KHÁCH TRỌ
*
Nếu phải đời là một quán trọ, mà chúng ta chỉ là những lữ khách dừng chân trong thoáng chốc rồi lại tiếp tục cuộc hành trình, thì quả thật rất đúng đối với tôi trong khoảng thời gian này. Tôi đang làm khách trọ trong căn nhà cuả mình với vợ và hai con, và rồi có thể phải ra đi không biết được lúc nào, tương tự như trước đây hàng trăm ngàn viên chức chính phủ và Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã ra đi sau 30 tháng 4, 1975.
Ngày tôi cầm tờ Giấy Ra Trại về trình diện Công an Phường nơi tôi cư ngụ, tôi đã cảm nhận được điều này: tôi không phải là một công dân cuả nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa ( XHCN= Xạo Hết Chổ Nói ) , nên Phường không tiếp nhận tôi. Họ bảo tôi lên Ban Quản huấn Quận , và Quận lại yêu cầu tôi lên xin phép Ban quản huấn Thành phố. Tôi lên Ban quản huấn thành phố và xin được phép tạm trú tại nhà mình với lời ghi trên đơn xin : ‘’ Cho phép tạm trú tại thành phố một tháng NẾU ĐỊA PHƯƠNG ĐỒNG Ý " văn thức này đầy máy móc và ngây ngô đến khó tưởng tượng được trình độ của hệ thống hành chánh trong chế độ ‘’xạo hết chổ nói ‘’, tôi thực sự biết mình đã mất nước, dù tôi vẫn là người Việt nam !
Cuộc sống của tôi quả thật rất nặng nề và cơ cực. Lương tháng của vợ tôi chỉ có 55 đồng một tháng, chỉ đủ mua 10 ký gạo giá thị trường. Nhà nước bán cho dân mỗi tháng một người được mua 3 ký gạo và 6 ký màu ( bột mì, hoặc mì sợi, hay bo bo). Giá tiêu chuẩn là 4 đến 5 hào tuỳ từng tháng .
Khẩu phần cuả gia đình tôi không đủ, vì chỉ có 3 nhân khẩu: vợ và 2 con, tôi là người tạm trú, không có tiêu chuẩn lương thực ! Với hoàn cảnh đó, tôi phải chạy xin việc làm, nhưng xin ở đâu (?) tất cả mọi thứ trên đời này đều do nhà nước quản lý . Tuy vậy, tôi vẫn cam tâm và kiên nhẫn đi xin rất nhiều cơ quan, công ty , và bất cứ ở đâu, câu họ noí với tôi vẫn là : ông thường trú ở đâu (?), Ông có mang lý lịch theo không (?) .
Muốn xin được việc làm là phải có lý lịch được công an Phường chứng nhận có thường trú tại địa phương.
Muốn được công an Phường chứng nhận lý lịch có thường trú tại địa phương là phải có hộ khẩu thường trú tại thành phố!
Muốn có hộ khẩu thường trú, phải có việc làm –
Muốn có việc làm, phải có hộ khẩu thường trú!
‘’ Thật là GIẢN ĐƠN, TÔI ĐÃ PHÁT HIỆN !‘’
Và rồi việc làm của tôi là ở nhà, tìm tòi, phát minh và sáng tạo phương án nấu bột mì hoặc mì sợi trộn rau muống, sao cho đảm bảo ngon, tốt , ít hao nước, tiết kiệm củi , đạt chỉ tiêu vợ và con tôi đề ra ! rồi rửa chén, và quét dọn nhà cửa .
Nhưng cay nghiệt làm sao, khó khăn ngày càng chồng chất thêm, giá sinh hoạt mỗi ngày một tăng ( theo định hướng xã hội chủ nghĩa !) ,
- Gạo từ 6đ/1 ký, đã vọt lên đến 12đ/ ký -
- Củ mì, bắp = 5đ/ ký
( chỉ có lương là đảm bảo không tăng ! ).
Tôi chứng kiến một chị đi chợ, đứng trước rổ khoai mì đã hỏi người bán: ‘’ khoai mì này có nở không bà (?) ‘’
Ai cũng thế, đi chợ mua thực phẩm chỉ hỏi có một việc là có nở hay không, nở để về đủ chia cho các con đứa thêm vài miếng ăn. Thực là cảm động rơi nước mắt, dân miền Nam thật là cám ơn cách mạng đã giải phóng !
Ở nhà rửa chén mãi rồi một hôm, nhà tôi tình cờ gặp được bà bạn học ngày cũ, có bố chồng là liệt sĩ cách mạng, nên ông chồng của bà vẫn còn làm việc trong xí nghiệp Dược Phẩm 26 ở đường Võ Tánh, chồng bà nguyên là Dược tá viên ngày trước , và ông ta đã làm đơn bảo lảnh xin cho tôi vào làm việc trong Xí nghiệp Dược phẩm 26 , lương công nhật 2đ/ngày, không có tiêu chuẩn lương thực và nhu yếu phẩm (đường, nước mắm, 500gr thịt mỗi tháng ) .
Tại đây tôi được gặp lại những con người miền Nam thực sự, với mọi thành phần, trí thức và lao động, sang và hèn . Chúng tôi cư xử với nhau chân thật, không nghi kỵ và rất thân ái . Những khuôn mặt, nụ cười mà tôi biết mình khó quên được như Cô Biền, thủ kho của Xí Nghiệp . Anh Tư, trưởng toán điều chế và xét nghiệm. Tống nữ minh Phú, Kim Anh , ( Kế Toán ) . Thuý Hồng, Nga, Hoa, Yến . . . của tổ điều chế .
Công việc hằng ngày của tôi là rửa chai, lọ . Những gỉo can-xế đựng chai rất nặng, và ngày nào cũng thế, mấy nam công nhân trẻ bốc giở giùm tôi. Tôi thật cảm động trước những tấm tình đó, những người mà trong đời chắc gì tôi còn diễm phúc gặp lại lần thứ hai .
Nhưng tình trạng công nhật thật bấp bênh, hễ hết công việc là công nhật nghĩ làm, một tháng có khi tôi phải nghĩ đến vài tuần . Và đặc biệt là , cứ hàng tháng tôi lại phải vác đơn lên công an xin tạm trú, và bao giờ câu cho phép vẫn là ‘’ dồng ý cho tạm trú thêm một tháng chờ sắp xếp đi vùng Kinh Tế Mới ‘’ trong khi đó, công an khu vực cứ thường xuyên ghé nhà hối thúc tôi đi Kinh Tế Mới .
Tôi làm việc cho Xí Nghiệp Dược Phẩm được khoảng một tháng thì phải thôi việc, vì xí nghiệp không còn nhu cầu. Tôi lại ở nhà tiếp tục sự nghiệp rửa chén quét nhà, sáng tạo nấu cháo bột mì với rau muống hay mì sợi 5 món cho vợ con tôi ! hai con tôi hình như không muốn tôi đi làm, vì có tôi ở nhà, chúng có thức ăn ngon, không lo gặp bài vở khó. Nhưng qủa thật cuộc sống đầy không khí khủng bố và đe dọa . Cứ mổi sáng sớm anh công an khu vực dạo qua trước cửa nhà tôi nhìn trước nhìn sau rồi gỏ cửa: " Anh đã xin việc làm chưa, anh có chọn điểm Kinh tế mới nào chưa , anh có gì cần địa phương giúp đỡ không . . . "
Tôi nghe đâu đó tin đồn là ở Quận 10, ban đêm công an đã vào nhà bắt đi một số Sĩ quan học tập cải tạo vừa được tha về đem đi học tập trở lại vì họ không chiụ đi Kinh tế mới . Nhà tôi đã rất lo lắng về tin này và gởi tôi đi “tá túc chính trị ‘’ về đêm. Cảnh ngủ đường ngủ chợ trở nên quen thuộc với tôi , có những đêm tui chui vào dưới 4 bánh xe vận tải để ngủ, hoặc chen chúc ở những bến xe, nơi không bị kiểm tra hộ khẩu, và nghề ‘’ xếp hàng bán chổ cho khách ‘’ trở nên nghề tay trái cuả tôi ở một số bến xe .
Tư tưởng nhà tù lớn và nhà tù nhỏ đã đến trong cuộc sống thực tế với con người hôm nay trên xã hội miền nam, mà cụ thể là những con người có dính dáng đến chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Những người ấy, những gia đình ấy là nạn nhân của mọi bất công, trù dập, của khủng bố và đe dọa. Bên tai tôi luôn luôn văng vẳng câu nói của người trưởng công an Phường :‘’nếu hai bàn tay mày không đầy máu thì Mỹ Ngụy không gắn cho mày cái cấp bậc ấy trên vai ‘’.
Cuộc sống của những con người như chúng tôi thật không có một chút gì bảo đảm, không có được một mảy may phản ứng dù chỉ là tự vệ, và có thể chỉ vài ba phút nữa, người ta sẽ tới bắt đi mà không được quyền biết vì lý do gì .
AK là luật phá, và công an là công lý!
Những người đi học tập cải tạo về và cả bản thân tôi, luôn luôn sống trong nỗi bàng hoàng và kinh mang như những ngày đầu Banmêthuột rơi vào tay cộng quân.
Thời gian này, tin tức về những chuyến vượt biển được truyền bá rất nhanh, tôi nghe vô số những câu chuyện về vượt biên , những trại tiếp cư ở Mã Lai, Hồng Kong, Thaí Lan, Phi Luật Tân, Úc Đại Lợi . . . , và xôn xao đâu đó những căn nhà vắng chủ được công an tới niêm phong. Càng nghe càng xót xa và tâm hồn như nổi gai. Có lẽ không phải chỉ có tôi, mà là tất cả mọi người, không một ai thích vượt biên, đem sinh mạng cuả mình ra đuà cợt với biển cả, hay là đành tâm bỏ lại vợ con, cha mẹ, tài sản, nhà cửa mà đã bao đời từ ông, cha gầy dựng nên, bao nhiêu kỷ niệm, từ ấu thơ cho đến trưởng thành . . . để ra đi mà phần chết cầm chắc hơn là sự sống. Hằng đêm tôi vẫn lén nghe đài VOA và BBC loan đi những bản tin về người tỵ nạn, cảnh hãm hiếp, hải tặc, chết đói, chết khát . . . mất tích, rất thương tâm . Sàigòn bây giờ vẫn còn truyền khẩu câu nói của ông Ngô công Đức về xếp loại trí thức : "3 G và 3 N ".
- Trí thức 3 G là: Giàu - Gan - Giỏi .
- Và trí thức 3 N là: Nghèo - Ngu - và Nhát .
Tháng 10 năm 1982, tôi có dịp xuống Rạch Gía thăm một người dì bên vợ, tại đây tôi gẳp được một người bạn lính phe ta. Một buổi sáng Chủ nhật , hai chúng tôi ra ngồi ở bến tàu, trước Toà Hành Chánh ngày cũ . Nhìn những con tàu bằng gỗ dài khoảng 8 mét hay 12 mét bị nhồi theo nhịp sóng vỗ, như nút chai, tôi liên tưởng tới những câu chuyện vượt biển bằng thuyền mà nhiều người đã đi , lòng tôi bổng nhiên se lại, và nỗi hãi hùng không biết từ đâu đã kéo đến tràn ngập hồn tôi .
Chỉ có 60% những người ra đi đến được bến bờ bình yên. Tôi mường tượng ra cảnh con tàu bị sóng nhận chìm trên biển, những bàn tay đưa lên, hay là những tiếng thét của trẻ con, phụ nữ, cụ già . . . không kịp kêu cứu trước khi chìm sâu vào lòng đại dương. Và rồi chồng, con, cha, mẹ, mở to con ngươi nhìn cảnh vợ, con, mẹ . . . mình bị hải tặc cưỡng hiếp . . .
Tôi băn khoăn tự hỏi: Tại sao người ta lại có thể mạo hiểm với sinh mạng của chính mình (?), sự đe dọa nào khủng khiếp hơn cái chết (?), hơn cả thảm trạng bị hãm hiếp cho đến chết hay hãm hiếp rồi lvất xuống biển như một số các bản tin của những đài phát thanh mà tôi nghe được (?).
Có phải những người bỏ ra đi đã hiểu rằng thảm họa mà họ sẽ phải chịu trên non nước này còn thê thảm và khủng khiếp hơn là cảnh bị hãm hiếp và cái chết chìm lỉm ngộp thở trên biển cả mênh mong . . .
‘’ Cột đèn của Sàigòn nếu biết đi cũng đã đi ‘’ câu nói của nhà nghệ sĩ tài danh này được đài VOA loan đi trong chương trình 8 giờ 30 tối hôm nào như còn vang vọng trong tôi . Và có lẽ đó là sự diễn đạt mạnh mẽ nhất, chân thật nhất để trả lời câu hỏi tại sao trong lòng tôi .
Cuộc sống của xã hội miền Nam mà tôi đang sống đã xuống đến tận cùng, bột mì nấu cháo trộn với rau muống vẫn không có đủ để ăn no, bo bo nấu cháo vẫn chỉ để cầm hơi , các chợ không có đủ để bán , và dân miền Nam không có tiền để mua .
Hãy tưởng tượng , một gia đình 5 người, chỉ có một lao động là công nhân , lương 45 đến 55 đồng một tháng, làm sao đủ tiền mua thực phẩm, và dân Saìgon từ từ đem bán các đồ gia dụng . . . " aó , quần đã sắm từ trước , đồng hồ, hộp quẹt zipo, mùng mền, soong chảo . . ."nghĩa là từ những cái nhỏ nhất cho đến những món to nhất có trong nhà đều đem ra bán . Một cái áo ngày xưa may vài ba trăm bạc, nay có thể bán 5, 10 ngàn và khách mua là những bộ đội, đảng viên, những người dân Bắc có quyền thế . ( Rác cuả miền nam là vàng của miền Bắc qủa thật không sai ! ).
Trong một lần khác xuống miền Tây, tôi chứng kiến những người buôn chuyền, dấu 5 ký gạo, 20 hột vịt, vài lít mỡ heo, rải rác trên mui xe, dưới lườn xe để đem về Sàigon bán lại, bị nhân viên thuế vụ xét bắt dọc đường . Có người chỉ mất vài chục hột vịt nhưng đã khóc sướt mướt vì vốn liếng của họ chỉ có thế! Người ta có thể mang gạo, mỡ , bột mì . . . đi liên tỉnh , nhưng phải xin phép ty lương thực của Tỉnh, hay Quận, Huyện , và không được phép qúa 5 ký lô .
Buôn bán đã chết, tất cả đều do nhà nước quản lý.
Những hãng xe đò của tư nhân trước đây nay đã sang tên thành: Công Ty xe Khách miền Tây, Thành Phố . . . hoặc là Công Tư Hợp Doanh, mà dân miền Nam dịch là: "Của Tôi Họ Dành” , ngoại trừ chợ trời quần áo cũ, và những người buôn thúng bán mủng, bán chui ở các chợ. Tuy nhiên, dù là ở tỉnh hay tại Sài gòn, chợ trời quần áo cũ vẫn là nghề tương đối còn sống được. và nhộn nhịp nhất là khu chợ củ Huỳnh Thúc Kháng, Khu chợ Hàm Nghi, Khu nhà lòng chợ Sài Gòn.
Giữa những thảm trạng đó của xã hội, dân miền Nam còn gánh thêm gánh nặng ‘gia đình cách mạng’’ vô cùng nặng nề. Gia đình có công với cách mạng, gia dình liệt sĩ, thương binh, gia đình chính sách . . .
Tuyển dụng công nhân, thi tuyển đại học hay Trường chuyên nghiệp, xin cho con theo học Mẫu Giáo, Mầm Non, cấp 1, 2 , 3 . . . đều ưu tiên cho gia đình cách mạng trước.
Dân lao động miền Nam (không dính dáng gì tới chế độ cũ ) là ưu tiên 5, còn gia đình con em của viên chức chế độ cũ , con sĩ quan học tập cải tạo đều không thuộc diện chính sách, nghĩa là chính quyền cách mạng không cần quan tâm! Chế độ không cần nhân tài, chỉ cần trung thành, chế độ không quan tâm trật tự xã hội và công lý, chế độ chỉ thi hành chính sách đền ơn cho những người có công với cách mạng trước đây
Sinh hoạt của người Sàigon và đám tù cải tạo là vậy, nhưng còn bộ mặt Saigon - Chợ Lớn Gia Định thì sao ?
Nếu có ai trong chúng ta có dịp vào thăm Khu Dân Sinh, đối diện với Cảnh Sát Quân Nhì, ở khu Yersin vào những năm 1956-1959, hay là đầu thập niên 1960, chắc hẳn còn nhớ nhừng sạp áo quần, đồ lạp soong, tủ bàn . . . bày bán trong khu chợ này . Một cách nói khác, nếu có ai đi ngang Khu chợ cá nổi tiếng Trần Quốc Toản, mà trong lòng mang những cảm giác và ý nghĩ gì, thì Sàigon, Chợ Lớn, Gia Định, ngày hôm nay còn bê bối hơn 10 lần, còn bệ rạc hơn cả bãi rác chợ Trần Quốc Toản rất nhiều .
Viết như vậy, khách ngoại quốc hay những người bỏ Sài gòn ra đi vào năm 1975 sẽ không thể nào tin được, và sẽ kết án là tôi đang bôi nhọ "Hòn Ngọc Viễn Đông" một thời của ho. Thôi thì xin mời qúi vị hãy về Khu cư xá Thanh Đa, nơi được coi là có tổ chức nhất, vì nơi đó, hầu hết là dân Sài gon, nhưng những ngôi nhà nào do cán búa miền Bắc chiếm ngụ, thì sẽ được trang hoàng bằng nhừng dây phơi quần lót, áo thun bộ đội, áo lót đàn bà, đầy đủ màu sắc rực rỡ, bay phất phới trên các lan can hành lang, mà bộ hành hay khách nhàn du nhìn lên, vẫn cứ ngỡ là những rẫy bắp hay rẫy lúa đang độ thu hoạch của nhừng người Thượng vùng Pleiku, Banmêthuột, Phú Bổn, vì những khu rẫy đó, cũng được chăng đầy dây với những mảnh giấy, vải, đủ màu sắc, dán đầy lên các sợi dây để khi gió lên , gấy bay phất phơ nghe xào xạc đuổi đi chim muông hay khỉ, vượn tới tàn phá bắp lúa và hoa màu, có khắc chăng là ở hành lang của những căn nhà này, còn chứa thêm những đóng củi khô và những bao thức ăn của heo, bóc mùi thum thủm bay bàng bạc khắp một vùng, mà dân SaiGòn gọi là "hương cán búa miền Bắc"!
Có ai ghé thăm khu Cư Xá Ngân Hàng Kỷ Nghệ, (Hay thương mại Kỷ nghệ ?) ở đường Phan Chu Trinh, sau lưng toà Sơ Thẩm Gia Định, nay là Uỷ Ban Nhân Dân Quận Bình Thạnh, thì sẽ thấy thảm hoạ của Khu cư xá sang trọng này, Khu Cư xá mà hàng hiên các từng lầu hay trệt đều lót đá hoa màu xám bóng, có bồn trồng hoa và cây kiểng ở mỗi hàng hiên, của mỗi căn nhà trong khu cư xá 4 từng lầu này, và mỗi nhà đều có chổ đậu xe hơi riêng biệt trong một khu nhà xe chung, có cổng sắt cửa lớn cho xe hơi và cổng phụ cho người . Các trang bị nhà tắm, bồn cầu đều tự động , bằng men sứ, phòng tắm và tường phòng tắm đều lót gách men, bông, rất sang trọng mà nguyên liệu đều nhập cảng từ Nhật, Tất cả cửa sổ, cửa chính đều 2 lớp, kính và song sắc, lầu đúc bê-tong . Thế nhưng khi cán bộ chiếm dụng rồi, gạch lót hàng hiên bị gở, nhà xe bị tháo mái lấy tôn, các bồn bông và cây kiểng bị lấp đầy đất . Khu dất trồng cây che mát ở hong nhà khỏang 300 mét vuông được phá hủy để xây chuồng heo, cho các gia đình cán bộ nuôi heo cải thiện .
Nhà tắm của các từng lầu đều dùng để nuôi heo, và tất cả các từng lầu ở phòng tắm đều bị thấm nước phân heo, các đường ống bị tắc nghẽn vì phân heo ứ động không thoát nước .
Khu cư xá sang trọng biến thành một chuồng heo cao cấp, ai ngang qua cũng ngửi mùi phân heo, lại cứ tưởng là mùi từ xóm Lò Heo bay ra !
Hãy đến khu cư xá Nguyễn Kim, Khu cư xá Lữ Gia . . . tất các các chung cư đều chung số phận .
Ai đi ngang qua dãy nhà cao tầng ở đường Phan Thanh Giản, khu Đa Kao, mà ngày đó quen gọi là "nhà 11 tầng"ngửa mặt nhìn lên các tầng lầu, cũng đều thấy quần lót áo lót phơi đầy trên các lan can của các từng lầu, đầy đủ màu sắc phất phơ như bướm .
Ngay trung tâm Sài gòn, khu Lê Lợi, Tự Do, Hàm Nghi, Cửa Bắc, cửa Tây khu nhà lồng Sài gòn, . . . đâu đâu trên các lan can tầng lầu cũng phơi đầy quần áo lót !
Hòn Ngọc Viễn Đông đã tàn rồi, cũng ví như :
" . . . Tiếc thay cây quế giữa rừng . . . "
Hay là “ tiếc cho một đoá hồng nhung, lại trồng trên một đóng phân trâu” mà các cụ ngày xưa quen ví von .
Câu nói đâu môi của những cán bộ quản giáo và Giám thị trại giam quen nói là "Mỹ Nguỵ cút rồi còn để lại những tàn dư của tệ nạn xã hội tại miền Nam"
Ngày trước, những lần về phép, hay những kỳ nghĩ phép dài hạn của các kỳ thi đại học, tôi có rất nhiều thời gian cùng đi hoang với bạn bè thâu đêm, nhưng không thấy cái náo loạn của Sàigon về đêm, ngoại trừ ở những vũ trường mà chúng tôi đến, nhưng không khí của vũ trường là nhộn nhịp, mà cũng không phải là náo loạn như đường đêm Sàigon bây giờ, đầy dẫy và đâu đâu cũng bắt gặp những người đẹp ăn sương, từ trung tâm Saigòn như Nguyễn Huệ, Tự Do, Hàm Nghi, cho đến Khu Nguyễn văn Học Gia Định, Thanh Đa, Chợ Lớn . . . khắp mọi nơi . . .
Có phải chăng Mỹ Nguỵ dù đã đi 9, 10 năm rồi, mà vẫn còn gởi cái tàn dư này về cho các cán bộ cộng sản hưởng dụng hay không, hay là chính các cán bộ đã vận dụng và sáng tạo ra môi trường và hoàn cảnh cho thích nghi với dục vọng của chính họ !
Lối ăn chơi của đám cán bộ thật tàn bạo, và người dân Saigòn thì đành chịu câm và chịu đựng .
Khu chợ trời ở đường Nguyễn Thông, ở ga Hoà Hưng, cũng nhộn nhịp không thua gì chợ trời Huỳnh Thúc Kháng - Hàm Nghi, chợ Nguyễn Thông còn là đặc sản của Thuốc tây, ai cần nước biển, kháng sinh, trụ sinh nhập cảng đều phải đến Nguyễn Thông . Ai muốn uống rượu ngoại, bia lon ngoại quốc, cũng phải đến Nguyễn Thông .
Lương một người giảng dạy tại đại học là 94 đồng đến 112 đồng một tháng, lương một thầy giáo cấp 3 là 60 đồng đến 84 đồng, lương một cô giáo dạy cấp 1 là 55 đông , lương của một công nhân là 65 đồng đến 75 đông, thì ở chợ Nguyễn Thông, cán bộ, bộ đội tới đặt mua ( đặt mua vì hàng không có đủ để cung cấp) một chai Hennessy là 180 ngàn đến 250 ngàn, một thùng bia lon của Nhật là 200 ngàn .
Than ôi, dân Sàigon đã không còn nước mắt, các cụ già khi buồn vẫn tâm tình với đám tù cải tạo, vì chỉ có đám này các cụ mới tin . " Ông ơi, trời cho con đĩ đi dày, ông quan đi đất, ăn mày đi ô"
Và thực ra thái độ sống của đám cai trị đối với dân Sàigon bị trị đã trở thành bức tường ngăn cách ngày càng xa và càng cao . Nhìn một chú bộ đội đến chọn mua quần cũ ở một sạp hàng ở chợ Huỳnh Thúc Kháng, cô bán hàng đon đả mời:
- " Này chúi bộ đội, chú lấy cái này đi, cái này tốt lắm, chồng em chỉ mới mặc vài lần thôi " .
Chú bộ đội đi rồi, cô quay sang người khách miền Nam " đúng là cán búa, dân Sài gòn bỏ đi tụi nó mới mua được đem về làm của"
Ngoài chợ trời, Saigon bây giờ từ hang cùng ngõ hẻm, lại mọc lên những quán nhậu ở vỉa hè và lề đường, từ Cầy tơ, nai đồng quê, quán nhậu với Đế Gò công, Đế Gò Đen, Đế Quốc Doanh . . .Rồi chè ba màu, chè bảy màu . . . đâu đâu cũng có .
Có phải vì dân Sàigon đã thiếu dinh dưỡng trầm trọng nên cơ thể bù đắp bằng chất ngọt hay không tôi không hiểu, nhưng những quán chè lề đường, hay chè gánh đã trở thành một ngành buôn bán kiếm ăn .
Cuối năm 1983, tôi có dịp đến thăm một gia đình người quen trong cư xá Ngân Hàng ở đường Phan Chu Trinh . Ông cụ bị bệnh nặng, người con lớn mất tích trong chiến trận, con thứ hai đi tù cải tạo chưa về, con thứ ba trốn ra ngoại quốc năm 1978, nhà chỉ còn một cô con gái và một cậu con trai đang học cấp 3, tôi đến thăm thì ông cụ đã đi rồi, nhìn di ảnh của cụ, tôi lại nhớ thủa nào, khi các con cụ thành đạt, lúc gia đình còn đầm ấm sung túc, một gia đình trung lưu với một đời sống công chức ngạch A, lương không dư nhưng không thể nào thiếu, mà bây giờ chỉ còn là cái vỏ bên ngoài, mà nét tôn nghiêm ngày nào đã không còn nữa !
Bệnh họan trong giai đoạn này là một đại bất hạnh (!) , thuốc không đủ hay không có, bác sĩ các bệnh viện thì đám học tập cải tạo không được tin dùng, đám tốt nghiệp “chính quy” của Hà nội thì chữ Asperin còn không biết viết lấy đâu kinh nghiệm đế điều trị, gia đình không tin tưởng nên cứ để ông cụ nằm nhà, và nhờ một vị bác sĩ tu nghiệp từ Tiệp Khắc trở về ở cùng cư xá coi mạch hộ, ông ta bảo cần thuốc gì thì gia đình ra chợ trời tìm kiếm, nhưng ông cụ bị bệnh phổi qúa nặng, đành phải ra đi, dầu là gia đình còn những thứ gì có thể bán đều đã bán hết để lo cho cụ .
Bà cụ kế lại cho tôi rằng, một ngày trước khi ông cụ ra đi, bà hỏi ông muốn ăn gì, thèm thứ gì, ông cụ thều thào trả lời muốn ăn một tô miến gà và một miếng chả lụa, nhưng trong nhà chỉ còn 20 đồng bạc, mua chả lụa thì không mua được miến gà, mà cũng chẳng biết vay mượn vào đâu ở thời buổi này, thật là khổ qúa, cháu nội thì còn nhỏ, dâu thì lo gánh một gánh nặng ba đứa con thơ, nên cuối cùng tôi đành bảo con Hoa mua cho ba môt tô miến gà , chỉ lấy miến không lấy thịt, và nói thật với chủ tiệm xin họ giúp cho, lại ghé xe bánh mì mua một lát chả lụa mà thôi, cũng nói thật với họ như thế . Thế nhưng khi mua về, ông cụ chỉ nếm được một chút mà thôi. Cơ cảnh này, ông ơi, thật không tài nào ngờ được lại xảy ra trong đời tôi . Bà cụ vừa kể vừ rơi nước mắt, mà tôi cũng không cầm lòng được, đành ôm lấy bà mà khóc . Quả thật ở hoàn cảnh này có thương nhau chăng cũng đành chịu, mà có khi còn không dám tới lui thăm viếng vì sợ bị liên lụy, "liên hệ mật thiết với gia đình ngụy, có con phản động, chạy theo Mỹ Ngụy ra nước ngoài" .
Cuộc sống hôm nay đem tôi trở về với đời sống của người dân miền Bắc đầu thập niên 1952 đến 1954 . Vào thời đó, bộ đội bắc Việt áp dụng chính sách "cùng ăn, cùng ở cùng làm với dân", nên trong các thôn làng của quê tôi, có từng tiểu đoàn bộ đội về cùng ở với dân, và dân trong xã phải nhận làm hàng xáo cho bộ đội, nhận lúa về xay, và được phép lấy cám để ăn . Có những gia đình vì qúa đói đã ăn gian bằng cách sau khi xay lúa ra gạo, đã giã gạo lâu hơn, để có nhiều gạo nát, gạo nát là tấm, sau khi sàng sẽ rơi xuống và đem trộn vào trong cám và như thế là gia đình tuy ăn cám nhưng vẫn có tấm gạo ở trong đó !
Cứ tháng một lần, bộ đội tổ chức ăn chung với dân, những lần ăn cơm chung như thế, dân mới có được những bát canh rau muống, rau lang . . . nấu với thịt hộp của Liên-Xô viện trợ, và những bửa ăn đó đã trở thành niềm mơ ước và trông chờ của người dân làng tôi thủa đó! Dân bắt đầu khen bộ đội cụ Hồ .
Sàigon bây giờ là vậy, người Sàigon bây giờ là vậy, và niềm mơ ước bình dị của tôi là kiếm được một việc làm để phụ giúp gia đình đã trở thành mộng mị trong hoàn cảnh xã hội hôm nay . Trong khi đó, những đe dọa ngày càng gia tăng , vài người tôi quen biết đã bị bắt trở lại , Minh, Hùng ở Quận Bình Thạnh, dù hai người này đã xin được làm công nhân viên trong ngành giáo dục .
Nỗi lo lắng và sự bất ổn trong cuộc sống hôm nay làm tôi nhớ lại những chuổi ngày ở Trại Cải Tạo Mê Van, vào những năm đầu.
Những con đường lầy lội, những đám rừng đầy xác lá ướt sủng và một đoàn người lầm lủi bước đi như những xác chết không hồn; Dù hôm nay tôi không còn nhìn thấy ngọn núi cao mù mịt đầy sương của Ban Don, cũng không còn phải dẫm chân lên bao xác lá ẩm ướt mà dù mưa hay nắng vẫn không mất mùi mốc xông lên. Con đường dốc đứng dài hơn hai cây số ở Rẩy mì mà mỗi ngày hai bận tôi phải leo lên và tuột xuống với một bao củ mì .
Nhưng bây giờ là sau mỗi đêm qua đi, khi mọi người vội vã đến sở làm, tôi còn lại một mình trong căn nhà đóng bít các cửa như lẩn trốn ánh sáng. Tôi như là đang mang tâm trạng của một tội đồ không dám nhìn người qua lại, thèm khát bao cái hồn nhiên, vui vẻ và vô tư của những kẻ láng giềng. Tôi ao ước và thầm nghĩ, biết đến bao giờ tôi ra đi trên con đường đầu ngõ, cuối xóm, không còn phải lầm lũi như chạy trốn, trên môi tôi nở được một nụ cười tự nhiên, tâm hồn tôi thanh thản vì tôi đang sống trong cuộc sống ung dung, điềm nhiên và tự tại .
Nhưng than ôi, tất cả điều quý báu đó đã mất rồi, bao hạnh phúc nhỏ nhoi và những vụn vặt đó bổng nhiên đã trở thành to lớn và vô cùng quý giá, nay đã không còn nữa !
Ngày lại ngày tôi sống trong mòn mỏi và phập phòng của một người khách trọ , vì rất có thể và bất cứ lúc nào, người ta cũng có quyền đuổi tôi ra khỏi nhà mình , để đem đến một trại giam nào đó, một nông trường hay một trại tập trung cưỡng bức lao động . Và chỉ cần một tấm giấy, một chữ ký của cơ quan công an , tôi có thể bị buộc vào bất cứ một tội danh nào , mà người ta nghĩ rằng tôi làm được, hoặc người ta muốn ghi lên. Công lý chỉ có trong tay người cầm súng.
Có những chiều thứ 7, sau giờ cơm tối, tôi thường đạp xe lang thang đến những khu phố củ mà ngày xưa tôi quen đi, hoặc là những nơi tôi từng ở như khu Bùi Phát ở đường Trương Minh Giảng để tìm lại chút gì của thời xưa đã mất, hay là cố tìm xem trong ký ức tôi, những năm tháng bình dị của thủa thiếu thời trọ học, mà nay đã thành những nỗi nhớ không nguôi và niềm nuối tiếc vô hạn .
Ga Hoà Hưng, con đường Nguyễn Thông nối dài xuyên đến Lê Văn Duyệt, Cống Bà Xếp, con hẻm mà một thời nổi tiếng là trùm du đảng, mà cũng là nơi vua "Hoàng Đế Đại Thánh" xuất hiện ở đầu thập niên 1960 ! Con đường này vốn rất quen thuộc của tôi và Long (Nguyễn Mạnh San) một thời . Gia đình bác V và chị Hiển, Điệp . . . ngôi nhà tôi chúng tôi thuê . Cúc và Hông, bán quần áo trẻ em ở Tạ Thu Thâu , không biết bây giờ những người quen củ ra sao, dù tôi rất muốn ghé vào thăm họ, nhưng lại sợ "người ta liên lụy" đành cúi đầu vừa đạp xe vừa tưởng nhớ căn gác nhỏ, hai đứa mướn ở học một năm . Ngọn đèn dầu leo lét không đủ sáng cho cái bàn xiêu vẹo mà tôi và Long ngồi chung trên căn gác đó, và đặc biệt là khuôn mặt chị Hiển, con gái của bác V chủ nhà, khuôn mặt thân ái đến với tôi trong mỗi lần nhớ về Ga Hoà Hưng kể từ khi bỏ lại căn gác nghèo nàn này !
Những con đường vắng lặng của khu Tú Xương, Hồ Xuân Hương đầy bóng mát của Quận 3, mà những chiều thu về, lá me rơi nhẹ nhàng trên tóc khách bộ hành qua lại buổi hoàng hôn . Con đương Duy Tân nổi tiếng với ngôi Trường Luật mang nét đài các của những thiếu nữ cung trang, hay Gia Long dài vun vút với những tà áo xanh của giờ tan học .
Tôi lang thang đạp xe qua Bùi Thị Xuân để đến Cống Quỳnh mà nhớ về Quán Cơm Anh Vũ một thời đã nuôi tôi với mỗi bữa ăn 5 đồng thủa đó . Cầu Kho, Trần Bình Trọng hay Nguyễn Biểu Chợ Quán . Không hiểu bây giờ căn nhà 81 Trần Bình Trọng còn là của tu viện Xi-Tô hay không, tôi không dám hỏi, dù là đang ngang qua khu phố này .
Trường Đại học Khoa Học, công viên Cộng Hoà, Trường Bác Ái, rồi Lý Thái Tổ, mà hôm nay mọc lên những "Cầy Tơ", "Nai Đồng Quê" hay "À Đây Rồi" cho khách nhẩm xà vui hưởng .
Rồi từ đây, tôi lại theo Phan Thanh Giản đạp về Ngã tư Xa lộ, ngang qua khu nhà 11 tầng, đến Ngã tư Hàng Xanh, lại theo Hùng Vương qua Thị Nghè để về Sở Thú . Con đường Hồng Thập Tự ở nơi đây la liệt những quán nhậu ở hai bên, giàu nghèo, sang hèn đều ghé lại đây để nếm mùi thịt nương với lá mơ chấm sả của món "nai đồng quê" truyền thống.
Tôi thích nhất vẫn là những khu xóm nghèo lao động như Khu xóm Chiếu với Thánh Đường Giu Se nho nhỏ ở bên kia Khánh Hội, từ cầu Trịnh Minh Thế đi vào . Hay Khu chợ Hoà Hưng với con hẻm nhỏ đi ngang qua Tô Hiến Thành để về Bộ Tư Lệnh Biệt Động Quân, hoặc ngược lên để về hướng trại Hoàng Hoa Thám, đối diện Nghĩa Trang và bên hông Phước Hải để vào Khu Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa . Đã rất nhiều lần ngang qua khu cư xá này , tôi muốn vào Dãy O, để tìm lại Trung tá ĐVK, hay gia đình Đại tá HTT , nhưng rồi lại e sợ không bước vào, nên chẳng hiểu bây giờ những người đó đang ở nơi đâu !
Gần như những nơi tôi quen đi ngày củ, những phố chợ ngày nào tôi yêu thích với ít nhiều kỷ niệm vương vải đầy dẫy trong qúa khứ, là những nơi tôi quen đi tìm lại những qúy báu đã mất, và biết rằng, những gia sản ấy mãi mãi tôi không thể nào có lại, và có lẽ vì thế mà tôi đạp xe lang thang hết hang cùng ngỏ hẻm của Sài đô, dầu là những chổ xa xôi như cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, Khu đường Nguyễn Huỳnh Đức ở Quận 6, hay là Khu Gia Định với Lăng Ông nghi ngút khói hương những ngày Tế, Tế cổ truyền .
