Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Nữ sĩ Lê Thị Ý: ‘Người lính và chiến tranh chưa bao giờ rời xa tôi’
Apr 29, 2021

Kalynh Ngô/Người Việt
FALLS CHURCH, Virginia (NV) – Mỗi khi Tháng Tư đến, những câu chuyện về người lính Việt Nam Cộng Hòa lại cuồn cuộn tuôn chảy trong ký ức của những ai đã đi qua cuộc chiến. Trong đó, hình ảnh người góa phụ, hay một cô gái có yêu tử trận, trong cuộc chiến Việt Nam, trong ca khúc “Tưởng Như Còn Người Yêu,” do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ “Thương Ca 1” của nhà thơ Lê Thị Ý, sau hơn nửa thế kỷ, vẫn còn gây nhiều xúc động cho mọi người.
Image
Nữ sĩ Lê Thị Ý, tác giả bài thơ “Thương Ca 1,” mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Tưởng Như Còn Người Yêu.” (Hình: Kalynh Ngô/Người Việt cung cấp)
“Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình…”

Một cuộc đời bình lặng

Cuối Tháng Ba, trời Virginia vẫn còn se lạnh. Người phụ nữ với vóc dáng nhỏ bé, khoác chiếc áo lạnh vừa người, bước vào quán. So với cuộc gặp gỡ chớp nhoáng sáu năm trước, bà, nữ sĩ Lê Thị Ý, không thay đổi nhiều. Vẫn mái tóc đơn giản đó, vẫn nụ cười hiền lành, vẫn giọng nói thấm đậm âm hưởng của người Hà Nội “một ngày năm bốn, cha bỏ quê xa.”

Như hàng triệu người Việt Nam khác, bà là nhân chứng trong hai cuộc di tản vĩ đại của dân tộc. Nhưng nếu ai có hỏi, cuộc “chạy trốn” nào để lại trong bà nhiều dấu ấn nhất? Bà sẽ trả lời: “Đó là chuyến vượt biển năm 1981.”

Sau khi ra khỏi hải phận Việt Nam, tàu của bà lênh đênh trên biển ba ngày. Sau đó, tàu cập vào đảo Songkhla, Thái Lan. Chỉ trong ba ngày thôi, con tàu đó gặp hải tặc sáu lần. Không một ai trên con tàu, kể cả đứa bé chỉ mới tám tuổi, có thể thoát khỏi hành động hãm hiếp của hải tặc, trừ bà.

“Nói thì không ai tin, nhưng đó là sự thật. Chỉ một mình tôi may mắn thoát. Có đôi vợ chồng đó, người chồng đau đớn nhìn vợ mình bị hãm hại ngay trước mắt. Nhưng khi đến đảo rồi, họ lại quyết định chia tay. Có lẽ họ không thoát ra được cơn ác mộng đó, tôi nghĩ vậy.” bà nói.

Đặt chân đến Mỹ, bà định cư tại Maryland cho đến tuổi về hưu thì về Virginia sống đến hôm nay. So với những cuộc đời tị nạn khác, năm tháng tha hương của bà có phần nhẹ nhàng hơn, dù cũng trải qua nhiều công việc làm để tồn tại. Bà từng học để lấy bằng kỹ thuật viên máy tính, nhưng do giới hạn ngôn ngữ, nên cũng phải dở dang, chuyển sang công việc khác.

Những năm tháng đó, thơ vẫn là gia tài lớn nhất người nữ sĩ có được. Bà đã âm thầm cho ra đời bốn, năm tập thơ, chỉ dành tặng cho người quen, thân hữu.

“Cuộc đời của tôi khá đơn giản, nếu không muốn nói là ‘hạn hẹp.’ Viết văn thì tả cảnh, tả tình. Thơ thì từ cảm xúc. Mà cuộc đời tôi thì bình dị, chỉ chất chứa toàn hình ảnh lính và chiến tranh,” bà nói với nụ cười thật hiền.

“Người lính và chiến tranh chưa bao giờ rời xa tôi”

Nữ sĩ Lê Thị Ý là “con nhà nòi” của thi ca. Bà xuất thân trong một gia đình văn nghệ. Người anh lớn là nhà thơ Vương Ðức Lệ, người chị lớn là nhà văn Phượng Kiều, và cô em gái là nhà văn Lê Thị Nhị.

Bà đến với thơ rất sớm, từ lúc còn học trung học. Khi cùng gia đình di tản vào Nam năm 1954, nữ sĩ Lê Thị Ý sống cùng một người anh là sĩ quan. Đến năm 1960, bà về Pleiku, làm việc cũng trong một trại lính. Cũng chính vì vậy, theo lời bà, “Người lính luôn luôn trước mặt. Chiến tranh luôn luôn ở trước mặt. Không bao giờ rời xa tôi.”

Cả cuộc đời của nữ sĩ Lê Thị Ý được bao phủ bằng hình ảnh kiên cường, oai hùng của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Bà như con chim nhỏ bay nhảy trong không gian khép kín của cuộc chiến. Thế giới của bà là những bộ quân phục màu lá rừng, những đôi mắt sáng ngời ý chí, những vầng trán cao kiên cường của tuổi trẻ lấy tình yêu đất nước làm lẽ sống. Có phải nữ sĩ thần tượng và thần tượng hóa hình ảnh người lính trong cuộc chiến không?

“Tôi vừa thương vừa thần tượng. Tôi yêu nhất là bộ quân phục của người lính. Cuộc đời của họ là anh hùng, là sự dấn thân,” bà nói.
Image
Thủ bút của nhạc sĩ Phạm Duy trong bài “Tưởng Như Còn Người Yêu,” phổ từ bài thơ “Thương Ca 1” của Lê Thị Ý.
(Hình: Lê Thị Ý cung cấp)
Trong câu chuyện bà kể, khi ở chiến trường, người lính là anh hùng, là dấn thân. Ngày về phép, hoặc cuối tuần, cởi bỏ bộ quân phục, họ là người lính chân tình, dễ thương. Bà kể, nếu người lính ấy có 500 đồng để tiêu xài trong một tuần, thì họ sẽ không dùng. Họ để dành cuối tuần gặp người yêu, cả hai cùng đi dạo phố.

Hướng tầm mắt ra cửa, bà nói nhẹ: “Tôi vừa thương vừa thần tượng. Khi người lính vừa ra khỏi cửa, là tôi lại nghĩ ngay đến những hiểm nguy có thể xảy đến với họ. Tôi có những liên hệ lạ lùng lắm. Nếu nói tôi tưởng tượng, cũng được.”

Người anh cả của nữ sĩ là một sĩ quan. Lúc nào bà cũng mang tâm trạng lo sợ anh mình đi trận không trở về. Người yêu đầu đời của bà, là một người lính. Người yêu thứ hai trong đời, vẫn là một người lính – người đã tử trận trong một trận đánh.

“Thương Ca 1”

Năm 1965, nữ sĩ rời Sài Gòn. Bà về Pleiku làm việc trong một trại lính. Năm năm ở phố núi bé nhỏ này, mỗi một ngày bà đối diện với vô vàn những câu chuyện không tên về cuộc đời người lính. Lúc này, cũng là thời điểm khốc liệt nhất của chiến tranh. Thế giới xung quanh bà khi ấy chỉ toàn lính, và lính. Lính và vợ. Lính và vũ khí. Lính và đạn bom. Lính và tử trận. Từ đó, tình yêu bà dành cho người lính, cuộc đời người lính, càng thêm cao dầy. Đôi khi, chỉ những câu chuyện trò ngắn ngủi đời thường với vợ lính cũng làm cho trái tim nữ sĩ chạnh lòng.

Bà nhớ lại, rồi kể:

“Chúng tôi, những người phụ nữ nói chuyện vui đùa với nhau. Có người nói:

-Trời lạnh thế này mà được ở nhà ôm ông xã thì sướng biết mấy.

-Thế ông xã đâu?

-Ông xã đi đánh trận.”

Chỉ đơn giản thế thôi, nhưng cũng đủ làm tâm hồn người nữ sĩ bồi hồi xúc động.
Hình bìa tuyển tập thơ văn “Quê Hương và Kỷ Niệm” trong đó có tác phẩm của Lê Thị Ý. (Hình: Kalynh Ngô/Người Việt)

Thời gian trong trại lính ở Pleiku, nữ sĩ chiêm nghiệm rõ như nhật nguyệt sự vô thường của đời người trong chiến tranh. Những người ở đó, gặp đó, rồi mất đó. Một câu chuyện được bà nhớ và kể lại:

“Tôi nhớ vào Giáng Sinh năm đó, có một người lính đến cửa hàng của tôi mua quà lưu niệm gửi cho gia đình. Anh ấy xin cho khất lại tiền, đến đầu Tháng Giêng, dịp Tết Tây, anh về trại sẽ gửi trả. Nhưng lần ra trận đó, người lính mãi mãi không quay về. Sau đó, người em của anh ấy ra nhận trả số tiền đó. Nhưng tôi không nhận.”

Nữ sĩ đa cảm “thương vay khóc mướn” (theo lời bà tự nhận) nói rằng, những năm tháng đó, bà rất gần gũi với cái chết của mọi người. Không biết bao nhiêu lần bà chứng kiến người phụ nữ, những đứa trẻ, những cô gái tuổi xuân đến mở chiếc “poncho” quấn xác để nhận xác chồng, cha, người yêu. Bà đau với nỗi đau của họ. Nước mắt của bà rơi cùng tiếng khóc của họ.

“Tôi đi ngang nhà xác, nghe tiếng khóc vọng ra. Tôi nhìn vào thấy người ta đang nhận xác… đau lắm. Không phải chỉ khi của mình, mình mới đau…” bà kể. “Nó (nỗi đau) không phải là của mình nhưng đã hóa thành của mình.”

Và bài thơ “Thương Ca 1” ra đời từ đó.

“Tôi làm bài thơ đó rất nhanh. Tôi làm một mạch, không sửa gì cả. Tôi làm xong cất vào trong bàn học. Ngày xưa, anh tôi, nhà thơ Vương Đức Lệ, không muốn các em mình theo nghiệp thơ văn, nên tôi làm xong toàn là giấu đi. Nhưng hôm đó, bạn của anh tôi đến nhà chơi, vô tình thấy bài thơ đó. Ông nói ‘thơ hay thế này mà không đi đăng.’ Thế là ông xé tờ giấy tập có bài thơ, đưa cho cụ Nguyễn Ðức Quỳnh, là người trụ trì sinh hoạt Ðàm Trường Viễn Kiến. Cụ Quỳnh đọc rồi lại chuyển cho cho ông Phạm Duy phổ nhạc,” nữ sĩ kể lại quá trình ra đời bài thơ “Thương Ca 1” và bài hát “Tưởng Như Còn Người Yêu.”

Nữ ca sĩ Julie Quang, con dâu nhạc sĩ Phạm Duy, là người đầu tiên hát ca khúc này.

Đã hơn 50 năm trôi qua kể từ khi “Thương Ca 1” ra đời, hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa với bộ quân phục hiên ngang, dũng mãnh, vẫn mãi trọn vẹn trong trái tim và tâm hồn người nữ sĩ – nhà thơ Lê Thị Ý. [đ.d.]
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image

Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử
HÀO KIỆT PHƯƠNG NAM

“Đạn bay, nợ trả hồn sông núi
Kiếm gãy, ơn đền chuyện sử xanh”


Image
Hào Kiệt Phương Nam - Hải Quân Trung Tá VNCH Hà Ngọc Lương
Anh dũng tự sát cùng vợ và 3 con tại Nha Trang

Hải Quân Trung Tá Kỹ Sư Hà Ngọc Lương sinh năm 1937 tại Hà Nội, cựu học sinh trường Trung Học Nguyễn Trãi, Hà Nội và Trung Học Chu Văn An, Sài Gòn, cựu sinh viên Đại Học Khoa Học Saigon. Vì lòng yêu nước tràn đầy, ông đã rời bỏ giảng đường để ghi tên vào Khóa 9 (Ðệ Nhất Nhân Mã) Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Liên tiếp trong 3 kỳ thi Alfa, Chuẩn Úy, và Mãn Khóa, ông đều đậu Thủ Khoa, nên được các chiến hữu mến mộ.
Image


Sau khi mãn khóa vào tháng 05 năm 1961 với cấp-bậc Thiếu-Uý, ông đã phục vụ tại Hộ Tống Hạm Vân Đồn, Hộ Tống Hạm Đống Đa II. Sau đó, ông đi du học Hoa Kỳ, và trở về làm Hạm Trưởng Tuần Duyên Hạm Diên Hải, Hạm Trưởng Trợ Chiến Hạm Linh Kiếm, rồi về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, phục vụ tại Khối Quân Huấn.
Ông đi du học Hoa Kỳ lần thứ hai và tốt nghiệp bằng Kỹ Sư Cơ Khí, trở về, ông được bổ nhiệm làm Quản Đốc công tác sửa chữa chiến hạm tại Hải Quân Công Xưởng. Sau cùng, ông làm Giám Đốc Quân Huấn, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.
Ngày 4/4/1975, khi Nha Trang di tản vào Saigon, theo gương Phan Thanh Giản, Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương cùng phu nhân, Bà Lê Thị Kỳ Duyên, và 3 con đã tuẫn tiết ngay tại Phòng Văn Hóa Vụ.
Điều đau lòng nhất là khi bọn cộng sản đến tiếp thu, thấy 5 thi hài trong Phòng Văn Hóa Vụ, bọn chúng đã độc ác cho chôn vùi tạm bợ trên một mô đất cạnh bờ biển. Hải Quân Thiếu Tá Hà Tấn Thể đã cùng với vợ chồng Giáo Sư Lê Quốc Khánh và một đàn em, bốc mộ lên, tẩm liệm và đặt áo đại lễ cùng mũ Sĩ Quan trong quan tài người Anh Hùng rồi đem đi chôn tại nghĩa trang nằm dọc hai bên Quốc Lộ 1.
Để ghi dấu công ơn người Anh Hùng Việt Nam, chỉ có một tấm biển gỗ mang dòng chữ: “Nơi an nghỉ của gia đình Hà Ngọc Lương – Lê Thị Kỳ Duyên”.

***
Sáng ngày 01/4/1975 tại Cư Xá Sĩ Quan Hải Quân đường Lê Văn Duyệt, Nha Trang.
Trung Úy Gia vừa ngừng xe trong sân cư xá nói to:
– Di tản! Lệnh Đô Đốc: di tản vào Sàigòn!
Phu quân tôi (HQ Thiếu Tá Hà Tấn Thể, Khóa 12 Đệ Nhất Song Ngư) bước vội ra cửa. Hình như anh không muốn lệnh di tản đến sớm như vậy nên anh hỏi:
– Ngay bây giờ?
– Vâng, ngay bây giờ. Gia đình nào còn sót, chưa đi kịp chiều hôm qua, mau lên xe tôi chở xuống bến cảng. Tàu sắp nhổ neo.
Tôi từ trong nhà bước ra, đứng bên cạnh phu quân tôi. Tôi cố thuyết phục anh lần cuối:
– Anh nên di tản một mình vào Saigòn ngay. Đây là chuyến xe chót về chở những gia đình nào còn sót lại. Nếu không, anh sẽ bị kẹt lại. bọn công sản tràn vào sẽ bắn chết anh. Tin đồn em nghe chắc sẽ có “trung lập”, khi ấy anh lại về với mẹ con em.
Giọng anh buồn, trầm hẳn xuống:
– Em mang thai gần ngày sanh, sợ chen lấn xuống tàu có thể chết cả mẹ lẫn con, không dám theo anh di tản. Nhưng anh nỡ lòng nào bỏ em và các con mà đi cho đành. Thôi anh chấp nhận ở lại. Thà sống cực khổ với chế độ cộng sản còn hơn là không có em và con trong cuộc đời. Anh đã nói với em nhiều đêm rồi.
– Nhưng bọn cộng sản vào sẽ bắn chết anh!
– Chắc không đến nỗi vậy đâu em. Nếu giết hết quân cán chính thì chúng nó sống với ai ở miền Nam này.
Nói tới đây, tôi thấy Trung Tá Hà Ngọc Lương, vợ và ba đứa con bước ra khỏi nhà. Trong tay anh chị Lương, mỗi người một xách tay nhỏ. Anh Lương nhìn thấy vợ chồng tôi đang đứng yên lặng buồn rầu trước cửa nhà, anh ngạc nhiên hỏi:
– Sao Thiếu Tá và chị còn đứng đây không lên xe? Các cháu và túi xách đâu?
Giọng buồn nhưng dứt khoát, anh Thể nói nhanh:
– Gia đình tôi ở lại, không di tản, Commandant!
– Tại sao?
– Như Commandant thấy đó, vợ tôi mang thai gần đến ngày sanh, sợ chen lấn xuống tàu có thể nguy hiểm đến tánh mạng cả mẹ lẫn con, không dám đi. Tôi quyết định ở lại với vợ con tôi. Thôi gia đình Commandant đi bình yên.
Chị Lương đứng gần chồng. Chị nói gì bên tai anh Lương, tôi nghe không rõ. Tôi chỉ nghe anh Lương đáp lời vợ giọng hơi gắt:
– Anh bảo em lên xe!
Chị Lương miễn cưỡng lên ngồi băng ghế sau với các con, nét mặt hờn dỗi. Tôi bước đến bên xe, nắm bàn tay chị. Giọng tôi hơi nghẹn lại vì xúc động:
– Thôi anh chị và các cháu đi an lành. Nghe đồn chắc sẽ trung lập. Hy vọng sau này chúng mình sẽ lại gặp nhau.
Chị Kỳ Duyên (nhủ danh của chị Lương) gượng cười, siết chặt tay tôi:
– Vâng, hy vọng chị em mình sẽ gặp nhau!
Bỗng tôi thấy Trung Tá Lương cho tay vào túi rút chùm chìa khóa quăng về phía phu quân tôi. Anh Thể chụp lấy. Cả hai không nói một tiếng nào. Chiếc xe lao ra cổng.
***
Quân đội miền Nam đang di tản chiến thuật. Nha Trang bỏ ngỏ, bọn cộng phỉ sẽ tràn vào đây trong chốc lát. Chúng tôi đi tạm trú chỗ khác vì lẽ ấy. Ngồi trên xe với chồng và các con, bên cạnh chỉ 2 túi xách nhỏ. Một, đựng vài bộ quần áo cho cả nhà và túi kia đựng áo trẻ sơ sinh, khăn lông, tã lót cho đứa con tôi đang mang trong bụng. Từ lúc lên xe, chúng tôi không ai nói một lời. Trong lòng mỗi người đều có những ý nghĩ và cảm xúc riêng tư không muốn nói ra.
Ngoài đường phố, dân chúng vội vã, tấp nập đi lại. Trên mặt người nào cũng lộ vẻ hoảng hốt lo âu. Đó là những dân lành đã trốn chạy cộng sản từ các tỉnh miền trung và cao nguyên đổ về. Nhìn cảnh màn trời chiếu đất họ đang gánh chịu, tôi không cầm được nước mắt. Tôi đưa tay lên gạt nhanh hàng nước mắt đang chảy tràn trên má. Nhìn lại mình, tôi cũng đang chạy trốn cộng sản như họ. Chỉ khác một điều: chúng tôi chạy đến một nơi có chỗ tá túc chớ không phải ở đường, ở chợ như họ.
Chiều và tối đêm đó có nhiều tiếng súng nổ. Không phải tiếng súng bắn nhau giữa hai bên. Đó là tiếng súng của bọn người vô lương tâm, lợi dụng thời gian chưa có chính quyền và luật pháp, đi cướp bóc của người dân. Chúng tôi nhìn nhau thở dài.
Hôm sau, trưa ngày 2/4/75, lũ cộng phỉ tiến vào thành phố Nha Trang. Xe tăng đi trước bộ đôi đi sau. Tưởng đoàn quân chiến thắng oai hùng lắm. Té ra chỉ là một lũ thổ phỉ ô hợp toàn trẻ con mới lớn, gầy ốm xanh xao vừa mới từ trong rừng rú chui ra. Ôi, nếu chẳng phải nhờ may mắn và viện trợ hùng hậu của khối cộng sản quốc tế quan thầy thì làm sao bọn thổ phỉ ốm đói từ phương bắc đó có thể vào được thành phố này một cách dễ dàng như vậy!
Sáng ngày 4/4/1975, gia đình tôi dắt díu nhau về lại Cư Xá Sĩ Quan Hải Quân Lê Văn Duyệt. Chúng tôi về trông coi đồ đạc trong nhà kẻo bọn trộm cướp cạy cửa lấy đi.
Vừa bước chân vô cư xá, tôi cảm thấy rờn rợn thế nào ấy! Cách đây mấy ngày sân cư xá tưng bừng nhộn nhịp. Trẻ con chơi đầy sân, cười đùa vui vẻ. Giờ đây sao hoang vắng quá! Chúng tôi vào nhà, khóa trái cửa lại, dặn các con chỉ được chơi trong nhà, cấm không được mở cửa ra sân.
***
Trưa hôm sau, vừa về đến nhà, sau khi ra đường phố nghe ngóng tin tức, anh Thể nói với tôi:
– Anh vừa kéo dây kẽm gai cài cổng cư xá lại rồi đó em. Anh sợ bọn trộm cướp vào cạy cửa lấy trộm đồ đạc của các anh chị đã di tản. Nếu sau này, các anh chị về còn có quần aó đồ đạc dùng.
– Nhưng ban đêm khi chúng mình ngủ, chúng cạy cửa vào lấy trộm, làm sao mình giữ được hở anh?
– Ngoài khả năng của mình thì chịu chớ biết làm sao em!
Chợt nhớ ra, tôi nói với anh Thể:
– Ban nãy lúc anh đi vắng, có người vào căn nhà của anh Đặng Hữu Thân, chở đồ đạc đi.
Em tưởng bọn trộm cướp em sợ quá. Nhưng em cũng thương anh chị Thân, sợ mất đồ đạc của họ, tội nghiệp. Em ráng lấy can đảm ra can thiệp. Thì ra đó là ông cụ thân sinh của anh Thân. Cụ xuống chở đồ đạc của anh chị Thân về cất giữ dùm cho con đó mà.
Anh Thể tỏ ý mừng:
– Vậy à! Vậy thì anh bớt trách nhiệm giữ nhà cho một người bạn cùng khóa.
Tôi trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Đồ đạc trong cư xá này nếu mất mát, mình không chịu trách nhiệm với ai cả. Nhưng với anh chị Lương, mình có phải có chút trách nhiệm. Khi đi, anh Lương quăng chùm chìa khóa cho anh. Tuy anh Lương không nói tiếng nào, nhưng mình phải hiểu là anh anh ấy gởi nhà cho chúng ta. Nay mai bọn cộng sản vào tiếp thu cư xá này, đồ đạc trong tất cả mọi nhà đều thuộc về tay bọn chúng nó. Sẵn có chìa khóa anh Lương đưa, chúng ta nên lấy cất dùm anh chị một ít đồ đạc. Mai kia anh chị Lương về lại Nha Trang, anh chị còn có ít đồ đạc dùng. Khi đi, em thấy anh chị chỉ đem theo có 2 túi xách nhỏ.
Anh Thể thoáng suy nghĩ rồi nói:
– Ừ, em tính vậy cũng phải. Mình nên cất giữ dùm anh chị một ít đồ dùng như quần áo và ít đồ có giá trị tiền bạc.
Chúng tôi đem về cất giữ dùm anh chị Lương: 1 xe Honda, 1 Tivi, 1 đàn organ, một quạt máy và một vali đựng quần áo, mỗi người vài bộ. Tối hôm đó chúng tôi cảm thấy rất vui vì chúng tôi đã làm một việc tốt cho bạn bè.
Trung Tá Lương là một người bạn được chúng tôi thương mến và kính trọng nhất trong Cư Xá Sĩ Quan Hải Quân Lê Văn Duyệt. Anh trầm lặng hiền lành ít nói. Anh gốc người Bắc, giọng nói dịu dàng trầm ấm. Anh là một sĩ quan tài hoa tuấn tú. Anh đã đậu Thủ Khoa, Khóa 9 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.
Sau khi đi du học Mỹ 2 năm, anh được điều về Trung tâm Huấn Luyện Hải quân Nha Trang, giữ chức Trưởng Phòng Văn Hóa Vụ. Chúng tôi mến anh vì nết, trọng anh vì tài. Anh Lương cùng họ Hà với anh Thể, nhưng không cùng chung một huyết thống. Hai anh chỉ là bạn, đúng ra là niên trưởng nhưng thương mến nhau như anh em trong nhà. Căn chung cư anh chị Lương và căn chung cư của chúng tôi ở cạnh nhau nên chị Lương và tôi thường xuyên qua lại với nhau.
Chiều ngày 5/4/75 trong lúc anh Thể ra ngoài nghe ngóng tin tức, tôi ở nhà với các con. Tôi đang nấu cơm dưới bếp thì có tiếng gõ cửa. Tôi bước lên mở cửa thì thấy một người đàn ông, trên mặt còn in nét kinh hoàng:
– Chào bà. Xin lỗi, ông nhà là sĩ quan làm việc trong Trường Sinh Viên Sĩ Quan NhaTrang phải không?
Tôi thận trọng, ngập ngừng:
– Xin hỏi.., ông là ai?
– Thưa bà, trước đây tôi là một người lính làm việc trong Trường Sinh Viên Sĩ Quan. Tôi vừa đến đó dò la tin tức thì tôi được biết một sĩ quan đã tự sát chết cùng với vợ và ba đứa con tại văn phòng Văn Hóa Vụ.
– Trời! Gia đình ai vậy, anh biết không?
– Thưa bà, tôi không nhận diện được ai vì xác chết đã sình lên. Ông ấy mang lon Trung Tá, ngồi chết gục trên ghế, vợ và các con nằm chết trên tấm thảm trải trên nền nhà.
Tôi kinh hãi kêu lên:
– Gia đình ai đã chết thảm như vậy hở trời! Phòng Văn Hóa Vụ, 3 đứa con …. chắc gia đình anh Lương!
– Thưa bà, tôi lên đây xem sĩ quan nào còn kẹt lại không. Nếu còn ở lại xin xuống nhận diện xem ai. Cùng là bạn bè, dễ nhận mặt nhau hơn.
– Nhà tôi, Thiếu Tá Hà Tấn Thể, còn kẹt lại. Anh ấy vừa di vắng. Khi nhà tôi về, tôi nói lại và anh ấy sẽ xuống sau. Cám ơn anh đã báo tin.
Người lính Hải Quân chào tôi rồi ra đi.
Anh Thể về, nghe tôi thuật laị, không chậm một giây, anh phóng Vespa ra cổng thẳng xuống Quân Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.
Vừa mở cửa văn phòng Văn Hóa Vụ của Trung Tá Hà Ngọc Lương, mùi tử khí của năm xác chết đã lâu ngày, tanh hôi nồng nặc đã làm cho anh Thể chóng mặt, buồn nôn, lảo đảo muốn té. Khắp người anh nổi da gà. Anh cố nén cơn buồn nôn, ráng giữ bình tĩnh, cố gắng tiến từ từ đến những người đã chết từ nhiều ngày trước.
Anh Thể chăm chú nhìn kỹ 5 xác chết. Xác đã sình, hơi khó nhận diện. Nhưng rồi anh cũng nhận ra. Anh Lương gục chết trên ghế, trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, cây colt nằm gần bàn tay anh. Mặt anh Lương bị méo vì viên đạn đi xuyên qua. Mắt anh đã có dòi nhỏ đục khoét.
Chị Lương và 3 đứa con, nằm chết dưới tấm drap trải trên nền nhà. Tất cả đã bị bắn vào đầu. Có lẽ anh Lương đã bắn vợ con trong lúc họ đang ngủ. Trong phòng giấy tờ quan trọng của gia đình anh bị tung tóe vung vãi khắp nơi. Hai túi xách ngày anh mang theo, anh Thể không thấy đâu.
Vài người tò mò nhìn vào, nhưng mùi tanh hôi đã làm cho họ bước vội tránh đi.
Anh Thể phóng xe về báo tin cho tôi. Vừa nghe qua, tôi òa lên khóc nức nở:
– Trời ơi! sao lại chết thảm thế này! Tội nghiệp gia đình anh chị Lương qúa! Làm sao bây giờ đây anh?
Nãy giờ anh Thể ngồi hai tay ôm đầu gục xuống, nghe tôi hỏi, anh ngẩn đầu lên ôn tồn nói:
– Chúng ta phải chôn cất gia đình anh chị và các cháu, em à! Tình bạn bè, tình chiến hữu, chúng ta phải chứng tỏ trong lúc này. Anh biết thân nhân họ hàng anh Lương đều ở Saigòn. Nhưng bên chị Lương, có ai ở Nha Trang không em?
Nghe đến chữ họ hàng, tôi chợt nhớ ra. Tôi nói nhanh:
– A, chị Lương có người anh đang dạy tại Trường Võ Tánh, tên ông là Khánh.
– Vậy thì chúng ta tìm ông Khánh cho ông ấy biết tin ngay đi. Nhưng biết nhà ông Khánh ở đâu mà tìm đây?
– Việc ấy anh để em lo. Muốn tìm nhà thầy giáo thì phải hỏi học trò!
– Vậy em đi ngay đi! Còn phần anh, anh phải đi mua 5 cái hòm.
– Nếu tìm được ông anh chị Lương, anh sẽ phối hợp với ông lo việc chôn cất. Bằng không, chúng mình phải tự lo tất cả công việc thôi. Xác đang sình thối, phải chôn ngay mới được. Anh đi lo công việc đây!
Nói rồi anh Thể phóng vespa nhanh ra cổng.
Quá thương xót và hãi hùng cái chết của gia đình anh chị Lương, tôi quên mất mình đang mang thai gần ngày sanh, tôi phóng lên chiếc xe đạp mini lao đi tìm nhà ông Khánh. Dọc đường gặp em nào có dáng dấp học sinh, tôi đều dừng lại hỏi thăm nhà giáo sư Khánh đang dạy Pháp Văn tại trường Võ Tánh.
Sau gần một giờ tìm kiếm, tôi đã ở trong phòng khách nhà ông Khánh. Nhìn nét hãi hùng in trên mặt tôi, bà Khánh hỏi ngay:
– Chị đến đây chắc có việc quan trọng cần nói?
Tôi chưa kịp trả lời thì lúc đó ông Khánh từ phòng trong bước ra chào tôi. Tôi vắn tắt kể vụ tự sát của gia đình Trung Tá Lương. Vừa nghe qua ông Khánh đã oà lên khóc nức nở. Ông ôm đầu rên rỉ:
– Kỳ Duyên ơi, sao em lại bị chết thảm như vầy! Chú Lương ơi, sao chú nỡ bắn vợ con rồi tự sát như thế! Người ta sống được, mình sống được chớ! Cách đây một tuần chú nói với tôi “Nếu bọn cướp cộng sản tràn vào, em sẽ bắn vợ con rồi tự sát chứ em không sống với bọn nó đâu. Em đã lắp sẵn đạn trong khẩu Colt của em. Em thề không đội trời chung với bọn cộng sản”. Tưởng chú nói là nói vậy, ngờ đâu chú làm thật. Thảm thiết quá chú Lương ơi!
Trước hoàn cảnh này lòng tôi cũng đau xót lắm. Nhưng tôi cố gắng nuốt nuớc mắt chảy ngược vào trong, tôi ôn tồn an ủi ông:
– Xin ông bớt thương cảm. Dù ông có than khóc bao nhiêu, anh chị Lương và các cháu cũng không sống lại được. Xác đã sình chương, cần được chôn ngay. Anh Thể tôi đang đi mua hòm. Ông nên xuống ngay Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân cùng với nhà tôi lo việc chôn cất.
Khi anh Thể cùng ông bà Khánh xuống phòng Văn Hóa Vụ, nơi gia đình Trung Tá Lương đã tự sát, thì phòng trống trơn! Phòng đã được dọn dẹp, khử trùng sạch sẽ! Anh Thể hỏi tụi bộ đội vừa mới tiếp thu trường thì được biết bọn nó tưởng xác chết vô thừa nhận, sợ dơ dáy truyền nhiễm nên chúng nó đã dem chôn ngoài bãi cát bên cạnh bờ biển.
Anh Thể và ông Khánh nhờ một tên bộ đội dẫn đi chỉ chỗ những thi thể bọn bộ đội cộng phỉ vừa mới chôn. Nhìn 5 nấm mộ mới lấp đất sơ sài, anh Thể thương bạn qúa, anh không nỡ để bọn cộng phỉ chôn gia đình bạn anh một cách cẩu thả sơ sài như vậy. Vả lại 5 chiếc hòm đã chở xuống, không đặt họ vào đó nằm cho ấm áp, đau xót buồn tủi cho họ biết chừng nào!
Anh Thể bàn với ông bà Khánh, đào xác lên, tẩm liệm sạch sẽ rồi đem ra nghĩa trang Đồng Đế chôn cho mỗi người trong gia đình có được một nấm mồ. Ông bà Khánh nghe anh Thể hết lòng với gia đình em mình như thế, mừng qúa đồng ý ngay. Ông bà Khánh đã tìm thuê người dến giúp, nhưng lúc đó nước mất nhà tan rồi, ai cũng chán nản đến tận cùng con tim khối óc nên chẳng ai nhận lời cả. Vậy là việc đào xác lên rồi tẩm liệm chôn cất chỉ có anh Thể, ông bà Khánh và một cậu thanh niên nhỏ tuổi. Chắc là con hay cháu của ông bà.
Giáo sư Lê Quốc Khánh là một người đàn ông thể chất yếu đuối nhưng tình cảm thì chứa chan. Mỗi lần đào một xác lên, vừa trông thấy mặt là ông Khánh qúa xúc động, đứng không vững, ông ngã qụy xuống, ôm mặt khóc nức nỡ. Bà Khánh thì cứng rắn hơn chồng. Bà là một người đàn bà lanh lợi, tháo vác, quyền biến. Có thể nói bà là một phụ tá đắc lực cho anh Thể trong việc chôn cất tập thể này.
Trong lúc đào xác lên để tẩm liệm, anh Thể quá kính phục sự can đảm bất khuất của Trung Tá Hà Ngọc Lương, nên anh quyết định an táng niên trưởng anh như một Chiến Sĩ Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân. Anh Thể về mở tủ áo anh Lương, lấy bộ đại lễ binh chủng Hải Quân đem xuống mặc cho bạn.
Nhưng lúc đó xác anh Lương đã chương lên, mặc không vừa. Quần thì mặc được nhưng nút quần cài không được, áo thì quá nhỏ so với thân xác. Anh Thể đành đắp chiếc áo đại lễ có gắn nhiều huy chương lên thi thể bạn. Chiếc mũ cát cấp tá, anh trang trọng đội lên đầu niên trưởng anh.
Thời điểm đó, NhaTrang đã rơi vào tay bọn giặc cướp cộng sản bắc việt nên anh Thể không tìm đâu ra được Lá Cờ Tổ Quốc Vàng Ba Sọc Đỏ phủ lên quan tài anh Lương. Chiến hữu anh sống chiến đấu cho lá cờ nào, màu áo nào thì, khi bạn anh nằm xuống, phải được chôn theo màu cờ và sắc áo đó. Ít ra Trung Tá Lương phải được tẩm liệm với bộ đaị lễ Hải Quân để khỏi tủi vong linh người quá cố.
Trong lúc anh Thể về lấy bộ đại lễ của anh Lương, tôi đã đưa them một ít quần áo của chị Kỳ Duyên và các cháu, gởi anh Thể đem xuống để bà Khánh “bỏ theo” trong quan tài họ.
Trên 5 nắm mồ mới lấp đất, anh Thể đóng tấm gỗ tạp trên viết hàng chữ bằng sơn
“NƠI AN NGHỈ CỦA GIA ĐÌNH HÀ NGỌC LƯƠNG & LÊ THỊ KỲ DUYÊN”
Ông bà Lê Quốc Khánh rất cảm động về tình bạn giữa anh Thể và anh Lương. Khi công việc tạm xong, ông Khánh ngỏ lời cám ơn anh Thể đã hết lòng hết dạ với gia đình người em gái và em rể ông. Anh Thể nghe vậy gạt đi, nói: “Nghĩa tử là nghĩa tận. Bạn bè cùng binh chủng, cùng đơn vị, chẳng giúp nhau vào lúc này thì còn lúc nào nữa đâu! Xin anh đừng nói đến lời cám ơn, chúng tôi buồn.”

