phượng nở trên những con đường xứ HuA, tiếng ve đã mang mùa Hè đến bao nhiêu lần trong quãng đời học trò, ghi lại bao nhiêu mối tình, bao nhiêu sum họp và chia ly.

Nhà ở Huế thường làm sâu vào giữa vườn, từ cổng vào nhà có khi phải qua một hàng rào bông cẩn (dâm bụt) hay chè tàu, thỉnh thoảng rắc bởi những sợi dây tơ hồng màu vàng rực. Cậu học trò mới lớn, còn rụt rè, nhút nhát muốn làm quen với cô bé trong nhà làm sao có đủ cam đảm để vượt qua cái con ngỏ dài hun hút đó, hay những đêm trăng, đành thơ thẩn qua lại nơi ngỏ ấy mà ôm mối tình si. Hương trong vườn Huế, có khi là hương bưởi, có khi là hương dạ lý, có khi là hương sói, hương lài, hương mộc lan, cũng có khi là hương sầu 1ông thơm ngát một khung trời thời trẻ dại. Và đêm vườn Huế làm sao có thể thiếu trăng. Trăng lặng lẽ soi những bóng cây trong vườn, trăng lên trên đọt cau, trăng ướt trên ngọn dừa. Và trăng trên sông Hương, trăng trên màu sáng bạc của cầu Trường Tiền, trăng trên mái thuyền, trăng vỡ dưới mái cheo và ánh trăng rung động theo âm thanh của những tiếng hò đêm trên sông.

Huế với những dòng sông chảy ngang dọc tạo cho Huế một vẻ đẹp tươi mát dịu dàng. Huế có con sông Hương lượn lờ qua Lăng Gia Long, Minh Mạng, qua Ðiện Hòn Chén, qua Văn Thánh, Linh Mụ, Kim Long, về Vỹ Dạ, Cồn Hến, Tây Thượng trước khi tới Thuận An. Huế có con sông đào xinh xắn từ cầu ngói Thanh Toàn, qua An CBu về Bạch Hổ nắng đục mưa trong, với con sông từ Gia Hội, ngang qua chùa Diệu Ðế qua Ðông Ba tạo nên cái cảnh “Ðông Ba, Gia Hội hai cầu, ngó vô Diệu Ðế bốn lầu hai chuông,” với con sông đào từ cầu Bạch Hổ, qua Phú Xuân, tới An Hòa. Tất cả dòng sông đó đã ôm ấp Huế, chảy qua những khu nhà vườn, những bậc tam cấp của những khu vườn ven sông, mang những tiếng cười trong trẻo của ai ngày đó vang qua tới bờ sông bên kia. Với những dòng sông như thế, Huế có những con thuyền bềnh bồng trên bến nước, những ngọn đèn hiu hắt bên sông và cả những câu hò vang vọng, mang mang theo sóng nước đi rất xa, và cả với những mối tình chia cắt của ngày nào khi mà “thuyền về Ðại Lược, duyên ngược Kim Long.”

Nhưng cùng theo với những dòng sông đó, mỗi năm cơn bão lụt đã gieo tai họa thảm khốc xuống Huế. Nghèo đói, tai ương hầu như triền miên trên mảnh đất miền Trung cằn cỗi, nhưng Huế chính là tâm điểm của hiểm họa thiên tai. Có nơi nào chịu nhiều nỗi bất hạnh, thống khổ như Huế. Những xác người trôi ra biển cùng với những mái tranh nghèo theo những cơn nước lũ, cơn đói đổ ập lên cả một vùng đất cằn cỗi trong nhiều ngày tháng. Có nơi nào chịu những cảnh chết chất chồng dày xéo, có nơi nào chịu cảnh chết thảm khốc trong những mồ tập thể như Huế.

Huế như một người con gái tài hoa mà bất hạnh. Huế là “nơi đi để mà nhớ, không phải ở để mà thương.” Người xa Huế như xa một mối tình không trọn vẹn, nhưng xa rồi, thương nhớ xót xa biết bao nhiêu. Huế là nỗi ám ảnh không rời, Huế là nơi gợi cho chúng ta những giấc mơ xưa không bao giờ thành, là nơi chúng ta thường mong ngày trở lại nhưng không bao giờ đúng hẹn. Chúng ta khó tìm lại những gì của Huế trong thời thơ ấu của chúng ta, như không thể “tắm hai lần trong một dòng sông,” như không thể tìm lại mùi vị của một món ăn ngày trước, hương thơm dịu dàng của một đêm trăng sáng trong vườn xưa, và một mối tình xa xôi đã mờ nhạt.

Huy Phương
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests