Bảo Giang
Cứ mỗi năm đến ngày 30-4 là người dân Việt trên toàn thế giới lại nhìn nhau và tự hỏi:
- Đến bao giờ ta mới lấy lại được quê hương để xóa đi kiếp đời nô lệ và lưu vong? Đến bao giờ ta mới được hát lại bài ca Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền với bước đi hiên ngang tự chủ trên phần đất của quê ta?
Hỏi như thế là người dân Việt Nam ngày nay đã thấm nỗi đau của việc mất nước, để người trong nước thì làm nô lệ cho Việt cộng ( chủ nghĩa cộng sản) và người ở ngoại quốc thì thật khó mà nuốt trôi miếng bánh, dù rất ngon ngọt, trên phần đất lưu đày.
*Tại sao lại có chuyện nghịch lý, người Việt sống trên quê hương mình mà phải coi là nô lệ và người ở nưóc ngoài, nay đã mang những quốc tịch ngoại như Mỹ, Úc, Pháp Canada , Đức v.v. mà lại bảo là tủi cho tấm bánh trên phần đất lưu đày? Há người viết là kẻ bi quan? Bởi lẽ, nước Việt Nam vẫn còn đó, vẫn có mặt trên bản đồ thế giới. Vẫn có một dân số ghi trong sổ bộ thế giới là hơn 80 triệu ngươi trong tổng số hơn 4 tỷ người trên trái đất. Đặc biệt, vẫn có ngôn ngữ riêng, chữ viết riêng và cả một nền văn hóa Nhân Bản do người tỵ nạn ra khỏi nước, đem vào sinh hoạt trong cộng đồng thế giới và làm cho thế giới phải ngưỡng mộ. Vậy tại sao lại gọi là mất nước?
Vâng, gọi là mất nước, bởi vì, từ năm 1930, bọn Hồ chí Minh và tập đoàn cộng phỉ đã đem chủ thuyết vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc vào Việt Nam với mục địch chối bỏ tình nghĩa gia đình, tiêu diệt nền luân lý đạo đức của xã hội, của tôn giáo rồi xoá bỏ ranh giời tổ quốc để làm nô lệ cho chủ nghĩa cộng sản. Nhưng núp dưới chiêu bài chống ngoại sâm, giải phóng dân tộc. Việt cộng đã cướp được chính quyền ở miền bắc vào năm 1954 rồi đẩy cả nước vào cuộc chiến đẫm máu. Với sự trợ giúp đắc lực của hai đế chế cộng sản Nga- Tàu, Việt cộng đã thắng trong cuộc chiến súng đạn với Mièn Nam vào ngày 30-4-1975. Từ ngày đó, nước Việt Nam với chủ thuyết Nhân Bản, Dân Tộc, tôn trọng nếp sống luân lý, đạo đức gia đình, đạo đức tôn giáo, bảo vệ ý thức tự chủ về nền độc lập của quốc gia đã bị Việt cộng thôn tính và xóa sổ. Ngày nay, trên bản đồ VN, vẫn còn sắc dân Việt Nam , nhưng bản thể nhân bản xã hội của Việt Nam không còn chỗ đứng. Trái lại, chỉ có bản thể duy vật biện chứng nô lệ được tồn sinh, phát triển mà thôi. Trong chiều hướng phát triển này, người ta dễ kiểm nhận những sự kiện sau:
1, Xã hội nhân bản Việt Nam bị đồng hóa và được thay thế bằng bản thể duy vật biện chứng (ác độc. bất nhân) của cộng sản
Tôi không biết nhiều về đời sống của dân mình trưóc năm 1954, nhưng từ sau đó và cho đến năm 1975, đi bất cứ nơi đâu, từ thôn quê cho đến thị thành, gặp bất cứ giai cấp nào của xã hội ở miền nam, tôi vẫn còn nhìn ra được, ở trong đó, tuy trình độ dân trí không cao, nhưng họ là những nhân phẩn đáng qúy trọng với đầy đủ nhân tính. Nghĩa là họ hiền hậu, đạo nghĩa, không dối trá và luôn cố gắng xây dựng đời sống dựa trên căn bản lương thiện. Ba tôi cũng thường kể cho con cháu nghe về những câu chuyện, mẫu người tương tự như thế ở ngoài bắc vào trưóc năm 1954. Nhưng ngưòi cô của tôi, ở lại ngoài bắc, đã vào thăm cha mẹ tôi ngay sau cái ngày mà người ta vẫn còn say men chiến thắng vào tháng 8-1975. Sau hai tháng thăm bà con thân nhân ở trong nam, trong bữa cơm tiễn biệt để kẻ ở Nam, người về Bắc, cô đã nói vơi cả gia đình tôi là: Điều hạnh phúc của anh chị và các cháu ở trong nam là đã được sống hơn chúng em và đồng bào ta ở ngoài kia 20 năm trong tình người chân thật. Sự giàu nghèo , cách biệt về vật chất, tuy là một khổ cực, nhưng không phải là thước đo hạnh phúc. Tiếc rằng, dưới cái chết độ này, nay mai cả nưóc ta đều phải sống bằng sự giả dối của nhũng kẻ nô lệ. Phải lừa đảo lẫn nhau mà sống!
Chúng tôi không hiểu được điều cô đã nói vào hôm ấy, nhưng dần dần, và cho đến nay, có lẽ cả nước đã nhận chân được gía trị của câu nói ấy là: Người Việt Nam đã bị Việt cộng đồng hóa bằng đời sống dối trá, lừa đảo và phản bội. Nói một cách chính xác hơn, người Việt Nam đang phải sống theo kiểu sống của Việt cộng mà Trần quốc Thuận, phó chủ nhiệm quôc hội của chúng đã định nghĩa như sau (10-2006): “ Ngày nay, người ta phải nói dối nhau mà sống. Nói dối lâu ngày thành thói quen, Thói quen lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là đạo đức của xã hội Việt cộng”
2. Nền Văn Hóa Nhân Bản Việt bị thay thế bằng nền văn hóa nô lệ
Nền văn hóa nhân bản của Việt Nam cả nghìn năm trước được xây dựng vững chắc trên hai lãnh vực, Văn hóa bình dân ( văn chương truyển khầu, Ca Dao Tục Ngữ v.v) và văn hóa văn tự, đặt nền tảng trên Nhân Lễ Nghĩa Trì Tín. Ai trong chúng ta chưa từng nghe qua lời ru vào đời khi còn nằm nôi: “ Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra(Ca dao). “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chi nhân mà thay cường bạo,” Bình Ngô Đại Cáo ( Nguyễn Trãi)
Đó là văn hóa, đó là tự hào và là sự tồn sinh của dân tộc. Và hẳn nhiên, ai cũng biết là ngày xưa khi đến trường, ( kể cả dưới thời pháp thuộc) một trong những điều đầu tiên trẻ đươc dạy dỗ là: Tiên học Lễ hậu học văn. Nghĩa là, học đường có cả một chương trình về Nhân Lễ Nghĩa Trì Tín cho học sinh. Hơn thế, còn cả một chương trình dài về lòng tự chủ, tính độc lập của quê hương để phát triển tinh thần yêu nươc thương dân cho những mầm non của đất nươc. Chính vì có một nền văn hóa nhân bản lâu đời ấy nên thời nào đât nước ta cũng có những anh kiệt. Xa kia thì có Hưng đạo Vương, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung… Gần thì như Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Phan thanh Giản rồi Nguyễn thái Học đến những Ngô đình Diệm, Nguyễn khoa Nam, Pham văn Phú, Trần văn Hai, Lê văn Hưng Lê Nguyên Vỹ, Hồ ngọc Cẩn….Mỗi người một vẻ làm nên những nét đẹp tô thắm non sông.
Nhưng kể từ ngày đất nươc ta bị Việt cộng ( chủ nghĩa cộng sản) đô hộ, học đường không còn là nơi đào tạo những anh kiệt cho non sông nữa. Trái lại, nơi ấy trở thành lò đào luyện những bội phản và vô đạo theo gương bất nhân bất nghĩa của Hồ chí Minh.
Nói cách khác, nơi ấy chỉ chuyên lo đào tạo những kẻ phục vụ cho chủ nghĩa cộng sản trong mưu đồ triệt hạ chủ nghĩa quôc gia độc lập. Kết qủa là sau mấy mươi năm dân ta bị Việt cộng đô hộ. Người dân đã đánh mất bản ngã tự chủ của dân tộc, đi sâu vào con đường bạc nhược, mất tính phản kháng nên để mặc cho đám quan chức của bọn cộng sản tự tung, áp chế, đè lên đầu lên cổ dân ta bằng những hệ thống luật pháp phi luân, phi pháp, bất nhân bất nghĩa. Phần chúng, tựa đầu vào thế lực cộng sản, chiếm lấy quyền lực và áp đặt lên dân tộc ta những bài ca không cha không mẹ, không đạo lý, không tổ quốc:
"Bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương”, hoặc là” “ Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười,” (Tố Hữu).
Với một nền tảng văn hóa và căn cơ phản trắc bẩm sinh như thế, nên những tên Việt cộng như Minh, Đồng, Duẫn, Giáp, Khiêm đến Mười. Phiêu, Khải, Anh, Kiệt, Cầm đều tựa đầu vào thế lực của cộng sản mà nắm được quyền lực, làm thái thú ở Việt Nam, chúng đã không ngần ngại cắt đất, cắt biển của dân tộc Việt Nam để dâng cho quan thầy tầu cộng. Và ngày nay thì đến bọn Dũng, Mạnh, Triết, Trọng theo chiến lược của đảng cộng mà cắm lại cọc mốc biên giới vào sâu trong nội địa nước ta. Tệ hơn thế, chúng còn rước bọn tàu cộng vào chiếm đóng ngay giữa lòng đất của quê hương ta là Cao Nguyên Trung Phần.
Ai cũng biết, dưới một chế độ nô lệ, dân bản xứ bao giờ cũng bị áp đặt bởi một chính sách ngu dân và bưng bít thông tin, nên dân bản xứ không hề hay biết gì về những việc làm phi nhân bất nghĩa của nhà cầm quyền. Thời Pháp thuộc, dĩ nhiên, cũng không có ngoại lệ. Nhưng nay dưới thời Việt cộng, dân ta còn bị áp đặt bằng một hệ thống tuyên truyền bất lương gian trá hơn. Từ sách giáo khoa về địa lý, lịch sử cho đến báo chí và truyền thanh truyền hình thời sự, giao tế hàng ngày, hầu như rất khó tìm được một biểu hiện thật, tin thật. Trái lại, chỉ thấy những trò bất lương và gian trá của nhà nước để lừa dối dân chúng. Tệ hơn thế, chúng còn ra sức biến dân ta thành một tập đoàn chỉ biết nói dối, lừa đảo nhau mà sống. Ai dám nói lên điều thật lẽ thật thì ngục tù, tra tấn của chế độ áp bức ấy không hề nương tay.
Theo đó, nếu đem so xánh cái bạo tàn của thời Pháp thuộc với cái ác độc của chế độ cộng sản thì xem ra, cái bạo tàn, ác độc của chế độ Việt cộng đè trên cổ dân ta còn bạo tàn gấp trăm lần cái bạo tàn của phong kiến và thuộc địa góp chung lại. Thực vậy:
A. Thời Pháp thuộc
1. Thời Pháp thuộc, chúng củng giết dân ta, nhưng đa phần là giết lén lút, và giết từng cá nhân đơn lẻ. Thời Pháp thuộc không có chính sách giết người tập thể như Việt cộng đã áp dụng vào thời đấu tố, hay trong lúc chiến tranh vào tết Mậu Thân ở Huế vào năm 1968. Và chưa có thời nào những kẻ sát nhân lại đắc dụng như thời Việt cộng
2. Thời Pháp thuộc, nhà cầm quyền vẫn có chủ trương xây dựng và giáo dục nền văn hóa, luân lý nhân bản xã hội cho học sinh. Trái lại, chế độ áp bức của Việt cộng chủ trương xây dựng xã hội không dựa trên chủ thuyết nhân bản và luân lý xã hội. Nhưng dựa trên nền tảng vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo. Chúng muốn xoá bỏ hẳn nền luân lý nhân bản đạo đức của xã hội để theo gương của Hồ chí Minh là chối bỏ tình nghĩa, liên hệ trong gia đình. Hủy diệt niền tin và luân lý đạo đức của tôn giáo của xã hội, cuối cùng là xóa bỏ biên cương của lãnh thổ
3. Dưới thời Pháp thuộc, đường biên giới của tổ quốc ta không bị xâm lấn và bọn thực dân cũng không bao giờ cắt đất cắt biển của dân ta giao cho kẻ khác, để cùng chia sẻ quyền lợi với lân bang.
B Thời cộng sản đô hộ dân ta thì sao?
1. Về đối nội, như đã nói ờ trên. Mặt đối ngoại: Chúng chủ trương đưa đất nước Việt Nam vào qũy đạo thuộc địa, làm nô lệ cho tàu cộng. Bằng chứng điển hình là:
1. Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng đã cúc cung đời nô lệ qua việc ký công hàm năm 1958, công nhận chủ quyền 12 hải lý của Tàu cộng trên quần đảo Trường Sa Hoàng Sa là phần đất thuộc Việt Nam về mặt lịch sử và trực thuộc miền nam Việt Nam quản trị theo hiệp định Geneve năm 1954 quy định.
2. Đến cuối năm 1999 và 2000, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Nguyễn mạnh Cầm lại ký hiệp định và hiệp thương về biên giới và lãnh hải nhường thêm những địa danh như thác Bản Dốc, Ải Nam Quan và vùng biển bắc bộ rộng hàng ngàn ngàn Kilô mét vuông trên bộ cũng như lãnh hải, cho Tàu cộng để tỏ rõ ý chí thần phục bành trướng phương bắc.
3. Đến nay, Nguyễn tấn Dũng, Nông đức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Phạm phú Trọng, không những chỉ đồng ý đóng lại các cột mốc ở biên giới lui sâu vào xương thịt Việt Nam cho vừa lòng Tàu cộng. Chúng còn ruớc Tàu qua cao nguyên trung phần Việt Nam , tiếng là nhượng đặc quyền quản trị và khai thác mỏ bauxite. Nhưng thực tế là chúng đang thực hiện chủ trương đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của tàu bàng cách bao che và khai mở ra cuộc di dân vĩ đạì, được bảo vệ và tổ chức từ phương bắc tràn qua lãnh thổ Việt Nam sinh sống một cách hợp pháp. Hợp pháp vì nhà cầm quyền Việt cộng có khi nào dám đòi hỏi đến việc cấp chiếu khán có thời hạn, hoặc được quyền kiểm soát số nhân viên thuộc công nông trường và an ninh của tàu cộng sang sinh sống, khai thác hầm mỏ hay rà đặt các căn cứ quân sự? Những đặc khu này có phải là một nhượng địa cho Tàu cộng hay không?
Đó là những tội trạng, Trời không tha, đất không dung của Việt cộng đã phạm với dân tôc ta. Nhưng tệ hại hơn cả là, cho đến nay nhiều người vẫn chưa nhìn ra được là mình đang sống dưới ách nô lệ của cộng sản. Cứ tưởng Việt cộng là nguồn gốc nhân bản Việt Nam , nên vẫn có kẻ đi theo chúng để kiếm sống, rúc rỉa tìm ăn trên muôn vàn thống khổ của toàn dân. Tệ hơn thế, còn có loại cho chúng là những “ lương đống” đã ra tay cứu dân cứu nước.
Nay, 30-4 rồi, hãy thực tâm một lần, đặt chúng lên bàn cạn đo và hỏi xem chúng là ai? Có phải:
1. Chúng là những lương đống, tôi thần cứu nước của Việt Nam
hay là bọn gian manh bán nước. Hoặc chúng là tiên là phật là thánh là người hay là loài có đuôi?
1.1 Là những lương đống, tôi thần cứu nước thì không thể là những kẻ bán nước giết dân. Bọn Hồ chí Minh và Việt cộng không đồng nghĩa với định nghĩa này. Bằng chứng, hãy nhìn cuộc đấu tố từ 1953- 1957, rồi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm đến tết Mậu Thân ở Huế. Hãy nhìn cho kỹ những bản văn chúng gọi là công hàm về Trường Sa, Hoàng Sa năm 1958 và hiệp thương về Nam Quan, Bản Dốc vào năm 1999 và năm 2000 thì đủ biết chúng không phải là nhưng “lương đống” của dân Việt. Trái lại, chúng đích thực là những tên nghịch tặc phản quốc cầu vinh.
1.2 Bảo rằng chúng “đánh Mỹ cứu nưóc, giải phóng miền nam“ để cứu dân chăng? Dứt khóat ngươi dân Việt Nam không cầu có cuộc chiến này. Nói cách khác, ngưới Việt Nam cầu có được cách “nô lệ” vào những tháng ngày trưóc 30-4-1975. Ngưới Việt Nam không muốn nhận những qủa đạn giải phóng vào trường học Cai Lậy để giết chết những mầm non của quê hương Việt. Việt Nam không muốn nhận những qủa đạn giải phóng gởi vào nhà thờ, gởi vào nhà Chùa. Người Việt Nam không muốn đươc giải phóng bằng lựu đạn, bằng dao mã tấu và bằng đạn Ak, bằng sơn pháo dọc trên các đại lộ, trong thành phố hay trong các thôn làng. Nhưng ngươi Việt Nam muốn đươc “nô lệ “ trong Tự Do, Nhân Quyền, Công Ly và muốn hưởng một xã hội ấm no trong nền luân lý và đạo đức làm ngươi như trước ngày 30-4-1975. Đó là lời thật, lẽ thật. Đó là ươc muốn của ngươi dân Việt Nam . Nên “ giải phóng miền nam” chỉ là ngụy từ của một bọn cướp không hơn không kém.,
1.3. Việt cộng muốn gì khi chúng khơi cuộc chiến tranh? Trước hết là muốn giải tỏa áp lực ở miền bắc. Sau cuộc đấu tố phú nông địa hào dã man từ 1953-1956 và vụ án Nhân Văn Giao Phảm, miền bắc đã thực sự rơi vào cơn khủng hoảng, không có lối thoát. Nên việc mở chiến tranh vào miền nam vơi chiêu bài “ chống Mỹ cứu nước” chỉ là một phương cách giải áp lực cho bè lũ cộng sản ở miền bắc cũng như để chúng thực hiện phương cách làm tay sai, mở rộng biên giới cho bọn cộng sản Ngà tàu. Theo đó, không thể có chữ “ lương đống” cho bọn gian manh cộng sản.
2. Chẳng lẽ chúng lại là Tiên, là Thánh, là Phật hay là người?
Câu hỏi này không khó trả lời. Bởi vì, nếu là Phật thì Phật không thể pháo kích vào chùa giết Phật tan như xác pháo. Là Thánh thì thánh đã không đột kích nhà Thờ để tặng cho tượng Thánh qủa mìn nát tan thây. Là người thì người không thể tặng mìn tặng pháo, tặng mã tấu cho ngưòi miền nam. Vậy chúng là ai? Qủy dữ chăng? Không, chúng là Việt cộng đãy. Không phải là Phật, không phải là Thánh và cũng không chắc là người có nhân tính đâu. Bởi lẽ, trong sách vở vẫn thường bảo rằng, Chỉ có loài ác qủy mới chống lại thần thánh và nhân bản con người thôi!
Nay, sau 35 năm đưa lên bàn cân đo, tôi tin rằng không còn một người Việt Nam nào nghi ngờ về sự kiện là Tiên là Phật là Thánh là lương đống là ngưòi có nhân bản tính của chúng nữa. Trái lại, những bộ măt thật của loài có đuôi đã hiện nguyên hình rồi. Theo đó, chỉ cón lại một câu hỏi duy nhất là: bằng phương cách nào chúng ta sẽ khai trừ chúng ra khỏi xã hội Việt Nam ?
Nhân ngày Quốc Hận thứ 35, ta hãy nhìn lại mính và hãy nhìn người xem thế nào? Việt Nam và Ba Lan có những gì khác hoặc giống nhau, để một bên đã thành công trong việc thiêu rụi cái chữ chủ nghĩa cộng sản trên quê hương, còn một bên vẫn phải còng lưng đeo hai chữ nô lệ cho cộng sản.
Này nhá:
* Ba lan chỉ có mỗi tượng đài Lech Walesa. Việt Nam ta có cả trăm, thậm chỉ cả ngàn tượng đài Lech walesa!
* Ba Lan chỉ có mỗi công đoàn Đoàn Kết. Việt Nam ta có hàng trăm đảng phải, hội đoàn, tổ chức chống cộng.
* Ba Lan có một khát vọng tiêu diệt cộng sản để xây dựng một xã hội Tự Do, theo thể chế Dân Chủ Đa Nguyên và dựa trên nền tảng Bình Đẳng và Công Bằng trong xã hội Việt Nam ta cũng có cùng chung một khát vọng như dân tộc Balan. Nhưng tại sao họ thành công còn ta thì mãi chỉ là một giấc mơ.
Dễ hiểu lắm, tại họ chỉ có một Lech Walesa, chỉ có một công đoàn đoàn kết, còn ta có nhiểu qúa!
- Bạn toàn nói chuyện dở hơi, càng đông càng vui, càng nhiều càng qúy chứ? Tiền nhiều không thích lại thích có một đồng à?
Vâng qúy lắm. tôi viết thế, không có nghĩa là Ba Lan chỉ có một tổ chức và chỉ có mỗi một Lech Walesa. Nhưng là Ba Lan và hàng trăm hàng ngàn Lech Walesa khác biết xây cho quốc gia của họ một tượng đài là Lech Walesa và một công đoàn Đoàn Kết để đối đầu với cộng sản. Chính điểm này, họ đã thắng cộng sản.
Nay nhìn về Việt Nam , hỏi rằng chúng ta có thể xây cho quê hương ta một tượng đài khả dĩ có thể đạp đổ chế độ cộng sản tại đó chăng?
Dĩ nhiên là có và chắc chắn tượng đài của chúng ta xây, nếu không hơn thì cũng không thể nào thua kém Lech Walesa. Đó là Lê thị Công Nhân. Một luật sư trẻ đủ can trường, đầy ắp lòng nhân, có trí, đã tự xóa bỏ đi cái đài các kiêu xa của mình để nhập ngục cứu quốc. Người này rất xứng đáng để người dân Việt gởi gắm niềm tin, để ký thác thành một tượng đài tiêu biểu cho toàn dân trong công cuộc diệt cộng cứu quốc và kiến quốc. ( viết như thế, tôi e rằng có nhiều người chu mỏ, bỉu môi và cho kẻ viết là nông cạn. Vâng có thể là như thế. Nhưng xin những ai kia dám chu mỏ ra, hãy nhìn kỹ xem, mình là ai, đang ở một chỗ đứng nào để tin rằng, tôi đây mới đúng là tượng đài?). Lại nữa, ý kiến này không có nghĩa là Lê thị Công Nhân ở trên hết thảy. Trái lại, trong cuộc thế hiện tại, Lê thị Công Nhân cũng giống như Aung San Suu Kyi là niềm tin của Miến điện hoặc là Nelson Mandela của Nam Phi lúc trước. Theo tôi, một khi tượng đài Lê thị Công Nhân càng cao, càng chắc cái tượng bùn của Hồ chí minh càng chóng tàn. Tuy nhiên, có em thì không thể thiếu chị. Giống như Nhị Trưng xưa. Có Lê thị Công Nhân không thể thiếu KHG. Dương Nguyệt Ánh
Đó là Con Đường trước mặt chúng ta phải đi để Ngày Mai có Tự Do, Dân Chủ, Nhân, Quyền, Công Lý nở hoa trên đất nước Việt Nam. Nhưng liệu từng cá nhân , từng tập thể có dám từ bỏ cái tôi của mình đi, để cùng đi chung trên một con đường xây dựng lại tương lai cho đất nước hay không lại là một chuyện khác.
Bảo Giang