Lối Thoát Cuối Cùng--

Ngày 19-5-1984, (trước 2 ngày gia đình chúng tôi trốn đi vượt biên), anh Thể và tôi từ Cam Ranh ra Nha Trang, đến nghĩa trang Đồng Đế viếng mộ anh chị Lương lần cuối. Tôi đã òa khóc khi thấy 5 nắm đất thấp lè tè đầy cỏ daị. Tấm bảng gỗ anh Thể đóng ngày nào trên hàng mộ, nay đã ngã xuống mục nát tự bao giờ. Chín năm trôi qua rồi còn gì! Chín năm dưới ngục tù cộng sản, sắt còn phải chảy, đá còn phải tan, huống gì một tấm gỗ tạp!
Với nén nhang trong tay, tôi đã thì thầm tâm sự với chị Kỳ Duyên: “Gia đình chúng tôi đã không đủ can đảm và gan dạ như gia đình anh chị nên chúng tôi đã trải qua 9 năm khổ đau cùng cực và trăm bề tủi nhục. Nay chúng tôi quyết ra đi tìm tự do và tương lai cho các cháu. Anh chị sống khôn thác thiêng, xin phù hộ cho chúng tôi trót lọt trên bước đường vượt thoát đầy nguy hiểm này. Nếu bị bọn phỉ quyền bắt lại, chúng tôi chắc phải tìm lối thoát cuối cùng như anh chị chứ làm sao sống nổi với lũ quỷ đỏ khát máu và man rợ này. Thôi trời đã về chiều, chúng tôi phải về Cam Ranh cho kịp chuyến xe đò. Anh chị và các cháu hãy nằm yên an nghỉ…”
Tôi gục xuống nấm mồ hoang vu thấp lè tè đầy cỏ dại của chị Lương khóc nấc lên....

Thắp nén hương lòng tưởng nhớ anh
Gương người chiến sĩ sáng long lanh
Đạn bay, nợ trả hồn sông núi
Kiếm gãy, ơn đền chuyện sử xanh

Cầu Đá ngàn năm con sóng vỗ
Nha Trang muôn thuở biển vinh danh
Khi về bến cũ dừng chân vái
Dân trí kiêu hùng sẽ tiến nhanh!


(Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Thi Thể Lý)
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by thienthanh »


Người Hạ Sĩ Nhứt

Nguyễn Vô Danh

Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, "Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?". Chuyện tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp - ý tui muốn nói là xuông xẻ đó. Còn chuyện người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng Trời tính mà. Tía hay nói như dzậy.

Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt tui là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng hơi chậm nói - nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.

Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.

Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với cà lem ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.

Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng xong nếu tiếp tục cá đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã xóng xoài - chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.

Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô gôn luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn "đội banh nhà" ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên, và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ.

Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn ... hồi nhỏ), tui được huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ. Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh. Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc. Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay, vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ tui.

Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần. Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Tụi Việt Cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng. Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị. Sau thời gian dưỡng thương, tại tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1 quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.

Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm Phó quận trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên kia rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ. Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:

- Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.

Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo, ... chắc là người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) - một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi - thường qua lại nhà cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? hay là xem cá có cắn câu chưa? hay là đang dò sét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?... Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là đề phòng thì vẫn hơn.

Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ, ... Một buổi chiều tháng tư, tụi Việt Cộng đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn. Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:

- Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thi trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới đây.
Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm.

Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:

- Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú ... như người nhà. Cám ơn chú ... đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và ... đã giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.

Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới -cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời - cái ngày mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.

Hai hôm sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Xã trưởng là 1 tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ nhăn nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt:

- Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.
- Thưa đồng chí xã trưởng ...
- Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.
- Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính khiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn giết ai đâu?
- Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được Đảng khoan hồng.
- Thưa Xã Trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.
- Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.

Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty Công An tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An, tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi.

Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn.

Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó được "khoan hồng" về làm rẫy với gia đình ở cồn Dừa.

Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui 1 tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị xung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm tiền.

Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại cải tạo trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong tại cải tạo mùa thu năm 1977. Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ 1 đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà. Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm 1 bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.

Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn 1 miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn chim, ... Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được, tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.

Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa ra đều thất bại, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:

- Chú Sơn có nhận ra tôi không? ... anh Đức đây?
- "Hả, ... ôi trời, Thiếu Úy Đức, ... ông Phó!..."; Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
- Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của tôi mà.
- Dạ, dạ ... ông Phó, à quên, ... anh Đức. Tưởng là anh đã ... Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.
- Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.
- Còn đây là bà xã của anh.
- "Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?"; Tui hỏi.
- "Chú nhìn kỹ xem ai ? Cô Hân ở Suối Dây đó"; TUĐ trả lời.

Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:

- Tui hổng có dè có ngày này... 20 năm rồi. Cám ơn anh chị ... đã nhớ đến tui... Tui mừng quá. Sao ... tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui có nằm mơ hông ?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
- Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.


* * *


Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi như vậy.

Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la, ...

Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.

Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm "Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má"

Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.

Ngày đó chắc là phẻ re, há?

Nguyễn Vô Danh
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by caubennoc »

Con Suối Nhớ


Ðoàn tù hết giờ lao động ngoài hiện trường trở về trại, không ai là không ngó nhìn vào căn nhà lá ba gian mới dựng lên ở bên bờ suối. Con suối ngăn cách căn nhà với khu trại nên nhiều lúc tầm nhìn của người tù bỏ quên cái cổng trại, mà chỉ thấy có mỗi căn nhà với bờ suối. Căn nhà ba gian hai trái như phần lớn các căn nhà của vùng quê miền Bắc. Mái lợp lá tranh, tường vách bằng tre đan có trét bùn rơm và chấu. Nền đất nện và các cột nhà bằng các thân cây lớn. Căn nhà ấy là công sức của anh em toàn trại tù khỏng 300 người ròng rã làm trên một tháng trời. Lớp vào rừng chặt cây lấy gỗ, chặt vầu làm rui mè kèo cột hoặc cắt tranh về làm mái. Lớp thì đục đục, đẽo đẽo, đòn giông đòn gió. Hôm dựng nóc, bọn cán bộ cũng nghe anh em bàn đi mua một nải chuối với miếng thịt để cúng gọi là cúng lên nóc. Có lẽ tên cán bộ phụ trách dựng căn nhà này có gốc gác cha ông là thợ mộc nên khi anh em làm mộc nói phải cúng mới lên nóc được thì tên đó đồng ý ngay.

Ngày hoàn tất căn nhà, tên cán bộ trại trưởng có họp anh em ở sân trại trước giờ đi lao động, tuyên bố rằng đó là căn nhà của anh em “trại viên”. Anh em sẽ sống với gia đình khi gia đình đến thăm nuôi. Nghe tin nầy, anh em thảy đều sững sờ vì ít ai ngờ tới. Bởi vì đã ba năm qua, từ ngày được chuyển ra Bắc, “cho có điều kiện học tập tốt hơn”, anh em chúng tôi kể như bị cô lập hẳn với xã hội bên ngoài. Ðôi khi bọn cán bộ có nói đến xã hội bên ngoài và chúng cho biết là gia đình chúng tôi đang cùng toàn dân nỗ lực lao động xây dựng lại đất nước và rất “tiến bộ”. Chúng nói rằng chúng tôi sẽ rất bị lạc lõng khi trở về. Thế cho nên gia đình chúng tôi yêu cầu Ðảng và Nhà Nuớc “giáo dục” chúng tôi “tiến bộ” để khi về sẽ hòa nhập được ngay vào cuộc sống mới với những con người mới. Một số anh em nhẹ dạ đã bán tín bán nghi nhưng phần lớn đều cười thầm và chúng tôi thường có những câu chuyện dí dỏm, châm biếm chế độ “ưu việt”. Bọn cán bộ quản giáo, bằng đường lối dò hỏi riêng của chúng, cũng biết “tư tưởng phản động” của anh em chúng tôi nhưng không có gì vi phạm cụ thể nên chúng rất tức tối và thù ghét những anh em hay tụ tập “ăn nói linh tinh”. Số những người này bị ghi sổ đen của chúng. Chẳng may trong đó lại có tôi. Sở dĩ tôi biết thế là vì đã nhiều lần tên cán bộ giáo dục “chiếu cố” tôi bằng cách gọi tôi lên “làm việc”. Những buổi làm việc như vậy thì chỉ xoay quanh:

– Anh tự kiểm điểm và phê bình mình đi.

– Báo cáo cán bộ, tôi học tập tốt, lao động tốt.

– Ðược. Anh nói anh học tập tốt, vậy tốt là tốt thế nào?

Tôi tuôn ra như máy:

– Tin tưởng vào mọi đường lối, chính sách của Cách Mạng, an tâm học tập, chấp hành nghiêm chỉnh nội qui của trại và tích cực lao động.

– Còn gì nữa không?

Tên cán bộ mặt còn non choẹt, làm vẻ người lớn, nghe tôi nói. Có lẽ trong tâm tư hắn, hắn đã quá nhàm chán những lời nói như của tôi vừa nói. Bởi vì quanh hắn, các đồng chí, đồng bào của hắn từ ngày hắn biết nghe và biết nói, biết hiểu tiếng mẹ đẻ thì hắn đã phải nghe những lời nói và luận điệu như thế rồi. Và rồi, cũng như một cái máy, hắn bảo tôi:

– Anh nói anh học tập tốt nhưng điều quan trọng nhất trong học tập thì anh lại không nhắc tới.

Tôi thừa hiểu hắn muốn nói gì. Ðiều mà hắn gọi là quan trọng chính là việc “giúp đỡ” người khác, nghĩa là tố cáo anh em bạn bè. Tôi giả bộ không biết, cứ nhìn hắn chăm chăm như chờ đợi. Hắn thoáng nhìn tôi rồi cúi xuống giả vờ lật xấp giấy tờ trước mặt, tỏ ý hắn đã có đủ hồ sơ về tôi trong tay.

– Anh có nhớ được không?

– Báo cáo cán bộ, những điều tôi nói vừa rồi đúng theo trong bài học mà Cách Mạng đã cố dùng thời gian cho chúng tôi thuộc nằm lòng.

Tức giận vì câu nói xỏ xiên của tôi, hắn xẵng giọng:

– Anh lại muốn châm biếm Cách Mạng. Ðường học tập của anh còn dài lắm.

– Tôi cũng hiểu thế, cán bộ.

– Thế mà anh không chịu khó học tập cho tốt.

– Tôi cố gắng chứ cán bộ, nếu không tôi đã không có mặt ở đây.

– Anh đừng có ngoan cố nữa.

Tôi im lặng. Hắn hắng tiếng :

– Anh quên không nói đến việc giúp đỡ người xung quanh.

– Tôi vẫn giúp đỡ trong khả năng của tôi.

– Tôi không nói giúp đỡ…. trong sinh hoạt hàng ngày mà giúp đỡ về tư tưởng. Tỉ như tối hôm qua sau giờ sinh hoạt, anh em trong Ðội nói chuyện gì, trong buồng có ai có tư tưởng sai lệch, phản động không, có ai không an tâm học tập lao động không…

– Những điều ấy, tôi thấy không có.

– Anh lại bao che rồi. Thế anh Hữu giấu cuốn nhạc vàng thì sao, anh An phát ngôn bừa bãi sáng hôm qua khi chờ đi lao động thì sao, anh Hưng mới đào được có 50 hố sắn mà báo cáo là 80 thì sao. Tôi biết hết, nhưng cứ để xem các anh cải tạo ra sao. Ðừng có mà lấy vải thưa che mắt thánh. Thôi, anh về buồng suy nghĩ đi rồi mai gặp tôi.

Cứ thế, cả chục lần hắn thỉnh thoảng lại hành tôi và một số anh em ưa xì xào chuyện ông Hoàng Cơ Minh đem quân về phục quốc, phong trào phục quốc đang nở rộ khắp miền nam, Tầu sắp đánh sang miền Bắc v.v…

Một hôm,giữa buổi lao động tôi lại được gọi về làm việc. Mọi người trong Ðội đưa mắt nhìn tôi tỏ sự thông cảm. Những trường hợp như vậy, thường kẻ bị gọi về làm việc là ít ra cũng bị cảnh cáo hay kỷ luật vì bọn cán bộ đã được báo cáo hoặc đã khám phá được cái gì mà anh em chúng tôi giấu giếm, như cái bật lửa, con dao ăn hay một vài bài nhạc tình thời trước.

Tên cán bộ vệ binh đưa tôi về gợi chuyện:

– Anh có thuốc lá không?

– Báo cáo cán bộ, đã lâu trại không phát.

– Anh sắp có đấy.

Tôi quay nhìn hắn. Hắn tỉnh bơ:

– Mai nếu tôi đi theo Ðội, anh nhớ đấy. Vợ anh và các con anh đang ở nhà thăm nuôi.

Trời đất bỗng sáng rực. Cảnh trí chợt nên thơ. Tôi bàng hoàng nói:

– Cán bộ nói đùa.

– Tôi không đùa với anh. Anh khẩn trương lên.

Chẳng cần giục, tôi cũng rảo bước về trại. Người trúng số độc đắc khi được biết mình trúng có cảm giác thế nào có lẽ lúc ấy, tôi cũng như vậy. Ðã bốn năm hơn rồi không được thấy mặt vợ con, thư từ thì mới chỉ nhận được cách đó một tháng bởi vì từ năm 1976 chúng tôi bị đưa ra Bắc thì cho đến năm 1979, chúng tôi chỉ được viết thư về mà không được nhận thư. Thời gian qua, chúng tôi rõ ràng là sống ở một thế giới khác, thế giới của địa ngục trên trần gian, ngay trên quê hương mình. Tôi cố mường tượng ra nét mặt của người vợ hiền yêu dấu, những đứa con thơ dại dễ thương. Nhưng trí nhớ mù khơi, không một hình ảnh quen thuộc nào hiện về. Tôi chợt sợ hãi. Mình đã mất trí nhớ rồi ư? Mình có còn là con người nữa không? Tại sao lại có thể quên được cả những gì thân yêu nhất. Hai giọt nước mắt ấm lăn nhẹ xuống má. Tôi vội chùi đi, ngoảnh nhìn căn nhà thăm nuôi bên kia suối. Ôi, căn nhà giờ đây thấy thân thương quá. Nó đang ấp ủ vợ tôi, con tôi. Mà sao lại yên tĩnh thế kia nhỉ. Không thấy một bóng người nào ra vào. Tôi cố nhìn vào khuôn cửa tre, tìm hình bóng thân yêu. Tôi chọt vấp, suýt té. Tên vệ binh giục:

– Anh còn lề mề cái gì nữa. Khẩn trương lên nào.