Lăng Ông bây giờ cũng như bãi tha ma ngoại ô, bao hình hài tượng đá đã không còn, mà còn lại hình tượng vị tả quân khai phá đất Gia định ngày nào, thì những người mới cũng đã đập phá , cho nứt đổ, lổ loang vết dập để khu di tích này thành hoang phế lạnh tanh !
Toà Hành Chánh Gia Định đã thành Trường đảng Nguyễn Văn Cừ, Trường Nam tiểu học đã là Trường Phổ thông cơ sở Hà Huy Tập, Trường nữ Trung học Lê văn Duyệt ngày nào thướt tha những tà áo trắng ngây thơ thủa đó, bây giờ đã đổi tên là Võ Thị Sáu, Trường Hồ Ngọc Cẩn cổ kính ngày nào, nay đã là Trường phổ thông cơ sở Cấp I . Trương Trung tiểu học Thánh Mẩu, đã đổi thành trường cấp II Lam Sơn .
Dân Sàgon thật chẳng biết Võ thị Sáu hay Nguyễn thị Minh Khai là ai . Tất cả đã trở thành xa lạ, lạ như những thành phố ngoại bang xa xăm ở một chốn nào mà dân Sài gòn chưa hề nghe đến một lần .
Chợ Bà Chiểu lại có thêm những con đường bán thuốc Tây và quần áo củ, phô bày cái xác xơ của một tỉnh lỵ cơ hàn, còn tệ hơn cả những ngôi chợ ở tỉnh nhỏ cao nguyên, như là Phú Bổn hay Quảng Đức .
Chợ Thị Nghè, cũng tương tự, những gánh cháo, xôi, củ mì của những người buôn gánh bán bưng tạm bợ. Và những phồn thịnh thủa nào bổng nhiên cũng biến mất, không ai còn tìm lại được cái tưng bừng ồn ào của một ngôi chợ sinh ra trong lòng một nền kinh tế ổn định và thịnh vượng.
Cũng tương tự như năm 1952, 1954, Sài gòn đầy dẫy xe đạp và xe ba gác, xích lô đạp, còn Honda, Taxi, Vespa super, Sprint . . . xe hơi Toyota, Madaz 1200, Datsun, Peugot 405, 503, Ladalat . . . đã bổng nhiên bốc hơi khỏi Sài gòn Chợ Lớn Gia định từ hồi nào, không ai để ý . Sài gòn chỉ còn xe đạp, và xe đạp cũng đã trở thành phương tiện di chuyển hiếm hoi, chỉ những gia đình khấm khá mới giữ lại được, còn thì cũng đã bán cho dân bộ đội hết rồi !
Một đêm nào trên Đài VOA, tôi bổng dưng nghe được :
" Sàin gòn ơi tôi đã mất người trong cuộc đời,"
" Sài gòn ơi thôi hết những ngày vui tuyệt vời . . ."
Tôi nghe dù là tiếng được tiếng mất, mà lòng vẫn đầy xúc động ! Quả thật đã mất rồi, những hơi hương ngày củ cũng chỉ còn lại một dư âm, và cảnh tưng bừng náo nhiệt của Cộng Hoà chỉ còn là tiếng đồng vọng trong lòng tôi . Dù tôi vẫn sống trên đất Sài gòn, vẫn sinh hoạt trong lòng Sàigon, nhưng linh hồn Sài gòn đã vĩnh viển ra đi, và tinh thần của Saigòn cũng đã tạ từ những máu thịt châu thân của nó .
Sài gòn bây giờ như một cái xác không hồn, than ôi !
Tâm trạng này nhận chìm tôi trong tuyệt vọng mà dĩ vãng lại đã giải thoát tôi, dù dĩ vãng đã chìm sâu thăm thẳm trong ký ức tôi tự thủa nào . . .
Thủa đó đã xa xôi và chôn lịm trong lòng tôi kín rồi. Bây giờ mỗi lúc nghĩ lại , tôi chỉ còn nghe hơi hám như bụi nhang của một ngăn tủ nào hằng năm chưa có dịp mở ra.
Ngày ấy, tôi chơi thân vô cùng với Trị, Giáo sư Vinh Sơn, và dù đã mười mấy năm trôi qua, những kỷ niệm của thời vàng son thơ mộng đó mãi mãi vẫn êm ái trong lòng tôi . Cuộc sống với những sinh hoạt quanh tôi không cưu mang những bận tâm và lo lắng nào . Ngày hai buổi đi dạy chờ hết giờ để về nhà đàn ca và viết báo . Tâm hôn chúng tôi thủa đó chỉ biết yêu bao cái người yêu, chỉ mê si bao cái phải si mê , luôn luôn thanh thản để mặc theo nét hào phóng và sảng khoái của đời . Cuộc sống vốn nhẹ nhàng, mà tâm hôn chúng tôi cũng vô tư chưa vỡn đục .
Tôi nhớ Trị với bài thơ có tên "Tình là một hàng dọc " mà đến nay tôi đã quên mất , nhưng hàng dọc khi ghép lại là tên của cô học trò anh yêu ‘’Hồng yêu dấu, em có yêu anh ? ‘’ .
Những buổi chiều sau giờ cơm, chúng tôi thường đem ghế ra hàng hiên ngồi tán dóc, hút thuốc và đọc thơ . Căn gác ở đường Phạm Phú Quốc, hay ngôi nhà ở Lý Thường Kiệt , con hẻm số 5 đường Võ Tánh hay nhà chị Cúc , nơi chúng tôi ở trọ và ăn cơm tháng mãi mãi là kỷ niệm êm ái nhất trong đời mình , mà mỗi khi nhớ lại, lòng vẫn không ngăn được bâng khuâng .
Nỗi vui mừng là lần đầu tiên tờ "Tiếng Cao Nguyên " do Nhóm Đồng Hoang thực hiện đưọc ra mắt đọc giả . Mỗi tháng một số, nhóm chúng tôi có Trị, giáo sư Vinh Sơn . Văn, Hưng Đức. Minh, Lasan. Hưởng, Bán công. Triều, San , Phối Trí Viên . Điềm, Sơn , trung học Banmethuot. Y Danh Buôn -yã, Y Niết Knul và một số người đẹp như Thủy Lưu, Ngọc Quế, Minh Phương, Ngọc Ẩn . . . góp tay thực hiện . Cặm cụi viết, cặm cụi đánh máy và quay stencil, hàng tháng chúng tôi cũng ra được vài trăm cuốn dày hơn vài trăm trang .
Nỗi vui và cuộc sống của trang lứa chúng tôi trong mười năm trước là ở đó. Và tâm hồn chúng tôi quấn quýt trong cảm xúc sinh hoạt của xã hội quanh mình, mà sau này, khi rời xa chốn cũ, một đôi khi tôi còn nghe mơ hồ như đâu đó đồng vọng những âm xưa gọi tôi về kỷ niệm . Tôi yêu bài ‘’Ngày Xa Lạ‘’ với 4 câu :
‘’ . . . Hồng nào đã ôi rồi . . .
cánh soan nào đã ngã . . .
vàng bay trong lưng trời . . .
sao ta còn xa lạ . . . "
Cái xa lạ ấy mãi mãi còn xa lạ với tôi trong suốt quảng đường đời, từ xa lạ này qua đi, tôi lại bắt gặp bao nhiêu cái xa lạ khác, mà mỗi vẻ một nét để cảm xúc trong tôi như vô cùng vô tận, và cứ thế để hằng đêm tôi ngồi viết thư tình, viết rất nhiều nhưng tình vẫn còn không !
Nhớ về dĩ vảng, sống bằng kỷ niệm , tôi quên mất những phủ phàng quanh tôi, quên cả tôi bên đời tuyệt vọng , mà hồi tưởng thủa đến trường của năm tháng xa xưa . “Cây Tiểu Du Dương ‘’ mà thầy Kiều Công Gia đã dịch từ bài gỉang văn ở thế kỷ 17 của một nữ văn hào người Pháp tôi yêu thích . Âm Tiểu Du Dương và giọng nói của thầy tôi còn mang theo đến hôm nay .
Có phải kỷ niệm nào cũng đẹp, cũng êm ái nên thơ không, tôi không biết, tôi chỉ biết rằng, đời thực tôi đang sống đã đẩy tôi vào kỷ niệm, và kỷ niệm đã cho tôi lẫn trốn nỗi hãi hùng và sự cô đơn quanh tôi. Và hạnh phúc của tôi bây giờ là đó, hạnh phúc chỉ còn lại bấy nhiêu thôi. Tôi mơ hồ lịm chết bên dòng sông dĩ vãng rêu phong mà quên đời thực tại .
Trị hay Hưởng, Văn và Minh . . . những người bạn bình dị với cuộc sống giản dị của mười bốn năm về trước bây giờ có phút nào để hồn trôi về dĩ vãng như tôi không (?) Hồng hay Duyên , Tuyết hay Như Nguyện , Minh Phương hay Đan Quế , những bóng dáng đã làm tôi xúc động một thủa nào, bây giờ biết đã về đâu (?) .
Thường khi đi tìm dấu yêu ngày cũ, như truy tìm chứng tích ấu thơ , tôi vẫn thấy lòng mình rung động lạ thường tôi cứ ngỡ tôi như con tàu chạy qua những bến ga đời nghiệt ngã , nhưng mà ở mỗi bến ga, tôi lại cảm nghe lòng đầy tiếc nuối mà chẳng hiểu được vì sao . Và lòng tôi bổng như se lại, tôi ngại ngùng với những sân ga kế tiếp trên đường .
Thương thay những đời người làm khách trọ như tôi hôm nay.
“Bạn hỡi tôi thường thương bến ga,
Có khi níu kéo chuyện chia xa,
Mà không - bé nhỏ ga đành chịu,
Đưa tiễn tàu đi khóc xó xa “. . . .
Saìgòn tháng 3, 1984
NGUYỄN ĐỊNH
(Banmêthuột NGÀY ĐẦU CHIẾN CUỘC)
PHỐ THỊ
Em xa Phố Thị lâu rồi ,
Có quên không nhỉ những nơi hẹn hò,
Khu rừng Trắc - Bá bây giờ, (1)
Mùa Thu đã gọi vàng xưa đổ về ,
Cánh buồn che khuất lối đi ,
Cỏ non cũng úa xuân thì chiều qua ,
Lủng - Hồng phủ màu xót xa , (1)
Ái - Ân một thủa mặn mà còn đâu ,
Vườn - Ương ôm đầy nét sầu ,
Cây khóc tử biệt, hoa đau theo người ,
Đài trang rã xuống khắp nơi ,
Bầy Chim - Chích cũ đã rời rừng xưa,
Hoang sơ phủ khắp bốn mùa ,
Phố phường đổi chủ , người chưa quen người !
Vinh - Sơn đã mất trên đời , (2)
Và tên Tỉnh - Hạt đã rời trần gian ,
Hưng - Đức, Tổng - Hợp, La - San ,
Đâu còn bóng dáng những nàng kiều xưa ,
Bồ - Đề đã vào cõi mơ ,
Hai hàng Phượng rũ, đôi bờ để tang ,
Phố phường mang nét điêu tàn ,
Những con đường cũ đã sang tên rồi ,
Người người phiêu bạt ngàn nơi ,
Em ơi phố thị của thời xa xưa ,
Chỉ còn dư âm trong mơ ,
Chỉ là vị đắng những giờ nhớ thương .
Em xa phố thị, xa trường ,
Bao lâu rồi nhỉ - còn thương nhớ gì ,
Con đường Thống - Nhất quen đi, (3)
Hay là Y - Jút mỗi khi xuân về ,
Mùa Thu rụng trên hàng me ,
Chơ vơ những cánh bên lề Hùng - Vương ,
Phan - Chu – Trinh, Xóm - Đạo buồn ,
Hàm - Nghi dốc đứng mù sương che người ,
Buồn Muôn Thủa - Bụi Mù Trời ,
Biển dâu đã đẩy em rời phố xưa ,
Mà ta vẫn sống trong mơ ,
Đường xưa phố củ bao giờ mới quên !
(1) = Địa danh , những thắng cảnh của địa phương .
(2) = Tên các Trường Trung Tiểu Học .
(3) = Tên những con đường .
Buồn Muôn Thủa = Bụi Mù Trời = Banmêthuột = Bánh Mì Thịt !
Saìgòn tháng 3, 1984
NGUYỄNN ĐỊNH