Tôi lại vội vã đi, hướng về phía trại. Tên vệ binh giật giọng:

– Không. Anh đi về “nhà lô”.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

– Không phải về trại gặp cán bộ giáo dục hả cán bộ?

– Ra gặp quản giáo.

Nhà “lô” là căn nhà chòi ở giữa cánh đồng hiện trường lao động. Nơi đó để dụng cụ lao động như cuốc xẻng… và có một cái bàn với hai cái ghế chỏng trơ để cán bộ quản giáo “làm việc” với người tù chây lười lao động, vi phạm nội qui. Tên vệ binh nói với vào trong nhà:

– Này, nhận tù đi. Tao về trại đây.

Tên quản giáo ló đầu ra khỏi khuôn cửa tre:

– Mày ra bảo Ðội về sớm. Trời sắp mưa to rồi.

– Mày ra mà nói, không phải việc của tao.

Tên quản giáo lẩm bẩm như chửi thầm. Tiếng tên vệ binh vọng lại:

– Ð.m. cứ lên mặt ta đây.

Tên quản giáo chỉ cái ghế gẫy cho tôi ngồi rồi nói:

– Gia đình anh ra thăm anh.

Tôi buột miệng vô duyên:

– Vâng, cảm ơn cán bộ.

– Anh động viên chị và phải tôn trọng nội qui thăm gặp.

– Rõ, cán bộ.

– Cho anh về trại nghỉ sớm, mai ra thăm. Nhớ về gặp cán bộ giáo dục.

– Báo cáo cán bộ, rõ.

Lần đầu tiên tôi được đi một mình không có A.K. hộ tống. Từ nhà “lô” về trại khoảng 500 m. Ðến cổng trại, tên cán bộ trực trại quát:

– Anh kia! Ði đâu, cán bộ vệ binh đâu?

Tôi không muốn gây chuyện lúc này nên nhẹ nhàng đáp:

– Báo cáo cán bộ trực trại, quản giáo cho tôi về gặp cán bộ giáo dục.

Tên trực trại sừng sộ:

– Anh kia! Anh phải gọi là cán bộ quản giáo chứ không được gọi trống không là quản giáo. Ai cho anh xách mé như vậy?

– Rõ, cán bộ.

– Có thế mà cũng phải nói. Anh về làm gì?

– Báo cáo tôi được về để sửa soạn gặp gia đình tới thăm nuôi.

– Gia đình đến thăm gặp, chứ thăm nuôi cái gì. Mấy năm nay Ðảng và Nhà Nước nuôi các anh chứ gia đình nào. Có thế mà cũng phải nói.

Tôi cứ phải đứng ngoài cổng nghe tên trực trại bắt lý, bẻ lẽ. Hắn đang không có việc gì làm, đang chờ các Ðội đi lao động về báo cáo. Tên vệ binh canh cổng bực mình:

– Anh đứng xa ra ba mét.

Tôi ngoan ngoãn làm theo lời. Hắn quay lại nói với tên trực trại:

– Thôi cho nó vào đi.

Rồi hất đầu bảo tôi vào. Tên trực trại đang mở lớn cái “đài” không ngó đến tôi nữa. Bước qua cổng trại vào nhà tù mà tôi tưởng như được tự do. Tôi đi thẳng về phía phòng tên cán bộ giáo dục. Hắn đang đứng nói chuyện với tên cán bộ an ninh, văng tục rầm rĩ. Chợt thấy tôi, hắn nhăn mặt:

– Anh đi đâu?

– Báo cáo cán bộ, cán bộ quản giáo cho tôi về gặp cán bộ.

– Anh về buồng đi. Mai gặp tôi.

Tôi quay bước, cố nén giận. Chợt dòng nước mắt tủi hờn trào dâng lên khóe mắt. Tôi giận tôi không nén nổi xúc động. Tới buồng giam, tôi nằm phịch xuống giường, ôm mặt muốn khóc thật lớn cho tan bớt nỗi căm hờn. Nào phải xa xôi gì mà không được thấy nhau. Tôi nhỏm dậy, nhìn qua song tre nhà tù thấy khuôn trời trong mát. Hướng đó, bên con suối êm đềm kia có căn nhà tranh ba gian đang ấp ủ mẹ con nó. “Quyên, Lê, Tú ơi ba mẹ con chắc giờ này đang mong Bố lắm đây. Thế mà Bố bất lực, không đáp được nỗi mong mỏi của em và các con. Bố có đáng sống không. Sống tủi, sống nhục. Ôi! Nhưng Bố không muốn các con mồ côi. Con không cha như nhà không nóc. Bố phải sống, phải sống để có ngày còn gặp lại mẹ con em, để có ngày Bố phục được hận này…”

Tôi miên man trong dòng suy tưởng. Người bạn tù ốm yếu được cắt cử trực phòng đến bên tôi chia vui:

– Chà, mừng cậu có gia đình đến thăm. Cậu sung sướng quá. Không biết gia đình tôi có xoay nổi tiền tầu ra thăm được không. Bao nhiêu năm rồi không được gặp mặt…

Anh ngồi xuống bên tôi, lôi ra một điếu thuốc lào mừng tôi, cười nói:

– Tôi để dành từ sáng, thèm mà cố nhịn. Ðịnh để tối hút, bây giờ mừng cậu, nào…

Anh nhét thuốc vào nõ điếu. Tôi vùng dậy đón chiếc điếu cầy qnh đưa cho, run rẩy châm đóm và khéo léo rít thuốc sao cho thuốc lào trong nõ điếu chỉ được cháy có một nửa, rồi đưa cho anh. Anh bạn tù đẩy lại:


– Rít thêm tí nữa đi, còn nhiều mà.

– Nửa điếu rồi đó.

– Không. Người hút sau được hút thong thả nên sẽ nhiều hơn.

– Thôi anh hút đi. Tôi đã đíu rồi.

Anh bạn tù trực buồng trịnh trọng châm lại đóm rồi đưa ngang tầm điếu làm một hơi dài sòng sọc. Ðoạn anh nhẹ đặt đóm và điếu xuống, chống hai tay ra sau, người ngả ra, đầu hất lên nhẹ nhàng thở ra từng cuộn khói. Anh lim dim cặp mắt, đê mê. Tôi hỏi:

– Thuốc ở đâu thế?

– Ðổi cho thằng Tứ. Nó còn đến nửa gói phát hôm 19 tháng 5.

– Ðổi gì?

– Hai viên sốt rét lấy một điếu hoặc một nửa phần ăn sáng.

– Bóc lột thật.

– Ừ. Nhưng đã cơn ghiền. Ðói tí chẳng sao. Tớ đâu có lao động nặng như các cậu đâu.

Tiếng òn ào của các Ðội lao động đã về như một sức sống tràn dâng. Tôi cảm thấy ấm cúng, tạm quên đi nỗi tức hận trong lòng. Anh em trong Ðội vây lấy tôi hỏi:

– Gia đình ra thăm hả? Gặp chưa?

– Nó có cho cậu ra thăm ngay không?

– Ð.m. mấy ngàn cây số Nam Bắc, rồi hàng chục cây số trèo đèo lội suối mà bắt vợ con người ta phải chờ đợi.

Anh em ồn ào hỏi. Tôi không còn biết phải trả lời ai trước. Nhìn những con mắt thèm thuồng hướng về tôi, tôi chợt thấy anh em sao mà đáng yêu đến thế. Tôi nói lớn:

– Cậu Tứ ơi, cho tôi vay ít thuốc lào đãi anh em trước nào.

Căn phòng nhà tù ồn lên vui mừng. Hai ba người đem thuốc lào tới. Tứ đưa gói thuốc lào ra nói:

– Vay mượn gì, anh cứ lấy dùng đi. Tôi có hút đâu.

Một giọng châm biếm:

– Mai cậu Huy được thăm rồi, có nhiều thuốc sốt rét và Vitamine lắm cậu Tứ ơi.

Tứ quay ra, giọng chịu đựng:

– Anh đừng hiểu lầm tôi. Tôi sợ bị sốt rét. Ở đây mà không có thuốc thì chết mất…

– Ai mà không cần thuốc.

Có giọng dàn hòa chen ngang:

– Thôi đừng gây gổ nhau, mất vui của anh Huy đi. Nào ai hút thuốc thì quây lại đây.

Rồi người tù này làm ra vẻ quan liêu, gióng to giọng:

– Nhỏ! Ðiếu đâu? Ðóm đâu?

Nhiều tiếng cùng trả lời:

– Bẩm, có ngay.

Không khí trong phòng lại vui trở lại. Những lời vui đùa nhại trong tiểu thuyết Giông Tố của Vũ Trọng Phụng đã làm cho anh em quên được mệt nhọc của một ngày lao động có chỉ tiêu. Anh em đang vui trong chính niềm vui của tôi.

Bỗng ngoài sân có tiếng la:

– Cơm! Cơm!

Thế là mọi người tan nhanh. Ai nấy đều lấy đồ đựng phần ăn. Người cái rổ con. Người cái gà mên quân đội đã móp méo, xỉn đen, người lon “gô”, lại có người trả một miếng giấy dầu. Bẩy chục đồ đựng thức ăn được trải dài trên thềm đất. Một cái rổ lớn đựng đầy khoai mì khô đã được xắt lát mỏng lên men xanh ngắt, nay được luộc chín lại với chút nước muối. Ðó là bữa ăn hàng ngày của anh em chúng tôi. Ðôi khi cũng được đổi món bằng những hạt bắp tẻ vàng rộm. Có người đã nhẩn nha ăn và đếm được mỗi bữa ăn bằng bắp, được 500 hạt với sai số mỗi bữa là 5. Khi nào đổi món là bo bo thí anh em ngán ngẩm lắm vì bo bo ăn vào mà không tiêu được lại trở ra chất thải hết. Thế nên gọi là ăn mà như không. Ấy thế mà không hiểu tại sao anh em chúng tôi, đến giờ chia phần ăn, vẫn gọi là “Cơm! Cơm!” và chúng tôi vẫn sống, vẫn nâng nổi những lưỡi cuốc hàng ngày. Phải nói đó là một phép lạ.

Trong bụng tôi hình như đã no đầy những mong muốn gặp vợ con nên tôi không cảm thấy đói. Đó là đầu tiên từ ngày vào trại tù cải tạo tôi không cảm thấy đói. Tôi nói với bạn tù nằm cạnh:

-Anh lấy phần cơm của tôi đi.

Anh bạn tù nhìn tôi bằng đôi mắt chan chứa cảm mến. Ôi! đôi mắt đó không bao giờ tôi quên được. Nó làm cho tôi ấm lòng. Nó cho tôi tình quyến thuộc. Nó trút đi những nỗi tủi hờn. Tôi nói thêm với anh:

-Mai anh ăn cơm với tôi nhé.

Anh bạn cúi đầu đáp nhỏ:

-Anh tốt với tôi quá.

-Có gì đâu anh.

o O o

Giờ “cơm” vừa xong thì kẻng báo “vào chuồng”. Bâỷ mươi hai người chúng tôi lần lượt đi qua mặt tên trực trại để vào buồng cho hắn khoá lại. Thoải mái với nhau được độ một tiếng là có tiếng kẻng báo giờ “sinh hoạt”. Đối với đa số anh em chúng tôi, cái giờ này là giờ khốn khổ nhất, khốn khổ hơn cả những giờ phút lao động ngoài hiện trường. Tất cả phải ngồi ngay ngắn, nghiêm túc và trịnh trọng để sinh hoạt nghĩa là nghe nhau “kể khổ”. Tất cả phải tự kiểm điểm mình trong ngày hôm đó có an tâm học tập lao động không, có tư tưởng buồn chán gì không nghĩa là có nhớ nhà không, có phát ngôn phản động linh tinh gì không, có đạt chỉ tiêu mà “trại giao phó” cho không. Rồi đến phần khốn khổ nhất là phê bình “xây dựng” nhau nghĩa là phải moi móc nhau ra để phê bình cho mau tiến bộ. Phút giây này có người vì lỡ lời, vì vô tình hay vì bị ép buộc phải phê bình người khác. Thế là một màn tố nhau để rồi cả hai bên hôm sau phải gặp quản giáo để tên quản giáo “giáo dục”. Sở dĩ đi đến chuyện thương tâm như vậy bởi vì các cuộc sinh hoạt ấy đều có thư ký viết lại biên bản để cho bọn quản giáo và trại theo dõi anh em chúng tôi. Nhiều người nông nổi, hay tự ái vặt đã bị rơi vào bẫy của chúng, tự vạch áo cho người xem lưng. Do đó mà đa số anh em chúng tôi đều lo sợ giờ phút sinh hoạt bình bầu… Đó là một hình thức khủng bố tinh thần thường trực anh em chúng tôi. Cũng vì thế mà người thư ký của Đội, của Phòng thường được anh em nể vì vì lời văn trong biên bản của anh có thể di hại cho người khác.

Chín giờ tối. Kẻng đổ hồi báo giây phút chấm dứt sinh hoạt. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm. Không khí buồng giam chợt sinh động. Một vài tiếng sòng sọc của ống điếu thuốc lào vang lên như báo một niềm vui rộn rã. Mà là niềm vui thật. Bởi vì 30 phút sau đó là kẻng ngủ. Ai nấy phải im lặng, trật tự. Bây giớ là giây phút sống cho chính mình. trong đêm đen mà ánh sáng của một ngọn đèn dầu được vặn thật nhỏ không đủ soi mói những mơ tưởng của mỗi người. Mơ tưởng về những ngày xưa tưởng như ở một kiếp khác. Mơ tưởng một bữa ăn có cơm trắng, trứng chiên hay thịt gà luộc. Mơ tưởng một mai, chợt có tên gọi về. Để, ra đầu trại có khu dân cư thưa thớt, mua hẳn 5 đồng sắn (khoai mì) luộc ăn cho bõ thèm…

Nhưng hôm nay tôi không mơ tưởng gì hết mà tâm trí đang dồn về căn nhà tranh đơn sơ, nằm thật mộng mơ dưới ánh trăng bên bờ suối. Tôi liếc nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Đêm bên ngoài rực sáng ánh trăng trong. Lá cây như ướt nước, lóng lánh vui đùa với gió nhẹ của đêm hè. Tôi mường tượng ra cảnh bên ngoài, gần tôi lắm. Chỉ cách có một bức rào trại tù là con suối chẩy lũng lờ. Thoải một con dốc sườn đồi là căn nhà tranh đó. Nơi đó những người thân yêu của tôi đang làm gì nhỉ. Hai đứa nhỏ chắc đang thì thầm với mẹ về Bố. Thế nào cũng có đứa hỏi:

-Mẹ ơi! Sao mãi Bố chưa ra?

Vợ tôi sẽ trả lời thế nào nhỉ. Tôi cố nghĩ để xem vợ tôi sẽ trả lời các con thế nào. Có lẽ Quyên sẽ ôm con vào lòng, lặng lẽ ru chúng ngủ. Chúng ngủ, giấc mơ nào sẽ đến trong những tâm trí trắng trong ngây thơ. Có một hình ảnh nào của Bố còn in trong trí não chúng. Có một quen thuộc nào còn trong tâm thức chúng. Có một thân yêu nào còn vọng vang trong giấc ngủ hiền hoà. A! ngày mai tôi phải mặc quần áo gì để ra gặp vợ, gặp con đây. Bộ đồ tù xanh mới phát còn để dành tìm dịp đổi lấy nắm xôi nếp hay cái đùi gà của dân. Không được. Đừng cho các con in hằn trong trí nhớ cái hình ảnh tù đầy của Bố. Bố phải oai hùng. Bố vẫn oai hùng và Bố sẽ cố gắng oai hùng, các con ạ. Thế thì mặc đồ gì nhỉ. Hai bộ thường phục mang đi ngày “trình diện” đã nộp trại, có lẽ đã mục nát. Thôi phải rồi. Bộ quần áo rằn ri. Ngày xưa Bố cũng mặc quần áo rằn ri, trên đầu còn cái mũ đỏ nữa. Thiếu cái mũ đỏ và đôi giầy “sô”. Cái bộ quần áo rằn ri của quân đội mình mà bọn Cộng Sản còn căm tức. Ngày chiếm được miền Nam chúng tịch thu được cả triệu bộ trong kho quân nhu, nay chúng đem cho tù mặc, định để sỉ nhục sắc áo và cũng là để tiết kiệm vải xanh tù của chúng vì chúng còn bắt giam tù nhiều người nữa. Với tôi và chắc cũng như của nhiều anh em tù, bộ quần áo này sẽ được chọn mặc ra thăm nuôi dù có dấu chữ Cải Tạo phía sau. Thế là vấn đề y phục đã được giải quyết. Bây giờ, gặp vợ con, tôi sẽ nói những gì nhỉ.Câu đầu tiên sau bao nhiêu năm xa cách vợ con sẽ là những âm thanh lắng đọng sâu sa trong tâm tưởng vợ con mình. Thế thì tôi sẽ nói gì?

Có lẽ tôi sẽ quì xuống, ôm hai đứa con vào lòng vì chúng còn bé nhỏ lắm. Và, cũng quì thế mà ngước nhìn người vợ thủy chung, hiền thục…Sẽ không nói gì cả vì cuộc sống này đã không có cảnh nào để lời nói có thể diễn tả được.

Chợt bên tai tôi có tiếng thì thầm:

-Anh Huy ơi, lên chỗ tôi đi. Hay lắm!

Tôi chưa biết là ai thì một bàn tay đã nắm lấy tay tôi lôi đi. Tôi nhỏm dậy theo bạn, trèo lên tầng sạp trên. Bạn tôi đẩy tôi vào sát khuôn cửa sổ phòng giam. Từ trên cao tôi ngó được qua rào nứa của trại tù. Bên kia rào, đúng là con suối lóng lánh ánh trăng. Cây cầu là một thân cây lớn bắc ngang suối, lúc này như cảnh Thiên Thai của Từ Thức. Ánh trăng vằng vặc soi rõ khuôn cửa căn nhà thăm nuôi. Tôi điều tiết đôi mắt đểû cái nhìn xuyên thủng được ánh sáng lờ mờ trong căn nhà do ngọn đèn dầu leo lét hắt ra. Tôi có thấy hai cái chân bàn dài. Hình như có cả chân ghế. Căn nhà tranh nhỏ làm bếp ở bên cạnh có khói bốc lên. Ngọn khói nhỏ lững lờ trong ánh trăng đưa cái ấm cúng nhớ thương vào tâm hồn tôi. Có lẽ vợ và các con tôi đang nấu ăn. Có thể nấu một món gì đó cho tôi. Có lẽ là thổi xôi. Tôi ước ao thế.

Ôi! Chợt người tôi lạnh băng. Một bóng bé nhỏ vụt chạy từ khuôn cửa bếp lên nhà. Hình như có tiếng gọi nên bóng bé nhỏ đó dừng lại trên thềm đất. Một bóng nữa nhỏ hơn lon ton từ khuôn cửa nhà thăm nuôi ra đón chị. Bóng nhỏ vấp té. Tôi giận tôi hôm làm nền nhà đã đập không kỹ. Bóng nhỏ lớn hơn quì xuống đỡ em, lấy tay phủi quần cho em. Chúng nó thương nhau quá. Cái gì cuồn cuộn trong cổ họng tôi làm tôi nghẹn thở. Tiếng thì thào của người bạn tù:

-Con anh phải không?

-Chúng nó đấy. Mà tôi không biết có phải chúng nó không vì mấy năm rồi, đâu có thấy mà biết chúng nó lớn ra sao.

-Ở nhà thăm nuôi hôm nay chỉ có gia đình anh thôi mà. Chắc các con anh đó.

-Tôi cũng nghĩ là chúng nó. Bởi vì thấy những cái bóng nhỏ đó, lòng tôi đã cuộn lên như sóng trào vì tình yêu thương nhung nhớ, anh ạ.

-Thôi, mai gặp chúng nó rồi.

Hai chiếc bóng nhỏ đã khuất vào căn nhà. Đôi mắt tôi như dán vào khung cửa. Vợ tôi chắc còn đương ở dưới bếp nấu thức ăn cho tôi. Tôi chờ một cái bóng lớn. Cái bóng thân yêu quen thuộc. Mấy năm nay nàng mập hay ốm. Mập sao được. Cuộc sống bên ngoài chắc cũng cùng cực lắm. Một nách hai con, đương đầu với cuộc đổi đời tàn bạo.

Vụt ra, cái bóng nhỏ. Nó chạy ra sân. Nó nhìn trăng. Nó chỉ trỏ. Nó nhẩy cẫng lên. Cái bóng lớn hơn từ từ ra khỏi khuôn cửa. Nó đang chơi trò ú tim với em nó? Sao nó đi chậm thế. Đã ra đến thềm. Đã đi vào ánh trăng. Ơ, nó đang kéo lê cái gì thế. Một bọc đồ. Nặng quá hả con. Con mang đi đâu thế. Nó để lại trên thềm. Bước xuống. Rồi lại kéo. Bọc đồ rơi phịch xuống. Bóng nhỏ chạy lại. Hai chị em cùng kéo.

Từ trong bếp, một bóng người nhô ra ánh trăng. Tôi hoảng hốt giật cánh tay anh bạn tù, lắp bắp:

-Vợ tôi đó, anh.

Anh bạn tù nhỏm dậy rồi lại nằm xuống ngay. Tôi nghe tiếng thỏ dài, nhưng không chú tâm lắm. Chắc anh đang nghĩ tới vợ con anh. Giờ này…

Vợ tôi đến mở gói đồ. Ba mẹ con ngồi xổm lục lọi.Hai cái bóng nhỏ đáng yêu quá. Chúng ríu rít như những chú gà con nép trong bụng mẹ. Cái bóng nhỏ thọc cả cánh tay vào gói đồ. Cái bóng chị hất tay nó ra. Nó đứng lên dậm chân, giận dỗi. Chị nó vội đứng lên ôm lấy nó. Ôi! Thương quá các con ơi!

Vợ tôi rút ra một gói gì đó. Nàng cầm tòng teng trên tay. Ối, một con gà đã làm lông rồi. Đúng. Dưới ánh trăng tôi nhìn rõ da gà vàng ngậy. Nàng xách gà đi vào bếp. Hai cái bóng nhỏ lúi húi buộc lại bao bố, rồi hì hụi kéo lên thềm, lê vào trong nhà.

Cứ thế, tôi dán mắt theo dõi ba cái bóng thân yêu. Cho đến lúc cả ba cái bóng khuất hẳn trong căn nhà thăm nuôi thì tôi cũng quá mệt mỏi và gục xuống nằm cạnh bạn, không biết rằng nước mắt mình đã dâng đầy trong tròng mắt.

o O o

Sáng hôm sau, vào lúc tập họp ở sân trại trước giờ đi lao động ngoài hiện trường, tên cán bộ giáo dục đã cho toàn trại biết lệnh của trại rằng: “Vì cải tạo viên Nguyễn Tú Huy học tập chưa tốt, có nhiều biểu hiện không an tâm tin tưởng, không chấp hành nội qui kỷ luật Trại nên Trại khoan hồng chỉ cho nhận đồ tiếp tế của gia đình đến thăm nuôi mà không được phép thăm gặp vì sẽ làm lây lan tư tưởng xấu cho gia đình là những công dân ngoài xã hội đang tích cực xây dựng đất nước.”

Toàn trại ngỡ ngàng. Anh em im lặng theo Đội đi lao động. Tôi chết lặng đi.

Khi anh em đã ra khỏi trại khá lâu tôi mới được tên vệ binh dẫn ra đầu cây cầu bắc qua suối. Đống đồ thăm nuôi nằm đơn lạnh bên bờ suối.

Tên vệ binh bảo tôi:

-Anh sắp tất cả vào một gánh. Đi một lần thôi.

Tôi ngước nhìn căn nhà thăm nuôi. Cái khuôn cửa hôm qua mở rộng, bây giờ đóng chặt. Im vắng. Thật im vắng.

Tôi quì xuống ôm đống đồ mà mới tối hôm qua vợ con tôi còn sắp xếp. Con suối vẫn róc rách chẩy. Tiếng nước chẩy như giòng nước mắt nhớ thương tuôn tràn trong tôi. Nó còn chảy hoài như con suối nhớ này!

Nguyên Huy
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Ngày Về
Vương Mộng Long

Image
Hớt tóc vỉa hè.


Năm 1981, khi tôi còn bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận-Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.

Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa bão dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo não của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.

Chúng tôi mất nước đã gần chục năm, xa nhà cũng đã gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua…” – “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, thì người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh lòng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.

Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là cảnh-sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée.“

Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đã thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Ðế đã chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Ðường.)

Ngày xưa Thượng Ðế đã ban cho tôi một Thiên Ðường, mà tôi lại vô tình không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Năm 1975 Thiên Ðường của tôi đã không còn nữa.

Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ-Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.

Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z30D. Vì làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.

Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ gì mà nhiều sách thế thì anh vênh mặt lên,

– Tớ đi dạy.

– Dạy nhạc hả?

– Nhạc gì?

– Thì nhạc Việt, tân nhạc… hồi còn trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…

Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,

– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ gì đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lý, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!

Tôi nghi ngờ vặn lại,

– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?

Hùng cười hì hì,

– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ vì lý do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc còn lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mã-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…

Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đã được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z30C, Hàm-Tân năm nào.

Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Ðốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Ðốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đã ra chiều tương đắc.

Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn cò của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,

– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?

Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.

Chiều ý tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua? Tìm đâu những ngày xanh như mộng?…”

Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “Tìm đâu? Biết tìm đâu? đâu giờ…” thì anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”

Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn cò “í!a! í!a!…” phụ họa, còn ông thợ hớt tóc thì hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.

Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát não nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn cò nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Ðạo một chiều Thu năm 1989.

Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó xì xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”

Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) thì Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,

– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?

Thì ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…

Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Hòa nhìn nhau, miệng mếu xệch.

Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đã lẫn vào và như đã biến mất trong cái xã hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ chìm vào giòng đời dưới những bộ mã khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn còn đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.

Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Hòa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong dòng chảy của một xã hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.

Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đòi ăn, đòi uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện trò gì. Tôi chất bất cứ vật gì lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Ðông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-Gòn lên Thủ-Ðức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng ký cá khô, tôm khô.

Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-Gòn đi Thủ-Ðức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Võ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Võ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi bãi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của mình có vẻ “oai phong” không kém gì chúng bạn, vì so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nhìn kỹ, tôi thấy nó còn có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!

Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-Gòn.

Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đã đon đả gọi con,

– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia kìa!

Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy còn nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đã đặt cho tôi.

Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà thì thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng tìm vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.

“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị bình thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nhìn đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, tìm vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-Gòn; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Ðường phố Sài-Gòn thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Ðạo, nơi đứa con gái thứ nhì của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đã quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rõ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đi tù cải tạo.


Chắc chắn hình ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đã lọt vào những đôi mắt tò mò.

Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đã về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”

Ðời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dõi dòm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi dò la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xã hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xã hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng còn là chút gì đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, thì vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa mình đi xe Jeep, ngày nay mình đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có gì mà phải kén chọn, quan tâm? Ðiều quan yếu là: Ngày xưa mình có nhau, ngày nay mình vẫn còn có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, mình còn nguyên vẹn như thế này là quý lắm rồi!

Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quý của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp mãi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài Gòn thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đã có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đã thành danh để có tiền đi phòng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật mãi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Ðức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Ðội.

Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.

Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.

Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Chi-Lăng của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Võ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-Gòn, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quý, săn ngải, tìm trầm…

Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nhìn tôi, cười, miệng xuýt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”

Sau đó khá lâu, gia đình Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ thì ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.

Thời gian đầu, khi Chánh còn cư ngụ ở Philadelphia thì tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ thì tình hình đã đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, vì hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện trò với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?

Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Ða”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ-Lý của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Ða” chỉ vì lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhãn hiệu Fansidar. Không rõ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Ðà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài-Gòn nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?

Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những hình bóng mờ dần vì vô tình hay cố ý như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quý những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.

Ôi! Biết tìm đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết tìm đâu xứ sở mà Thượng Ðế đã chọn làm một Thiên Ðường? Biết tìm đâu Việt-Nam Cộng-Hòa của tôi?

VML – K20
18-4-2018
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by vuphong »

Ba Dòng Nước Mắt

Phạm Tín An Ninh


Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận đuợc thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31. Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
"Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chửa trị những vết thương khó lành được trong lòng.
Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt.."

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình. Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa. Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng ?

Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.
***
Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện. Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần "inh". Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung đại đế, cái nơi nổi tiếng "con gái cầm roi đi quyền" đó nó ra sao. Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè. Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân. Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính. Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm. Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui. Vì kể từ hôm nay, không còn "chúng mình ba đứa" nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F 5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó. Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho Quân Đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt. Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch. Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang. Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần "anh về với em rồi anh lại đi". Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước "thăm dân cho biết sự tình", không ngờ "hồn lỡ sa vào đôi mắt em", đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà. Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận. Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế. Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị. Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc. Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.

Chỉ có thằng Bình là "số đẻ bọc điều". Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hoà, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói. Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo "tán", sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm. Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, phi đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ. Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu. Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành. Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu : cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao "đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng" như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.
Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate. Khách khứa lên đến trăm người.

Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi "xác thân đã nhuốm mùi trần tục", một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.
Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển. Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói "lắm mối tối nằm không", đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hoà. Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học. Mỵ Khê, bà xã của Bình cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hoà lẫn tiếng khóc của trẻ thơ. Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần. Biên Hoà bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo. Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khoá, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29.4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển..
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường. Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài gòn để kịp đưa vợ con đi. Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam. Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.

Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày,thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.
Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện "học tập cải tạo" bất ngờ gặp Bình. Trong cái cảnh "nước mất nhà tan" này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn. Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em. Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả. Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng. Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên. Trong trại tỵ nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên. Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina lúc 9 giờ rưởi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ. Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế "ứng chiến" để đối phó với những điều bất trắc. Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khoá chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box. Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép. Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.
- Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.
- Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trưóc khi gặp vợ chồng Bình. Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á châu.
- Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quày mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự :
- Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè, Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quần. Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì Bác mà gây nên cớ sự. Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào. Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó. Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết. Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai Bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.

Tôi đưa tay xin ngưng lời bác.
- Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác ?

- Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi "mu" qua Hawaii. Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn. Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè. Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.
- Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác ?
- Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư. Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó. Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.
Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó. Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi. Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm. Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự.
- Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này. Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người. Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng.
Mong nó trở về đây. Cháu Lina, con gái của tao cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống
- Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao ?
- Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.
- Bây giờ mày tính sao ? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày ?
- Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.
- Còn mày thì sao ?
- Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Nauy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.

Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những dông tố trong đời. Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má. Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ hello, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.

Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, chủ nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu giây giọng nói quen thuộc của thằng Định :
- Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.

Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình:
- Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây. Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận. Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của nguời cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu. Bác sĩ bên này giỏi thật.

Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà :
- Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối. Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào :
- Hello, Ninh ! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.

Phạm Tín An Ninh
phidao
Posts: 134
Joined: Sun Sep 30, 2012 7:29 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by phidao »

Tác giả bức Thương Tiếc ở tuổi xế chiều hiu hắt
TUẤN KHANH

Image
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu *trái( cùng một người hâm mộ ghé thăm )
Trên các trang mạng, những người yêu mến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, yêu mến một kỷ niệm đẹp của VNCH đều nhắc nhau nên sớm ghé thăm ông. Người đã tạo bức tượng Thương Tiếc vang bóng một thời của nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nay đã gần 90 tuổi, nhớ nhớ, quên quên và như cũng đã quá mệt mỏi với một cõi tạm đầy những nhọc nhằn với ông.
Image
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hiện nay, ở tuổi 90, sống tại Gò Vấp, Sài Gòn. (Ảnh Lê Bảo Liên)

Sinh năm 1934 tại Gò Vấp, Sài Gòn, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và sau đó qua động viên, tham gia ngành quân nhu, rồi trở thành Đại Úy, phục vụ tại Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trong đời mình, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tạo ra vô số tác phẩm, nhưng đắc ý và được nhiều người biết đến nhất, là tượng Thương tiếc, đặt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa, và bức thứ hai là tượng An Dương Vương, đặt ở Ngã Sáu Chợ Lớn. Cả hai đều khánh thành vào năm 1966.

Lúc này thì ít ai nhận ra điêu khắc gia lừng danh của miền Nam tự do cũ, do ông ít bạn bè, trí nhớ không còn sắc bén và một phần khác, sau thời gian đi tù sau 1975, bị đánh đập nên ông bị hư hỏng thính giác. Gặp ông lúc này ở nhà riêng tại Nguyễn Thượng Hiền, Gò Vấp, nói gần như hét vào tai thì ông mới hiểu hết ý của người đối thoại.

Những người thân, quen biết nói ông vẫn còn bị PTSD với những năm tháng tù đày, tức Dư chấn tâm thần, dẫn đến trạng thái bất thường, hoảng sợ từ một biến cố hay giai đoạn có sức ám ảnh, nên nếu chạm vào người ông bất ngờ, hoặc nâng dìu mà không báo trước, đều làm ông giật mình, hay hoảng hốt.

Hiện điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu sống cùng sự chăm sóc của các con. Nơi cư ngụ của ông, số 176 Nguyễn Thượng Hiền, phường 1, Gò Vấp, là quán cà phê Tượng Đá, nơi có đặt nhiều tượng mà ông sáng tác lâu nay. Căn phòng nhỏ của ông nằm nép sau quán cà phê, là nơi trú ẩn hết sức cô đơn của ông cùng kỷ niệm. Đây cũng là một trong những điều gây đau đớn tinh thần của ông: Sau 1975, chính quyền mới cho người lập tức đến Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa kéo đổ bức Thương Tiếc, sau đó đập nát để thỏa lòng căm thù. Nhưng vẫn chưa đủ, ít lâu sau đó, theo chỉ điểm của giới nằm vùng, một nhóm bộ đội và băng đỏ cầm AK-47 đến tận nhà ông, đem mẫu tượng ban đầu (khuôn gốc) đập và chửi bới, đánh đập cả ông.


Tượng đài An Dương Vương ở Ngã Sáu Chợ Lớn, Sài Gòn.
Vì tượng đài An Dương Vương ở Ngã Sáu Chợ Lớn là tượng một danh nhân của lịch sử Việt nên dù có ghét bỏ tác phẩm của Nguyễn Thanh Thu, chính quyền mới cũng khó lòng thẳng tay hủy hoại. Họ chỉ để nguyên vậy, không tu sửa sau nhiều chục năm với ý đồ rất rõ là đợi có hư hại, là lập tức cho phá, mang đi. Đó cũng là trường hợp của tượng đài Trần Nguyên Hãn trước chợ Bến Thành.

Và vì sao phải vậy? Bởi tượng Trần Nguyên Hãn được coi là thánh tổ của truyền tin Quân lực VNCH, còn tượng An Dương Vương là biểu tượng của Công binh VNCH.

Nhưng điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu không chỉ là người làm tượng. Được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu đi Phi Luật Tân để tham khảo một nghĩa trang chiến binh mà người Phi rất tự hào, ông Thu quay về và đưa ra đề án xây Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, để thay thế cho nghĩa trang ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, vào đầu những năm 1960, đã bắt đầu chật chội.

Điều lạ thường của chuyện bức tượng Thương tiếc, là khi đã có đủ bảy bản ký họa mẫu, phác thảo dự trù cho bức tượng tiêu biểu trước nghĩa trang, hình ảnh của anh hạ sĩ lính nhảy dù Võ Văn Hai ngồi nói chuyện hư không với một người bạn tử trận của mình trong một quán nước, vô tình đập vào mắt của ông Thu, khiến ông ngẫu hứng ghi lại, day dứt với nó.

Khi trình các đề án lên Tổng thống Thiệu, ông Thu đã xin lỗi khi bày ra tờ giấy lót trong gói thuốc lá, có vẽ chì vội sơ sài, và nói rằng xin lỗi vì mình vừa mới làm. Ông kể lại là lúc đó, Tổng thống Thiệu hỏi ông “Bản nào anh đắc ý nhất?”, ông Thu nói mình bị ám ảnh về hình ảnh ông phác họa từ hạ sĩ Võ Văn Hai. Sau đó ông và Tổng thống Thiệu đã cùng chọn cái tên Thương tiếc cho bức tượng này.

Để hoàn thành toàn bộ bản vẽ chính xác cho Thương tiếc, hạ sĩ nhảy dù Võ Văn Hai đã ngồi làm mẫu cho ông Nguyễn Thanh Thu chỉnh đi, sửa lại từng nét một suốt ba tháng. Khởi đầu năm 1966, tượng được thực hiện bằng bê-tông, cốt sắt, đến năm 1969, được thay đổi bằng đồng. Tượng cao 4m, nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao của tượng đài là 8m. Tác phẩm này, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu nhận giải đặc biệt của Tổng tư lệnh tối cao Quân đội VNCH vào tháng 8 năm 1968.

Sau năm 1975, ông Thu trở thành nơi trút hận thù của các cán bộ trại tù cải tạo. Chỉ là người sáng tạo điêu khắc nhưng ông phải trải qua tám năm tù ở trại Hàm Tân. Ông Thu kể rằng trong đó, ông có 22 tháng nhốt biệt giam và đánh đập tàn nhẫn ngày này qua tháng nọ. Khi ông lên tiếng hỏi vì sao ông bị tra tấn dã man như vậy, thì cán bộ vừa đánh vừa nói “Tội của anh là lưu lại cái tư tưởng, cái hình ảnh, cái tinh thần đó mới là quan trọng. Anh đừng nghĩ đến chuyện trở về nhé”. Những ngày tháng bỏ đói với vô số những trận đòn thù đã làm cho tai ông điếc và cơ thể chỉ là da bọc xương. Cũng có lúc ông đã bị mang ra trường bắn lúc 4 giờ sáng, bịt mắt lại, nhưng không hiểu sao lại có thay đổi vào giờ cuối, cho mang về nhốt lại. Đến ngày ông được thả về, người nhà mô tả là ông phải có người vác đi, vì không tự đi nổi.



Trước đó, khi cán bộ yêu cầu ông viết đơn xin khoan hồng và đổ tội hết cho chế độ cũ chứ ông không tự mình tạo ra những tác phẩm điêu khắc của quân đội. Ông Thu kể rằng lúc đó ông đã đuối sức lắm, chỉ còn thều thào nói được là “Tôi tạo ra, tượng chết thì tôi chết theo”. Một viên cán bộ tức giận nhào tới tát vào hai bên tai của ông. Những cú tát chí mạng khiến máu mũi và máu tai ứa ra, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu điếc gần như toàn phần từ đó.

Bốn năm sau khi ra khỏi trại tù, ông Nguyễn Thanh Thu vượt biên. Ông ở Mỹ gần 10 năm, nhưng loay hoay vì nhớ nghề điêu khắc mà không thể nào nối lại được, sức khỏe thì suy sụp mà quá cô đơn với tâm hồn nghệ thuật của mình, nên sau đó ông xin về lại Việt Nam, sống với con, lặng lẽ tạo ra những bức tượng riêng của mình, ôm giấc mộng đời đến cuối cùng.

Giấc mơ lớn nhất mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vẫn giữ là có ngày phục dựng được bức Thương tiếc. Nhưng giờ ở cái tuổi gần 90, mệt nhoài với những chặng đường đã qua, ngày càng đau yếu, có lẽ rồi ông cũng sẽ ra đi lặng lẽ với những nỗi niềm rất thiêng liêng, đã có trong đời mình.

Còn chút nhớ về, xin hãy thử đến gặp ông, ở những giờ phút này, tại Gò Vấp, Sài Gòn.
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by nguyenvsau »

Giọt nước mắt của lính



Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:

– Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích…và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..

Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:

– Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:

Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.

Gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh…
( Thơ của anh )
*
Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả…

Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái…họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó..


Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu… có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhìn Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy.

Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã…. Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.

Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cà bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuốc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.

Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật…tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.


– Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?

Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời…

Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.

Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.

Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.

Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:

– Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!

Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!

Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:

– Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.

À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:

– Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.

Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm…

1. Chút Quà Gửi Em

Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.
Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng…
Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc… Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.
Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.
Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?
Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.
Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.
Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.
Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.
Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.


ôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, cThợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.
– Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh.

2-Gửi Em Chút Quà

(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)

mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm….

mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh

mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan…..

Người lính không tên…
*
Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh… nước mắt chan hoà..

Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh…hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi…

3. Giọt Nước Mắt Biết Đau

Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.

Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.

Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé,

Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.
Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.

Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân.Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.

Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả…Pleime.

Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu… và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.

Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.
Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây…. Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.

Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.

Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.

Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.


Cuối tháng Tư 75.

Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.

Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa con voi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.

Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.

Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.

Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.

Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân…những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.

Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình!

Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu…Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ…

4 – Giọt Nước Mắt Trở Hồng Long Lanh
( Tiếp theo giọt nước mắt biết đau )

Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.
Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.

Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp…các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ…Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.

Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.

Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:

Giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn….


mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu…

Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân .

Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.

Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình….Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.

Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:

– Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.
Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.

Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.

Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.

Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.

Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.

Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.

Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.

Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.

40 năm sau
…….

Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:

– Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:

– Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:

– Anh

– Em…

Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.

Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?

– Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.

Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.

Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.

Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.

Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.

– Sao em lại để dành số tiền này vậy?

– Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.

– Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được

– ???

– Vì em không phải cần đến số tiền đó nên…

Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:

– Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.

Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:

– Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.

Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói :

– Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:

– Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.

– Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm…Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.

Nguồn internet.
Sưu tầm
vuongquan
Posts: 275
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by vuongquan »

Image
Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân
Hiện Tượng Độc Nhất



Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952.

Thiếu úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt.hnhn

Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ)

Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội của Tiểu đoàn 7 Dù tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC – Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có danh hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường. Phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953) Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi.

Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam hợp vàng xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh…

Bộ tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận.

Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu.

Trung úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy.

Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954.

Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị.

Thành phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba.

Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26 tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia qui về một mối.

Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn… cũng không hề được lập lại thêm lần thứ hai.

Năm 1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu.

Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân độị Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính hôn cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn.

Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương.

Năm 1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng.

Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn.

Năm 1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn Nhất về trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7.

Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ.

Vào một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp:

- Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi!

Thiếu tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của người lính.

Hàng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của Thiếu tá Nguyễn văn Minh, người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5, 7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn.

Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng chiến đoàn:

- Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe!

- Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá!

- Đại úy Hợp vội vã trả lời.

- Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố?

- Thiếu tá Ân hỏi gấp.

- Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau!

- Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc!

Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu.

- Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! – Người tài xế ái ngại nhắc nhở.

- Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải thích với người tài xế, không quên hỏi thêm:

- Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa?

Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời:

- Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi!

Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc.

Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến naỵ Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ.

Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng:

- Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã!

Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu:

- Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu!

Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười:

- Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn lắm!

Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại.

Nhưng nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định.

Vào một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định:

- Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định hành chánh cho phép, nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được!

Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần:

- Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai.

Kết quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương Quang Ân rời tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ đô vào thời điểm 1966-1967):

- Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn!

Nếu Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh)… để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở.

***

Phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh. Phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách.

- Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?!

Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán.

Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ “Ân” đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng:

- Vào hàng! Vào hàng! Phắc!

Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát:

- Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích:

- Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh!

Ông lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định.

Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù.

Ngay sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà thị xã Ban Mê Thuột với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại đội địa phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã.

Sở Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ quan và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng.

Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã.

Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân khố, Sở Hành chánh tài chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại.

Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống.

Nhưng mỉa mai thay, có một “lạnh nhạt cố ý” rất đáng chê trách: suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột “hình như” được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968″, danh tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại.

Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện. Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh Chiến Sĩ – Tướng Quân.

Một ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3 ra bãi đáp trực thăng cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập.


Theo thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ.

Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan:

- Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chữa.

Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước đi ngập ngừng. “Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!”

Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắc son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc.

Người dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng, con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng:

- Chết rồi! Chết rồi trời ơi! – Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!!

Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời.

Tướng quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu trời Tổ Quốc.

Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc áo dài nội hóa của phu nhân.

Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam: Thiếu Sinh Quân – Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ

( Sinh Tồn chuyển )
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Sau cuộc biển dâu

Image

(câu chuyện từ một bộ quân phục)


Tôi gặp và quen anh trong một trường hợp khá bất ngờ, có thể nói là hơi kỳ cục. Vợ chồng tôi đến thăm và ở lại nhà cô con gái út hai tuần. Cháu vừa mua được căn condo trong một khu nhà mới xây ở thành phố Anaheim, cách Khu Disneyland chỉ một con đường. Đêm nào, bọn tôi cũng ra balcon ngắm pháo hoa được liên tục bắn lên từ khu giải trí nổi danh này. Căn nhà nhỏ khá xinh và ở trong một khu an toàn, cô con gái út rất thích. Nhưng chỉ sau vài hôm, cứ đến một hai giờ khuya thì cả nhà phải thức giấc, bởi tiếng lục đục ở căn nhà tầng trên. Âm thanh của một vật cứng nào đó gõ xuống nền nhà. Không đều đặn, năm ba phút một lần, dù nhẹ nhưng cũng đủ làm buốt trong đầu.

Sáng hôm sau, cô con gái nhờ tôi lên nói chuyện với chủ nhà, yêu cầu chấm dứt các tiếng gõ khó chịu vào giữa khuya ấy, để chúng tôi không bị mất ngủ, đặc biệt cô con gái phải đi làm khá sớm.

Sau hai lần bấm chuông, một người đàn ông mở hé cửa, gật đầu chào. Rất may, lại là một đồng hương. Chưa nói chuyện với chủ nhà, nhưng tôi đã thoáng hiểu được nguyên nhân gây ra tiếng động. Ông ta chống hai cây nạng gỗ. Mọi bực tức trong tôi bỗng dưng biến mất, những lời “cảnh cáo” tôi dự định sẽ nghiêm mặt nói với ông cũng tan biến theo. Tôi lễ phép chào ông, bảo là tôi ở tầng dưới, muốn đến thăm và làm quen với người đồng hương láng giềng. Ông nở nụ cười, làm rạng rỡ phần nào khuôn mặt khắc khổ, đã có nhiều vết nhăn, một phần được che phủ bới mái tóc dài bạc trắng. Ông mở rộng cửa mời tôi vào nhà. Tôi hơi khó chịu với mùi khói thuốc lá và cả mùi rượu.

– Anh ở đây một mình? Câu đầu tiên tôi hỏi.

– Vâng, thỉnh thoảng có cô con gái đến thăm. Cháu ở trên Riverside, cách đây khoảng gần một giờ lái xe.

Căn nhà nhỏ một phòng ngủ, phòng khách chưng bày đơn giản. Điều làm tôi chú ý là hai tấm ảnh treo trên vách, phía sau bàn ăn. Một tấm là chân dung của một người lính, tấm kia là ảnh gia đình. Thấy tôi chăm chú nhìn, anh cười, bảo là ảnh của anh và vợ con anh lúc xưa. Anh chống nạng đứng lên, như có ý mời tôi đến xem.

Tôi tròn mắt ngạc nhiên, tấm ảnh chân dung là một sĩ quan trẻ, mang cấp bậc thiếu tá, trông khá đẹp trai, phảng phất nét hào hùng. Trên ngực mang khá nhiều huy chương. Tấm ảnh kia anh chụp với người vợ xinh đẹp và hai đứa con kháu khỉnh. Lòng tôi bỗng chùng xuống, như vừa chạm vào một vết thương cũ. Tôi bất giác quay người lại, đứng nghiêm đưa tay chào:

– Xin chào niên trưởng!

Anh tròn mắt bất ngờ, rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Sau này, tôi được biết tấm ảnh chân dung này anh chụp sau khi được thăng cấp thiếu tá tại măt trận Quảng Trị tháng 10 năm 1971, khi anh đang là tiểu đoàn phó, thay vị tiểu đoàn trưởng bị trọng thương, chỉ huy đơn vị phá vòng vây địch, tạo một chiến thắng lẫy lừng.

Chúng tôi trở nên đôi bạn thân thiết kể từ hôm ấy. Hình như giữa chúng tôi có điều gì đó cùng “tần số” với nhau. Trước đây anh sống rất âm thầm, khép kín, không muốn gặp gỡ tiếp xúc một ai, kể cả những người quen biết cũ. Sau này, cứ mỗi lần đến nhà cô con gái tôi đều ghé thăm anh, mang theo cho anh một ít nem chua Ninh Hòa mà anh rất thích. Anh say sưa kể cho tôi nghe một thời hào hùng trong binh nghiệp. Anh nức nở khi nhắc tới những vị đàn anh, những đồng đội hào hùng đã phải hy sinh oan khiên tức tưởi, đặc biệt trong trận chiến Hạ Lào- Lam Sơn 719. Người được anh nhắc đến nhiều nhất, ngưỡng phục và thương tiếc nhất là Cố Đại Tá Lê Huấn, một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi nổi danh, tốt nghiệp Khóa 18 VBĐL mà có một thời anh được phục vụ dưới quyền.

Anh bảo tôi vào phòng ngủ để anh cho xem một kỷ vật. Anh bật đèn lên tôi ngạc nhiên khi thấy một bộ quân phục. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đây là một bộ quân phục tác chiến đã cũ, có những vết sờn rách, được giặt ủi cẩn thận và treo trong một cái tủ kính nhỏ. Loại tủ để chưng bày. Anh mở cửa tủ và cẩn thận lấy bộ quân phục, ôm vào người một cách trang trọng. Đôi mắt mơ màng như đang tìm về một quá khứ xa xăm nào đó. Anh thốt ra môt giọng trầm buồn. Dường như là để nói với chính anh hơn là với tôi, người đang đứng ngay trước mặt anh:

– Đây là bộ đồ trận của anh ấy, anh Lê Huấn.

Sau chiến thắng lẫy lừng tại Căn Cứ O’Relly, khi tiểu đoàn anh dưới tài chỉ huy tài ba của Trung Tá Lê Huấn đã đánh tan một lực lượng địch cấp trung đoàn của Sư Đoàn 304 BV, tháng 8/1970 tiểu đoàn lại đánh một trận khốc liệt với một đại đơn vị khác cũng của Sư Đoàn 304 BV này tại Hải Lăng, Quảng Trị. Khi ấy anh đang là đại đội trưởng thâm niên nhất của tiểu đoàn. Cả hơn một trung đoàn địch, sau nhiều đợt tiền pháo kinh hoàng đã đồng loạt xung phong nhằm tràn ngập vị trí đóng quân của tiểu đoàn 4/1. Trung Tá Lê Huấn rời khỏi hầm chỉ huy, đích thân điều động đơn vị quyết chiến trước một cuộc thư hùng sinh tử. Từng đợt địch quân bị đốn ngã ngay trước giao thông hào, nhưng bọn chúng như là những con thiêu thân lao vào lửa, lớp này ngã lớp khác lại xông tới. Nhờ sự chiến đấu kiên cường của đơn vị anh, và đặc biệt dưới sự chỉ huy tài tình và gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng lừng danh, đã ngăn chặn, tiêu hao và cầm chân địch trước khi được những phi vụ không yểm, đánh trên đầu địch. Những trận không kích gây thiệt hại nặng nề cho địch nhưng cũng làm bị thương một số binh sĩ của đơn vị, vì khoảng cách giữa ta và địch quá gần. Anh là một trong những người bị trọng thương hôm ấy. Trời tối và mưa lớn, lưới phòng không dày đặc, không tản thương được, Anh Lê Huấn ra lệnh ban quân y mang anh vào nằm trong hầm chiến đấu của anh Huấn để được tương đối an toàn và băng bó chữa trị cấp thời. Thấy máu và bụi bặm thắm đầy bộ chiến y ướt đẫm nước mưa của anh, vị tiểu đoàn trưởng bảo người lính cận vệ lấy bộ áo quần trong ba-lô của mình mang đến thay cho anh. Khi tản thương về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, nhiều bác sĩ cứ tưởng anh là Trung Tá Lê Huấn, bởi bảng tên và cả cái lon trung tá còn nguyên trên ngực và cổ áo.

Vết thương chưa lành, nằm trong Quân Y Viện mà lòng anh rất nôn nao khi biết tin đơn vị tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Một kế hoạch qui mô với sự tham chiến của hầu hết các đơn vị chiến đấu thuộc Vùng I: Sư Đoàn 1BB, các đơn vị Thiết Giáp, Biệt Động Quân, cùng với các Lữ Đoàn Nhảy Dù và TQLC. Anh khao khát được có mặt cùng đơn vị trong trận chiến đặc biệt này, nhưng vết thương ở chân phải là trở ngại chính để bắt anh phải nằm lại ở đây.

Anh theo dõi từng ngày từ khi cuộc hành quân bắt đầu. Các tin tức không vui từ chiến trường, những tổn thất nặng nề của quân ta sau khi các căn cứ 31, 30 lần lượt thất thủ. Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù cùng nhiều cấp chỉ huy của ta bị lọt vào tay giặc. Một số phải tự sát để giữ tròn khí tiết. Từ các kế hoạch hành quân tồi tệ mà địch quân gần như biết trước để chuẩn bị trận địa đến việc thiếu thống nhất ở các cấp chỉ huy đã góp phần cho sự thảm bại. Điều đau đớn nhất đã làm tim anh thắt lại khi nghe tin Tiểu Đoàn 4/1 của anh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, làm lực lượng chặn hậu để cho Trung Đoàn rút lui khỏi căn cứ Lolo trong tình trạng bị bao vây nguy khốn. Anh bật khóc khi nghe tin Trung Tá Lê Huấn, vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi tài năng đã lẫm liệt hy sinh, và cả tiểu đoàn chỉ còn 32 binh sĩ sống sót trở về! Anh nghĩ từ nay sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại người chỉ huy mà anh ngưỡng phục và hằng mong được tiếp tục phục vụ dưới quyền. Anh nhớ tới bộ quân phục mà Trung Tá Lê Huấn đã đưa cho anh thay khi anh bị trọng thương cách đây vài tháng, anh còn chưa kịp trả lại, và bây giờ thì không còn có cơ hội để trả lại cho khổ chủ. Anh quyết định giữ lấy bộ quân phục này như một kỷ vật thiêng liêng trong cuộc đời mình. Và sau đó dù phải trải qua bao nhiêu thăng trầm, khốn khổ, nhất là sau ngày nước mất nhà tan, anh vẫn luôn trân trọng bộ quân phục mà anh nghĩ có mang hồn thiêng của anh Lê Huấn và của cả những đồng đội đã hy sinh.

Sau khi xuất viện, anh được bổ sung đến một trung đoàn khác giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Tháng 10/ 1971 anh thăng cấp Thiếu tá tại mặt trận. Cuối năm anh lên nắm tiểu đoàn thay thế vị tiểu đoàn trưởng bị thương, sau đó được theo học khóa quân chánh. Một thời gian sau, vết thương cũ ở chân phải tái phát. Sau khi chữa trị anh đi khập khiễng. Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp anh vào loại 2, không chiến đấu được. Được đề nghị bổ sung về Phòng 3 Quân Đoàn, nhưng anh xin đi làm chi khu phó cho anh tiểu đoàn trưởng cũ, bây giờ là quận trưởng của một quận miền núi. Quận lỵ là một tiền đồn chiến lược, nằm tại một vị trí trọng yếu khống chế cả con đường tiếp liệu của Cộng quân, nên bọn chúng tìm mọi cách để san bằng. Gần cuối năm 1974, Cộng quân mở nhiều đợt tấn công biển người nhằm chiếm quận lỵ, vị quận trưởng bị thương nặng. anh đã phối hợp với các đơn vị bạn tăng cường, trực tiếp chỉ huy điều động cuộc phản công rất oanh liệt giữ vững được phòng tuyến qua nhiều cuộc tấn công qui mô của địch. Nhưng tổn thất của ta khá nặng và đạn dược dần dà cạn kiệt, trong lúc Cộng quân luôn được tăng cường, cuối cùng anh phải mở đường máu, rút lui trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Anh bị thương nặng ở chân, điều kỳ lạ là ngay tại vết thương cũ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường và hai người lính nghĩa quân rất trung thành và khôn ngoan giúp đỡ, thay phiên cõng anh thoát khỏi vòng vây truy lùng của địch. Anh được đề nghị thăng cấp đặc cách lên trung tá, nhưng sau đó bị cưa mất chân phải. Nỗi đau đớn vì phải mất đi một phần thân thể chưa nguôi, thì cái đau đớn tột cùng cũng vừa ập đến: Tháng 3/75, cả Vùng I bỗng chốc lọt vào tay Cộng sản, Sư Đoàn 1BB, đơn vị nổi danh mà anh luôn hãnh diện phục vụ trong gần cả một đời binh nghiệp cũng tan tành, rồi cả miền Nam mất vào tay giặc. Những đồng đội từng chiến đấu, một thời sống chết cùng anh bỗng dưng tan tác như chỉ sau một cơn ác mộng.

Mất một cái chân, nhưng anh vẫn bị tù đày nghiệt ngã trên bảy năm trong nhiều trại tù của bọn Cộng sản man rợ. Ra khỏi tù anh lại mất cả gia đình. Người vợ xinh đẹp ngày nào đã gởi đứa con gái lớn, năm tuổi, cho bà nội già, bồng theo đứa con trai ba tuổi, lẳng lặng sang sông về một nơi nào đó. Gia tài một đời binh nghiệp của anh giờ chỉ còn mỗi một bộ đồ trận, chiến y của người chỉ huy mà anh từng kính yêu đã hy sinh. Trước khi vào tù, anh căn dặn mẹ anh phải giữ kỹ bộ quân phục này cho anh với bất cứ giá nào, bởi đó là một kỷ vật quý giá nhất còn lại của đời anh. Theo đề nghị của mẹ, anh đồng ý cho bà tháo ra và đốt đi cái bảng tên và cấp bậc may trên áo.

Có lẽ từ lâu lắm mới có người chăm chú ngồi nghe, nên anh say sưa kể cuộc đời mình. Đôi lúc sụt sùi, nước mắt tưởng đã khô cằn, bỗng ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ già nua, và từng giọt rơi xuống bộ quân phục anh đang ôm ấp trong lòng mình.

– Sau này anh có dịp nào gặp lại chị nhà và đứa con trai? Tôi hỏi.

– Bà đã có chồng khác từ lâu rồi, đang sống ở Âu Châu. Tôi buồn nhưng không trách. Ngại đụng chạm tới hạnh phúc riêng của bà, và cả vết đau trong lòng mình nên không muốn liên lạc. Còn đứa con trai có sang thăm tôi hai lần, nhưng cháu vẫn nhìn tôi xa lạ lắm. Cũng phải thôi, vì khi tôi vào tù thì cháu chỉ mới lên ba, trong ký ức của cháu có lưu lại một chút hình ảnh gì của tôi đâu. Riêng con gái tôi có sang thăm mẹ và em cháu vài lần.

Nói dứt câu, anh cúi xuống như muốn giấu riêng nỗi xúc động.

– Anh có thường cảm thấy cô đơn và tiếc nuối những ngày xưa?

– Cũng có chứ, nhưng lâu rồi thành quen và gần như không còn muốn nhớ tới nhiều chuyện cũ.

Tôi đưa tay nắm chặt bàn tay anh thay cho một lời an ủi khó nói thành lời. Bỗng anh ngước lên, mở to đôi mắt:

-Điều buồn của tôi bây giờ là thấy một số trong đám anh em mình mất đi khá nhiều sĩ khí, có thằng còn khốn kiếp đã vì chút lợi lộc nhỏ nhen mà chạy hùa theo giặc, nịnh bợ thô bỉ, quên mình từng hãnh diện là sĩ quan của những binh chủng hào hùng. Nhìn bọn chúng múa may khóc lóc làm trò trước mặt bọn cộng sản mà tôi muốn buồn nôn!

Tôi cười:

-A nh bận tâm tới những kẻ ấy làm gì. Trong tập thể nào lại không có những con sâu, tồi tệ, bán rẻ linh hồn. Cũng có thể là những thằng khùng. Nhưng đó cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt. Cũng như nước Mỹ vừa có tên phản quốc Edward Snowden, đang trốn ở Nga-Sô. Theo tôi, đại đa số anh em mình vẫn còn giữ được tấm lòng, tình huynh đệ và trách nhiệm với quê hương đất nước chứ!

Bỗng đôi mắt anh sáng lên:

– Điều vui và an ủi tôi nhiều nhất là các tổ chức gây quỹ giúp anh em thương phế binh sống khốn khổ ở quê nhà. Đặc biệt là các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh thành công tốt đẹp. Thấy anh em nhà binh mình cùng bà con tham gia hưởng ứng nhiệt tình, tôi mừng và cảm động lắm. Ở bên nhà các cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn cũng đã can đảm, hết lòng an ủi và làm sống dậy niềm tự hào của những anh em thương binh bất hạnh, tôi cảm phục vô cùng. Có bao nhiêu tiền dành dụm tôi đều nhờ cô con gái gởi về phụ với các cha.

Tôi cười, biểu lộ sự đồng tình. Định nói thêm đôi điều để khoe về những đóng góp phần mình, bỗng nghe anh hỏi:

-Bạn ở Âu Châu, sang Mỹ một thời gian, chắc đã thấy trong đám anh em mình bây giờ cũng nhiều người bon chen danh lợi. Mà tội nghiệp thay toàn chỉ là danh hão! Nhiều ông tướng ông tá có danh thời trước, sang đây lại đầu quân làm tướng phường tuồng cho mấy cái chính phủ tự xưng tự diễn như đám hát chèo. Có ông giành hội này, bám tổ chức kia. Thấy mà phát ngượng! Trong đó có cả những ông ngày xưa từng là cấp chỉ huy của mình. Ngán ngẫm thật. Giấy rách mà cũng chẳng còn cái lề nào để mà giữ nữa!

Tôi cười. Chưa kịp nói một lời an ủi, bỗng thấy anh sa sầm nét mặt:

– Điều buồn nhất là thiên hạ lạm dụng bộ quân phục một cách đến lố bịch. Đám cưới, sinh nhật, tiệc tùng nhảy nhót mà cũng có người mặc quân phục. Có lần tôi thấy một ông mặc quân phục, mang cả lon lá và đầy huy chương lên truyền hình để quảng cáo thuốc cho một ông thầy thuốc Nam tự nhận mình là bác sĩ! Tôi xấu hổ và giận đến tím cả mặt. Tối hôm ấy, tôi ôm bộ quân phục này của anh Lê Huấn mà thấy lòng xót xa vô hạn.

Nhớ lại một câu chuyện liên quan tới bộ quân phục đã xảy ra tại đất nước Na-Uy, nơi gia đình tôi đang định cư, tôi kể cho anh nghe:

– Tháng 11 năm 2004, bà Kristin Krohn Devold, Bộ Trưởng Quốc Phòng Na-Uy, đến viếng thăm binh sĩ thuộc các đơn vị quân đội Na-Uy tham chiến tại Afghanistan trong lực lượng NATO. Bà được ca ngợi là một nữ bộ trưởng can đảm đã đến thăm binh sĩ khi chiến trường đang ác liệt nhất. Nhưng sau khi tin tức và hình ảnh về chuyến viếng thăm này được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Na- Uy (NRK), bà bị nhiều sĩ quan và binh sĩ Na-Uy phàn nàn, phản đối khi thấy bà mặc quân phục từ một chiếc trực thăng bước xuống thăm một đơn vị tác chiến Na- Uy, và cả khi được Thủ Tướng Afghanistan, Hamid Kazai tiếp đón tại thủ phủ Kabul. Báo chí cũng góp phần tranh luận và tỏ ra bất bình về sự kiện này. Hầu hết cho rằng bà chưa hề ở trong quân đội, nên không được phép sử dụng quân phục, dù trong bất cứ chức vụ hay hoàn cảnh nào. Những quân nhân cho rằng bộ quân phục còn có tính thiêng liêng, bởi nhiều chiến binh đã hy sinh trong bộ quân phục này. Mặc dù bà và một số cơ quan chính phủ lên tiếng biện minh, viện lý do vì sự an toàn cho bà trong một hoàn cảnh đặc biệt, nhưng vẫn không được chấp nhận. Cuối cùng bà phải bắt buộc lên tiếng chính thức xin lỗi quân đội và cả dân chúng Na-Uy về điều này.

Nghe tôi kể xong, anh đưa bộ quân phục đang cầm trong tay lên như để khẳng định một điều gì.

– Đúng như thế, bộ quân phục đối với tôi luôn là một kỷ niệm thiêng liêng. Có biết bao đồng đội của tôi hy sinh đã được liệm với bộ quân phục thấm đẫm máu đào của họ. Xin đừng lạm dụng và làm đau lòng họ.

Sau lần gặp gỡ đầu tiên này, tôi còn đến thăm anh một vài lần nữa, và bảo cô con gái: “bác ấy là người tốt, một sĩ quan đáng kính, con nên thường thăm nom và giúp đỡ bác những điều cần thiết”. Hôm đến chào từ giã anh để trở về lại Na Uy, tôi mang biếu anh hai chai rượu đỏ loại tốt. Tôi khuyên anh, khi nào buồn thì uống vài cốc cho nguôi ngoai, không nên uống nhiều rượu mạnh và hút thuốc lá, có hại cho sức khỏe. Anh nở nụ cười, nhưng bỗng trở nên buồn bã:

– Anh đi rồi, tôi lại cô đơn, chẳng còn ai tâm sự.

Hôm đó, tôi ở lại với anh tới hơn một giờ khuya. Chống gậy tiễn tôi ra cửa, anh bắt tay từ giã nhưng giữ khá lâu, không muốn tôi đi. Tôi cười, bảo nhỏ:

-Anh cố dỗ giấc ngủ, đừng thức dậy nửa đêm, uống rượu chống nạn đi quanh nhà. Bọn tôi ở tầng dưới cũng mất ngủ với anh luôn.

Anh gật đầu, cười thông cảm.

Sáu tháng sau, khi trở lại Mỹ, tôi liền đến thăm anh. Bấm chuông mấy lần không ai mở. Tôi không còn nghe tiếng động của đôi nạng gỗ gõ xuống nền nhà như mọi khi. Buổi chiều, cô con gái đi làm về, cho tôi biết là anh ấy bị ung thư gan ở thời kỳ cuối. Con gái của anh đã đưa anh vào bệnh viện Fountain Valley từ tuần trước. Tôi lái xe xuống ngay bệnh viện. Anh nằm bất động. Khi tay tôi chạm vào anh, anh mở hé mắt nhìn tôi và miệng cố nở nụ cười, méo mó. Thấy anh cười mà tôi muốn khóc. Trông anh tiều tụy và hốc hác quá. Nhưng anh rất bình tĩnh, như ngày xưa khi đối diện trước quân thù. Anh muốn ngồi dậy, nhưng không còn đủ sức. Tôi ngồi bên cạnh, đưa tay xoa trên ngực anh, bảo anh cứ nằm nghỉ.

– Bác sĩ bảo tôi không còn nhiều thời gian nữa, ngày mai phải xuất viện về nhà để gia đình lo hậu sự – Anh nói bằng một giọng thì thào, yếu ớt.

Khi nhắc đến hai chữ gia đình, anh lại cười, chua chát:

– Lại gia đình…!

Hiều ý anh, tôi nói đùa cho anh vui:

– Phải nói là đại gia đình, vì ngoài cô con gái ra, anh còn có chúng tôi nữa. Cứ yên tâm mà đi. Nhớ dọn sẵn một bãi đáp cho ngon lành, chờ tôi đáp xuống sau anh nghe.

Chiều hôm sau anh được xe bệnh viên đưa về nhà. Cô con gái túc trực bên anh. Tôi cũng luôn có mặt. Anh ngỏ ý muốn uống với tôi một ly rượu đỏ. Cô con gái ngần ngừ, nhưng thấy tôi ra dấu gật đầu, cô rót hai ly rượu, một ly mời tôi và một ly cô cầm đưa vào miệng cha cô. Cuối cùng chúng tôi cũng cạn ly. Không ngờ đó là ly rượu từ biệt. Tôi bỗng nhớ tới lời của một bài ca cũ : “bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã… đã đi xa rồi…”

Khuya hôm đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo: “Nhớ liệm ba bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe con”.

Đám tang thật đơn giản theo ý muốn của anh. Mấy lần anh dặn dò cô con gái không được đăng cáo phó hay báo tin cho ai biết. Tại nhà quàn, ngoài cô con gái của anh và cậu bạn trai người Mỹ, chỉ có vợ chồng tôi cùng cô con gái út. Một nhà sư già tụng một thời kinh trước khi đậy nắp quan tài. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào anh. Anh nằm uy nghiêm trong bộ quân phục, khuôn mặt ánh lên nét hào hùng. Tôi có cảm giác như anh vừa chết tại chiến trường. Không có bất cứ một nghi lễ nào, nhưng tai tôi như đang văng vẳng tiếng kèn truy điệu và khúc nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ.

Đứng nghiêm chào anh một lần nữa, khi quan tài đưa vào lò thiêu. Mọi thứ đều trở về với cát bụi. Lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui bất chợt, khi nghĩ anh sắp được gặp lại anh Lê Huấn và những đồng đội cũ, những chiến sĩ đích thực đã rất xứng đáng với bộ quân phục oai phong của QLVNCH. Họ đã tạo cho bộ chiến y một điều gì đó rất thiêng liêng.

Phạm Tín An Ninh
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tiendung »

Image


Người Lính Dù Và Cô Gái Tên... Tui -
TeaLan 26B


Chắc là lúc Ba Má tui muốn chứng tỏ tình yêu của hai người mặn nồng tha thiết lắm cho nên lúc mới lấy nhau đã dự định trước sẽ đặt tên con là gì cho có nghĩa ý nghĩa tình của hai người. Anh Hai tui tên Thương, Lê Hoài Thương. Còn tui thay vì bị đặt tên là Lê Hoài Yêu nhưng may quá Ba Má tui bẻ quẹo qua tên khác đặt tên là Mến, Lê Thị Mến. Thôi vậy cũng được đi, tên Mến dù sao cũng dễ nghe hơn tên Yêu, yêu ma, yêu quái, yêu tinh, yêu nữ, chắc là tui sẽ khổ sở lắm nếu tui tên là Yêu, chúng bạn sẽ đem tên của tui ra mà chế diễu hoài.

Mặc dù tui cám ơn Ba Má đã không đặt tên tui là Yêu, nhưng tui chẳng mấy khi thích tên Mến này lắm vì nó làm cho tui bị trở ngại cái miệng nếu nói chuyện xưng tên với ai nhất là đối với mấy người con trai, gì mà cứ Mến… Mến hoài nghe kỳ cục làm sao. Còn xưng em thì lại càng kỳ nữa, chưa chi mà đã lả lơi xưng em, người ta tưởng mình chịu người ta rồi người ta làm tàng với tui, tánh tui không thích con trai làm tàng với tui. Một đôi khi tui có xưng em với anh Hai, anh trai của tui thôi, những khi muốn nịnh muốn lấy lòng anh của tui, còn không thì xưng tui với anh nhiều hơn vì anh ấy hay làm mặt tài khôn rầy rà tui hoài. Anh hai của tui thích có người xưng em với ảnh lắm. Có lần anh Hai tui nói, "Mầy cao lêu ngêu, ốm nhôm ốm nhách, nói năng ngổ ngáo, cũng thời là tiếng tui mà tui của người ta nghe nhẹ nhàng êm ái làm sao, còn tiếng tui của mầy nghe như nặng ngàn cân! Tao định cua cô gái nào mà nghe cô ấy xưng tui nặng nề như mầy là tao gài số de, con gái gì mà nói năng nghe cộc lốc chẳng thanh tao gì hết. Tao là con trai tao nói tâm lý của đàn ông con trai ra chỉ dạy mầy, mầy không nghe nữa mầy sẽ ở giá, ráng mà chịu nghe em". Với tất cả bạn cùng trường cùng lớp, lớn hay nhỏ tuổi hơn tui đều xưng tui hết, có sao đâu, tui là tui chớ có ai vô đây. Chỉ có một mình anh Hai tui chê tui thôi, chứ ngoài ảnh ra chẳng thấy ai xách mé gì tui cả.

Anh Hai của tui đi lính Biệt Cách Dù, coi bộ anh hảnh diện với binh chủng của anh chọn. Mấy người bạn trang lứa của anh cũng vậy, hình như mấy anh đó hẹn nhau cùng đăng một thứ lính nên họ thân nhau lắm. Má tui nói sao tụi con chọn lính thứ dữ dằng mà đi, làm Má lo quá. Mỗi lần mấy anh nào có dịp về phép là hay tụ tập tại nhà Ba Má tui, nghe mấy anh nói toàn là chuyện đánh đấm với nhau, trận này trận kia, không giống như bọn con gái chúng tôi lại hay nói về anh chàng nầy, anh chàng kia, chuyện tình yêu, chuyện bồ bịch, chuyện thích có người yêu ở binh chủng nào, lính nào mũ màu gì. Anh Thương hay lập đi lập lại câu dặn dò ngăn cản tui, sợ tui để ý mấy anh bạn của ảnh: "Mầy đừng để tụi nó... dê mày nghe, lính tráng sống nay chết mai, mầy lo đi học đi, đừng bày đặt yêu đương sớm sẽ khổ". Tui nghĩ thầm, mới bữa hổm nghe ảnh nói với mình coi chừng bị ở giá, bây giờ lại biểu đừng để ai dê mình !

Trời Sàigòn mùa này hay mưa nhưng không mấy ai phàn nàn vì mưa làm dịu đi cơn nóng hực của thời tiếc lúc này, mưa đó rồi tạnh đó, chiều tối đến sẽ làm mọi người dễ chịu hơn. Chiều hôm nay tui vừa dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà thì cơn mưa đổ xuống như trút, thôi thì phải chờ cho tạnh mưa mới đi được chớ không ướt hết áo đẹp của tôi. Ba năm nay rồi, từ ngày làm bạn với Phượng năm nào tui cũng có đi dự tiệc mừng sinh nhật của Phượng tổ chức tại sân sau rộng rãi nhà của ba má Phượng. Phượng là cô gái xinh đẹp lại may mắn sinh ra trong một gia đình khá giả. Tiệc sinh nhật có ban nhạc do mấy anh chị của Phượng và bạn đến giúp vui, ca hát, ăn uống năm nào cũng vui lắm, tui thích và tui có hát một hoặc hai bài. Hát chắc cũng nghe tàm tạm được thôi, vui mà. Từ xa đã thoáng thấy màu sắc hồng đỏ của hai cái nơ to cùng với vài cánh hoa hồng nhạt gắn hai bên cột trước cổng nhà Phượng. Nhà giàu có khác, nhìn vào là biết nhà này đang có liên hoan tiệc tùng gì đây. Thấy có vài đứa bạn vừa rẽ vô cổng nhà Phượng, tụi nó chắc cũng bị trận mưa vừa rồi nên đến trễ như tui vậy.

Lòng thấy nôn nao vui lạ, vừa lúc chỉ vài bước nữa thôi là tới cổng vô nhà Phượng bổng dưng bên tai tôi nghe vừa như tiếng người nói trong máy, vừa như tiếng xe bánh xe hơi chạy nhanh tông vào chiếc xe đạp của tui, tui té lăn nhào vào bên đường, chiếc xe đạp của tui bị quăng cách đó không xa. Tui cảm thấy đau nhẹ ở bên cánh tay trái thôi, không sao. Phản ứng tự nhiên, tui lồm cồm gượng đứng lên liền, sợ bị dơ áo.

- Cô ơi, cô có sao không?

Tui không thèm nhìn lên, cuối xuống lấy khăn tay ra lau áo. Áo tui bị dính nhiều vết bùn bởi đất còn ướt sau cơn mưa vừa qua. Ông lính hỏi tui không thấy tui trả lời, ông dựng chiếc xe đạp lên. Lại hỏi một lần nữa, cô có sao không? Tui còn cúi xuống vừa lau áo vừa nói.
- Có sao gì, áo tui dơ hết rồi.
- Có lẽ tại anh tài xế chạy hơi nhanh cô hốt hoảng nên bị ngã.

Tui nhủ thầm, cái anh chàng này chưa chi mà đã biện hộ, đúng là trai Bắc Kỳ khéo nói.

- Tui có đổ thừa ông đâu mà ông chối trước rồi. Ông thấy chưa, lái xe gì mà ẩu tả quá vậy!

- Xin lỗi cô, vì chúng tôi vội vã.

Tui nói, "tui đâu có thì giờ về thay áo, mặc áo dơ như vầy vô dự tiệc coi sao được".

- Cô, khăn tay của cô lau từ giờ bị bẩn rồi, cô dùng khăn tay của tôi lau sạch vết bùn bên má trái của cô đi, mặt cô có lấm bùn. Tự nảy giờ tui lo cho áo của tui mà quên đi trên mặt tui, lấy vội khăn tay của người lính tui lau mặt lia lịa. Vừa lau tui vừa thoảng như có mùi thơm tưởng như là quen thuộc, không phải mùi dầu thơm đâu, chắc mùi da thịt của ông nầy, thấy ông lính này đang nhìn tui, tui hỏi:

- Bộ mặt tui dính dơ thấy ghê lắm sao mà nhìn dữ vậy? Ông lính chỉ nói gọn một tiếng, Không. Tui nhìn ra chiếc xe Jeep thấy có một người lính tài xế, và một người lính nữa ngồi phía sau, có máy móc gì đó với mấy cây cần câu dài. Hai ông lính ngồi trên xe cũng đang nhìn tui, bị tui bắt gặp họ quay mặt nhanh ra hướng ngoài đường kèm theo nụ cười giống như là đang chế diễu tui vậy đó. Tui vừa đưa trả lại khăn tay cho ông lính mặc đồ bông vừa nói, thôi tui chào ông nghen tui phải vào tiệc trong này, tui bị trễ giờ rồi.

- À, cô… Tui, tôi chỉ có một cái khăn tay này thôi, cô mang về nhà giặt sạch rồi hôm nào tôi đến nhà để lấy lại có được không cô?

- Cái ông này, tui có nợ nần gì với ông mà đòi đến nhà tui đòi?

- Chúng tôi đang hành quân không xa Saigon mấy phải có việc về đây gấp và tôi phải trở lại đơn vị ngay chiều hôm nay cho nên không đến nhà cô được vào ngày mai để chờ cô giặt nó xong trả lại tôi.

Tui nói:
- Ủa, sao kỳ cục vậy. Tui có mời ông đâu mà ông đến nhà tui?
Trời lại đổ mưa. Mưa đủ làm ướt áo. Thoáng như không muốn xa rời. Vừa lúc đó mấy đứa bạn đã thấy bóng dáng tui trước khi vào nhà mà lâu không thấy tui đâu, tụi nó vài đứa đi ra ngoài cổng trông thấy tui, tụi nó um sùm la lên, mày làm gì nãy giờ ở ngoài nầy mà chưa thấy vào? mày đang nói chuyện với ai vậy, quen hả? "Không!" Nói rồi tui sợ tụi nó hỏi tới, tui vội quay vào cùng với mấy tụi nó để người lính dù nhìn theo. Trước khi sắp khuất cánh cửa nhà Phượng, tui quay lại thấy ông lính vẫn còn đứng đó, trời vẫn còn đổ mưa. Mưa chỉ vừa đủ ướt áo.

Thoáng chạnh lòng, tim tui bồi hồi. Tự dưng tui có cảm tưởng như tui đang đánh mất một thứ gì quý giá nhất trong đời; tui muốn chạy trở lại để đứng cạnh chàng mà nói... nói gì... tui cũng không biết nữa… Tui muốn gặp lại chàng lính này. Ngần ngừ một hồi, trong khi mấy đứa bạn vừa đang ngồi vào bàn, tui chạy vội ra ngoài cổng. Chiếc xe jeep đã rời... vừa khuất xa tầm mắt. Anh lính mặc đồ bông đã đi rồi. Tôi còn cố nhìn theo. Thoáng như có gì vấn vương. Thoáng như có gì lưu luyến.

Cảm thấy bơ vơ lạc lỏng giữa đám bạn đang cười nói, tui định lấy lý do để rời sớm. Phượng hỏi, "Ông lính nào vậy? Lính gì vậy, mầy quen hả?" "Tui không biết lính gì, thấy anh chàng mặc đồ bông, trước ngực có hình dù, chắc là lính Nhảy Dù." Con Hồng trờ tới nói, "Mi phải nhìn bên vai hắn mang huy hiệu gì, đội mũ màu gì chớ không phải ai đeo hình dù trước ngực cũng là lính Nhảy Dù đâu". Tui nói, "Hình như tui không thấy mũ, mà bên vai cũng chẳng để ý coi cho nên không biết, hồi nãy tui chỉ lo ‘quạu’ thôi vì áo tui bị dơ. Bây giờ tui cảm thấy tiếc tiếc đã mất dịp làm quen với anh chàng." Mấy đứa bạn tui nói...Tụi bây ơi, vậy là cô nàng cảm anh chàng rồi.

Anh Hai tui lúc này về Saigon để học bổ túc cái gì đó trong vòng một tháng. Có anh về, Má tui bận rộn hơn vì lo nấu nướng mấy món ăn anh Hai tui ưa thích. Nhà có mặt đủ bốn người trong bữa cơm chiều nên ai cũng vui. Tui ngần ngừ hỏi:

- Anh hai, có phải lính mặc đồ bông mang hình dù trên túi áo là lính Nhảy Dù, phải không anh?

- Không hẳn vậy.

Tui lại hỏi:
- Làm sao mà mình biết đó là lính Nhảy Dù hả anh?
Anh vừa cười vừa nói:

- Bộ mày đang để ý anh chàng mặc đồ bông nào chớ gì? Sao mày không hỏi nó, đừng xưng tui nặng ngàn cân với nó là nó sẽ vui vẻ khai hết lý lịch ba đời của nó cho mày nghe.

- Tui quay mặt đi chỗ khác, anh thấy tui có vẻ giận, anh đến ngồi kế bên nói:

- Anh nói với em nhiều lần rồi... em yêu lính, lấy chồng lính khổ lắm, nó vắng nhà thường xuyên hoặc là em sẽ trở thành góa phụ. Em không biết chớ anh cũng đang có một cô người yêu lúc học năm cuối trường Võ Bị, anh muốn đưa về nhà giới thiệu với Ba Má người anh muốn lấy làm vợ, suy nghĩ tới suy nghĩ lui, ba hồi muốn, bốn hồi không vì anh không muốn người vợ anh sẽ lâm vào cảnh góa bụa và con anh là những đứa trẻ mồ côi cha. Hằng ngày anh đối diện với cái chết trong gang tấc. Nhiều lúc anh cũng sợ hãi cho chính bản thân mình, rồi lo cho những người liên hệ thân thuộc với mình sẽ ra sao khi mình chết đi. Lo học hành đi em. Tui nói,

- Thì vừa học vừa yêu có sao đâu. Em thấy mấy đứa bạn em, tụi nó yêu hết người này đến người kia, mà tụi nó vẫn học giỏi như thường. Còn em, em không có bồ mà em học có giỏi hơn ai đâu.

Hơn một tuần nay, ngày nào tui cũng có nghĩ đến chàng, cứ tiếc làm sao là tiếc. Tui mất dịp làm quen với chàng. Ừ, mà không biết chàng ta có muốn quen với mình không hà. Hình như anh chàng thích mình thì phải. Mà thôi, nghĩ tới nữa mà làm gì, mình và chàng có biết gì nhau hơn, ngay cả tên mà chẳng ai biết rồi mất biệt luôn. Chỉ vài phút ngắn ngủi gặp nhau lúc ban đầu mà có thể phải mất ngàn giờ để quên nhau. Tui nghĩ tại sao tui tiếc nhớ gì mà cắc cớ thiệt, làm như đây là lần đầu tiên tui mới gặp và nói chuyện với người con trai trong đời thì phải. Thôi, quên chàng đi.

- Có người gửi thư cho bồ. Phượng vừa nói tay cầm cái thơ vờn vờn trước mặt tui. Tui nói:

- Thì bồ đọc đi.

- Này, không phải của tên đó nữa đâu nha, người khác, người này lạ lắm, chịu nhận không? Có phải tên bồ là Tui không?

- Bồ nói cái gì tui không hiểu? Tôi hỏi.

- Có một ông lính chiều qua đến nhà mình đưa lá thư này cho đứa em trai của mình nhờ đưa dùm đến cho một cô mà hơn tuần trước có đến dự tiệc tại nhà này, cô ấy bị ngã xe đạp nên mặc áo hoa bùn. Em mình đưa thư cho mình và nói, "Em không hiểu anh lính nói gì hết, chưa kịp hỏi lại thì anh ta vội lên xe chạy mất".

Ngoài bì thư phía sau có vẽ một hình hoa dù, tên người gởi tôi đoán là tên của chàng. Mà kỳ thiệt, chỗ tên người nhận tên là...Tui. Trong thư chỉ vài giòng chữ ngắn gọn: “Gửi cô Tui, cánh tay cô đã hết đau chưa? Cho tôi biết địa chỉ nhà, tôi sẽ đến thăm. Tôi muốn làm quen với cô Tui. À nhớ cho tôi biết tên nhé, chả lẽ cô để tôi gọi cô là Tui mãi sao!". Dưới chỗ ký tên, chàng lại vẽ một hình hoa dù rất đẹp. Chỉ có mấy chữ cụt ngủn cụt ngẳn thôi mà làm tui cứ đọc tới đọc lui hoài. Tui cũng muốn quen với chàng vậy, nhưng tui phải "làm cao" một chút chớ. Tui thư trả lời chàng:

- "Gửi anh lính dù. Nếu anh muốn biết tên tui thì hãy đến nhà tui. Đây là địa chỉ của tui. Ba Má tui rất khó, ông anh Hai của tui cũng khó và dữ nữa. Nói cho anh bíết, anh hai của tui là lính Biệt Cách Dù đó nghen. Ký tên, Tui".

Có lẽ vì hồi nhỏ ở dưới quê cây trái xung quanh nhiều, mỗi lần muốn ăn thứ trái cây nào là tui leo lên cây hái xuống ăn, riết rồi thành thói quen. Bên hông nhà, Ba tui có trồng một cây mận, mùa này mận ra trái nhiều đỏ cả cây, Má tui thường hay vói tay hay dùng lồng hái những trái mận đỏ ối đem chưng trên bàn thờ, còn tui thì ngày nào cũng leo lên cây, không hái trái thì cũng thích ngồi trên đó một mình nhìn ra ngoài, ngó xuống dưới, hoặc ngã người nhìn lên trời cao, bên tai nghe tiếng lá cây gọi nhau xào xạc thật là thú vị.

Tui nghe tiếng xe Honda vừa ngừng lại trước nhà, nhìn xuống thấy người lính mặc đồ bông bước xuống xe. Ô, đúng là chàng. Vừa lúc đó, Ba của tui cũng vừa mới dắt chiếc xe đạp ra ngoài, gặp Ba tui chàng vừa gật đầu chào ú ớ chưa biết phải hỏi như thế nào thì Ba của tui vội vàng nói: "Cháu muốn gặp thằng Thương hả? Chút xíu nữa là nó về tới, vào nhà chờ đi. À, hay là cháu đi qua bên phía bên hông nhà có bác gái và em Mến đang ở ngoài đó. Bác có hẹn đến nhà người bạn có chút việc rồi bác trở về ngay.” Anh chàng cứ dạ vâng chớ có nói được tiếng nào đâu mà lại được biết tên tui nữa chớ, làm tui mất dịp làm khó chàng. Mà quên nữa, tui đang ngồi ở trên cây, không leo xuống nhanh được vì lần này tui có mang theo cái rổ đựng đầy mận. Anh chàng nhanh chân thiệt, làm tui đang lính quýnh chưa biết cách nào cho chàng không nhìn thấy tui, thì chàng đã bước qua bên hông nhà rồi, chàng đảo mắt nhanh qua một lượt không thấy tui, chàng đưa mắt nhìn lên cây. Mến. Tiếng gọi của chàng nghe sao mà đầm ấm và tha thiết quá làm tui đang ở trên cây nhìn xuống mà nhịp tim tui cứ đập thình thịch. Anh dang tay định đỡ tui xuống nhưng tui mắc cở vì con gái mà leo cây cho nên tui nói, “Anh quay mặt qua chỗ khác đi tui mới leo xuống được!” Nghe lời tui anh quay mặt đi chỗ khác. Xuống chưa tới đất, tui vội vàng nhảy xuống cái phịch, bị trật chân, tui bị đi cà nhắc. Chàng chạy lại nắm tay tui dìu vào nhà lấy dầu nóng xoa bóp chân rồi lấy băng quấn vòng quanh mắc cá chân cho tui. Chàng nói, bộ em hay leo trèo lên cây lắm à? Thôi đừng trèo lên đấy nữa, nhỡ em ngã từ trên cao xuống thì sao! Anh về phép chỉ được một tuần thôi, mục đích lần về phép này là để tiếp tục làm quen với em cho được, hôm lần đầu, lần gặp em đó, về vì công tác cần phải trở lại đơn vị liền cho nên anh không ghé về thăm Mẹ của anh được, anh còn bà mẹ và một người chị có chồng có được hai cháu, nhà chị ở gần bên mẹ nên chị gặp mẹ anh hàng ngày. Lần này, anh phải dành một ngày cho mẹ anh nhưng anh đến thẳng nhà em trước để biết cho chắc đây không phải là địa chỉ... giả. Anh nói đùa chớ anh bíết em không làm thế vì anh đã nhìn thấy trong mắt em. Tui hỏi, anh thấy gì? Anh thấy... em đã bán ánh mắt em cho anh rồi. Tui hỏi, vậy chớ anh có mua ánh mắt đó không? Anh nhìn tui âu yếm nói, anh mua đứt và anh đoán chắc phải vĩnh viễn là của anh, phải thế không, em Tui của anh? Rồi từ đó, có khi anh gọi tui bằng Mến mà cũng có khi anh gọi tui bằng Tui. Tui đoán, anh cũng thích tui xưng tui với anh lắm chớ bộ.

Khi trở về đơn vị anh thường thư cho tui. Có lần anh được ba ngày phép, cùng tui dạo phố, anh đưa tui về nhà gặp Mẹ và chị của anh. Mọi người trong gia đình anh đều có vẻ quí mến tui. Đối với bạn bè tui rất hảnh diện được có chàng, một người lính mũ đỏ có gương mặt nam tính, dáng dấp hiên ngang nhưng tình cảm thật là bao la. Tui yêu những cánh hoa dù do chàng vẽ.

Chàng nói ở trên không gian có vương nhiều vết giày của chàng. Ở trên không gian có tiếng của chàng gọi tên tui. Tui hỏi anh gọi như thế nào. Anh cười vui nói: "Tui của anh ơi, Tui của anh ơi !" Nói xong, cả anh và tui cùng cười vang. Tui có đề nghị với chàng và cả hai đứa tui cùng đồng ý là sau này nhà của tụi tui ở mỗi phòng đều có chưng hình những cánh Hoa Dù, những cánh Dù em thích phải là màu xanh, xanh lợt, xanh đậm, xanh dương, xanh két, hay xanh gì cũng được, miễn là màu xanh, nghen anh. Anh nói, ừ, anh cũng thích màu xanh.
***
Hơn bốn tháng nay, kể từ ngày anh Hai tui trở lại đơn vị, Ba Má tui chỉ nhận được thư của anh có một lần. Trên bàn ăn, Má tui nhớ đứa con trai cưng, cứ nhắc anh Hai tui hoài, chỉ có cái chuyện lúc anh Hai tui còn đang học ở trường Võ Bị Đà Lạt, lần nào được về phép anh đều có mang quà từ Đà Lạt về cho Má, khi thì áo ấm khi thì khăn choàng cổ đan bằng tay nên Má tui rất thích và rất quý. Má tui hay nhắc đi nhắc lại, là đàn ông con trai mà anh Hai con biết lựa chọn biết mua quà về cho Mẹ của mình còn gì thương hơn. Ba tui nói, "Tụi Việt Cộng nó sợ lính Biệt Cách 81 lắm đó nghen, đánh giặc cừ lắm làm tụi nó thất điên bát đảo. Nghe nói đang có đụng trận lớn hình như ở Phước Long, Bình Long gì đó, vái trời đừng có con mình trong đó!” Nói xong cả Ba Má tui không ai nói thêm tiếng nào nữa, tui nhìn thấy sự lo âu trên gương mặt của hai người.
Hôm nay đi học về, thấy có mấy người hàng xóm bu lại trước sân nhà. Vào trong nhà. tui thấy Ba tui ngồi im lặng, cái im lặng chịu đựng sự đau khổ của người đàn ông, còn Má tui người đang vật vã, người đang khóc la. Trời ơi, chuyện gì vậy? Anh Hai của tui. Anh Hai của tui ơi!

Ngày nào Ba của tui cũng ngồi hàng giờ trước bàn thờ anh Hai, bàn thờ hai bên còn thắp hai cây đèn cầy nhỏ với khói hương nghi ngút. Ba tui cứ ngồi đó nhìn hình anh Hai tui hoài, lâu lâu người lại thở dài. Còn Má tui cứ khóc nho nhỏ, có đôi lúc người như tức giận điều gì gào khóc kêu la lớn tiếng hơn. Cây mận không còn trái đỏ nữa. Tui ngồi ủ rũ trên băng ghế dưới tàng cây nhớ lại kỷ niệm, nhớ những lời dặn dò rầy la mà thương tiếc. Nhà chỉ có hai anh em mà lần này anh bỏ đi luôn rồi. Người ta nói anh Đền Nợ Nước, sao anh không sống để lo đền nợ, đền ơn cho Ba Má nữa chớ, phải không anh Hai? Tui nhớ thương anh Hai tui quá, tui không kềm giữ được những giọt nước mắt.

Nghe nói lúc này giặc từ miền Bắc cứ tràn vào tấn công miền Nam càng ngày càng đông hơn. Sau cái chết của anh Hai, tui lại càng lo sợ cho người yêu của tui nhiều hơn. Tui cứ thầm khấn vái, tui bị mất một người anh ruột thịt rồi thì đừng để cho tui phải mất thêm một người thân yêu nào nữa hết. Tui viết cho chàng... Tại sao kỳ vậy. Tại sao miền Nam của tui cứ bị người ta tham lam muốn chiếm lấy? Tại sao không ai ở đâu thì cứ ở đấy, phải dành giựt làm chi cho phải bị chết, kẻ xâm lăng người tự vệ làm cho máu đổ, chết chóc, làm cho cha con chồng vợ phải xa lìa vĩnh viễn người thân yêu của mình? Có lần trong thư anh viết, "những lúc không đụng trận anh mới có thời giờ nhớ tới em, rồi nghĩ tới em anh lại đâm ra sợ hãi cái chết đến với anh. Anh muốn thoát khỏi nơi nầy để chúng ta được mãi sống đời bên nhau. Thật đó em ạ, nhớ tới em, thương nhiều lắm, rồi anh sợ chết, anh muốn buông súng, nghĩ tới đấy anh lại thấy mình hèn nhát quá phải không em? Nhưng đến khi đụng trận anh không thấy sợ cái gì cả, lúc đấy anh cùng với các bạn đồng chiến đấu chỉ biết sát cánh bên nhau sống chết bên nhau. Lúc đấy anh không còn nhớ tới em, anh chỉ biết anh đang chạm mặt với kẻ thù, kẻ xâm lăng là phải chết và anh phải là kẻ sống. Trước kia, Ba Mẹ anh đã phải lìa xứ Bắc vì không chấp nhận sống chung với Cộng Sản, thế mà chúng vẫn không buông tha.

Ở Sàigòn chỉ biết có chiến tranh. Ở Saigon không thấy có chiến tranh, biết có đánh nhau nếu khi đi ngang qua trên đường thấy những đám tang của những người tử trận từ mặt trận nào đó, xác họ được mang về cho thân nhân làm lễ an táng. Một nghĩa tử nghĩa tận. Một lần cuối cùng cho những người sống lo cho người chết đi vào lòng đất. Một lần rồi thôi. Con người ta có thể có nhiều lần làm đám cưới, nhiều lần lấy nhau, nhiều lần vui cùng nhau trong cuộc đời. Nhưng chỉ có một lần chết. Một lần đám tang trong cuộc đời. Những đám tang có hình người quá cố trong bộ quân phục đi ngang qua trên đường đủ để cho mọi người biết chiến tranh đang đến mức độ nào ở một nơi nào đó, rồi thôi. Có những đám tang không có người đội khăn tang vì người chết còn quá trẻ, trong gia đình của người lính tử trận kia không có người nào trẻ hơn để mang tang cho người nằm trong quan tài kia. Có nhiều đêm, đôi khi nhìn hỏa châu rơi sáng một góc trời, có phải chỗ đó là hai bên đang đánh nhau không? Trong trí tui không tưởng tượng được cảnh họ đang đánh nhau như thế nào, có giống như trong xi-nê không, mong cho đừng giống như vậy, đau thương lắm! Tui vái trời anh đừng có trong mặt trận đó, tui cầu xin bề trên cho người tui yêu được bình yên, một điều khẩn xin quá bình thường. Mong bề trên đừng hẹp lượng.

Mẹ và chị của chàng có nói cho tui biết là Mẹ rất mong anh lấy vợ, mẹ mong thấy anh được thành gia thất vì Mẹ già rồi, đó là điều mong muốn cuối đời của Mẹ! Có nhiều lần chính anh cũng kể cho tui nghe mà. Rồi anh im lặng nhìn tui một hồi lâu anh nói: "Em có nghe người ta nói lính Nhảy Dù, ‘đi đông về ít, đi khít về thưa’ không ?" Anh nói dối với mẹ anh rằng anh đi lính thường xuyên vắng nhà nhưng anh không có tác chiến cho mẹ an lòng. Khi mới gặp em lần đầu, anh cảm được trời sinh em ra là để làm vợ anh. Anh có em, chúng ta cùng yêu thương nhau đó là niềm vui, một diễm phúc nhất trong thời binh đao. Rồi đôi ta sẽ thành vợ chồng, nhưng chưa phải là lúc này em ạ. Cùng chung một thế hệ, lớn lên trong một đất nước có chiến tranh anh và em cùng bị thiệt thòi như nhau, có mấy ai được hưởng những gì mà tuổi trẻ cần được hưởng?

Tui đã dự tính rồi, khi anh về phép lần này, tui sẽ đòi anh đi cưới tui. Tui muốn làm vợ anh, tui muốn anh cưới tui. Đừng viện cớ, đừng nói sợ anh chết sớm bỏ em thành góa bụa. Lần nầy tui sẽ nói với anh. Tui không sợ tui làm góa phụ, thì tại sao anh lo sợ? Tui biết anh yêu tui mà, trong thư anh nói anh nhớ và yêu tui nhiều lắm, sao anh không cưới tui? Khi tui làm vợ anh rồi, tui sẽ đi theo anh khắp mọi nơi. Anh cười nói, đi khắp mọi nơi là đi đánh giặc đó em, có ai đi đánh giặc mà mang vợ theo bao giờ.

Nhỏ Hương bạn tui, nó là dân Bắc Kỳ, chồng nó là lính Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Nó theo chồng về ở tận miền Tây xa lạ, mỗi lần nó trở về Sàigòn là nó kể tía lía về đời sống của người dân miền Tây như điều thích thú và hạnh phúc lắm. Ngày chồng nó tử trận, nó mới mang thai đứa con đầu lòng được sáu tháng. Xác chồng nó được mang về Sàigòn vì cả hai bên gia đình đều ở đây. Hôm dự đám tang, tui nhìn thấy nó rinh cái bụng nằm lăn qua bên này, rồi lăn qua bên kia, khóc la... ối giời ơi, ối giời ơi… Tiếng kêu rên của nó sao thật là thảm thương! Tui nhìn thấy nó vật vã mà tui dởn da gà. Tui khóc theo nó. Trời ơi lấy chồng lính là sẽ xảy ra như vậy đó sao !

Sau vụ con nhỏ Hương, tui rét quá, tui ngưng không dám đòi có chồng nữa. Tui không dám đòi anh đi cưới tui nữa. Nhưng tui vẫn luôn còn yêu anh !

TeaLan 26B
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Chờ Tôi Với …

Cao Xuân Huy
Tiếng rít của vỏ đạn hỏa châu phá tan cái im lặng của mặt trận, vỏ đạn rơi thẳng xuống chỗ Toàn nằm. Sợ vỏ đạn rơi xuyên qua thân thể mình, Toàn co rúm người lại, thu nhỏ thân hình. Trời lạnh, mưa mỏng hạt, ánh trăng hạ tuần nhờ nhợ lẫn vào màu cát. Toàn căng mắt nhìn, không thấy gì. Màu vàng nhợt xóa mờ đường ranh giữa trời và đất. Ánh sáng hỏa châu nhập nhòe đường nét vùng quan sát. Tựa lưng vào thành giao thông hào, Toàn hồi hộp đợi lệnh tấn công lần chót trước giờ ngưng bắn. Ðã quá bốn giờ sáng, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là đến giờ.

Một cuộc ngưng bắn toàn diện, chính thức được hai bên thỏa thuận và quốc tế công nhận bằng hiệp định Paris, đã được thông báo, phổ biến trong toàn quân. Tám giờ sáng, đúng tám giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, cuộc chiến kéo dài gần hai chục năm chấm dứt. Vĩnh viễn.

Mục tiêu là Cửa Việt, căn cứ cũ của Hải Quân, nơi phòng thủ của một trung đoàn địch. Ðơn vị Toàn, một trong sáu đại đội trực thuộc lực lượng đặc nhiệm Tango, thành lập để, bằng mọi giá tái chiếm Cửa Việt. Lính của Toàn là những tay cảm tử, xem cái chết “nhẹ tựa hồng mao”, những cái lông hồng này đã rụng hơn ba phần. Ðại đội Toàn tả tơi qua những đợt tấn công liên tục trong ngày. Một chọi mười không chột thì cũng phải què, cánh quân bên kia thế nào không biết, cánh của Toàn từ điểm xuất phát gần hai trăm, sau hai mươi tiếng đồng hồ, còn hơn ba mươi, đang nằm dọc theo giao thông hào vừa chiếm được, hồi hộp đợi lệnh tấn công đợt chót.


Tuổi trên dưới hai mươi, những thằng em còn lại của mình phải sống. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ thôi, Toàn, mày phải sống, mày phải là người chứng kiến giờ phút lịch sử này. Phải bám vào cái chuyển mình này của lịch sử. Bỗng dưng, Toàn đâm sợ chết.

*
Máy truyền tin PRC-25 kêu “khè” một tiếng, Toàn chụp vội ống liên hợp:

– Hoa Biển – Sao Mai.
– Sao Mai – Hoa Biển.
– Rồi. Hướng mười giờ.
– Nhận năm.

Cuộc tấn công chót bắt đầu.

Toàn nhìn đồng hồ, mới sáu giờ sáng. Còn hai tiếng nữa.

*

Ðúng tám giờ. Trời sáng rõ. Tiếng súng vẫn còn nổ.

Toàn bảo thằng máy:

– Kháng, mày la lên là tới giờ ngưng bắn rồi.

Kháng nghiêng đầu, quay miệng chếch lên, la:

– Tám giờ rồi. Tám giờ rồi nghe.

Toàn bật cười:

– Tám giờ rồi thì sao?

Kháng cũng cười theo, lại chếch miệng lên, la tiếp:

“Tám giờ rồi, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.”

Tiếng súng vẫn chưa ngưng.

Những đồi cát hình cánh cung toàn là địch, thầy trò Toàn nằm lọt vào giữa. Ước lượng theo tiếng súng, Toàn đoán ít nhất địch vẫn còn đông gấp chục lần mình. Lúc nãy, khi khởi sự cuộc tấn công lần chót, trời còn tối dễ nhập nhằng, nhưng bây giờ, trời sáng rõ. Thầy trò Toàn đang nằm chịu trận. Giờ ngưng bắn đã bắt đầu có hiệu lực, nhưng thực tế, đủ các loại đạn vẫn hướng về phía Toàn mà nổ.

Tám giờ năm, tiếng súng vẫn chưa ngưng.

Toàn lại nhắc Kháng:

– Mày la nữa lên.

Kháng lại chếch miệng lên, la tiếp:

– Tới giờ rồi, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.

Chỉ có tiếng súng trả lời.

Toàn bảo Kháng:

– Mày giơ thử ngón tay lên coi tụi nó còn nhắm bắn mình không.

Kháng tròn mắt nhìn Toàn:

– Bộ ông giỡn hả?
– Mày ngu thấy mẹ. Nếu nó bắn cụt ngón tay, có phải là mày được giải ngũ không?

Kháng nhìn quanh, vớ được nhánh dương cong queo trong mức an toàn duy nhất, giơ lên khỏi đầu. Chưa đầy chớp mắt, nhánh dương bị bắn gẫy.

Toàn gọi máy qua cánh quân bên phải:

– Sao Mai – Hoa Biển.
– Hoa Biển – Sao Mai.
– Phía ông ngưng chưa?
– Chưa.
– Ông ‘thọc’ mạnh lên. Sườn tôi hở, lạnh thấy mẹ.

Tiếng súng rộ lên phía bên phải. Toàn và Kháng nhào lên chốt địch phía trước. Tâm, tên cao bồi của Toàn, chồm người tung quả lựu đạn. Lựu đạn vừa rời khỏi tay Tâm, Toàn nghe tiếng thét:

“Chết tui.”

Toàn quay lại nhìn, Tâm nằm ngửa bất động trên cát, máu trong bụng nhỉ ra.

Cùng lúc, Toàn và Kháng tung lựu đạn vào trong hầm rồi vọt theo, làm chủ cái chốt. Toàn nhào ngược về đằng sau, nắm chân Tâm kéo thụt xuống sau mô cát.

Tâm nhìn Toàn:

– Ðù má nó. Ngưng bắn rồi mà sao tui chết hả ông thầy? Ông rán sống nghe ông thầy!

Nói dứt câu, người Tâm giựt mạnh rồi mềm xuống.

Toàn vuốt mắt Tâm rồi nhào lên với Kháng:

– La lên nữa đi!

Kháng:

“Ðù má, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.”

Tám giờ mười lăm, tiếng súng thưa dần.

Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Toàn nhìn đồng hồ, tám giờ hai mươi lăm.

Cho chắc ăn không còn là mục tiêu, Toàn bảo Kháng:

– Mày giơ ngón tay lần nữa coi.

Không tìm đâu ra nhánh dương nào khác, Kháng giơ ngón tay trỏ lên ngang mắt ngắm nghía, cười cười thủ thỉ: “Ðụ má, đừng bỏ tao đi nghe mảy!”

Toàn gắt:

– Ðù má mày, giơ ngón tay lên.

Kháng rụt rè đưa ngón trỏ lên khỏi đầu, cao hơn mô cát một chút, rồi lại thụt xuống. Nhấp nhứ như vậy một lúc, Kháng để hẳn ngón tay cao hơn mô cát. Không thấy động tĩnh gì, Kháng nhích tay cao hơn, cao hơn tí nữa. Kháng giơ cả bàn tay, vẫn yên lặng. Toàn nhìn quanh kiểm soát đám đàn em. Tất cả đang nhìn Toàn chờ.

Toàn đẩy đẩy cái mũ sắt của mình lên cao khỏi mô cát. Không có gì.

Toàn ghếch đầu nhìn lên phía trước. Dãy đồi cát hình cánh cung trước mặt Toàn đầy người. Tất cả đều đứng dưới giao thông hào, chỉ lộ từ ngực trở lên.

Toàn đứng hẳn dậy. Lính tráng chỉ đợi có thế, cũng đứng hẳn lên. Tháo dây đạn, bỏ súng, bỏ mũ sắt xuống.

Binh nhất Phước đen, một tên cao bồi khác của Toàn, vụt băng mình lao về phía trước. Toàn hốt hoảng ra lệnh cho lính ứng chiến ngay lập tức, sợ có gì nguy hiểm cho Phước đen. Nhưng không, những người bộ đội phía bên kia nhào lên khỏi giao thông hào, ôm chầm lấy Phước đen. Phước đen móc trong túi ra gói thuốc mời, mời, mời… hết người này đến người khác.

Lính hai bên ùa lên phía trước, ôm nhau hò hét:

“Hết đánh nhau rồi! Hết chiến tranh rồi!”

Những bộ quân phục rằn ri miền Nam trộn lẫn những bộ quân phục cứt ngựa miền Bắc. Cố không khóc nhưng nước mắt Toàn cứ ứa ra, không kềm được. Nhưng việc gì phải kềm chứ! Toàn mặc cho nước mắt trào ra.

Có tiếng nghẹn ngào bên cạnh:

– Anh khóc đấy à?

Toàn quay qua, một người bộ đội nước mắt cũng đang nhòe nhoẹt. Chẳng nói chẳng rằng, cả hai ôm lấy nhau.

Toàn bảo lính buộc cờ vào những lùm dương thấp lè tè rải rác quanh chỗ vừa chiếm được. Bắc quân ở tại chỗ nên có sẵn cây, sẵn cột để cắm cờ.

Có lá cờ buộc không kỹ rơi xuống cát, người bộ đội vỗ vỗ Toàn, chỉ:

– Anh ơi, cờ của anh rơi kìa!

*

– Chào anh.

Toàn nhận ra người bộ đội lúc nãy:

– Chào anh.
– Anh ăn cơm chưa?
– Sao anh lại hỏi ăn uống giờ này?
– Xin lỗi anh. Ðó chỉ là câu chào quen miệng của chúng em.
– Vậy hả? Anh khỏe không?
– Anh nói giọng Bắc? Ngoài Bắc anh ở đâu?
– Tôi dân Hà Nội, vào Nam từ 54, còn bé quá nên nên chẳng biết bao nhiêu về Hà Nội cả.
– Em cũng dân Hà Nội.
– Thế à? Vậy mình là đồng hương đấy nhỉ? Thế anh xa Hà Nội bao lâu rồi?
– Hơn bốn năm rồi anh ạ.

Toàn nhìn người bộ đội, cũng khoảng tuổi trên dưới hai mươi như lính của mình, nước da men mét tái có lẽ do sốt rét, nhưng mặt mũi sáng sủa. Trên mũ cối, những hàng chữ viết tên các địa danh như Cùa, Ba Lòng, Khe Sanh, Làng Vey, đường Chín… bên hông mũ gắn tấm ảnh bẩn, vàng ố vì thời gian, chụp bán thân một người đàn bà luống tuổi vấn tóc trần.

Toàn chỉ tay lên địa danh viết trên mũ sắt của mình:

– Hóa ra mình là đồng hương, và cũng đã gặp nhau qua những chỗ này rồi đấy nhỉ!
– Em đi trận đã ba năm rồi, toàn quanh quẩn vùng này!

Thấy Toàn nhìn chăm chăm vào tấm ảnh, người bộ đội ngượng nghịu nói:

– Ảnh mẹ em đấy! Em mang theo từ khi đi nghĩa vụ.
– Thế anh không có người yêu à?
– Có anh ạ, nhưng… cô ấy đang học đại học.
– Học đại học thì tại sao lại nhưng?

Người bộ đội ngập ngừng, nói qua chuyện khác:

– Ở trong Nam, các anh muốn được học đại học phải có những điều kiện gì?

Toàn bỡ ngỡ với câu hỏi nhưng cũng trả lời:

– Ðiều kiện ấy à? Một điều kiện duy nhất là phải học xong trung học, tức là phải có bằng tú tài, thế thôi. Mới mấy năm sau này, khi cuộc chiến khốc liệt, những người học đúng tuổi mới được học tiếp lên đại học, còn những người dù chỉ học trễ một năm, cũng phải đi lính đã.
– Ở ngoài em thì khác. Ở ngoài Bắc thì ‘học tài thi… lý lịch’, vào đại học không theo sức học hay tuổi tác.
– Lý lịch phải tốt anh mới được đi bộ đội chứ?

Người bộ đội cười nhẹ:

– Anh chẳng hiểu gì cả. Ở ngoài em, lý lịch tốt thì học đại học. Ông nội em bị đấu tố trong kỳ ‘cải cách ruộng đất’, mẹ thuộc gia đình tư sản ở Hà Nội, thì em phải đi B thôi.
– Sao gia đình anh không di cư vào Nam năm 54?
– À, gia đình em là gia đình liệt sĩ, bố em chết trận thời kháng chiến chống Pháp, lúc đang làm đại đoàn phó. Mẹ em nghĩ gia đình có công với cách mạng nên không đi. Hơn nữa, mẹ em muốn đợi hòa bình lập lại để đi tìm xác bố em. Chỉ có người anh ruột của em theo ông chú vào Nam thôi.

– Thế anh của anh làm gì ở trong Nam?
– Có lẽ anh của em cũng đi lính. Trước khi đi B, mẹ em dặn là nếu ra trận cố tránh đừng bắn vào anh mình.
– Làm sao mà tránh!
– Thì thế à

Người bộ đội thở dài, đổi chuyện:

– Lúc này sắp Tết rồi và máy bay Mỹ đã hết đánh phá, chắc Hà Nội đang trưng bán đầy hoa Tết.
– Ở ngoài Bắc… Hà Nội… Thế Hồ Gươm bây giờ ra sao?
– Ra sao là gì, anh?
– Có tu bổ, có chỉnh trang gì không? Có còn đẹp không?
– Không đâu anh ơi. Trên bờ thì bẩn và dưới hồ thì đầy rác.
– Có một buổi tối ngày lễ, ngồi trên vai mẹ xem bắn pháo bông ở Hồ Gươm. Ðêm ấy người đâu ra mà đông đến thế.
– Em thường lang thang nghịch ngợm ở Hồ Gươm.
– Nhà ở ngõ Lê Ðại Hành, gần Chợ Ðuổi, đằng sau Nhà Diêm.
– Em ở phố Duy Tân.
– Có một lần suýt chết đuối vì không biết bơi mà dám nhảy xuống hồ, thấy người ta bơi mình tưởng là dễ.
– Em cũng có xuống chơi dưới Chợ Ðuổi.
– Bị xe đạp đâm vì thích nhắm mắt đi qua đường.
– Em thích nhảy tàu điện.
– Ði theo mấy anh lớn nhặt quả sấu, quả cơm nguội. Cây cơm nguội sao mà to và cao thế.

Cả hai đang hào hứng thao thao nói chuyện không đầu không đuôi, chẳng ngô chẳng khoai gì hết về Hà Nội. Bất chợt, người bộ đội không nhìn thẳng vào mặt Toàn nữa, mà nhìn lệch sang một bên, rồi thì thào thật nhanh:

– Mình ăn cây nào thì rào cây nấy anh ạ. Anh đừng nghe tuyên truyền. – Rồi đổi giọng đanh thép, chậm và rõ từng tiếng: – Bây giờ anh đã thấy được là chính nghĩa thuộc về chúng tôi chưa?

Toàn ngơ ngác và chợt hiểu. Một người bộ đội nữa đang đi đến từ phía sau lưng.

*

Không phải là hưu chiến, mà là ngưng bắn, là hết bắn giết nhau, là chấm dứt chiến tranh. Chấm dứt chiến tranh. Toàn say sưa hít thở không khí một đêm yên tĩnh của ngày hòa bình đầu tiên. Tưởng tượng sẽ đi theo chàng bộ đội về Hà Nội thăm những cây cơm nguội, những hàng sấu, ngắm nhìn hồ Hoàn Kiếm… Nằm dài trên cát, gác chân lên mũ sắt, Toàn châm điếu thuốc, mơ màng, mặc cho ý tưởng lang thang những nơi Toàn đã sống trong thời thơ ấu…

“Uỳnh…”

Nhanh như chớp, Toàn chụp khẩu súng, nhào xuống giao thông hào. Một quả đạn đại bác không giật bắn vào ngay giữa vị trí phòng thủ. May không ai bị thương.

Sáng hôm sau, cảnh mũ sắt, mũ cối quấn quýt nhau chỉ còn là giấc mơ cũ.

Không khí căng thẳng.

Ðịch tăng cường một trung đoàn từ phía Bắc xuống. Toàn báo cáo về bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh nằm tại chỗ và tuyệt đối không nổ súng vì bất cứ lý do gì. Lệnh nhấn mạnh: “Hiệp định ngưng bắn đã hiệu lực. Ai nổ súng sẽ ra tòa án quân sự mặt trận”. Thế hóa ra chỉ có một bên ngưng bắn thôi à. Nó quất cho vỡ mặt cũng phải nhịn à. Quân tử Tàu thì chỉ có mà chết. Mẹ kiếp.

Trời chập choạng tối. Ðột nhiên, đèn pha chiếu sáng rực sang phía đơn vị Toàn. Hai chiếc T-54 xuất hiện. Tiếng xích sắt ken két nghiến vào nhau dữ dội. Toàn lạnh người, sởn gai ốc. Toàn dương khẩu súng chống chiến xa M-72, kê lên ba lô, nhắm vào một chiếc T-54, miệng lẩm bẩm: “Mẹ, còn mỗi một khẩu, không đủ gãi ghẻ bố mày cũng chơi. Có chết bố mày cũng phải ‘ôm’ theo dăm đứa chúng mày, các con ạ”.

Ðêm thứ hai của ngày hòa bình, đơn vị Toàn bị tấn công.

Những đợt tấn công đầu bằng đặc công của địch, đơn vị Toàn đẩy lui dễ dàng bằng lựu đạn. Toàn đã sẵn sàng chờ T-54 lâm trận, nhưng không, sau vài đợt tấn công dọ dẫm, địch dùng bộ binh đánh biển người, ồ ạt xung phong vào vị trí của Toàn. Thì ra mấy chiếc T-54 chỉ để “nhát ma”.

Khi địch tràn ngập, lưỡi lê và lựu đạn thay cho súng.

Sau một lúc quần thảo bằng lưỡi lê, Toàn gập người, ngã chúi xuống phía trước, mắt hoa đi, mũ sắt văng ra. Mất mũ là mất mạng. Phản xạ tự nhiên của bản năng sinh tồn bật dậy, Toàn nhoài người, vói tay về phía cái mũ. Cả thân thể lẫn cánh tay như không còn theo lệnh Toàn, chỉ nhích từng chút từng chút. Toàn cố nhoài người lên, với tay. Cuối cùng, tay Toàn cũng chạm được vào cái mũ. Dùng hết sức bình sinh, Toàn kéo cái mũ nặng nghìn cân về phía mình. Cái mũ nhích tới. Nhích tới gần. Cái mũ tới sát mặt Toàn.

Mắt Toàn dại đi, cái mũ trong tay không phải là mũ sắt, mà là mũ cối. Trên cái mũ cối mà Toàn đã một lần nhìn thấy, những hàng chữ viết tên các địa danh và ảnh người đàn bà vấn tóc trần Hà Nội rõ lên rồi nhòa dần, nhòa dần. Tiếng gào thét giết chóc vẫn vẳng vào tai cùng lúc loáng thoáng hình ảnh Toàn sánh vai người bộ đội đồng hương lang thang bên hồ Hoàn Kiếm… Dường như Toàn nghe rõ tiếng mình gọi “Anh bộ đội ơi, chờ tôi với…”.

Cao Xuân Huy
lengoi
Posts: 486
Joined: Sat Oct 23, 2010 7:17 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by lengoi »

Niềm đau loài chim sắt

Trần văn Điệu
Image
Thân nhớ PĐ 231và các bạn K5/69CP.
Hợp đoàn bốn chiếc từ từ cất cánh từng chiếc một theo sau là hai chiếc guns. Đó là hình ảnh quen thuộc mà những năm đầu của thập niên 70 chúng ta thường thấy trên bầu trời Vùng lll chiến thuật / Sư Đoàn III KQ Biên Hòa.


Phi đoàn 231 Lôi Vân hằng ngày cất cánh bay khắp vùng Chiến thuật …


Lỡ vận thời cơ năm 1968, sang năm 1969 thì lệnh tổng động viên được ban hành và thêm vào đó bọn vô thần cộng sản đã vi phạm hiệp định ngưng bắn vào dịp tết Mậu Thân nuốt đi lời hứa và tổ chức một cuộc tổng tấn công qui mô vào các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam. Tổ quốc lâm nguy thất phu hữu trách, thế là tất cả thanh niên miền Nam đều phải lên đường nhập ngủ chỉ trừ những trường hợp đặc biệt thì được hoãn lại. Anh em chúng tôi 396 người có cùng một chí hướng không hẹn mà gặp tại cổng Phi Long Tân Sơn Nhất để gia nhập vào binh chủng không quân ngành cơ khí phi hành. Ngành cơ khí phi hành này thật là mới mẻ đối với chúng tôi vì đây là lần đầu tiên binh chủng không quân tuyển mộ từ dân sự, gọi tắc là Cơ Phi, một cái tên nghe vui tai và rất lạ, thật ra thì không ai giải thích cho chúng tôi biết nhưng vì 2 chữ phi hành đã khiến chúng tôi hăng hái nộp đơn và chờ đợi kết quả.

Mãi về sau này trong những ngày học quân sự ở Phòng huấn luyện KQ Biên Hoà tôi có nghe được vài lời phê bình nào là: các anh điếc không sợ súng hoặc là các anh là những người “tháp tùng tử “… tôi tự nhủ thầm kệ nó lỡ leo lưng cọp rồi thì sao, xem cái chết như thế nào! Không phải ông bà ta thường nói sống chết có phần, trời kêu ai nấy dạ!


Đến Tây Ninh khoảng 09:00′ sáng hợp đoàn đáp xuống Trảng-lớn nơi đặt Bộ chỉ huy tiền phương cho cuộc hành quân vượt biên sang lãnh thổ Campuchia. Thời đó quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đang ở thế thượng phong nên thường có những cuộc hành quân tiến sát vào sào huyệt của cộng quân đang ẩn mình nơi đó. Khoảng nửa giờ sau thì Tr/u Lộc mèo briefing trở ra đưa ngón tay trỏ lên và quay vòng vòng đó là dấu hiệu cho hợp đoàn quay máy và chuẩn bị cất cánh. Ba chiếc kia thì tôi không biết bay phi vụ gì nhưng chiếc của anh em chúng tôi thì có nhiệm vụ đi chở tử thi của các chiến sĩ BĐQ biên phòng đang đóng quân ở đồn điền Krek, nghe đến đây tôi thầm nghĩ phi vụ này chắc không được thơm lắm. Trong những chuyến hành quân khác hoặc đi phi vụ liên lạc thì thơm hơn có khi được đi ăn trưa chung với các vị sĩ quan bộ binh tiểu khu, có khi thì đậu tàu ở Trảng Lớn nhờ các anh bộ binh tiểu khu chở ra Tây ninh ăn cơm trưa với món canh chua cá kho tộ thật ngon mà đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Hợp đoàn đã lấy được cao độ an toàn và nhắm hướng tây bắc trực chỉ, tàu tôi có thiếu úy Nguyễn Tấn Phát ngồi hoa tiêu chánh, Thiếu úy Quang hoa tiêu phó, xạ thủ Trương Anh Dũng và tôi cơ phi Điệu.


Tiếng cánh quạt vỗ nghe phành phạch từng cơn gió đập vào làm phi cơ hơi rung nhẹ. Thấp thoáng trước mặt phi trường Thiện Ngôn đã hiện ra qua làm mây mỏng, nói là phi trường nhưng thật ra là một trạm xăng dã chiến để các trực thăng hành quân refuel, qua khỏi Thiện Ngôn được 10 phút thì trời đang trong sáng bỗng có những đám mây đen từ từ bao phủ khắp vùng làm tôi hơi chột dạ vì nếu mưa to kéo đến lúc nầy thì công việc tải thương đã khó khăn sẽ trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn. Sau khi liên lạc được với đơn vị bạn ở dưới, trực thăng chúng tôi vội vàng đáp xuống bên ngoài hàng rào của đồn nơi các lính đã chờ sẵn vội vàng ném lên năm cái Poncho ướt đẫm nước mưa rồi họ phóng nhanh xuống lại các giao thông hào đã được đào sẵn, nhìn dáng điệu của anh em binh sĩ như vậy tôi đoán là căn cứ đang bị pháo kích hay tấn công gì đó?


Phi cơ chúng tôi liền cất cánh, mấy xác anh em được gói trọn trong Poncho và cột chặt hai đầu nhưng mùi hôi thối vẫn bốc lên nồng nặc chắc chết đã lâu. Mưa vẫn còn nặng hạt và chiếc trực thăng cất cánh không được bao lâu thì tôi nghe có nhiều loạt súng bắn lên từ bên dưới các lùm cây, anh Phát vội vàng nghiêng tàu về phía bên Dũng để Dũng trả lời với quân địch bằng M-60, đạn nổ cốc cốc cốc….tạch tạch tạch ….tiếng súng AK xen lẫn họng đại liên của Dũng vang lên ầm ī như pháo Tết, con tàu nghiêng qua phải rồi nghiêng qua trái có lẽ anh Phát đang cố gắng bay như thế để tránh đạn nhưng có lẽ địch quân quá đông nên con tàu nhỏ bé không thể nào vượt thoát khỏi lằn đạn của địch quân, mảnh hổ nan địch quần hồ, nước gáo không dập được lửa muôn phương.


Nhiều tiếng bụp bụp vang lên trên thân tàu có lẽ tàu đã bị trúng đạn, nhìn lên bảng phi cụ tôi thấy đèn đỏ nổi lên rất nhiều, thôi thật rồi tàu trúng đạn quá nặng. Một cảm giác sợ hãi chợt đến với tôi không biết liệu tàu có bay được ra khỏi vùng kiểm soát của địch hay không, và thì chuyện gì đến sẽ đến. Giờ thì tôi đã thấy một khoảng trống trước mặt, với tài khéo léo và kinh nghiệm sẵn có khi anh còn bay ở Phi đoàn 213 Đà Nẵng và những cuộc hành quân Hạ lào mà anh từng tham dự qua, anh Phát đã đem con tàu xuống khoảng đất trống một cách an toàn sau khi cày một khoảng khá dài trên mảnh đất ruộng đầy nước! Hú hồn! Thoát chết! Cám ơn Trời, tạ ơn Chúa! Cám ơn anh Phát đã cứu mạng tụi tôi! Khi con tàu đã nằm yên trên mặt đất thì động cơ bắt đầu phát hỏa, anh Phát, anh Quang và Dũng đã chạy ra khỏi tàu, riêng tôi vì cú đáp quá mạnh nên tôi lăn đùng lên trên những Poncho bao lấy thân xác anh em, loay hoay mãi một lúc tôi mới thoát ra được khỏi tàu thì thấy các anh đang chạy đàng trước, tôi cố gắng chạy theo thì bất chợt một tiếng nổ bùng vang lên, nhìn lại thì con tàu đang cháy dữ dội! Tội nghiệp cho năm thân xác anh em trên tàu lại bị chết thêm một lần nữa, thật đúng với những dòng nhạc mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết người chết hai lần thịt xương nát tan!


Chưa hết cơn bàng hoàng thì từ trong bìa rừng nhiều loạt súng AK nổ vang rền và theo đó là nhiều tiếng hò hét vang lên ”bắt nó, bắt nó “ của bọn cộng phỉ vừa chạy vừa bắn khi thấy máy bay đã bị cháy, không ai bảo ai mọi người đều nằm xuống để tránh đạn theo phản ứng tự nhiên và bò đi trong đám cỏ tranh cao khỏi đầu người, trong cơn hốt hoảng và mất bình tĩnh tôi đã bò đi lạc các anh một khoảng khá xa, lúc đó thì bọn lính Bắc Việt đã đuổi theo kịp và bắn nhiều phát súng để hăm dọa tinh thần, biết không thể nào tiếp tục bò thêm được nữa tôi liền chui đại vào một bụi cây rậm rạp trước mặt để ẩn trốn, khi đó tôi nghe chúng hét to “đứng dậy, đứng dậy … dơ tay lên, dơ tay lên”, và một tên chửi địt mẹ ba thằng Mỹ còn một thằng nữa đâu rồi… có lẽ chúng tưởng tất cả chúng tôi đều là người Mỹ. Lúc đó tôi cảm thấy rụng rời vì biết rằng ba anh đã bị bắt, bất chợt một tên tay ghì chặc khẩu AK ở tư thế chiến đấu, hắn vừa đi vừa bắn vào các lùm cây để tìm tôi nhưng may mắn thay lùm cây tôi đang trốn không bị hắn bắn vào nếu không thì tôi đâu còn có giây phút này ngồi đây để viết lại những dòng chữ này. Âu cũng là số mạng hay nói đúng hơn là được Trời Phật che chở hay Chúa Mẹ phò hộ. Lúc đó có hai phi tuần khu trục đang lượn vòng trên trời làm cho hắn chùn bước không đi tìm nữa và chạy theo đồng bọn biến mất vào rừng sâu mang theo ba anh em phi hành đoàn bỏ lại đây một tên dở khóc dở cười không biết phải làm gì trong lúc nầy? Sau này các anh đã được trao trả tù binh vào năm 1973 anh Phát thì hiện đang định cư tại Mỹ, còn anh Quang và Dũng thì tôi không biết tin tức, cầu mong cho các anh được bình an và khỏe mạnh! Ôi Không quân giờ đây ta mới biết, mộng mây trời đã giết chết cuộc đời ta!


Ngồi yên trong lùm cây một lúc khá lâu tất cả đã trở về trong yên lặng cái yên lặng nguyên thủy của rừng già và giờ đây lại thêm một sự yên lặng của chết chóc và cô đơn, trời đã dứt hẳn cơn mưa mặt trời đã loé lên những ánh nắng chói chang gay gắt vào một vùng không gian vừa xảy ra một chấn động trong tôi không một ai biết chỉ riêng mình tôi. Cái nắng hăng hắc pha lẫn với mùi hơi nước ẩm ướt của cơn mưa vừa qua đi tạo ra một cảm giác khó chịu và ngộp thở. Đợi một lúc lâu tôi từ từ chui ra khỏi bụi rậm một cách khó khăn mà không hiểu sao lúc chui vào thì lại quá dễ dàng, nhìn xung quanh một lần nữa cho chắc ăn tôi chầm chậm bước đi giữa tiếng rì rào của cây rừng, cởi vội bộ đồ bay đã ướt vì trận mưa to và lúc bò trên ruộng nước tôi cuộn chung với đôi giày sô, lúc đó bỗng nhiên tôi nghe ngưa ngứa dưới chân nhìn lại thì hỡi ôi một con đỉa to gần gang tay đang treo lủng lẳng nơi ống chân phải, tôi vội túm lấy nó và ném đi thật xa, ghê thật, đó là loại đỉa mà dân mình gọi là đỉa trâu vì cái miệng của nó rất to. Bây giờ tiếp theo là tôi phải làm gì đây, không có bản đồ, không có địa bàn, không có vũ khí trong tay phòng thân, chung quanh chỉ toàn rừng là rừng. Ký ức tôi lại hiện về những buổi chiều sau khi đi bay về tắm rửa sạch sẽ cơm nước xong xuôi thì anh em cơ phi tụ tập nhau lại nơi đầu barrack để kể cho nhau nghe những vui buồn ngày hôm đó, thôi thì đủ mọi chuyện có gì kể nấy và làm cho buổi họp mặt thêm phần hào hứng và vui vẻ, tuy nhiên cũng có khi barrack vắng tanh vì các tay chơi thứ thiệt như Tài sòi, Đăng cò, Ngọc mad, Lộc râu, Tống… đã vọt về Sàigòn, không biết là các bác về nhà làm gì để rồi sáng mai lại trở lên đi bay tiếp? Có lẽ tôi nghĩ là các bác về để tránh bị pháo kích trong đêm hay là ghé quán sinh tố ở ngã ba Dĩ An nghe đồn có cô Điệp bán sinh tố đẹp và dễ thương lắm!


Đó là đời sống và cách sinh hoạt của anh em chúng tôi đó, vừa từ giả bút nghiên để bước chân vào đời lính anh em chúng tôi vẫn còn giữ được những nét ngây thơ hiền hòa của đời học sinh. Giờ đây chỉ biết vâng lời thi hành mệnh lệnh không so đo không tính toán không đòi hỏi không màng cấp bậc chỉ mong sao sáng ra đi, chiều bình an trở về. Thế nhưng trời cao dường như không chiều lòng người như thế, cuộc đời không chỉ bình an, bình an, và bình an như dòng nước êm đềm đôi lúc cũng có những thử thách những hiểm nguy, những đợt sóng dù nhỏ hay lớn đủ làm khuấy động một vùng nước đang yên tĩnh.


Điển hình có phi hành đoàn rớt đầu tiên ở Bầu bàng do Th/u Quá, Th/u Khoái, cơ phi Quan, xạ thủ Viên nhưng tất cả được rescue về bình an.


Kế đó không bao lâu thì một phi hành đoàn khác do Tr/u Hùng, Th/u Khoái cơ phi Lập, xạ thủ Hoàng cũng bị bắn rớt ở Trại bí và cũng được rescue về bình an, rồi cũng có những người bạn kém may mắn hơn và ra đi không bao giờ trở lại như Lộc râu, Ngọc mad, Sum, Hải phở, Năm hair, Tửng… nhưng dù sao thì những sự hy sinh đó cũng không làm chúng tôi nao núng chiến tranh mà… nó đâu chừa một ai… buồn…!


Đang miên man suy nghĩ thì tiếng động cơ của chiếc L-19 từ xa vọng lại đã đánh thức tôi về với thực tại, một tia hy vọng lóe lên trong đầu, tôi vội móc túi lấy ra một cái bóp trong đó đựng giấy tờ tùy thân và một cái kiếng nhỏ để soi mặt, lúc này khoảng trưa trời đã quang đảng, ánh sáng mặt trời tỏa khắp mọi nơi, cơ hội ngàn vàng đã đến tôi vội chiếu chiếc gương về hướng chiếc L19 qua trái, qua phải, lên xuống, khoảng vài phút sau có lẽ pilot đã thấy được ánh sáng từ chiếc gương nên đã đâm đầu xuống hướng tôi, vô cùng mừng rỡ vì biết rằng họ đã thấy tôi nên tôi vội vàng đứng dậy và chạy về hướng chiếc L19, vừa chạy tôi vừa vẫy bộ đồ bay, ngay sau đó một trái khói màu được ném ra từ chiếc L19, khoảng chừng 5 phút sau một chiếc trực thăng lù lù xuất hiện như một thiên thần, như một vị cứu tinh đã làm thay đổi cuộc đời tôi, chiếc trực thăng đáp xuống ngay chỗ trái khói màu và nơi đó tôi đang chờ sẵn không đợi cho phi cơ chạm đất tôi đã lẹ làng phóng lên sàn tàu nhanh nhẹn như một chàng biệt kích nhảy toán, tôi ra hiệu cho phi cơ bốc lên và thông báo cho các anh biết là ba người kia đã bị bắt. Sau khi phi cơ đã lấy được cao độ và ra khỏi vùng nguy hiểm tôi liền nhận ra là anh Quá và anh Tôm là hai phi công lì lợm và gan dạ của phi đoàn mình, Phi Đoàn 231, một phi đoàn mới thành lập nhưng cũng rất hãnh diện được sánh vai cùng với các phi đoàn bạn và qui tụ rất nhiều nhân tài lỗi lạc gan dạ đầy kinh nghiệm không kém gì anh Quá và anh Tôm. Tôi cũng vô cùng khâm phục và mang ơn người anh hùng không quân lái chiếc L19 đã không sợ nguy hiểm cố gắng tìm ra và đánh điểm cho trực thăng đến cứu tôi. Anh đã làm đúng với châm ngôn của binh chủng không quân chúng ta: “Không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, và tôi cũng không quên thành thật xin tạ lỗi cùng năm anh em đã nằm lại với con tàu, chúng tôi đã bất tài không làm tròn nhiệm vụ mà các anh và thân nhân đã mong chờ vào chúng tôi đem các anh về với gia đình để đoàn tụ và được mồ yên mả đẹp, cầu chúc linh hồn các anh sớm được siêu thoát!


Trần văn Điệu
New Orleans 2020
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by nguyenvsau »

Image

Bố tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa


Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.

Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.

Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế. Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.

Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì. Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, bơ đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv…

Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc. Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình.

Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi. Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”. Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.

Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu. Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem. Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.

Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa

Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng. Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố. Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục.

Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín

Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt. Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.

Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi.

Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu.

“Này Tammy”

Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?”

“Bố thương con nhiều.”

“Con cũng thế. I Love You!”

Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắc là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)

Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước. Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v…

Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm. Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.

Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê. Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn. Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.

Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được. Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến. Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!”

Ngày lễ cha, Father’s Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này.

Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn.

Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng. Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa.

Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.

Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”

Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian. Có gì bên trong? Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, trong những bộ quân phục thật oai phong. Có những tấm cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72… với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh… Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.

Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương.

Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi. Ông thật là người cha tuyệt vời

Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ! Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!”

Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa.

Lúc liệm xác, tôi bỏ theo khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thắm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.

Hải Lê
Mừng ngày Quân Lực 19/6
hoangphong
Posts: 364
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

K Ý Ứ C M Ộ T T H Ờ I.
Post lại, thân tặng các huynh trưởng khóa 9.73 Thủ đức ‘ .

Tháng 10 – 1974. Chiến trường Bắc Tam Quan , Bình Định.
Chuẩn úy Phương gốc Bắc di cư, sinh năm 1954, tốt nghiệp Bộ binh Thủ đức trước tôi vài Khóa. Ngay từ lần đầu tiên gặp nhau tôi đã có thiện cảm. Phương có giọng nói nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn, dáng cao gầy, ánh mắt xa xăm. Mãi nhiều năm về sau tôi mới nghiệm ra một điều , ánh mắt buồn là nỗi ám ảnh mơ hồ của định mệnh , những người có ánh mắt như vây rất giàu tình cảm và cuộc đời thường gặp nhiều bất trắc.
Chúng tôi cùng chung Đại đội, Phương chỉ huy Trung đội 1, tôi về Trung đội 2. Vị trí chốt của tôi nằm cách chốt của Phương không đến một cây số tính theo đường chim bay, ở vị trí trên đồi cao chúng tôi nhìn thấy nhau rất gần. Chốt là một thuật ngữ quân sự dùng để chỉ những vị trí chiến thuật. Thời gian đó , Bắc Tam quan là một trong những điểm nóng nhất nước, những địa danh như Đồi mười, Đồi núi chéo đã đi vào lịch sử . Nơi đây, chúng tôi và người anh em giành giật nhau từng vị trí xung yếu. Nhìn tổng quát , vị trí đóng quân hai bên như một tấm da beo lốm đốm trải dài chìm trong bạt ngàn rừng núi.
Lần cuối cùng gặp nhau , Phương khoe với tôi tấm hình bạn gái. Đó là một cô gái tuổi mười bảy có mái tóc dài và khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương. Tôi nói vài câu chúc mừng Phương mà buồn rười rượi. Cách đây mấy ngày, tôi nhận được lá thư cuối cùng của người bạn gái. Chúng tôi quen nhau trước ngày tôi nhập ngũ. Tình yêu của chúng tôi trút hết vào những lá thư , những câu chữ ân cần , dặn dò và ngập ngừng một chút thương nhớ . Trong lá thư Cô ấy viết .’’ qua Lễ Noel, em sẽ rời khỏi cuộc sống và anh để vào Tu viện , đó là tâm nguyện trước đây của gia đình và em. Gía như mình gặp nhau trong hoàn cảnh khác. Mà thôi, em không hề ân hận’’. Tôi đã ứa nước mắt khi đọc dòng chữ . ‘’Anh đừng buồn nhé , em vẫn hàng đêm cầu xin Chúa che chở cho anh, bây giờ, ngày sau và mãi mãi ‘’. Với những người lính trẻ chúng tôi , tình yêu như một cánh phao cho những ngày tháng dãy dụa , tuyệt vọng trong cuộc chiến sinh tử này. Nỗi buồn lại chồng chất , tôi nuốt nghẹn , chôn dấu cuộc tình đầu trong veo của mình vào tuồi mười chín.
- Biết mình có còn ngày về gặp em không.
Phương thở dài. Tôi không biết trả lời thế nào.
Hai đêm sau Phương mất.

Trong các lối đánh , chúng tôi sợ nhất lối đánh Đặc công của người anh em. Đó là lối đánh bất ngờ vào ban đêm , thường là nửa đêm về sáng. Khi đánh , người anh em đã điều nghiên tính toán rất kỹ. Năm , bảy người anh em bôi đen kín người , bò áp sát vị trí , cắt hàng rào và tấn công bằng lựu đạn chày, loại lựu đạn có chuôi , ném đâu là nằm yên đó , đảm bảo độ chính xác và sức công phá khá mạnh. Trong trường hợp này, hai bên gần như đánh xáp la cà , cắt đứt hoàn toàn mọi hổ trợ của đơn vị bạn.
Đêm đó, tiếng Mang ‘’ Tác’’ nhiều lắm. Mang là con thú rừng có hình dạng giống như con Nai nhỏ. ‘ Tác ‘’là tiếng gọi của con vật này , mỗi khi Mang ‘ Tác ‘’ thường mang lại điềm gở. Nghe tiếng Mang tác , cả Trung đội căng thẵng không ai chợp mắt . Tôi vừa đi kiểm tra một vòng về đến vị trí của mình , chợt nghe lác đác tiếng nổ và một loạt đạn M.16 báo động. Trung đội choàng dậy sẵn sàng. Tiếp theo hỏa châu bắn rực trời , ánh sáng vàng vọt , mờ nhạt xuyên qua lớp sương mù . Qua máy PRC 25 , tôi nghe giọng của Phương hò hét , điều động lấy tinh thần đồng đội. Tiếng lựu đạn nổ , tiếng súng , tiếng gào thét hỗn loạn trong máy lẫn trong sự hồi hộp của chúng tôi.
Tôi chưa kịp uống hết ca inox café của người cận vệ vừa đưa. Tiếng máy rè rè PRC25 thông báo cho toàn bộ đơn vị , chốt của Chuẩn úy Phương đã mất . Tôi rụng rời nhìn đồng hồ , mười hai giờ bốn mươi lăm , trận đánh kết thúc chưa đầy ba mươi phút.
Đúng mười lăm phút sau , tôi nhận lệnh từ Đại đội. Chia hai quân số, một nửa đóng chốt , nửa còn lại tấn công tái chiếm ngay. Bằng mọi giá chúng tôi phải chiếm lại ngọn đồi trước khi trời sáng. Tôi thông báo kế hoạch tác chiến và chuẩn bị chớp nhoáng. Trong màn đêm , mười ba con người như những bóng ma , lặng câm dọ dẫm tụt xuống ngọn đồi. Vội vàng quá , không ai kịp nghĩ đến con số xui xẻo.
Cách đỉnh đồi chừng hai trăm mét , chúng tôi dừng lại nằm yên. Trời bắt đầu lấm tấm mưa và lạnh. Tiếng đại bác yểm trợ bắt đầu rít liên tục , xuyên qua lớp sương mù dày đặc lướt trên đầu chúng tôi chúi xuống đỉnh đồi nổ tung , rồi cuộn từng lớp đất đá lên trời , trút xuống mịt mù. Vừa dứt tiếng Pháo, chúng tôi thận trọng trườn lên áp sát đỉnh đồi. Không có tiếng nổ , không có một sự phản kháng. Người anh em đã tiên liệu rút đi để tránh tổn thất. Chúng tôi vội vã đào xới lại các giao thông hào và bố trí ngay sơ đồ tác chiến. Kinh nghiệm cho tôi biết không được chủ quan , người anh em có thể sẽ quay lại bất ngờ trong đêm.
Không có thời gian thu dọn xác đồng đội, chúng tôi chăm sóc tạm cho các thương binh. Phải cầm cự cho đến trời sáng mới nhận được sự tiếp ứng . Cái lạnh tím tái thịt da .Thèm một hơi thuốc, nhưng không ai được hút vì đốm lửa và mùi thuốc lá dễ lộ mục tiêu. Mười ba con người mò mẫm làm cật lực, chai cứng cảm giác.
Trời lại lấm tấm mưa. Tôi đưa tay vuốt mặt mình và nhận ra mùi tanh của máu. Mặc kệ , phải đào cho xong hệ thống phòng ngự . Những nhát xẻng chạm vào độ cứng của đá núi, bật lại rát bỏng bàn tay. Người lính bên cạnh tôi thở hồng hộc.
- Em mệt quá, Chuẩn úy ơi.
Tính toán một lát , tôi quyết định.
- Tất cả chia làm bốn nhóm , xuống tạm giao thông hào che Poncho nghỉ ngơi.
Cứ nghỉ cho lại sức cái đã , chuyện gì đến tính sau .
Thời gian cứ chậm chạp trôi. Đôi mắt tôi muốn díu lại , lại phải cố gắng lên tiếng để đồng đội yên tâm. Ơn trời , đâu đó có tiếng gà gáy lẻ loi vẵng lại. Lòng chợt nhẹ như tiếng kinh cầu .
Một ngày mới bắt đầu , đã tờ mờ sáng .
.

Ánh sáng mù đặc của buổi chiều rừng núi hắt vào gian phòng , làm tăng thêm cảm giác âm u . Chính giữa gian phòng đặt song song hai dãy quan tài phủ lá cờ , sát tường là một bàn thờ tạm bợ , khói hương nghi ngút. Tôi lặng lẽ quay mặt không dám nhìn hai người phụ nữ , mẹ Chuẩn úy Phương và cô bạn gái đang quỳ bất động trước quan tài .
Trước đó, khi người con gái đặt vành khăn tang lên đầu mình , người mẹ đã ngăn lại, rồi hai người Phụ nữ đầu chít khăn tang úp mặt lã chã lên vai nhau . Tôi giả vờ cầm quyển sổ Nhật ký của Phương chăm chú lật vài trang. Từ trong quyển sổ Nhật ký rơi ra tấm hình người bạn gái của Phương , lem vết máu khô.
Nhặt tấm hình lên , tôi bước ra ngoài đốt thuốc lá. Nơi này, buổi chiều mùa Đông trời không mưa nhưng ẩm và lạnh , trần mây sà thật thấp, nhìn chung quanh núi rừng chỉ thấy một màu sương xám nhợt nhạt mênh mang . Bất chợt tôi nhớ đến vài câu trong một bài hát của Phạm duy phổ từ thơ Lê thị ý .
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thủa ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ nét son.
Tôi rùng mình nhận ra một điều , chỉ có cảm xúc xuất thần của người trong cuộc mới làm được khổ thơ này.


Tháng 12 – 1974 .
Sau một đêm cút bắt với người anh em, chúng tôi mệt nhoài. Trời đã mờ sáng. Lệ thường hai bên sẽ tạm dừng trò chơi chờ đến tối. Tôi quyết định cho Trung đội di chuyễn ra Tam Quan nghĩ ngơi, từ chỗ chúng tôi ra Thị trấn cũng gần, lội bộ chừng hai, ba cây số đường rừng.
Những ngày tháng này Thị trấn Tam Quan giống như một cảnh trong phim ‘’Cowboy’’, nhà cửa cũ kỹ, thưa thớt, những chiếc xe GMC chạy qua liên tục cuốn bụi mù trời, đâu đó hai bên đường, một vài tốp lính bụi bặm, đủ mọi sắc phục, súng ống nghênh ngang. Thị trấn chỉ có một vài Quán, gọi là Quán, nhưng món ăn chỉ có Mì gói, thức uống có Café, nước ngọt và bia.
Tôi ghé vào một Quán, thả mình trên chiếc võng đong đưa nhìn ra đường. Từ đằng xa một tốp lính đi lại. Trông người nào cũng tả tơi, hốc hác, có lẽ họ cũng vừa đụng trận đêm qua. Trong tốp lính có một người làm tôi chú ý, anh ta bị rách một ống quần, rách theo đường chỉ may từ gót chân đến lưng, mỗi bước đi anh ta để lộ ra bắp đùi, cẵng chân trắng hếu như các em gái thành phố.
Tốp lính vừa đi ngang. Tôi chồm dậy hét.
- Khải ơi, Khải…
Người lính ngoảnh mặt lại nhìn sững, rồi phẩy tay ngoắc cả bọn bước vào.
- Mày đó hả Huy.
- Ừ, tao đây.
Chuẩn úy Khải cùng khóa với tôi. Khi ra trường hai đứa về cùng đơn vị.
Khải ngồi phịch xuống ghế, khuôn mặt hốc hác đầy những vết xước rướm máu.
- Đêm qua tụi tao chia làm hai đi mở đường, tốp của tao lọt ổ phục kích. Cầm cự một lúc chịu không nổi, tụi tao tan hàng. Người anh em truy đuổi, tụi tao chạy từ nửa đêm đến bây giờ. Chạy tán loạn hết, ra đến Tam quan tốp của tao còn lại bốn thằng.
- Bây giờ mày tính sao.
- Tao báo cáo Đại đội rồi. Nghỉ đến trưa tụi tao kéo về chốt tập họp, nhận quân bổ sung.
Khải đưa tay chỉ vào phần đầu gối.
- Tao trúng đạn ngay chỗ này. Rách toạc túi quần văng tung hai trái lựu đạn, không hiểu sao lựu đạn không nổ - Khải cười buồn .
- Số tao còn hên.
Tôi nhìn xuống bùi ngùi. Sĩ quan tác chiến có luật bất thành văn, người này nhắc nhở người kia, ai cũng gài kỹ hai quả lựu đạn trong túi quần. Bị bắt sống cũng khó qua, thôi thì tự mình cát bụi. Cứ chuẩn bị như thế cho lòng thanh thản , dù vẫn biết trong giây phút đó có mấy ai đủ can đảm tự gạch xóa đời mình.
- Sắp Noel rồi Huy , ước gì mình có cánh bay về Qui nhơn thăm em.
- Có em nào chưa mà về . Tôi hỏi.
- Có em nào đâu , mình chỉ mơ vậy thôi .
Hai đứa nhìn nhau cười . Từ lúc ra đơn vị đến nay có thằng nào được nghỉ phép về Thành phố đâu . Thôi thì cứ gặp em trong mơ.
Ngày 24. 12.1974.
Chiếc xe đò giảm tốc độ rồi dừng lại trước Trạm kiểm soát Quân sự. Từng người một bước xuống kiểm tra. Người lính Quân cảnh đứng nghiêm chào tôi.
- Chuẩn úy đi phép hay công tác, cho tôi xem giấy tờ.
Tôi trả lời tỉnh bơ.
- Tôi được Đại đội cho nghĩ phép 24 giờ , chiều mai tôi quay về đơn vị. Thời gian ngắn quá , tôi không kịp về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nhận giấy phép.
Người lính Quân cảnh nhìn tôi lưỡng lự, trong giây lát có lẽ anh ta cảm nhận được vẻ bất cần và liều lĩnh của những người lính tác chiến. Anh ta trao đổi nhanh với cấp chỉ huy Trạm gác rồi quay lại chào tôi.
- Chúc Chuẩn úy có 24 giờ phép vui vẻ.
Từ bến xe , tôi đi bộ một quãng theo con phố chính về nhà. Hai bên đường , phố xá đã lên đèn rực rỡ, từng dòng người lũ lượt kéo về Nhà thờ đón Noel. Một tốp Áo dài trắng ngang qua , tôi vói theo cố tìm lại cho mình một bóng dáng.
Ngang qua một quán Café, tôi dừng lại bên ngoài đốt điếu thuốc và lắng nghe Bài thánh ca vẵng ra , cồn cào tâm hồn mình.

VŨ ĐÌNH HUY
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests