Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Image


Ó Biển đã bay xa

Bạn đọc Danlambao - Trong chiến tranh Việt Nam, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là hai binh chủng mà Việt Cộng cố tránh đối đầu càng nhiều càng tốt. Một trong những yếu tố khiến hai binh chủng này làm quân đội miền Bắc khiếp đảm là vì họ có cấp chỉ huy giỏi.

Mỗi tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đều mang một tên riêng, trong đó có Tiểu đoàn 2 Trâu Điên và Tiểu Đoàn 8 Ó Biển.

Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Phán, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 8 Ó Biển, một người con của Huế, đã từ trần ngày 1 tháng 12 vừa qua tại Houston, tiểu bang Texas, thọ 80 tuổi.

Như một lời tiễn biệt Ó Biển giữa lúc đại dịch Covid, chúng tôi xin mời bạn đọc DLB xem lại tường thuật của Trung tá Phán về trận đánh tái chiếm Kỳ Đài ở Huế trong đợt Tết Mậu Thân 1968. Lúc đó, ông còn là Đại úy Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 1 Quái Điểu.

Kế tiếp là một bài thơ của ông trong một ngày buồn ở Mỹ sau năm 1975.

Huế, Tôi và Mậu Thân
Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán

Từ Cai Lậy về thủ đô Sài Gòn, nhập ngay vào đánh giải tỏa trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Ðịnh xong xuôi, Quái Ðiểu Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu, Gia Định.

Mười hai giờ khuya họp Tiểu Đoàn, 2 giờ sáng có mặt tại Tân Sơn Nhất, 4 giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết.

Ðồ khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay. Ðó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lũng lẳng trên bầu trời.

Tôi để lại đằng sau một Sài Gòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C.13O khổng lồ nuốt gọn 8OO Quái Ðiểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

– Ði đâu bây?

– Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.

Lượm, Ðại Đội Trưởng Ðại Đội 1, dân Nha Trang, trả lời. Tôn, Ðại Đội Trưởng Ðại Đội 2 là dân Ðà Lạt, cãi:

– Ðà Lạt.

Phán Phu Nhơn nói:

– Ði đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.

(Khi vào quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang “Phu Nhơn” ra đời, nghe thật lạ tai!)

– Máy bay chi bay mãi ri bây?

Thời tiết thật xấu, và rồi bánh phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài!

Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều quấn Poncho đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Giạ Lê, An Cựu.

Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, dì, chị và em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học kéo về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

Mười giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Giạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Ðại Úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết:

– Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Ðà Lạt bị thương…

Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu đi bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh tiếp:

– Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Ðại Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá*.

(*Sau này tôi được nghe nói: Vì nghe tin Tướng Ngô Quang Trưởng kẹt nặng nên Đại Bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù đã xua quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng. Tôi xin Tướng Lưỡng cho tôi được nghiêng mình chào Ông một cách đầy kính phục cho cái tình nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi này. Ðể đáp trọn tình nghĩa, Lữ Đoàn của Đại Bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề).

Ðoàn xe dừng lại bên hông đại học Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là đài phát thanh Huế, và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.

Nhìn qua chợ Ðông Ba và phố Trần Hưng Ðạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập, những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường đến cuối đường Trần Hưng Ðạo không một bóng người. Nhìn bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh, những cột khói khác vươn lên… Cả thành phố đã chết, Huế tôi tang thương đến thế sao! Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn tang đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi dòng Hương xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè, cầu Ðông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Ðội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm Đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Ðến Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.

Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Ðịch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và tìm chổ phòng thủ. Tôi cho lệnh Sự, Trung Úy Ðại Đội Phó, kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung Úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân Khóa 19 Võ Bị Ðà Lạt, thủ môn đội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệu.

Tôi dự buổi họp Tiểu Đoàn khẩn cấp và quan trọng. Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh:

– Phu Nhơn rành địa thế dẫn đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn, Ðại Đội 1, Lượm Ðại Đội 2, tiếp theo là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng Ðại Đội Chỉ Huy, sau cùng là Tòng Ðại Đội 4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng một đại đội ta đóng ở đó, không biết còn hay mất.

Phán hỏi:

– Còn phi trường Thành Nội thì sao? Tình hình trong Ðại Nội, Thiếu Tá có nắm vững không?

– Không rõ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt. Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Hòa, cửa Ðông Ba, Kỳ Đài Phú Vân Lâu v.v.. tụi nó đều chiếm hết.

Trong óc tôi, một bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm một con đường ngắn và an toàn nhất cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 tuổi đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng, nay tôi đang tìm một con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đi.

Tám giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó Mạ tôi, dì tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không?

Thiếu Uý Duật, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 dẫn đầu. Duật xuất thân Khóa 21 Ðà Lạt, hăng say, gan, thích xóc đĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phán và Ban Chỉ Huy Đại Đội kế tiếp. Thiếu Uý Nghênh, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 tiếp theo. Nghênh xuất thân từ “Commando Du Nord”, kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Kế đến là Thượng Sĩ Nhất Mã Khện, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, xuất thân Commando trong Nam, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái. Sau cùng là Thượng Sĩ Nhất Hải, Trung Đội Trưởng Trung Đội súng nặng. Hải xuất thân “Commando Du Nord”, người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái và không thuốc lá.

Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở, thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Ðội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong… Những tiếng nói đó đây:

– Anh Phán đó tề! Anh Phán! Anh Phán…

Tiếng gọi lớn dần và lan dài suốt con đường tôi đi.

Con hẻm sát hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, dì, chị và em tôi đó, xao xuyến quá! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt:

– Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi.

Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị thiên đường:

– Con xức cho khỏi gió.

Lính đi ngang hỏi nhau:

– Mạ Ðại Úy sao đầu trọc lóc vậy bây?.

– Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy.

Phán và âm thoại viên vẫn còn dừng lại:

– Nhà mình có răng không Mạ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không?

– Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng hai trái nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chỉ không biết đi mô.

Chỉ là bạn tôi xuất thân Khóa 17 Võ Bị Ðà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng:

– Thôi con đi, Mạ và gia đình đừng lo cho con.

Mạ tôi khóc òa, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm.

Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi. Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai âm thoại viên vượt lên đi với trung đội đầu.

Cuối hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngự Ðạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường tiểu học Ðoàn Thị Ðiểm, nhưng tôi không đi con đường này. Tiếp tục đi thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu… Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên.

Ðến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch, gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và kinh hãi. Tôi cho dừng quân bên này đường, một ông già mách:

– Con đường ni bị bắn rất rát, từ trong cửa Hòa Bình ở Ðại Nội bắn ra.

– Còn sân bay Thành Nội ra sao ôn, có ai khôn?

– Ðánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa.

Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật: Băng qua khỏi con đường này, đến một xóm nhà, qua một cái cống thì bên trái là thành Quân cụ. Nghênh và Mã Khện yểm trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi. Con đường chỉ có 5 thước mà hơn một giờ mới vượt qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần mò theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh. Tôi bảo Duật:

- Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào thành Quân Cụ, chờ tau lên.

Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, Field -Jacket, giây ba chạc, không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi. Thằng đệ tử tôi gọi lớn:

– Ê! Thủy Quân Lục Chiến đây.

Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Bò lết vào tới trong đồn, ông trưởng đồn nói tiếng Huế đặc sệt, ông là Trung Uý Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế:

– Ðại Úy ơi, 7 ngày không ra vào nổi, nó bao hết. Trường Trần Cao Vân, Ðại Nội, xóm nhà trước mặt và bao quanh đồn tụi nó chốt hết. Nhà bảo sanh sau lưng trường cách một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi, không còn ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu được, đủ loại: 61, 82 hỏa tiễn 107, 122. Tôi ráng cố thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng.

Tôi trở ra báo cáo về Tiểu Đoàn, lệnh của Tiểu Đoàn Trưởng:

– Phu Nhơn chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu Đoàn Trưởng và Bộ Chỉ Huy sẽ lên ở trại Quân Cụ. Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó là ngã ba đường, một đường chạy lên cửa Sập, một chạy về trường Ðào Duy Từ và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố nhố bên trong trường. Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B.40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Duật chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi Thượng Sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật để Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mã Khện đã chiếm được một lớp của trường. Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao, có thành của các lớp học che chở.

Tôi kêu Sự :

– Pháo binh có chưa? Kêu về đại bàng Thanh Hoá cứ bắn vào góc thành cho tau.

Ðến chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đã lót đường cho mục tiêu đầu và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến:

– Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ “phơ” cho tau, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ.

Qua một vạt đất trống, trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng:

– Nhột quá, cho em bung cái nhà này đi.

Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn:

– Khoan bắn, nhà thầy Tiềm.

Rồi tôi băng qua đám đất trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không thấy thầy, tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử Địa với thầy ở trường Bồ Ðề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc thành đó lại. Duật bảo con cái đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn:

– Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Đoàn lên.

Tôi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp.

Ðến lúc ấy đại đội tôi đã có 13 chết, 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.

Tối đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn Trưởng cho Ðại Đội 2 của Tôn và Ðại Đội 1 của Lượm dưới sự chỉ huy của đại ca Ðã, Tiểu Đoàn Phó, chiếm nhà bảo sanh. Ðoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu. Sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà bảo sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu, Lộc Ðại Đội Phó lên thay.

Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua. Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào Ðại Đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật lui. Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được thêm một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ. Lượm bị hao hụt nặng, Phu Nhân lên thay. Tôi và con cái bò lên từng toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn bắn xuyên mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho Tiểu Đoàn. Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường, sình lớn mà không lấy được. Phía bên kia bốn năm xác địch vẫn để yên, tụi nó cũng không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.

Từ căn nhà hai tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà bảo sanh, một thượng liên và và trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.

Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chửi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo của tụi nó:

– Bồ câu hết thóc!

Tôi nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn, nếu cứ nằm như thế này, một lúc nào đó tụi nó tập trung tấn công, mình cũng sẽ bị mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: “Nếu mình không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình”. Tôi trình với Tiểu Đoàn Trưởng:

– Thiếu Tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khỏe ngày càng hao hụt.

Tiểu đoàn trưởng không cho, bắt ráng giữ vị trí. Phu Nhơn năn nỉ:

– Nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi rút về. Mình phải chứng minh cho tụi nó thấy mình còn đủ sức chơi tụi nó, thời tụi nó không dám tấn công mình.

Tiểu đoàn trưởng nói:

– Làm kế hoạch xong cho tôi hay.

Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc Ðại đội 2, Sự Ðại đội phó của tôi, Duật, Nghênh và Mã Khện. Tôi nói:

– Nằm chờ lâu tau chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.

Tất cả im lặng, tôi tiếp:

– 4 giờ sáng mai mình đột kích, nếu giữ được vị trí thời tau cho tràn luôn. Bây giờ tau chọn 4 toán:

Toán 1: Phán, Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy.

Toán 2: Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ.

Toán 3: Nghênh và 3 người.

Toán 4: Thượng Sĩ Nhất Hải và 3 người.

Tất cả trang bị thật nhẹ: mỗi người 20 quả lựu đạn và hai băng đạn cong ráp ngược cho M16.

Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả tràn qua. Nếu thấy khói màu vàng, yểm trợ tối đa cho tụi tau dọt về. Sự và Lộc hãy về lo cho con cái, đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại vị trí.

Duật, Nghênh và Hải ở lại, tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:

– Tau theo dõi tụi nó báo cáo qua máy, hình như tụi nó thiếu đạn. Do đó tau quyết định cuộc đột kích hôm nay.

Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói:

– Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm.

Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:

– Ðại úy cho tôi ở lại vị trí.

Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ Sĩ Nhất Mười. Tôi tiếp:

– Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi.

Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị. Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung Úy Sự. Tôi hỏi lần chót:

– Có ai xin ở lại cho tôi hay.

Không ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao và khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba toán trưởng bò đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:

– Cái thứ nhất gần ngã tư là mục tiêu của tau, cái thứ hai kế tiếp có hàng rào là của Nghênh, căn thứ ba cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ tư có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và cố chọn một con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi.

Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:

– Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Ðúng 4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định.

Trở lại vị trí, tôi dặn dò Ðiểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy:

– Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở đây.

Sau đó tôi đi gặp Tiểu đoàn trưởng để trình bày kế hoạch. Ông nói:

– Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ!

Tôi nói:

– Nếu Thiếu Tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết.

Cuối cùng ông chấp thuận:

– Nhớ là có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt.

Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng.

Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn giờ kém mười sáng, toán tôi có mặt tại tiền đồn.

Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị! Tôi cảm thấy hồi hộp, chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là hai mươi ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất. Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội.

Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Ðiểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Ðiểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một loạt đạn thật giòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét lớn:

– Dư, Việt chiếm nhà bếp.

Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Ðiểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B.40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thầy trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Ðiểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:

– Ðiểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ. Ðể Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Ðiểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.

Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có gì cả bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi nhìn thẳng vào mấy ổng rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng, mấy ông kia gật đầu. Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là bên phía tay mặt tôi. Tôi biết rằng tụi tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:

– Thấy gì không Dư?

Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán khoảng 7-8 người đang ở trong một cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai, tôi đếm đủ 11 người đang bò qua, kaki Nam Ðịnh, súng AK và B.40, cách vách tường khoảng 20 thước, 15 thước rồi 10 thước. Tôi đưa súng lên lên định bóp cò thì Dư kéo lại và ra dấu dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng thế, bốn lựu đạn ném ra cùng lúc, tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng, tụi còn lại bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:

– Chết em, Ðại uý!

Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới: nguyên một họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường.

Hai thằng em đã hy sinh, còn bốn thầy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi, súng vẫn nổ dữ dội. Ðến 10 giờ 30 sáng tôi cho Ðiểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Ðiểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau mười phút đi bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Ðiểu mới về báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi!

Toán Duật: một chết một bị thương.

Toán Mã Khện: hai chết.

Toán Nghênh: một chết một bị thương.

Tất cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi còn lại 11 người tại tuyến.

Ðiểu bò ra giếng cố đem qua cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Ðiểu kéo. Can mờ máy liên lạc với Tiểu đoàn:

– Trình đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi.

Ðại bàng hỏi:

– Tại sao từ sáng đến giờ không chịu liên lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay.

Phán nài nỉ:

– Ðây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin đại bàng cho làm luôn.

Ðại bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy trang:

– Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra tòa án quân sự.

Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ. Suy nghĩ thật kỹ. Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm.

Cuối cùng tôi đành bảo Ðiểu chuyển lệnh cho các toán:

– Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.

Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đan lưới thật dày trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây? Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra sau. Ðạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Ðây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấy.

Hỏa lực 3 phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán đột kích không còn liên lạc với nhau. Ðiểu và Can vẫn giữ căn nhà. Ðịch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ hữu của Khăn Tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về.

Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét:

– Bắn kềm mấy cây thượng liên.

Những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả anh em. Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi:

-Ðại Úy, tóc và râu Ðại Úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ.

Cả Ðại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo Tiểu đoàn:

– Tất cả đã về vị trí.

Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:

– Thằng Ðiểu đâu?

Tụi nó nói:

– Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm Ðại Úy ở bên ấy.

– Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bây theo tau.

Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn vào vị trí và la lớn:

– Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không?

Ðiểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Ðiểu:

– Tau định qua kiếm mày đây.

– Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi. Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ.

Tóc tai mặt mày râu ria Ðiểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi. Sáu giờ chiều, xuống trình diện Tiểu Đoàn Trưởng, ông nói ngay:

– Ông làm chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ Đoàn?

Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị:

– Thưa Thiếu Tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu Tá cho tôi hai chiếc tank kèm hai bên hông của tôi.

Ông hỏi:

– Có chắc ăn không Phán?

Tôi cương quyết:

– Chắc, và nếu tràn được vị trí Thiếu Tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Ðài nếu kịp thời gian.

Tôi theo Tiểu Đoàn Trưởng lên trình ông Già Hự, Ðại Tá Yên Tư Lệnh Phó. Ông già chấp thuận.

Tôi trở về họp các trung đội trưởng:

- Ngày mai, 8 giờ sáng, Ðại Đội 3 Khăn Tím bên trái, Ðại Đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc tank yểm trợ bằng hỏa lực xong, cả hai đại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu chiến lợi phẩm, để Ðại Đội 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ, Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại chờ tôi.

Ðúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí tác xạ cho hai trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tăng chỉ bắn một phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ:

-XUNG PHONG!

Cả một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích.

Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M.60 của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một mình tôi vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can , Việt, Ðiểu và hai thằng mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Ðúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Ðến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.

Lính vỗ vai nhau cười làm tôi bắt cười lớn vì xóm nhà này rất quen thuộc với họ. Lính thường hay đến xóm này rồi về kể nhau nghe con này đẹp, con kia chân dài, con nọ… Nào khăn, nào thau vứt bừa bãi khắp nơi. Lính vui vẻ kể chuyện tục cho nhau nghe và hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười đầy ham muốn và thèm thuồng, hơn 40 ngày, từ vùng 4 về giải tỏa Sài Gòn rồi ra đây, không thấy mặt một người đàn bà, chỉ thấy toàn máu và mồ hôi. Tôi ra lệnh:

– Lộc và Sự mỗi ông cho 1 toán 10 người băng nhanh đến sát mặt thành rồi ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đồn đồn lên thành. Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu cầu.

Con cái tôi hành động đẹp còn hơn tài tử xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, hai toán lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc thành.

Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Ðài Huế.

Ðây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hỏa lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ Ðài.

Ðịch bắn trả. Con cái tôi dùng hỏa lực tối đa và thần tốc tiến vào Kỳ Ðài. Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến đã làm chủ Kỳ Ðài. Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn ở trên không. Một thằng em rút đâu trong người ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn:

– Tất cả đã sạch sẽ, xin Thiếu Tá cho tôi treo cờ.

Tôi nhớ rõ lệnh của Trung tướng Lê Nguyên Khang:

– Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Vân Lâu.

Trong niềm vui cùng tột, Hạ Sĩ Hạnh hét lớn: “Thủy Quân Lục Chiến”, xong lấy trái hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:

– Em không sao Ðại Úy.

Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết, và nó chết thật.

Tiểu Đoàn Trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ.

(Sau này tôi được nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Chuẩn Tướng Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn 1. Sáng hôm sau ngày 24/2 Phạm Văn Ðính dẫn một đơn vị của Sư Đoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.)

Nhìn lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì một thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này.

Trung úy Sự trình tôi:

– Thằng Hạnh chết, mình còn 67 người.

Ðại đội ra đi hơn 17O người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa Sập và Kỳ Ðài mà bây giờ tôi chỉ còn lại 67 người.

Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Ðông Ba, Nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngã tư Anh Danh. Ban chỉ huy của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không còn ai cả.

Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẩn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch. Lính canh bắt giải tới một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí.

– “Lệnh giới nghiêm, đã 11 giờ đêm sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá,” Người lính nói.

Tôi sững sờ nhìn người đàn ông. Thầy Cao Hữu Triêm!

– Trời ơi Thầy!

Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi:

– Con là học trò cũ của thầy đây.

Một ánh mắt lạc lỏng xa vời:

– Ờ, ờ sao con khỏe không? Thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.

Lính tôi kiếm cơm trắng và một đĩa gà luộc về mời thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời thầy. Sau một hồi thầy tỉnh táo, và cho biết: cô và sắp nhỏ vào Ðà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi, thầy không muốn về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo. Tôi nói:

– Thôi thầy ở đây với con cho yên.

Lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vô Ðà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của thầy. Cầu mong thầy được bằng an.

Ðược sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành một cơn sóng thần cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Ðài tượng trưng cho Huế. Hai mươi năm sau, hồi tưởng lại, máu và xương kia đã theo dòng Hương Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ!

Lạy trời, một ngày nào đó, cũng Cố Ðô đó, cũng Kỳ Ðài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm người.

KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN

Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben Het, Dakto
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu D
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ nền vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tramthaiha »

Image

Lâm Quang Thi, Người Con Xưa Đã Trở Về Trường Mẹ

Bùi Phạm Thành

(Đặc San Lâm Viên)
Từ hơn một năm qua, trong mùa đại dịch Vũ Hán, hầu hết dân chúng trên nước Mỹ, và cả thế giới, đều giữ liên lạc và thông tin qua các hệ thống mạng xã hội. Sinh hoạt của các Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (CSVSQ/TVBQGVN) ở hải ngoại cũng chung một hoàn cảnh.

Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN) được thành lập từ năm 1948, và ngưng hoạt động sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, với tổng số 31 khóa chính và 2 khóa phụ. Trong khoảng thời gian đó, Trường đã đào tạo được khoảng 6 ngàn sĩ quan hiện dịch cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QL/VNCH).

Có thể nói rằng trong những trận chiến lẫy lừng, chiến công hiển hách của QL/VNCH đều có sự tham dự của những sĩ quan xuất thân từ TVBQGVN (Võ Bị). Sự hy sinh anh dũng của họ đã được ghi nhớ trong quân sử và được ca ngợi trong văn, thơ và âm nhạc.

Trên chiến trường, các sĩ quan xuất thân TVBQGVN đã được biết đến là những người "Sống hùng, sống mạnh, nhưng không hứa là sẽ sống lâu." Bởi vì họ là những người "Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao."

Đành rằng là như thế, nhưng sáng ngày 19 tháng 1 năm 2021, đọc tin Niên Trưởng Lâm Quang Thi qua đời, sau 14 ngày chống cự với con virus Vũ Hán, thì không khỏi bàng hoàng, xúc động. Cho dù biết rằng với số tuổi gần 90 của ông thì "ngày trở về Đài Tử Sĩ ở Vũ đình trường Lê Lợi", nơi hội họp sau cùng để điểm danh CSVSQ/TVBQGVN, cũng không còn bao xa.

Cá nhân chúng tôi trong bốn năm thụ huấn tại TVBQGVN thì ông là Chỉ Huy Trưởng, và ông là người có công chuyển sự huấn luyện quân sự trở thành Liên Quân Chủng (Hải-Lục-Không quân) và, sau đó, được cấp thêm bằng "Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng", được chứng nhận bởi bộ Quốc gia Giáo dục.

Ra hải ngoại, Niên Trưởng Lâm Quang Thi vẫn luôn nhắc nhở chúng tôi bằng câu nói của tướng De Gaulle của Pháp "Nous avons peut-être perdu la bataille, mais pas la guerre - Chúng ta có thể đã thua một trận chiến, nhưng không phải là một cuộc chiến", với hy vọng là một ngày nào đó sẽ khôi phục lại nền cộng hòa, dân chủ trên quê hương Việt Nam.

Sau 1975, khi định cư ở Hoa Kỳ, ông đã đậu thêm bằng Cử nhân Xã hội học (Viện Đại học University of San Francisco) và bằng Cao học Quản trị Kinh doanh (Master Degree of Business Administration, Viện Đại học Golden Gate University, San Francisco).

Ông cũng đã xuất bản ba quyển sách, bằng tiếng Anh, về chiến tranh Việt Nam:
Autopsy - Khám nghiệm cái chết của miền Nam Việt Nam.
The Twenty-Five Year Century - Ký ức của một vị tướng lãnh miền Nam Việt Nam về chiến tranh Đông Dương sau khi Sài Gòn thất thủ. (University of North Texas Press, 2001, ISBN 1-57441-143-8)
Hell in An Loc - Trận chiến đã cứu miền Nam Việt Nam thoát khỏi sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt năm 1972. (University of North Texas Press, 2011, ISBN 1-57441-313-9)
Có lẽ Niên Trưởng Lâm Quang Thi là vị tướng lãnh duy nhất của QL/VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút và ngôn ngữ bản xứ (tiếng Anh) để bảo vệ danh dự cho Việt Nam Cộng Hòa và QL/VNCH với các tác phẩm nói trên và các bài viết trên các trang báo tiếng Anh. (1)

Ông cũng là người có công thúc đẩy việc hoàn tất quyển "Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam - Theo Dòng Lịch Sử". Ông đã mở đầu bài giới thiệu bằng một câu có thể xem là danh ngôn của một tướng lãnh để hậu thế noi gương

Lịch sử của một quốc gia gắn liền với lịch sử của quân đội, vì sự hưng vong của quốc gia tuỳ thuộc vào sức mạnh và khả năng chiến đấu của quân đội quốc gia đó .

The history of a country is tied to the history of the army, because the survival of a nation depends on the strength and fighting ability of that nation's army.

Quyển "Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam - Theo Dòng Lịch Sử" là một chứng tích của sức mạnh và khả năng chiến đấu của hơn 6 ngàn sĩ quan tốt nghiệp TVBQGVN. Trong đó có Trung tướng Lâm Quang Thi là một CSVSQ khóa 3, và cũng là cựu Chỉ Huy Trưởng TVBQGVN trong khoảng thời gian 1968-1972.

Sau khi được đọc quyển sách này, tác giả Trần Trung Đạo đã viết:

"Tôi được tặng sách khá nhiều nhưng chưa hề thấy một công trình tập thể phong phú và đầy đủ như thế. Tôi gọi tác phẩm là kỷ vật lịch sử của các bậc cha chú để lại cho các thế hệ Việt Nam tương lai. Chứa đựng trong trên 800 trang khổ lớn bìa dày là một lịch sử dài của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam với rất nhiều bài viết, nhiều hình ảnh màu, nhiều câu chuyện bi hùng.

Bài đầu tiên của tác phẩm 'Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam - Theo Dòng Lịch Sử' là lời nói đầu của Trung Tướng Lâm Quang Thi, cựu chỉ huy trưởng của trường từ 1968 đến 1972."

Ở đây, chúng tôi cũng xin nêu lên một vài đặc điểm của những người xuất thân từ TVBQGVN:

Trong sinh hoạt hàng ngày, trên chiến trường cho đến ngày nay, chúng tôi vẫn gọi người khóa đàn anh là Niên Trưởng, và gọi khóa sau là Anh, bất kể cấp bậc.

Xin kể vài mẩu chuyện vui về cách xưng hô của các CSVSQ/TVBQGVN:

Chúng tôi gọi TVBQGVN là Trường Mẹ và khóa đàn anh là Niên Trưởng, với ngụ ý rằng chúng tôi là anh em, con cùng một Mẹ.

Niên Trưởng Trương Quang Ân (cố Thiếu Tướng, CSVSQ khóa 7 TVBQGVN) đã từng nói với khóa đàn em "Các anh có thể có học vấn hơn tôi, cấp bậc và chức vụ hơn tôi. Thế nhưng các anh không thể qua mặt tôi ở địa vị Niên Trưởng. Đó là truyền thống của TVBQGVN, các anh hãy nhớ điều đó."

Một người bạn cùng khóa của chúng tôi về Biệt Động Quân, anh ta luôn gọi vị Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT) với cấp bậc Thiếu Tá, cho dù vị TĐT này là một đàn anh Võ Bị. Sau một tháng, vị TĐT gọi anh ta lên và hỏi "Anh về đây với tôi đã được một tháng, anh có điều không vừa ý thì hãy nói thẳng cho tôi biết."

Anh bạn tôi quá ngạc nhiên, trả lời "Thiếu Tá đối với tôi quá tốt. Tôi thực tình không có gì để phàn nàn cả."

Vị TĐT nói "Thế thì tại sao anh không gọi tôi là Niên Trưởng cho dù biết tôi cũng là Võ Bị?" Anh bạn tôi bèn tự giác làm 10 cái hít đất để nhận lỗi.
Một chuyện khó quên là vào một Đại Hội Võ Bị toàn cầu, trong khi chúng tôi đang vây quanh bàn của Niên Trưởng Lâm Quang Thi và các Đại Niên Trưởng để "cụng ly" thì phu nhân của Niên Trưởng Thi lên tiếng "Các anh này lạ thật. Các anh gọi các ông nhà tôi là Niên Trưởng mà gọi chúng tôi là 'bác' thì nghĩa là làm sao?" Thế là chúng tôi vội vàng xin lỗi để gọi bằng chị, cho dù về tuổi tác thì quý chị đều đáng tuổi mẹ của chúng tôi !!!

Như thế, đối với các CSVSQ/TVBQGVN thì hai chữ Niên Trưởng có giá trị gấp ngàn lần chức vụ hay cấp bậc.

Trở lại với sự ra đi, hay "trở về Trường Mẹ", của Niên Trưởng Lâm Quang Thi, thì chúng tôi rất tiếc rằng Niên Trưởng không có dịp tham dự Đại Hội Võ Bị kỳ thứ 22, bị dời lại vì con virus Vũ Hán, và nghe bài hát "Hướng Về Trường Mẹ" mà chúng tôi hân hạnh viết để chào mừng Đại Hội (2).

Để tưởng nhớ và thương tiếc Niên Trưởng Lâm Quang Thi, chúng tôi xin mượn bài thơ "Chí Làm Trai" của cụ Nguyễn Công Trứ để thay lời tạ từ trong lần cuối, nghiêm chỉnh chào kính, tiễn đưa Niên Trưởng trong ngày hết nợ tang bồng để trở về Trường Mẹ:

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay giả, giả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã hẳn rằng ai nhục với ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan dời núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo.
Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu.


Bùi Phạm Thành
(Đặc San Lâm Viên)
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by nguyenvsau »

Đôi Mắt Phượng

Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)


Tôi lập gia đình năm 22 tuổi, ngày còn là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp! Thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Định, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”

Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ. Một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.

Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng. Tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.

Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi. Sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Đôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ. Tôi không thích hai chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng.

Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy. Sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng vì Phượng, vì một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi đã mọc sừng.

Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nhìn mọi người một cách thản nhiên như người ta nhìn những vật vô tri quanh mình.

Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình. Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó, ông Thợ Tạo, mới đúng là người tôi oán trách.

Đi đôi với cặp mắt tình tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy, dù chỉ có đồng rưỡi, cũng đủ ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đã có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.

Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ “hình dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không còn can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để tìm hiểu xem vợ tôi có nằm trong vòng tay nó không. Hai giòng chữ nó viết không cho phép tôi hiểu khác được.

Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực. Tôi quan niệm đã không tránh được bão cát thì thà vùi đầu xuống cát để không còn biết tới giông bão bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể, nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.

Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi. Tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.

Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Điều đó cần được giải thích rõ hơn. Đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.

Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản chất đa cảm, đa tình của chính mình. Không phải là một người đàn bà trắc nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngã.

Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, là để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”

Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ trình diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy trình diện với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Đó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.

Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của miền Nam vẫn còn là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế vì những lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đã bị những mũi dùi tấn công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhã nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không một hình thức hành hạ giam cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.

Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Điều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.

Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm. Chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”

Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”

Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Đừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã. Sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”

Trước mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “Không có gì quý bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”

Đề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.

Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi. Tôi bị giam 2 tháng hơn thì một buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.

Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình thức trừng phạt vì trọng tội trí thức.

Lên đến văn phòng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó.

Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đình.”

Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa. Những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình.

Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhưng mịn màng, làm lòng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”

Bé Mai! Đứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.

Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng, rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”

Đêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó..

Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.

Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.”

Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra. Quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong lòng người chồng..

Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má. Sống ở thành phố, không có sinh kế gì hết.”

Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon. Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.

“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được ưu đãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”

Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động. Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phần thật nhỏ nào cái sinh lực còn le lói trong xác người.

Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích.. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng. Tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ, tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.

Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động. Về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.”

Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.

Bốn giờ chiều, Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.

Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy. Suốt một năm trời, tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”. Tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.

Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xóm gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà còn như vậy dó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”

Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt, “Lang băm tư bản.”

Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.

Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít. Đa số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí tình, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.

Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xã hội. Mỗi ngày, vài lần, những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”

Phần tôi, tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống... Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Đôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.

Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam. Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.

Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam. Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi về việc làm của nàng. Cả hai chúng tôi cúi đầu, chịu phép trước guồng máy xã hội mới.

Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.

Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một tình trạng ngượng ngập khó tả. Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.

Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.

Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Mình ăn với em.”

Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.

Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi. Ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Đằng.”

“Đón tầu? Để đi đâu?”

Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”

Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.

“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy phong trần.

Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.”

Tôi ôm Phượng vào lòng. Giữa một xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.

Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả. Tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhã của vợ.

Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho mình, nhưng em với con vẫn đi theo mình.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa, đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Đằng. Đàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Đồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.

“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó. Không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?”

Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.

Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi,

“Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”

“Anh tin. Anh yêu mình.”
“Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.”

Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, còn chưa đủ nữa hay sao.
Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn mình buồn.”

Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.

“Em có con?” tôi hỏi.

Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Mình tha cho em.”

Đứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.

“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”
“Nếu mình đồng ý.”

Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử thần.

Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng Vinh, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.

Mọi việc xuôi lọt và tương đối dễ dàng. 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn. Nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đã có mặt. Nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết.

Phượng bảo tôi, “Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.”

Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Đồng Chanh. Bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.

Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉ còn là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Đến lúc này các “giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.

Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4. Bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.

Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con.

Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”

“Em thương mình,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.”

Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.

Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói,

“Cho tôi xin thêm chút cơm.”

Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ng a dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.

“ĐM quân ăn cướp. Đã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.”

Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo. Tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì. Tôi an ủi vợ, “Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.”

Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.

Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam, điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam. Tôi góp ý với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam. Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết gì mà nói.”

Đến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa. Tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.

Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề gì?”

Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai,

“Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”

Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Đường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn thêm được một miếng thịt.

Được dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn.. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.

Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.

Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức. Nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm và ho.

Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu. Đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.

Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.

Đến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái o khác ra căng lều. Lần này tôi có ý cột kỹ tay áo vào thành tầu. Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.

“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn Trời Phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”

Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống! Chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”

Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mã Lai.”

“Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”

Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được truyền sang tâm hồn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tầu, rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa mãn bằng tôi.

Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “Hình như hòn đảo nhỏ quá.”

“Vâng,” tôi lơ đãng đáp.
“Không chắc đã có người trên đảo.”
“Vâng..”

Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu.

Đa số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.

“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.”
“Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”

Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần. Mới chạy được nửa vòng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ. Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.

Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nho^'n nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.

Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng. Những người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.

Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi. Họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam.

Đó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.

Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.

“Đau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.

Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.”

Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.

Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”

Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Đồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.

Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nhì để dành..

“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.

Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh. Tôi lo lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con.. Cả em nữa.”

Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nữa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.

Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên.. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.

Đêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Đó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lý do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc. Lý do thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.

Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc thì nhìn thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ còn thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đã bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.

Tôi rùng mình. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đã chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.

Thượng Đế ơi, người đã sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại còn bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm gì? Để chứng minh là con người cũng không hơn gì loài cầm, loài thú ư?

Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm. Nhìn tôi, Phượng bảo, “Mình đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay mình.”

“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.

Vợ tôi nhìn tôi lo sợ. Có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không bình thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta đánh nhau chỉ vì những chuyện không đâu. Tình trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, “Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”

Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nhìn thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn. Thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”

Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói..

Chúng tôi đã đói khát gần 1 tuần lễ. Quanh bờ biển không còn một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, thì chỉ vài phút sau đã có người đến đập lần thứ nhì, hy vọng vớt vát một chút gì còn xót lại.

Đến tuần thứ nhì không ai còn dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đã ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Để thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.

Nhìn những con cá hung hãn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.

Mượn cái đầu của một bà lão vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá mập. Thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút. Theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.

Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ nhì đã lại trườn vào bẫy trước tiếng reo hò mừng vui của hơn 100 con người đói khổ.

Thịt cá mập béo ngậy và tanh rình, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.

Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không còn một thứ gì có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có võ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.

Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Mình có còn tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt thì cặp mắt đó đã nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ còn là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.

Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối cùng.

Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của tình phụ tử ủ ấp.Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da. Khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không mình?”

Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đã chết chưa, nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đã thiếp đi trong mòn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật. Sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lý nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đòi hỏi bình thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái Bình Dương, tôi ngủ ngon lành.

Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức. Mở mắt dậy trong ánh nắng chói lòa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không còn nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.
Những người chung quanh nhìn tôi. Cặp mắt họ không thiện ca?m, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đã quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút gì nữa cả.

Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi tìm con?”

Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.

“Họ đã xẻ thịt bé Mai?”

Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc. Tôi lặng đi, tê tái.

Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ, thương đau toàn diện, chúng tôi không còn khả năng khóc than.

Sáng hôm sau, sau một vòng đi tìm thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và tình cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh còn tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên vì từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa bò từ khi mới lọt lòng.

Phượng bối rối nhìn tôi, trong lúc tôi nhìn bé Vinh: môi đứa bé đỏ lòm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt còn mới trên đầu vú. Tôi tìm thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.

Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách gì Phượng. Điều độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc tìm kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát thì đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không còn tìm ra bất cứ một thứ gì, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.

Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi tìm được một con cua khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.

Suốt tuần sau, tôi chỉ tìm được vài con ốc. Nhìn những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.

Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng sung. Tiếp theo là tiếng reo hò. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nhìn theo hướng nhìn của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.

Tim tôi ngừng đập. Cuối cùng trời vẫn còn có mắt. Chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn còn Phượng, còn người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy tình yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với cặp mắt đa tình của Phượng.

Trong tiếng reo hò của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có còn tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’. Bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.”

Nhưng tôi đã lầm. Đối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đã vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.

Con tầu tôi đang nhìn theo là một ngư thuyền của Đài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.

Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đòi một số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đòi hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự thính.

Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng.

Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo,

“Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”

Thì ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu. Một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe.

Yếu đuối, tôi ngã mấy lần. Phượng mở mắt nhìn tôi, cặp mắt tình tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đã mất thần.

Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không còn nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đã mất hết nước hydrate. Giải pháp độc nhất còn lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm gì có thứ đó trên một ngư thuyền.

Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo hình thức thủy táng.


TÔI DỨT CÂU CHUYỆN vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ con cho con nghe. Ba đã thực hiện lời ba hứa.”

Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba đau khổ nhiều quá!”. Lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”

Tôi vuốt tóc nó,

“Ba thương con.”

“Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi.

Năm đó nó 26, vừa ra trường thuốc Austin, và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hermann, Houston, nơi tôi làm việc.

“Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.

“Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Đan Quế tranh đấu giải thể chế độ cộng sản dã man đã giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ suốt cuộc đời.”

“Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội,” tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, vì có một đối tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.”

Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần Quang trở lại trường đại học. Môn học mới của nó là điện ảnh.

Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đã vẽ xong từ năm ngoái bức tranh quảng cáo cuồn phim đầu tay: ĐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn Phượng Vinh.

Nó đóng vai trung úy quân y của Sư Đoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.


Nguyễn Đạt Thịnh
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image
Từ trái sang: Bùi Quyền thời đi học, khi là sĩ quan Nhảy Dù,và khi tới Hoa Kỳ

BÙI QUYỀN VÀ TÔI

Sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Tá Bùi Quyền gọi điện thoại cho người chị: "Chị mang mấy viên thuốc cho em”. Nước mất thì nhà tan, Ông đã có ý định tự vẫn ...

Kính mời quý vị và quý bạn đọc về cuộc đời của Trung Tá Bùi Quyền, Thủ Khoa Khóa 16 TVBQGVN, qua bài viết của người chị.

***
Chúng tôi chỉ là hai chị em họ: Mẹ của Bùi Quyền là em ruột của bố tôi, tuy vậy chúng tôi thân thiết từ thời thơ ấu, có lẽ gần gũi nhau còn hơn chị em ruột. Tôi mồ côi mẹ lúc mới 5 tuổi lại có bà mẹ kế rất nghiêm nên hay tìm đến tình thương của cô. Cô tôi lại chỉ có một mình Quyền nên rất thương chúng tôi. Nhà ở gần nên chạy qua chạy lại chơi đùa rất vui

Sau khi di cư vào miền Nam bà cô tôi qua đời và Quyền cũng có dì ghẻ giống như tôi. Chỉ khác là bà dì ghẻ này đã có trước khi cô tôi mất. Bà có sinh một cậu con trai. Quyền không có chị em gái nên tôi được coi như một nơi an ủi cho Quyền trong tình cảnh “mấy đời bánh đúc có xương” này. Tôi có người em trai tên Tòng là trung úy trong quân đội Việt Pháp. Mỗi lần nghỉ phép em tôi và Quyền thường đi chơi với nhau. Người em trai tôi sau đó tử trận khi mới 22 tuổi.

Sau này Quyền kể lại với tôi là có lần hai anh em đang đi chơi thấy anh dừng lại trước mặt một tên lính Tây, tên lính đập gót giầy, chào rất nghiêm chỉnh nhưng ông anh đã đứng lại, tiến thẳng đến sửa cái cổ áo làm anh lính sợ tái mặt. Quyền rất thích ông anh tay cầm cái gậy chỉ huy, mặt lầm lỳ ít nói. Không biết bao nhiêu điều đó có làm ảnh hưởng đến quyết định của Quyền để đi vào con đường binh nghiệp sau này không.

Quyền và Tòng là hai thế hệ, cách điều binh khiển tướng có khác nhau, cách cư xử có khác nhau, em trai tôi là một sĩ quan người Việt có thể phải nghiêm khắc với những người lính Pháp để giữ kỷ luật quân đội, còn Quyền lúc xông pha trận mạc, chỉ huy mặt trận ra sao tôi không được biết nhưng những lần về phép cũng như khi tôi đến nhà Quyền, gặp những quân nhân rất thân thiện, rất thương quý Quyền đúng với với tình nghĩa huynh đệ chi binh.

Hai anh em họ lại có gương mặt rất giống nhau đến nỗi có một vài người bạn đến nhà thăm Quyền ở San Jose khi nhìn lên bàn thờ phải giật mình khi thấy một ông trong bộ quân phục giống hệt người đang đứng ngoài. Có lẽ điều này đă cho tôi nghĩ rằng khi mất một người em ruột, tôi lại có một người em mà cơ duyên khiến tôi được săn sóc, lo lắng trong suốt cuộc đời, những điều mà tôi chưa làm được cho người em trai vắn số của tôi. Sau khi tốt nghiệp, Quyền đi chiến trận liên miên nhưng những lần về phép đều đến nhà tôi nghỉ ngơi và hầu mạt chựơc 2 ông anh rểng anh rể, ông xã tôi và ông chồng của bà chị tôi đều mê thứ tiêu khiển này.

Binh nghiệp của Quyền cũng được đánh dấu bằng 2 chiến thương ngoài mặt trận: 1 lần viên đạn xuyên qua nón sắt nhưng chỉ hớt mất một miếng tai, máu chẩy nhiều nhưng trận chiến đang khốc liệt nên vết thương đã được khâu ngay tại chỗ và Quyền được gắn chiến thương bội tinh ngay tại mặt trận lần đó. Lần sau thì 1 viên đạn xuyên qua đầu gối, vết thương này làm chân không cử động được lại sợ bị nhiễm độc nên Quyền được chuyển về điều trị tại Quân Y Viện Đỗ Vinh.

Thời gian sau đó, Ông Bùi Nam thân phụ của Quyền bị ung thư phổi. Khi biết bệnh đến thời kỳ nặng, cụ muốn Quyền lập gia đình để cụ yên chí có cháu đích tôn trước khi nhắm mắt. Quyền là một người con rất có hiếu nên đã vâng lời. Quyền nói tôi đi với cụ bà Trần Trọng Kim, chị ruột của ông Bùi Nam tức là bác ruột của Quyền, để xin hỏi Quế Mai mà bà nội là bạn thân của cụ. Quả đất tròn, Quế Mai lại là bạn học với con gái tôi tại trường Trưng Vương. Sau đó, cụ Trần Trọng Kim cũng nhờ tôi đứng ra lo liệu đám hỏi và đám cưới cho Quyền. Điều này đã làm mất lòng bà dì ghẻ không ít nhưng có lẽ Quyền muốn tôi thay mặt cô tôi để lo những việc trọng đại này.

Sau đám cưới, Quyền lại trở về quân ngũ, hành quân liên miên, tôi phải nhiều lần lau nước mắt cho người vợ trẻ khi tình hình chiến sự ngày càng khốc liệt. Tôi thường dỗ dành cô em dâu: “em đừng khóc lóc quá, người ta thường nói thần giao cách cảm, nếu ở ngoài mặt trận Quyền cảm nhận được những buồn rầu lo lắng của em, rồi trong 1 giây bất cẩn, hòn tên mũi đạn có tránh ai đâu”.

Nhưng Quyền đã thoát nạn cả trong những trận đánh lớn để một ngày gần cuối tháng tư, đến nhà tôi, mặt rất buồn rầu nói: “em phải tạm gửi vợ con em ra Phú Quốc để em yên tâm ở lại chiến đấu đến cùng, em cũng không biết có gặp lại nhau không nhưng ít ra còn đỡ nguy hiểm hơn là ở lại khi em vắng nhà. Em phải vào Tổng Tham mưu để họp, cố giữ được đô thành cho cuộc thuơng thuyết của Tướng D.V. M. được thuận lợi. Em chỉ xin anh sắp sẵn cho em mấy viên Cyanure để có chuyện gì em sẽ tự xử mà không để bị chúng làm nhục”, (nhà tôi là Dược Sĩ nên ở Viện Bào Chế có sẵn cyanure). Nghe câu này chúng tôi cùng choáng váng chỉ ừ hữ cho xong lúc đó.

Nhưng cơ trời vận nước đã không giúp em tôi được toại nguyện vì sáng 30 tháng 4 tướng Minh đã ra lệnh buông súng. Quyền trở về nhà tôi, trút bỏ quân phục, mặc thường phục và nói: “em cố xuống vùng 4 xem còn hy vọng gì”. Chúng tôi nhìn em đi mà rất lo lắng vì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra sau đó.

Sáng 1 tháng 5, điện thoại reo. Tôi điếng người khi nghe con tôi nói: “mẹ có điện thoại của cậu.” Tôi cầm máy để nghe Quyền nói: “ Em về đây rồi, em không muốn ghé chị vì sợ họ nhận ra em. Chị mang mấy viên thuốc cho em”.

Tôi lặng người nghĩ: đã thật đến lúc này rồi sao ? Cố giữ bình tĩnh, tôi lái xe lên Trần Quang Khải. Nhìn thấy em bơ phờ mệt mỏi, hai mắt đỏ ngầu mà lòng tôi tan nát. Quyền hỏi tôi: “chị có mang thuốc cho em không?” Tất nhiên tôi không mang nhưng tôi nói: “thuốc trong túi chị nhưng em nghĩ kỹ đi, em uống thì em sẽ ra đi, nhẹ nhàng cho em nhưng còn vợ con em đang chờ, nếu em sống thì còn có ngày đoàn tụ.” Nghe tôi nói, Quyền khóc và chỉ ra ngoài cửa sổ: “chị nhìn kìa, lính em đang cởi trần đi lang thang thế kia, em sống làm gì?”

Nhìn người chỉ huy xông pha trận mạc, không chùn bước trước gian nguy, giờ đây ngồi khóc sụt sùi khi nhìn thấy chiến binh thất trận đang ngơ ngác không biết đi về đâu, tôi rất đau lòng nhưng cũng yên tâm vì em không còn đòi thuốc nữa. Tôi biết khi nhắc đến vợ con, Quyền đã tỉnh trí lại và không nghĩ đến tìm cái chết vì còn hy vọng ngày nào được gặp lại.

Trong mấy tháng đầu, chưa tổ chức được chỗ tập trung và muốn tránh những chống đối có thể xẩy ra, Cộng Sản đã thả lỏng, không đả động hay giam cầm bắt bớ những người của chế độ cũ. Tất cả dân chúng đều bị lừa và yên lòng sống bình thường cho đến đầu tháng 6 mới có thông cáo tập trung để Học Tập. Các Hạ sĩ quan và nhân viên cấp nhỏ chỉ phải đi học 10 ngày. Sĩ quan và nhân viên cao cấp trong chính quyền cũ được báo chuẩn bị lương thực và áo quần mùng mền để đi tập trung học tập trong một tháng.

Mọi người đều thở dài nhẹ nhõm, bảo nhau đi cho xong nợ rồi về lo kiếm sống. Tất cả đã bị lừa vì sau 1 tháng không ai được về mà thân nhân còn không biết người nhà của mình hiện bị giam giữ ở đâu. Sau một thời gian khá dài lo sợ, hoang mang tìm kiếm thì người nhà nhận được miếng giấy nhỏ cho phép gửi đồ tiếp tế đến 1 mật số không ai biết địa điểm ở đâu. Lần đầu chỉ được gửi một gói 2 Kilogrammes đồ ăn khô. Dần dần quy hạn định 2 tháng 1 lần được gửi 1 gói 2kilo. Rồi lại bẵng một thời gian dài không tin tức chính thức mà chỉ có tin đồn là một số người bị đưa ra miền Bắc.

Tin đó đã thành sự thực khi chúng tôi nhận được những lá thư ngắn gửi về nói là người thân đã được đưa ra học tập ngoài miền Bắc, tất cả đều được đối xử tử tế và nhà nước khoan hồng cho mỗi gia đình được tiếp tế 5 kilo mỗi 3 tháng. Sau đó, cuối năm 78 lại có đợt khoan hồng thứ 2: gia đình dược phép đi thăm và mang quà ra tận những trại tù miền Bắc. Tuy hoàn cảnh rất khó khăn vì những lượt đổi tiền và kiểm kê tài sản, các gia dình đều cố vơ vét những gì còn lại để đi ra tận miền Bắc xa xôi mang đồ tiếp tế cho mạng sống của những người thân yêu.

Chạy được miếng giấy di chuyển cũng không dễ gì. Sau những cố gắng chạy chọt các cửa Công an từ Công An tổ dân phố đến Công An Quận và Thành, con gái tôi cũng lên được tầu (xe lửa ) Thống Nhất để đi thăm chồng ở Thanh Hóa và thăm cậu (Quyền) ở Vĩnh Phúc Yên.

Chúng tôi ở nhà chờ trong hồi hộp lo âu, 1 tháng sau, con gái tôi mới trở về, khi xe lửa đến ga Bình Triệu, con gái tôi ở trên toa tầu bước xuống khóc òa “con không được gặp cậu”. Trong tiếng khóc, con tôi kể lại đã phải mang về những gói quà thấm nước khi lội suối vì cậu đang bị phạt không được thăm nuôi. Sau chuyến đó con tôi mang 2 con nhỏ đi vượt biên vì người bố trong chốn lao tù đã kín đáo khuyên vợ hãy ra đi vì tương lai các con.

Ở lại, tôi gánh vác việc thăm nuôi, lại chạy chọt giấy phép, thu góp 2 phần quà và đi ra Hà Nội mua sắm thêm 1 số đồ ăn tươi, đáp tầu ngược lại Thanh Hóa, xong vụ thứ nhất, nghỉ lại Hà Nội mua sắm thêm rồi đáp tầu lên Phú Thọ thăm Quyền. Chuyến đi đó, tôi nhớ lại, không có gì đặc biệt ngoài những thăm hỏi tin tức mà Quyền rất chú tâm là: “chị có nghe tin nhà em và các cháu ở đâu? họ ra sao bây giờ?” Tôi cũng đáp lại cho em yên lòng là mọi người đều bình yên tuy lúc đó liên lạc giữa trong và ngoài nước rất khó khăn, tôi chưa nghe tin gì về những người đã đi thoát.

Về lại trong Nam tôi nhận được thư Quyền nói là được chuyển qua đội rau xanh và dặn tôi trong đợt gửi quà lần tới nhớ cho thật nhiều xà bông. Tôi mừng là qua đội rau xanh chắc công việc nhẹ nhàng hơn, đỡ vất vả. Sau này mới biết đó là 1 hình phạt quái ác nhất mà họ dùng để dằn mặt Quyền về tội cứng đầu với họ. Tôi xin miễn tả ra đây để tránh cho mọi người hình dung cái trò dơ bẩn này, Quyền không bao giờ kể lể những nhọc nhằn phải gánh chịu nhưng có lần tôi hỏi về việc xin thật nhiều xà bông mới cho tôi biết cái công việc nặng mùi đó rất cần nhiều xà bông tẩy rửa, tôi nghe mà ngậm ngùi thương cảm.

Lần sau cùng, khi có giấy báo ngày đi Bỉ để đoàn tụ với con trai, tôi ra thăm để báo cho Quyền biết tôi sắp rời VN. Vì là lần sau cùng nên tôi mang rất nhiều đồ tiếp tế: mấy chục gói mì, 10kg gạo, sữa, đường, bánh mì khô, cơm nắm muối vừng và một ít đồ ăn tươi. Di chuyển bao nhiêu thức ăn đó vào trong trại tù trước con mắt không chút thiện cảm của những người công an cán bộ không dễ gì nhưng chế độ lót tay đã giúp tôi mang được vào đến nơi.

Tôi lạnh người khi người cán bộ quản giáo nói: “chị mang về đi, anh Quyền hiện bị phạt, không được nhận tiếp tế kỳ này”. Nước mắt lưng tròng, tôi liếc nhìn người cháu đi cùng để cầu cứu (Người cháu này là một thầy giáo dậy học ở Hà Nội vẫn đi theo giúp đỡ tôi mỗi khi tôi đi thăm nuôi như vậy). Biết là tình hình nghiêm trọng, người cháu tôi rút trong túi bao thuốc lá thơm, quàng vai thân mật rủ anh quản giáo ra ngoài hút thuốc. Một lúc sau, đối với tôi dài hơn một thế kỷ, Quyền đi ra, quần áo rách tả tơi, chân đi đất dưới cái lạnh cắt da của miền Bắc.

May quá tôi đã nhờ người Hà Nội mua hộ 1 chiếc áo bông mang vào, vội khoác lên cho em đỡ lạnh. Sau này Quyền kể lại đã tặng tấm áo ấy cho một người bạn tù vì “anh ta ốm yếu quá, em khỏe hơn”. Hôm đó nhờ bao thuốc lá thơm của miền Nam, hai chị em tôi được ngồi nói chuyện khá lâu. Quyền như quên cả đói rét đang hành hạ tấm thân tù đầy mà chỉ ân cần căn dặn tôi phải “tìm gặp nhà em và các cháu, xem cuộc sống ra sao và cho em tin tức”. Lúc đó, đau lòng quá, tôi thoáng có ý nghĩ không biết tôi có làm đúng không khi ngày 1 tháng 5 tôi đã không đưa cho em mấy viên thuốc như em yêu cầu. Nhiều năm sau này tôi biết tôi đã làm đúng.

Sang tới Mỹ, liên lạc được với Quế Mai, tôi tạm yên lòng vì ba mẹ con đã ổn định, các cháu khôn lớn, ngoan ngoãn và học rất giỏi. Tôi viết thư nhờ người cháu đi tiếp tế mang vào cho Quyền. Người cháu cho biết khi vào đến cửa trại giam, gặp Quyền đi lao động về, thấy cháu, Quyền nói to như quát: “cháu đi ra ngoài mua cho cậu mấy bao khoai lang, cậu đói lắm đói lắm”. Cách biểu lộ tức giận này sau cũng được trả thù bằng cách biệt giam và bỏ đói .

Tin này làm tôi ăn ngủ không yên tuy tôi vẫn đều đều gửi tiền về nhờ người cháu này đi thăm nuôi cho đến ngày Quyền được chuyển vào miền Nam rồi được thả.

Một ngày đẹp trời tôi nhận được điện thoại. Đầu dây kia một người xưng là Đại Tá Masuoka, sĩ quan liên lạc của trường Không quân. Ông nói ông có 2 sinh viên Sĩ Quan Không quân, rất được để ý vì học rất xuất sắc. Khi nghe nói có bố là tù nhân của chế độ cộng sản, ông muốn liên lạc với người bố này để giúp đỡ và hai cháu đã cho số điện thoại của tôi. Ông nói rằng ông có thể đón Quyền sang Mỹ thật nhanh.

Tôi báo tin ngay cho Quyền và cho biết Ông Masuoka sẽ về VN gặp tận mặt và phỏng vấn Quyền. Tôi cho địa điểm để Quyền đến gặp ông ở Saigon. Sau lần gặp gỡ này ông Masuoka đã về nhờ mọi thế lực để mang Quyền sang cho kịp ngày lễ mãn khóa của cháu Bùi Quang. Ông đã làm hết sức và mỗi lần đều gửi bản sao giấy tờ cho tôi biết công việc diễn tiến đến đâu. Rồi tin mừng đã đến với tôi: chỉ vài tuần sau ông cho biết sẽ có máy bay riêng đón Quyền sang Thái Lan và ông cam đoan là Quyền sẽ có mặt ngày cháu Quang được gắn lon của trường Không Quân Hoa Kỳ.

Tin mừng sau cùng là ông cho biết ngày giờ chuyến bay hạ cánh ở San Francisco để tôi đi đón. Ông Masuoka rất muốn đưa tôi đi dự lễ ra trường của cháu Quang nhưng vì công việc phải trở lại quận Cam ngày hôm sau nên tôi đành từ chối. Tôi không biết rằng ông đã thu xếp để Tổng Thống G.H.W. BUSH gắn lại cho Quyền những huy chương của Mỹ mà Quyền đã được gắn tại Việt Nam trước 1975. Đối với mọi người, đây là một vinh dự nhưng Quyền lại ít nhắc đến. Riêng tôi thì lại tiếc rằng trong bao thăng trầm của cuộc sống tôi đã chia sẻ với Quyền, tôi lại bỏ lỡ dịp này.

Từ Colorado về, Quyền ở với tôi một thời gian trước khi lên San Jose đi làm, mua nhà và ở cho đến khi về hưu trí. Nhà của Quyền cũng đã là nơi trú ngụ của những chiến hữu và cả những bạn tù của Quyền khi mới đến Mỹ mà chưa ổn định được chỗ ở. Về hưu rồi Quyền cũng còn ở lại một thời gian khá lâu để thu xếp vì xung quanh Quyền là cả một kho sách chữ Nho cũng như chữ Việt. Quyền rất thích nghiên cứu về khoa tử vi và lúc trong tù Quyền đã học nhiều chữ Hán và nói được tiếng Trung Hoa.

Nhưng sức khỏe xuống dần khiến Quyền không còn do dự mà phải quyết định bán nhà và dọn xuống Quận Cam ở. Nhà Quế Mai nhỏ, chật chội cho việc viết lách của Quyền nên thỉnh thoảng Quyền lên chơi ở lâu với tôi vì có chỗ cho Quyền tha hồ bầy biện: chỗ này tài liệu sách vở, chỗ kia Laptop và tự điển. Không biết có phải vì linh tính sắp phải ra đi mà lần sau cùng Quyền ở với tôi khá lâu.

Lần này Quyền hay trầm ngâm nghĩ ngợi, và hầu như suốt ngày vùi đầu vào Laptop, miệt mài viết, có khi quên cả ăn khiến tôi phải luôn giục giã. Bây giờ tôi mới nghĩ ra là lúc đó Quyền đã linh cảm không còn nhiều thời gian mà còn nhiều việc dở dang nên cố gắng hoàn tất. Đầu tháng 12 các cháu lên đón bố về, không biết Quyền có hoàn tất được cuốn sách nào viết dở về những chiến trận xa xưa.

Quyền còn đi thăm tôi được 1, 2 lần. Ngày Mother’s Day 10 tháng 5 còn gọi chúc mừng tôi. Biết em yếu rồi nhưng rồi dịch Covid -19 khiến chúng tôi không còn gặp nhau được nữa. Ngày 24 tháng 5 tôi được nói chuyện lần cuối cùng với Quyền. Quyền nói: “ em yếu lắm chị ơi”. Tôi cũng đành an ủi: “ thôi em đừng nói nhiều nữa mệt, nghỉ cho khỏe, chờ tình hình sáng sủa chị em mình sẽ gặp nhau.” Nhưng tình hình chưa sáng sủa, giới nghiêm còn kéo dài.

Sáng ngày 30 tháng 5 Quế Mai cho hay Quyền trở nặng hơn, đau quá nên phải chích morphine mỗi giờ. Tôi và các con thu xếp đến gặp cậu. Giờ này, dưới tác dụng của morphine Quyền nằm yên nhắm mắt nhưng vẫn thở đều.Tôi nắm tay, bàn tay vẫn còn ấm và mềm, ngón tay vẫn mang chiếc nhẫn của Trường Võ Bị. Tôi nói với em là tôi đến thăm em, mong em nghỉ ngơi cho khỏe rồi sẽ gặp nhau. Tình hình Covid -19 không cho phép tụ tập đông nên khoảng 2 tiếng sau chúng tôi ra về và đến nhà độ gần 1 tiếng sau Quế Mai cho hay Quyền đã ra đi. Trong nỗi nhớ thương vô tận tôi chỉ còn tự an ủi rằng dù sao em cũng đã ra đi nhẹ nhàng, trong ngôi nhà ấm cúng, giữa những người thân yêu.

Ngày tang lễ, các bạn cũ, các chiến hữu đã đến phân ưu với những lời nồng ấm, vô cùng cảm động. Trong điếu tang nói lời từ biệt bố, cháu Bùi Quang thổ lộ rằng trong những năm dài vắng mặt cha, cháu đã buồn giận khi nghĩ rằng bố đã đưa ba mẹ con lên máy bay mà không nghĩ đến tương lai của vợ con nơi đất lạ quê người, nhưng sau này lớn lên, đã hiểu thế nào là bổn phận trách nhiệm thì cháu lại hãnh diện có người bố đã sống đúng chí hướng. Lúc đó tôi muốn nói với cháu rằng viễn tượng còn gặp lại vợ con đã là động lực để bố cháu sống sót sau 13 năm tù đầy, gian khổ và để ngày 1 tháng 5 năm 1975 đã không tự kết liễu đời bằng mấy viên thuốc độc.

Sau cùng một tang lễ quân cách trang nghiêm ngày 10 tháng 6 năm 2020 đã là phần thưởng xứng đáng cho người Chiến Binh mũ đỏ Bùi Quyền.

Vĩnh biệt em.
VŨ XUÂN LAN
Tang lễ Trung Tá Bùi Quyền Thủ Khoa Khóa 16 trường VBQG:
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by caubennoc »

Giọt nước mắt của lính
- dht -
Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:
- Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..
Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:
- Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:
Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh...( Thơ của anh )
*
Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả...
Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái...họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó.. Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhì Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã.... Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.
Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cả bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuôc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.
Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật...tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh dập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.
- Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?
Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời...
Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.
Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.
Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.
Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:
- Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!
Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!
Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:
- Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.
À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:
- Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.
Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm...
1. CHÚT QUÀ GỬI EM
Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.
Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng...
Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.
Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.
Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?
Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.
Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.
Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.
Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.
Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.
Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.
- Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh,

2. GỬI EM CHÚT QUÀ
(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)

mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm....

mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh

mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan.....

Người lính không tên...
*
Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt chan hoà..
Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh...hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi...

3. GIỌT NƯỚC MẮT BIẾT ĐAU

Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.
Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.
Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé,
Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.
Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.
Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân. Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.
Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả...Pleime.
Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.
Trong toán lính còn đóng ở đơn vị cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.
Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thổ lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây....Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.
Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.
Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.
Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.
...
Cuối tháng Tư 75.

Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.
Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa convoy lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.
Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.
Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.
Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.
Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.
Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình!
Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu...Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ...
4 - GIỌT NƯỚC MẮT TRỞ HỒNG LONG LANH
( Tiếp theo giọt nước mắt biết đau )
Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.
Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.
Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.
Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.
Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:

Giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn....

mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu...
Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân .
Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.
Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình....Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.
Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:
- Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.
Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.
Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.
Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.
Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.
Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.
Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.
Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.
Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.
40 năm sau
.......
Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.
Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:
- Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi một câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:
- Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này?
Bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:
- Anh
- Em...
Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.
Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.
Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?
- Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.
Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.
Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.
Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.
Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.
- Sao em lại để dành số tiền này vậy?
- Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.
- Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được
- ???
- Vì em không phải cần đến số tiền đó nên...
Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:
- Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.
Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:
- Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.
Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói :
- Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:
- Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.
- Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm...Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.

đht
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by vuphong »

Image

Tình Đồng Đội, Nghĩa Đồng Môn.
Captovan.LPK 55-62.

Sau nghi thức phủ Quốc Kỳ cho Trần Tú, một đồng đội TQLC, tại nhà quàn Peek Family trên đường Bolsa (Little Saigon CA) anh em chúng tôi ra ngoài sân để “nhớ nhà châm điếu thuốc”, đồng thời nghe anh hội trưởng TQLC Nam CA căn dặn ngày giờ cuốn cờ và tiễn chân đồng đội đến nơi an nghỉ cuối cùng. Khi tôi đang nói chuyện với anh em thì có một vị khách (cũng đến viếng người quá cố) tiến tới chào tôi và hỏi nhỏ:
-Xin lỗi ông, tôi thấy trên nắp túi áo quân phục TQLC của ông mang tên TO CAP, vậy có phải ông là Tô Văn Cấp không?
-Vâng...tôi là Tô Văn Cấp.
Vị khách nắm tay tôi lắc lắc, kéo tôi ra khỏi đám đông, mừng rỡ nói:
-Ê “B.K Cá Rô Cây*”, tao nè, Đỗ Minh Đức, tự “Đức Cống” ở Ba-Lắc-Ký 1955-1962 nè, mày có nhớ không?
Tôi sững sờ nhìn vị khách lạ, nhưng những biệt danh “B.K Cá Rô Cây”, “Đức Cống”, “Ba-Lắc-Ký” (L.Petrus Ký) thì quá quen thuộc, chỉ có trong đám “quỷ ma học trò” chúng tôi mới hiểu mà thôi. Tôi không bao giờ quên chuyện đau khổ ấy, dù đã hơn 60 năm rồi.

Ngày xưa ấy, tôi là chú bé con “Bắc Kỳ Di Cư 54” duy nhất trong lớp Đệ Thất B1 niên khóa 1954-1955 trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, (chúng tôi gọi là “Ba-Lắc-Ký”), tôi bị đám học trò “Nam Kỳ giá sống” bắt nạt gọi tôi là “Bắc Kỳ ăn cá rô cây”, trong đó có tên Đỗ Minh Đức, nó là tên ngỗ nghịch nhất và tự nhận mình là “Đức Cống” (nói lái là đống…).
Nhất định là hắn rồi, tôi xiết chặt tay Đức-người khách lạ, và bóp cho thật đau để trả cái hận xưa. Đã hơn nửa thế kỷ qua rồi, nay bất ngờ đồng môn (cùng trường, cùng lớp) gặp nhau, nhận ra nhau thì bao chuyện nghịch ngợm của tuổi học trò hiện ra khiến những lão già như trẻ lại “mày tao” và ngậm ngùi nhớ các bạn cùng lớp đã hy sinh cho Tổ Quốc Việt Nam, nhắc và nhớ đến quý danh các thầy cô, Thầy Phạm Văn Ba, Thái Chí, Tạ Ký, Thượng Thủ, Hồng Đảnh, Trọng Phỏng, Cô Dung, Cô Sâm, Cô Ngà, Cô Hồng, Cô Thiên Hương đã từng dạy dỗ đám “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò sao cho ra cái giống người”. Tôi hỏi Đức:
-Mày* là “Đức Cống” thật sao? Lớp mình có hơn phân nửa đi Khóa 19 Võ Bị và đã tử trận nhiều rồi, như các Nhẩy Dù Nguyễn Đức Cần, Phạm Thượng Chí, Phạm Khánh Châm, Bộ Binh Lê Đình Điển, Ngô Văn Nô, TQLC Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng, BĐQ Nguyễn Thái Quan v.v.. tao* nghe nói mày* cũng chết cháy theo trực thăng rồi mà. Vậy từ ngày đó đến nay mày* biến đâu mất, lưu lạc phương nào, sao nay lại xuất hiện đến đây để viếng anh TQLC này?
-Tao* tu ở Houston TX lâu rồi, nay bỗng dưng muốn ngao du phương Nam một chuyến cho biết sự tìn. Tao qua CA được hơn tuần, bữa nay đi ngang đây, thấy có đám tang, dường như thần lực nào đẩy tao* vào thắp nhang cho người quá cố này, không ngờ lại gặp mày*, mừng quá...
(*Xin lỗi quý độc giả, mấy lão già mà cứ xưng “mày tao” thì nghe thật chướng tai, nhưng đó là những tiếng xưng hô quá thân tình với nhau để được sống lại thời trẻ. Để quý đọc giả khỏi ngứa tai, những đại danh từ “mày tao” sẽ được thay thế bằng “tôi” trong các đoạn viết dưới đây)

***
Đức kể tiếp:
-Vô tình đi ngang Peek Family, thấy có đám tang và nhiều anh em TQLC, hình như có một thần lực nào đó đẩy tôi vào xin thắp một nén nhang cho người quá cố để nhớ ơn những anh em TQLC đã có lần cứu mạng tôi khi trực thăng tôi bị bắn rơi năm 10/1972 ở Quảng Trị...
Nghe Đức kể vậy tự nhiên tôi rùng mình, khi còn sống, Trần Tú, TQLC mà chúng tôi vừa làm lễ phủ cờ hôm nay, thường hãnh diện kể lại cho chúng tôi nghe về chiến công của anh đã cứu sống một phi công trực thăng bị VC bắn rơi. Trần nói đúng, Trần và tiểu đội của anh gồm 6 TQLC làm tiền đồn đã cứu mạng một pilot trực thăng bị VC bắn rơi bên kia bờ sông Thạch Hãn vào tháng 10/72.
Có thể đây là định mệnh đã đưa đẩy Đức đi ngao du đến Nam CA để gặp và tiễn chân ân nhân là Trần Tú lần cuối cùng chăng?.
Tình đồng đội ngoài chiến trường giữa Không Quân và TQLC cứu nhau khi sống và khi chết lại vô tình đưa đẩy tiễn nhau quả là một chuyện không bình thường. Tôi hỏi Đức kể về vụ rớt trực thăng và được cứu sống như thế nào xem có giống như chuyện Trần Tú thường nhắc không, Đức miên man đi vào dĩ vãng:
***.

Hồi Ký Của Pilot Đỗ Minh Đức:

-Ngày 7/10/1972, Phi Đoàn 233 Thiên Ưng, Không Đoàn 51 Chiến Thuật, biệt phái 6 chiếc trực thăng cho Sư Đoàn TQLC, đóng tại quận Hương Điền, Huế, với nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực tác chiến, tiếp tế và tản thương.
Khoảng 9 giờ ngày 7/10/1972, tôi được lịnh từ Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn TQLC đi bốc giúp một thiếu phụ sinh con khó khăn ở phía Bắc quận Hương Điền, để đưa bà mẹ này về bịnh viện Nguyễn Tri Phương, Huế. Sau phi vụ nhân đạo đó khoảng nửa giờ, tôi nhận được một phi lịnh đặc biệt đi cứu cấp một hoa tiêu A-37 bị phòng không VC bắn, anh ta đã nhảy dù xuống một giờ rồi.

Tôi đã nhiều lần cứu cấp hoa tiêu lâm nạn phải nhảy dù xuống như vậy, nhưng lần này, tôi cảm thấy rất đặc biệt, tại sao A-37 đi oanh tạc lại không báo cho trực thăng ứng trực ngay trên bầu trời? Tại sao một giờ sau mới gọi cứu cấp? Ai trách nhiệm ra lịnh trễ nải như vậy?

Tôi phải cố hành động sao cho thật nhanh, tôi chụp lấy nón bay, nhảy lên ghế lái, chưa kịp xỏ chân vào giày, vẫy tay ra lịnh mở dây cột cánh quạt. Tôi ra hiệu 5 chiếc trực thăng còn lại, (có 2 chiếc võ trang) cất cánh sau tôi. Phi hành đoàn của tôi chưa ai mang giày và áo an toàn. Chúng tôi vừa bay vừa trang bị cho đầy đủ. Tôi cũng đã kiểm soát xem tất cả phi hành đoàn đều có áo an toàn chưa vì rằng hoa tiêu A-37 đã lâm nạn hơn một giờ qua, thời gian đủ dài để VC chuẩn bị những cái bẫy và hỏa lực để hạ những phi hành đoàn đến cứu cấp.

Ngay sau khi cất cánh tại Hương Điền, tôi bấm máy ra lịnh 3 trực thăng vận tải theo sau phải giữ khoảng cách là 3 phút bay. Hai chiếc võ trang bay hai bên cách tôi một phút bay, vì tôi phải áp dụng chiến thuật bay cho phi lịnh hết sức nguy hiểm này.
Trên bầu trời Quảng Trị, nắng gắt, gió Đông Nam thổi nhẹ. Quan Sát Cơ L-19 mang tên Pigeon 10 đang trách nhiệm bao vùng theo dõi. Tôi bắt đầu liên lạc với anh ta khi còn bay với cao độ 1000 bộ, với tốc độ 110 knotts.
- Pigeon 10, Pigeon 10, Eagle 3, Eagle 3 gọi. (Eagle 3 là tên của tôi trong phi lịnh này).
- Eagle 3, Eagle 3, Pigeon 10 tôi nghe anh 5/5.
- Pigeon 10, chỉ dẫn mục tiêu.
- 12 giờ trước mặt,
- 12 giờ nhận rõ.
Sau đó, tôi đã quyết định đưa trực thăng nhào xuống bay sát mặt đất, tốc độ 120 knotts và bắt đầu bay chiến thuật vào vùng tử địa.

Cứ mỗi giây phút trôi qua là nguy hiểm đến gần hơn. Mặc dù có hai chiếc võ trang bay sau tôi để yểm trợ, tôi cho lịnh xạ thủ Tuấn và cơ phi Xôm khi tôi nghiêng cánh bên nào thỉ bên đó bắn không ngừng để đàn áp hỏa lực VC dưới đất.
Tôi đã liên lạc với Pigeon 10 nhiều lần và cũng nhận cùng một câu trả lời như trên. Hỏa lực VC từ đất bắn lên rát lắm, đạn xuyên thủng trực thăng nhiều nơi. Một viên đạn đã nổ tung phía trước bọc kính, một mảnh nhỏ đã ghim trên chân mày tôi, máu lăn xuống mí mắt làm tôi thấy màu đỏ loang loáng. Tôi biết ngay là vùng nguy hiểm vô cùng đã đến. Tôi bảo hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn:
- Tao đã trúng miểng đạn ở trán, mày để tay vào cần lái, bay theo tao.
Văn, không nói lời nào, nhanh chóng đưa tay vào cần lái và nhẹ nhàng bay theo tôi. Đây là cách phòng ngừa khi tôi thình lình “ra đi” trên ghế lái.
Từ Phòng Kiểm Soát Hành Quân, sau khi nghe tiếng tôi, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thanh, giọng nhẹ nhàng ra lịnh:
- Eagle 3, phải hết sức cẩn thận. Rồi Thiếu Tá lập lại: “Phải hết sức cẩn thận, tôi nói anh hiểu không?”
- Vâng, Eagle 3 tôi hiểu, Thiếu Tá!
Liên lạc với Pigeon 10, thì vẫn chỉ có một câu trả lời “12 giờ trước mặt!” Tôi thấy những viên đạn lửa của VC bay lên trực thăng trong lúc tôi nóng lòng tìm hoa tiêu A-37 lâm nạn, thình lình cơ phi Xôm hét to lên mừng rỡ:
- Cánh dù bên trái! Thiếu Úy!
Tôi nhìn về phía trái, thấy cành dù, sẵn sàng đáp xuống. Tôi dùng phương pháp đáp khẩn cấp từ 120 knotts, bay thấp trên mặt đất cùng lúc vội vàng bấm máy ra lịnh:
- Tất cả ba trực thăng bay ra ngoài vùng. Trực thăng võ trang bắn yểm trợ.
Và tôi quyết định đáp xuống khi cả vùng trời ngập trong lửa đạn đủ loại, pháo và khói bụi mịt mù. Kéo cần lái sát vào người, cùng lúc tôi đưa cần cao độ sát xuống thấp, quẹo trái, áp dụng kỹ thuật đáp khẩn cấp. Đạn của ta và đạn của địch thi tài áp đảo nhau! VC còn giúp thêm cho tử thần bằng mưa pháo vào bãi đáp, quang cảnh chẳng khác nào phi hành đoàn vào địa ngục để cứu hoa tiêu A-37.
Cơ phi Xôm và xạ thủ Tuấn gan dạ và nhanh nhẹn nhảy xuống đất, phóng nhanh về phía hoa tiêu A-37 lâm nạn và kẹp hai tay xốc anh ta chạy vội vàng về trực thăng. Tôi nhận ra đó là Thiếu Úy Nguyễn Hàn.
Khi cả ba đã bước lên trực thăng, tôi vội vã kéo cần lái, cần cao độ cất cánh trong bụi cát mịt mù dưới cơn bão pháo và súng lớn nhỏ các loại của VC. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, phi vụ cứu cấp thành công! Tôi vội bay hướng Đông Nam về Huế, Phú Bài!

Mọi việc được hoàn tất mau chóng và chuyên nghiệp trong khi VC liên tục pháo vào bãi đáp. Khi trực thăng của tôi đạt tới cao độ vào khoảng 200 bộ thì bất ngờ bị hỏa tiễn hay 12 ly 7 đã bắn gãy cánh quạt đuôi, trực thăng giựt mạnh quẹo sang trái. Tôi phải tắt máy và áp dụng thể thức đáp khẩn cấp. Bây giờ là đáp khẩn cấp thật sự đây!
Năm người trên trực thăng, kể cả Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn, phải tìm cách mưu sinh thoát hiểm, vì trong không gian bom đạn mịt mù và mưa pháo VC, thì tôi đâu muốn để cho anh em trực thăng khác ở bên ngoài bay vào cấp cứu chúng tôi, rồi chuyện gì sẽ xảy ra như tôi đang bị xảy ra như hiện tại.

Ngay khi trực thăng đáp xuống đất, tình thế rất khẩn cấp, tôi gọi xạ thủ Tuấn mở cửa cho hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, và mọi người nhớ theo tôi, vì tôi giữ máy liên lạc.
Nhưng trong cơn mưa pháo của VC, cơ phi Xôm, xạ thủ Tuấn, hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn và hoa tiêu A-37, Thiếu Úy Nguyễn Hàn, tất cả đã rời khỏi trực thăng qua cánh trái, khi tôi lấy dụng cụ và máy liên lạc cứu cấp xong, tôi nhảy xuống đất bên phải của trực thăng. Chỉ vài phút sau là chúng tôi mất liên lạc với nhau, không cách nào trông thấy nhau trong cơn bão pháo và bụi mịt mù. Địa ngục đây rồi!

Dưới bầu trời nắng gay gắt, VC vẫn liên tục mưa pháo vào trực thăng của tôi. Bụi mù và mưa pháo vùng tử địa, không ai nhìn thấy ai nữa! Tôi nhiều lần khẩn khoản 3 hoa tiêu trực thăng đừng vào vì rất nguy hiểm. Tôi biết 3 chiếc trực thăng còn lại nóng lòng muốn cứu chúng tôi, cũng bay vào, rồi thì bị đạn, rồi thì cũng không tài nào thấy được nơi chúng tôi đang nấp nên trong khoảnh khắc giành giựt với tử thần đó, anh em cũng đành phải rời vùng.

Lại có thêm 2 trực thăng Cobra và 1 chiếc trực thăng CH53 chuyên môn cứu cấp của Hoa Kỳ cũng bay đến cấp cứu! Tôi cũng đã dùng máy liên lạc và kêu gọi rời vùng ngay vì súng phòng không VC đầy dẫy chung quanh bãi đáp, đừng bay vào rọ.
Chiếc trực thăng của xấu số của tôi, danh số ở đuôi là 827 màu trắng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ đã từng hiên ngang ngạo nghễ sau những tháng năm dài phục vụ con người, giờ đây, nhằm giờ hóa kiếp, nó đã bị thương mất đuôi, rồi bị bao nhiêu đạn pháo, nó bốc cháy ngùn ngụt.
Tôi chạy khỏi phi cơ độ hơn 100 thước, lại bị thương vào đùi, tôi đã ngã xuống một hố bom cũ phủ đầy cỏ dại, tôi bất tỉnh, mê đi!

Tiếng đạn pháo liên tục gầm vang, gió cuốn bụi cát xát mạnh vào mặt làm tôi choàng tỉnh và mở mắt ra! Bầu trời xám xịt, mây đen thấp xuống, bao phủ cả vòm trời! Màn đêm xuống mau lẹ với cơn mưa to, nhiều sấm sét. Đến nửa đêm khi đạn pháo bớt, tôi nghe tiếng người lục soát, tìm kiếm chúng tôi. Tôi cố giữ hoàn toàn yên lặng, tôi nghĩ rằng họ là VC.

Nằm núp dưới đất bùn dơ bẩn, trong cơn mưa sấm sét, tôi cảm thấy lạnh vô cùng, khi tiếng bọn VC đã đi xa, tôi phải lách mình, bò đi một cách êm thắm, trầm mình xuống lạch nước mưa mà trườn tới! Bấy giờ tôi liên tưởng đến những người khác, đầu óc tôi lẩn quẩn nghĩ miên man tới phi hành đoàn của tôi và hoa tiêu A-37 Nguyễn Hàn. Hoa tiêu phụ Trịnh Hữu Văn, nhà ở Quảng Tín, mới ở Mỹ về, tôi bay với Văn và đã đề nghị cho Văn là hoa tiêu phụ đi hành quân với tôi. Văn khoe còn giữ 300 Mỹ Kim và cất ở túi bay dưới chân để dành cưới vợ. Còn Xôm và Tuấn rồi Hàn bây giờ ra sao rồi? Cả bốn người có bị VC gian ác bắt không?

Tuấn và Hàn là người gốc Huế, mà Huế và Quảng Trị đâu xa gì! Chắc là cả bốn người biết luồn lách mà tránh được VC để về đến Huế. Tôi bị mặc cảm dằn vặt mãi, bởi vì tôi, vì tôi quyết tâm bay vào lửa đạn để cứu hoa tiêu A-37 lâm nạn, nếu lúc Thiếu Tá Thanh nhắc chừng, tôi đã nhận thấy quá nguy hiểm mà bay trở lại thì đã an toàn cho tất cả, nhưng rồi còn Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn thì sao?

Dù sao, tôi vẫn cứ tự an ủi nếu ai cũng thiếu gan dạ, không chấp nhận hiểm nguy thì tình chiến hữu đồng đội có ra chi. Bị thương, ừ thì bị thương, chết ừ thì chết, bổn phận không thể không hoàn tất. Mạng sống con người quý giá lắm. Nhưng cái quý giá đó không so sánh được nếu vì lý tưởng, bổn phận phải hy sinh. Tôi đã từng bảo hoa tiêu Lê Công Quởn, đã hy sinh tại căn cứ Hoàng Đế phía Tây của Huế, rằng:
-Là người làm tròn nhiệm vụ, hy sinh cho người khác, khi chết sẽ được vinh hạnh thành Thánh, nếu không cũng được thành Thần.
Tôi đã cầu nguyện cho bốn người này. Tôi cũng cầu xin Đức Chí Tôn:
-Xin Ngài che chở cho tôi nếu Ngài nghĩ rằng tôi còn hữu ích cho đổng đội. Nhược bằng trái lại, xin cho tôi nhận một quả pháo trọn vẹn từ quân VC vô thần, gian ác! Tôi xin đoàn tụ cùng những bậc tiền nhân, ông cha anh hùng của tôi.”
Tôi nghĩ đến vinh dự cao cả của bao nhiêu người lính gan dạ đã đem thân bảo vệ độc lập, hòa bình của Tổ Quốc thì đâu sá gì mình bị thương hay bị hy sinh bởi súng đạn quân VC xâm lăng.

Mải mê suy nghĩ đến bổn phận, mơ màng trong trách nhiệm thế rồi tôi rơi vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Tiếng chân người rầm rập trên mặt đất mỗi lúc một gần hơn, gần hơn, rồi một toán VC hung ác đứng gần chỗ tôi trốn. Tôi đã vùi thân mình dưới tầng bùn đen. Tôi chẳng còn gì trên tay, chiếc nón bay, áo chống đạn đã để lại trên trực thăng đã cháy rụi rồi. Trống ngực đập thình thịch, tôi sợ hãi vô cùng, rồi chúng bỏ đi. Từ kinh nghiệm này, trên đường mưu sinh thoát hiểm về lại căn cứ, tôi đã hết sức đề phòng từng ly, từng tí, tránh mọi bất trắc.
Mò ra khỏi vũng bùn, chiếc áo bay của tôi quá nhiều túi, bây giờ chứa đầy bùn trở thành một gánh nặng nên tôi đã cởi bỏ, tôi chỉ còn mặc một chiếc quần lót mà thôi. Để ngụy trang, tôi đã dùng bùn trét đầy lên khắp người, và hết sức cẩn thận trườn đi bằng ngực, hoặc bằng lưng của tôi, bởi vì làm sao tôi có thể đi được khi mà khớp nối của đầu xương đùi bị thương quá nặng.

Tôi trườn được một đỗi vừa để ý ép tai mình xuống mặt đất để nghe có tiếng chân ai đó hay không. Tai tôi cũng mở rộng, hết sức chăm chú. Lúc này trời cũng sắp tối đến rồi. Theo hướng gió từ xa đưa lại, tôi nghe tiếng nói eo éo của đám VC. Tôi vội vàng lẩn trốn ngay. Tôi thấy đói cồn cào và khát nước! Đạn pháo hôm nay ít hơn hôm qua.
Rồi thì mưa đổ xuống như thác, nhờ vào đó mà tôi di chuyển an toàn hơn. Tôi dùng hai bàn tay nắm cỏ cao kéo tới, chân trái phụ vào bằng cách đạp vào mặt đất cho toàn thân di chuyển về phía trước được hai hay ba chục mét. Thật may mắn làm sao! Mưa càng to thì tôi càng di chuyển được dễ dàng và an toàn hơn, bởi lũ VC lười biếng đi kiểm soát trong cơn mưa.

Tôi đã kiệt sức rồi, dù vậy tôi vẫn phải cố hết sức bò đến một hố nước, trầm mình dưới vũng nước để được ấm hơn trên mặt đất gió thổi. Hai bàn tay khuấy nước cho sạch bớt bùn đất, rồi hai tay chụm lại hứng từng giọt nước mưa để thấm giọng cho đỡ cơn khát. Tôi tiếp tục làm như vậy cho đến khi tôi thấy bớt khát.
Tôi tự bảo rằng dừng lại việc di chuyển về hướng Nam là tự sát, mỗi tấc tôi trườn tới có nghĩa là tôi về gần chỗ an toàn hơn, bởi vậy, tôi phải cố gắng di chuyển, tai lắng nghe xem có sự động tĩnh gì của lũ VC hay không. May mắn quá tôi không thấy cái gì cả, nhưng những dây điện thoại của VC liên lạc thì giăng đầy như lưới nhện trong vùng tử địa chiến tranh tàn khốc này.

Ngày thứ ba trên bãi chiến trường, tôi thức giấc khi tiếng phi cơ phản lực vọng lại từ xa xôi lắm. Tôi hy vọng chúng đến gần tôi hơn, để tôi có thể đánh hiệu lên cho chúng biết rằng tôi vẫn còn sống.
Tôi nhớ Thiếu Úy Hồng, cùng Phi Đoàn 233 của tôi, đã dùng chính hộp nước ngọt để gửi dấu hiệu cho trực thăng tìm kiếm của Đại Úy Nguyễn Văn Banh. Đại Úy Banh nhận được tín hiệu, tức khắc anh tắt máy cho được an toàn và đáp xuống một khoảng trống cạnh một con rạch nhỏ của dãy núi cao. Đại Úy Banh đã cứu được Thiếu Úy Hồng một cách ngoạn mục. Tôi cũng đã thết đãi Thiếu Úy Hồng một chầu mừng thoát chết. Tôi cũng đã học hỏi cách nào Thiếu Úy Hồng mưu sinh thoát hiểm để có ngày nào đó đến lượt tôi, và lúc này tôi đã có chút kinh nghiệm. Tôi đã quan sát cẩn thận chung quanh cho an toàn rồi tiếp tục mò về hướng Nam. Lúc đó một chiếc Quan Sát OV-10 trên bầu trời bỗng bay thẳng vút lên trời xanh tránh hỏa tiển SA7 của VC, để lại một vệt khói trắng màu tang. Tôi hú hồn cho chàng hoa tiêu trên chiếc OV-10 đó.

Trong giây lát, tôi bỗng miên man nhớ lại hình ảnh của Đại Tá Khánh, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 Không Quân, Trung Tá Phước, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51 Chiến Thuật, còn gọi là Phước răng vàng. Tôi nhớ Thiếu Tá Bùi Quang Chính, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 233. Ông này làm anh cả thì tốt hơn là Phi Đoàn Trưởng. Ông đã chăm sóc mọi thứ cho thuộc hạ dưới quyền, từ sĩ quan cho đến binh sĩ! Gia đình ra sao, anh chị em thế nào. Ông biết rõ từng người trong gia đình của Phi Đoàn. Tôi nợ ông nhiều lắm. Tôi phải trả ơn cho ông bà- bà giáo Diệp, bà đối xử với tôi như chị ruột. Cơn đói và rét kéo tôi vào giấc ngủ nữa rồi.

Cơn mưa chiều nhiều sấm sét cùng tiếng nổ đạn pháo của hai bên Quốc Gia và Cộng Sản làm cho bầu không khí trở nên ồn ào ghê rợn khiến tôi tỉnh giấc, tôi không thể nào nghe rõ sự vật quanh tôi. Tôi sắp bước qua đêm thứ ba không quần, không áo! Chính bùn, đất và bèo cỏ đã thay cho quần áo và là phương tiện ngụy trang rất hữu hiệu cho tôi. Tôi thầm nhủ rằng lợi dụng đêm tối, mưa giông để mò đi sẽ làm ngắn lại con đường về căn cứ an toàn hơn.
Mưa to quá, mưa xối xả như trút nước, sấm chớp vang trời như thiên lôi rượt đuổi, diệt trừ quỷ ma đang hành hạ con người. Nhờ mưa đêm che chở tôi tránh được sự dò tìm của bọn độc ác VC.
Tôi vừa trườn qua một chiếc đầu lâu và bộ xương người trắng hếu. Bàn tay tôi nhẹ nhàng vuốt cái xương sọ cùng lúc van vái rằng:
-Tôi biết tại sao anh bị giết, xin giúp tôi đến nơi bình an tôi sẽ cúng..

Một lúc sau tôi thấy một con mèo trắng, đi quanh quẩn bên tôi và rồi đi về hướng Nam. Tôi tự hỏi tại sao có con mèo hoang ở vùng lửa đạn này? Tôi không sợ ma mà muốn sống nên cố trườn theo con mèo, nhanh và nhanh hơn nữa, vì vết thương đã có mùi thối như xác chết! Đây là bãi chiến trường, vùng oanh kích tự do, chẳng có hàng tre hay bờ tường nào cao hơn nửa thước. Tất cả điêu tàn, là sắt máu hận thù!
Ngày thứ tư trên bãi chiến trường bắt đầu bằng đạn pháo ầm ĩ, súng nổ bốn bề, nhằm giết đi hết mọi sinh vật của Thượng Đế trên đời! Nghĩ cho cùng, nếu Hà Nội không ngu xuẩn nghe lời xúi dại của Liên Xô và Trung Cộng, xua quân xâm lấn miền Nam, thì làm gì có cảnh gió tanh mưa máu hôm nay. Cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt. Ngàn đời nguyền rủa sự ngu xuẩn tham lam của lũ Cộng Sản.

Có lẽ là hai hay ba giờ chiều. Đây là ngày thứ tư tôi nằm trên vùng tử địa. Mây đen kéo tới, bầu trời đen kịt. Gió thổi càng lúc càng mạnh, gió mạnh làm ngả rạp đám cỏ cao quá đầu gối. Tôi vẫn luôn cảnh giác nghe ngóng về giọng nói của người và những động tĩnh bất thường trên đường thoát hiểm hướng về Nam.
Tôi đã không có một chút gì ăn trong ba ngày qua, tôi thấy đói và đói. Tôi thấy mình dần dần yếu đi, đến nỗi tôi muốn dừng lại một chỗ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, dừng lại chẳng khác nào tự tử. Đâu ai biết tôi nơi nào mà cứu cấp! Do vậy mà tôi phải cố gắng trườn đi từng tấc, từng tấc đất để về Nam. Nhờ vận chuyển tôi thấy có thêm sức mạnh và ấm người hơn.

Bèo cám trên mặt nước dân miền Nam dùng để cho heo ăn, nhưng rồi không có cái gì bỏ vào miệng cho bao tử làm việc sinh ra nhiệt, nên tôi buộc lòng nhặt một ít bỏ vào miệng nhai, nhai và nuốt, tôi cảm thấy có cát đất đi vào bao tử với nhúm bèo cám. Tôi nghĩ bao tử tôi reo vui khi làm vai trò sinh nhiệt cho thân tôi.
Trời lại sắp mưa, gió giật, gió quyện vào nhau cuốn từng cộng rác to nhỏ xoáy tròn bay cao lên khoảng trời đen sẫm. Trời mưa rồi, tôi trườn qua một mái tranh sụp xuống gần ngang mặt đất. Tôi nghe ai đó nói chuyện bên trong. Tôi chắc chắn chúng là lũ ác ôn VC đây rồi! Tôi lặng yên trườn đi nhanh xa chỗ đó. Tôi lại may mắn bởi trời đã đổ mưa to, VC chúng núp trong mái tranh nên đã không phát giác ra tôi! Thật quá căng thẳng đến nỗi tôi nghe được cả nhịp tim tôi đập liên hồi trong lồng ngực.

Tôi lại may gặp con rạch nhỏ, tôi trườn mình đi nhẹ nhàng đến nỗi không một gợn sóng lan ra trên mặt nước. Tôi tạm nghỉ ngơi, hít thở những hơi dài, coi như rất sảng khoái. Tôi đã cách xa chòi lá giết người lúc nãy rồi.
Hai bàn tay tôi chừng như rã rời, những chỗ bị thương máu đã khô đặc lại, khi gặp nước làm tôi cảm giác xót buốt vô cùng! Thực ra tôi không còn sức di chuyển nữa rồi. Lúc bấy giờ tôi đang bên bờ sông Thạch Hãn. Tôi cẩn thận mò xuống dòng sông ngước nhìn tìm chỗ trú an toàn. Tôi biết tôi có thể ngủ ngay tức khắc! Do vậy tôi phải tìm cách nào kín đáo nhứt để ẩn thân đi vào giấc ngủ vùi hẹn hò nhiều mộng mị.

Tiếng pháo nổ gần làm tôi tỉnh ngủ, tôi thấy mình đang nằm vắt trên hai rễ cây, chìm dưới làn nước của bờ sông Thạch Hãn. Lúc đó mặt trời lên giữa đỉnh đầu, nắng gay gắt, không thấy có chút gió nào. Toàn khoảng không gian như bị tan tác, xé ra từng mảnh bởi những phi cơ phản lực oanh tạc thay nhau thả bom liên hồi xuống rặng núi phía Tây là dãy Trường Sơn.
Tôi bước vào ngày thứ năm trên bãi chiến trường chết người. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi vô cùng may mắn. Trời đất cho tôi nhiều ân huệ, ngày nắng gắt cung cấp cho tôi nhiều năng lực ấm áp để rồi đêm đến trong cơn mưa lạnh tôi có đủ sức trườn đi, mò về miền an toàn nhanh hơn.
Tôi trông thấy nhiều thùng đạn pháo in chữ Tàu, trên bờ Bắc sông Thạch Hãn, đựng trong những bao plastic, nói lên một thực tế là quân VC đang kiểm soát phần đất phía Bắc dòng sông định mạng Thạch Hãn! Biết vậy tôi tự bảo tôi phải nhanh chóng lánh khỏi nơi tử địa này, bơi sang phía Nam càng sớm càng tốt.

Lợi dụng trời tối, tôi nhẹ nhàng hết sức, cố bơi sang bờ Nam của dòng sông mà không để lại bất cứ một lượn sóng nào, bởi tôi biết rất rõ là do làn sóng lan ra đó, VC sẽ phát giác ra tôi và rồi tôi sẽ lãnh ngay một tràng AK kết liễu đời mình!
Khối nước to lớn và đám bèo trên mặt nước của dòng sông làm rớt đi những mảng đất sét ngụy trang trên cái thân ốm đói của tôi. Vết thương trên đùi phải cũng bớt đau dai dẳng mấy ngày qua. Rồi cũng đến lúc tôi mò tới được bờ Nam rồi.
Tôi tìm xem nơi nào có lỗ trống để tôi lết thân lên bờ. Tôi dùng hai tay bám vào mặt đất mà trườn lên bờ Nam rồi chui vào trong đám cỏ. Tôi trườn đi giữa những đám cỏ cao ngang ngực, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời khuất sau dãy Trường Sơn, ánh sáng cuối ngày còn vất vưởng trên cánh đồng mênh mông đầy mùi tử khí.

Mưa đêm qua lớn quá nên qua một ngày nắng gắt rồi mà vẫn còn nước đọng lại trên đường đi giúp tôi trườn tới dễ dàng như đang bơi lội trên đám cỏ sũng nước. Cứ lập đi lập lại mãi động tác hai tay dang ra phía trước nắm cỏ kéo lê thân đi, chưn trái đạp vào đất! Cố gắng, tiếp tục cố gắng nữa. Muốn sống phải vươn lên.
Chắc cũng được vài trăm thước rồi thì phải, tôi cảm thấy đuối sức, hết hơi trườn tới nữa rồi! Bãi cỏ voi cao quá, cao quá không ai có thể nhìn thấy tôi nằm trên láng cỏ ướt đó. Tôi thấy khát nước vô cùng, muốn uống bất cứ nước gì để thỏa mãn cơn khát.

Bất ngờ, may mắn làm sao, tôi thấy loáng thoáng vài anh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa lom khom chạy qua gần bên tôi. Tôi đã vận dụng hết sức mạnh còn lại để gọi:
- Thủy Quân … Lục Chiến...
Tiếng tôi đứt khoảng vì không đủ hơi. Sau khi nói lên chữ “Lục Chiến”, tôi hoàn toàn hết hơi. Tôi đã hiểu tôi có cuộc gặp gỡ ly kỳ này là trời cho.
- Đứng lên! Giơ tay lên!
Một anh lính TQLC chĩa súng chăm chăm vào tôi và gằn giọng ra lịnh:
Tôi nghe cái lịnh “đứng lên” của anh ta mà tức giận:
- ĐM! …thiếu úy… hoa tiêu … trực thăng … gãy chân...
Sau câu nói hết sức lực đó, tôi như đi vào hôn mê.
Bầu trời sụp tối, gió chiều đã thổi mơn man qua mặt tôi như bàn tay bà mẹ hiền vuốt má đứa con thân yêu. Tôi thấy nhẹ nhàng lâng lâng, trút mọi lo âu cho quá khứ. Một anh TQLC bò đến sát bên tôi, nói thì thầm vào tai tôi:
- Thiếu Úy, Thiếu Úy, bám vào lưng tôi để tôi bò kéo Thiếu Úy vào…
Chưa bao giờ tôi được nghe hai tiếng “thiếu úy” yêu thương như lúc này, trong khi trên người tôi chỉ còn cái quần đùi! Hai tiếng gọi: “thiều úy” tức là anh em TQLC đã nhận ra tôi là đồng đội, là phi công lái trực thăng. Trước sự sống, toàn thân tôi như liệt đi, tôi nói nhỏ:
- Lấy dây lưng TAB nối vào nhau, cột hai tay tôi và kéo, tôi không bám nổi.

Anh TQLC bò vào chỗ trú quân của anh. Mặt trời lặn hẳn rồi, nhưng đứng gần cũng còn nhìn rõ mặt nhau. Gió Đông Nam nhẹ nhàng đưa hơi nước mát lòng, mát dạ đến vùng chiến địa cài răng lược, quân ta và quân VC đóng xen kẽ nhau.
Quả là phước đức vô cùng, đêm nay trời không mưa. Thật mầu nhiệm của Ơn Trên ban thưởng cho tôi. Tôi yên lặng tận hưởng sự sống lại, không thể nói lời nào khác nữa trong giây phút này, nhưng trong thâm tâm, tôi vui mừng khôn xiết, tôi biết rằng tôi đã được cứu, tôi được sống từ giờ này.
Vài phút sau, hai anh lính TQLC lại bò đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẽ cài răng lược giữa quân ta với địch. Nơi đây tôi lại bất ngờ gặp Thiếu Úy Thanh, một người bạn vốn là sinh viên sĩ quan cùng tiểu đội với tôi khi cả hai cùng được huấn luyện tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Thanh ngồi xuống, ôm lấy tôi từ từ nâng tôi ngồi dậy, cả hai ôm choàng nhau, nước mắt ràn dụa, chúng tôi nhắc lại kỷ niệm thời sinh viên sĩ quan khi cả hai cùng trình diện sĩ quan cán bộ vì bị phạt dã chiến 4 đêm, làm chúng tôi luyến tiếc thời khóa sinh. Thanh trao cho tôi một điếu Rubi quân tiếp vụ. Điếu thuốc thấm nước phân nửa, ngả màu vàng, cong vòng, nhưng khi hít một hơi thông suốt thì thấy lòng sảng khoái.

Bấy giờ chắc khoảng 9 hay 10 giờ đêm, khác với những đêm mưa tầm tã vừa qua, đêm nay mưa chỉ lấm tấm đủ làm ướt áo khách qua đường. Tôi được chuyển sang vùng an toàn hơn. Rời chỗ Thiếu Úy Thanh chia tay lưu luyến, tôi bắt tay cám ơn từng anh em và Thanh. Tôi dặn dò các anh nên hết sức cẩn thận, vì sau mỗi lùm cỏ cao có VC núp.

Tôi được đưa đến bộ Chỉ Huy Đại Đội, bởi tuyến đầu của Thanh, hai bên cọ sát đối đầu nhau trong gang tấc. Tôi được một anh lính TQLC cõng, ba anh khác đi theo phụ giúp, hai anh hai bên, và anh thứ ba phía sau. Con đường chuyển tôi đi qua nhiều dốc đất sét, đất sét gặp nước mưa làm con đường càng trơn trợt nguy hiểm, dễ dàng té ngã.

Chúng tôi tới Bộ Chỉ Huy Đại Đội, nơi đây có bao cát chung quanh. Tôi hoàn toàn kiệt sức, bởi vì tôi phải dùng hết sức mình ôm chặt anh TQLC khòm lưng cõng tôi. Do vậy, với ân tình huynh đệ chi binh xứng đáng ngàn vàng đó tôi đã lấy hết sức tàn để siết tay và nói lời cám ơn 4 anh TQLC vừa gan dạ vừa tình nguyện hy sinh cõng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần. Tôi nhờ TQLC gọi máy liên lạc về Huế, và Đà Nẵng cho họ biết là tôi đã được cứu về đến nơi an toàn. Lúc đó, một anh TQLC đến bên tôi hỏi:
- Thiếu Úy đói lắm hả, uống sữa nhé, chúng tôi cũng có mì Quân Tiếp Vụ.
- Không, cám ơn anh quá đi, tôi chỉ buồn ngủ thôi.
Tôi đáp nhanh và rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.

Đến sáng, khoảng 7 hay 8 giờ, một chiếc xe thiết vận xa M113 đến trước Ban Chỉ Huy Đại Đội để chở tôi đi. Tôi vui mừng khôn xiết, nhắm mắt lại mơ màng. Trước khi chiếc M113 di chuyển, anh Đại Đội Phó bắt tay tôi siết mạnh và chúc mau lành để trở lại chiến trường với anh em. Anh cười, và cho biết thêm rằng lúc hơn 2 giờ khuya, một phi hành đoàn của Trung Úy Lưu, Phi Đoàn 233 có liên lạc với TQLC để đến bốc tôi về bịnh viện, nhưng anh từ chối vì an ninh cho cả Đại Đội ban đêm. Đạn và súng cối VC sẵn sàng tấn công vào Đại Đội khi trực thăng đáp xuống rước tôi. Anh đã khước từ nhiều lần mặc dù Trung Úy Lưu khẩn khoản và nói rằng Trung Úy Lưu sẽ tắt hết đèn và tắt máy để đáp xuống bất ngờ. Tôi nghe chuyện mà thương cho người đứng đầu chiến tuyến, thương và cảm phục tình chiến hữu trong quân đội, thương Trung Úy Lưu.

Hơn nửa giờ sau thì chiếc M113 dừng lại, tôi được khiêng ra khỏi xe, tôi cám ơn các anh kỵ mã can trường. Xe đã lui mà tôi còn nghe lời chúc mau bình phục của họ.
Tôi nhìn quanh quan sát, đây là trạm cứu thương giữa chiến trường, Bác Sĩ Quân Y TQLC nhìn tôi e ngại, thương tình. Lúc đó, trên người tôi chỉ có một chiếc quần lót lẫn sình đất. Xót xa quá, nên bác sĩ lấy bộ đồ rằn ri TQLC có đính huy hiệu Quân Y, và bảo mấy anh y tá mặc vào cho tôi.
Thú thật, trong bộ quân phục Binh Chủng anh hùng đó, trông tôi mạnh mẽ hơn lên. Tôi cám ơn họ nhiều lần, bác sĩ và binh sĩ TQLC can trường còn trẻ quá.

Mặc xong bộ quân phục TQLC, một xe tải thương đã sẵn sàng để chuyển tôi về nơi an toàn hơn nữa để trực thăng đến bốc về bịnh viện. Xe chạy trên đường đất đỏ có một hàng cây bên trái. Gió buổi sáng len vào thùng xe làm tôi cảm thấy dễ chịu. Có lẽ sau đêm ngủ ngon lành nhiều mơ mộng vui tươi, tôi như có thêm nhiều sức lực. Sức lực có thêm là nhờ tình người, tình đồng đội, tình chiến hữu trong đấu tranh sinh tử có nhau.

Xe cứu thương dừng lại nơi có tên Ngã Tư Quốc Tế, đây là Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147/TQLC. Tôi được khiêng xuống, và xe cứu thương trở lại trạm Y Tế Tiền Phương, nơi có bác sĩ cứu tôi
Nằm trên băng ca nơi yên ổn, có người chăm sóc thân mến, lòng tôi rộn ràng nghĩ đến anh em ở Phi Đoàn 233 chắc đang chờ gặp tôi. Mắt tôi lơ đãng nhìn bầu trời xanh, mây trắng mà thầm cám ơn Thượng Đế, các đấng Thần Linh đã che chở cho tôi. Cám ơn những đêm mưa đầy sấm sét. Cám ơn người chết nằm giữa đường, xương sọ, xương người trắng hếu. Cám ơn Quân Đội đã sản sanh ra những người chiến hữu sống chết có nhau.

Tôi về nơi yên lành mà sau lưng còn bao nhiêu lính trận phải mở mắt to lên, ngày đêm cho dù buồn ngủ đến cay xé. Làm sao đủ từ ngữ để nói lên tinh thần hy sinh cao cả của những người lính TQLC trên tuyến đầu lửa đạn.
Bây giờ, ngồi ghi lại những dòng chữ nầy, lòng tôi vẫn còn bồi hồi, cảm động. Tôi thắc mắc tại sao ngày đó người lính miền Nam gan dạ đến như vậy? Lý tưởng bảo quốc, an dân? Lao vào mục tiêu, biết mình sẽ hy sinh, nhưng vẫn có biết bao nhiêu người trẻ tình nguyện.

Riêng chuyện của chính tôi, tinh thần nào là động cơ để 4 người lính TQLC không ngại bị ngã gục khi cõng tôi ra ngoài vùng binh lửa, cài răng lược.
Tôi đã trườn đi năm đêm rồi, quãng đường dài chắc hơn 5 cây số, dẫy đầy mìn bẫy và dây điện thoại của Cộng Sản! Tôi mang ơn những người lính Mũ Xanh nầy biết bao nhiêu! Ôi tình người, tình chiến hữu.
Một phi vụ cứu cấp không thành:
Thiếu Úy A-37 Nguyễn Hàn gan lỳ của chúng tôi đã hy sinh sau hai ngày lần mò về miền an toàn!
Phi công phụ Trịnh Hữu Văn bị VC bắt sau 4 ngày thoát hiểm, sau này Văn được thả ra từ nhà tù miền Bắc, hiện nay, Văn cư trú tại Houston.
Xạ thủ Tuấn, người trai xứ Huế không biết bây giờ ra sao?
Còn cơ phi Võ Văn Xôm?
Lúc tôi còn nằm trị thương tại Trung Tâm Y Khoa Không Quân Tân Sơn Nhứt, thì chiếc quan tài của cơ phi Xôm được chuyển đến và hôm sau, trực thăng đưa về quê của Xôm ở Cai Lậy! Xôm tìm về gần đến vị trí của TQLC thì bị lộ và VC đã giết, tiểu đội Trinh Sát TQLC đã tìm được xác Xôm với tấm thẻ bài!

Ngày 7/10/1972 tôi bị bắn rơi, 5 ngày sau, ngày 12/10/1972 được anh em TQLCVN cứu về, tôi được đưa vào bịnh viện của Không Đoàn 366 của Không Quân Hoa Kỳ Đà Nẵng, được trị thương săn sóc tốt lành như chính những người lính Mỹ.
Tất cả họ là đồng đội của tôi, tôi nợ mạng sống với các anh, làm sao tôi trả nổi? Và phép lạ nào kéo tôi từ Houston TX đến đây, Little Saigòn CA này, đúng lúc đến nhà quàn để tiễn biệt một ân nhân. Tôi không bao giờ quên những người anh em Mũ Xanh Anh Hùng./.
hoanghoa
Posts: 2260
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoanghoa »

Cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị tháng 6 năm 1972

Nhân Tập Thể Chiến Sĩ VNCH kỷ niệm 40 năm chiến thắng Quảng Trị
Xuân Sơn

Image

Ngày 6 tháng 6 năm 1944 được đánh dấu là một trong những ngày vẻ vang nhất của quân đội Mỹ, khi mà đoàn quân viễn chinh đổ bộ lên bờ biển Normandie để giải phóng Âu Châu khỏi ách cai trị của Hitler. Trong khi đó tháng 6, 1972 cũng đánh dấu một khúc quanh quan trọng của cuộc chiến VN khi Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Bùi Thế Lân tổ chức cuộc phản công tái chiếm cổ thành Quảng Trị.

* Kế nghi binh:

Ðầu tháng 6, Nha Kỹ Thuật (Biệt Kích) bỏ lại tại thung lũng A Shau một xác chết ở trong đó có một cuốn mật mã ghi lại những kế hoạch tấn công miền Bắc và cùng một lúc đó MACV cũng tung ra tin sẽ mở một cuộc hành quân ra Bắc, đổ bộ ở Vinh hoặc nhảy dù xuống Thanh Hóa hòng làm giảm áp lực của quân CS ở tuyến Mỹ Chánh. Dù cho địch có bị mắc mưu hay không Tướng Trưởng, Tướng Lân, Ðại Tá Lịch đã soạn thảo kế hoạch phá địch. Ðó là cuộc hành quân Lam Sơn 72.

Khởi đầu Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù vượt tuyến Mỹ Chánh và sau 2 tuần lễ thì chiếm được 4 đồn địch ở dọc quốc lộ 1. Ðịch bỏ chạy tán loạn và mất tinh thần chiến đấu và rút về Quảng Trị vào 4 tháng 7. Khi đến làng Mai Lĩnh ở ngoại ô Quảng Trị thì Ðại Tá Lịch thận trọng dừng quân để gửi một toán cảm tử trực thăng vận vào bên thành phố để dò xét tình hình. Sau khi toán thám báo trở về thì Ðại Tá Lịch quyết định tấn công vào ngày 8 tháng 7.

Lần này quân BV nhất định chống lại đến cùng và dùng súng cối bắn vào quân Nhảy Dù đã tiến đến sát Cổ Thành. Hai bên quần thảo ác liệt và tranh giành từng căn nhà một. Quảng Trị bị vây chặt nhưng Tướng Trưởng đã để bỏ ngỏ một ngõ ở phía Tây để cho địch chạy thoát, ông đã áp dụng lời dạy của tiền nhân là không dồn địch vào đường cùng và có lẽ cũng vì lòng nhân đạo không muốn tàn sát quá nhiều sinh mạng. Nhưng Tướng Giáp đã ngoan cố bắt các người lính BV ở lại tử thủ đến người lính cuối cùng, không cho rút mà còn lợi dụng kẽ hở để đem thêm quân vào tử địa.


Hàng ngàn phi vụ B52 và phi vụ chiến thuật đua nhau giội bom lên đầu địch, đã có tất cả 2054 phi vụ B52 gieo rắc kinh hoàng cho các người lính BV bị dùng làm vật hy sinh một cách vô ích. Những cuốn nhật ký thu lượm được mô tả sự tuyệt vọng của những người lính này trước những cơn mưa bom từ trên trời rơi xuống. Họ tiếp tục kháng cự và dùng các ổ trọng pháo 130 ly để tấn công quân Nhảy Dù. TÐ7 không tiến lên được và phía TQLC ở phía Tây cũng gắng sức kháng cự mạnh mẽ của địch.

Các phi vụ B52 tiếp tục đánh phá và một chiến đấu cơ đã dùng một quả bom laser nặng một tấn phá vỡ một bức tường của cổ thành. Nhưng Th/Tá TÐ Trưởng Văn Lê Mễ tỏ ra thận trọng, không muốn tiến chiếm ngay Cổ Thành vì không muốn mắc mưu kế của địch có thể dùng đại bác 130 ly để bắn vào thành sau khi rút đi.

Hải Quân Mỹ trên chiến hạm Eversole bắn phá dữ dội và làm nổ nhiều kho đạn địch mở đường cho một đại đội Dù tiến vào bên trong thành nhưng ngay sau đó một đại đội bị bao vây bởi một tiểu đoàn địch nhưng đã rút ra được mà chỉ bị thiệt có 7 người chết mà thôi. Phía BV bèn tung nốt sư đoàn trừ bị cuối cùng là 324 C cùng với SÐ 312 để cố giữ lấy Quảng Trị. Ngày 17 tháng 7 quân BV phản công lại nhưng bị đẩy lui với những thiệt hại ghê gớm, 295 xác chết đếm được trong khi phía Dù có 27 chiến sĩ hy sinh. Cuộc chiến kéo dài quá lâu với những tổn thất quá lớn về nhân mạng khiến Tướng Trưởng có lúc tính đến việc bỏ Quảng Trị và đem quân chặn đường tiếp tế của địch để rồi quân BV ở bên trong Quảng Trị phải đầu hàng. Nhưng vì lý do chính trị nên Quảng Trị cần phải được chiếm lại bằng mọi giá nên cuối cùng ông đã quyết định dùng tới TQLC để hoàn thành việc này.

*Những đợt sóng thần…

Tướng Bùi Thế Lân trước đó đã đưa TÐ3, 5, 7 và 8 tiến dọc quốc lộ 1 vào ngày 28 tháng 6. Ðến ngày 29 thì hai TÐ 1 và 4 đổ bộ lên Wunder Beach. Nhờ thế đã giải tỏa áp lực cho SÐ Nhảy Dù và trong cuộc hành quân này địch đã bị thiệt 1515 lính bị chết và 18 xe tăng phá hủy.

Tướng Lân cho trực thăng vận một tiểu đoàn qua sông Vĩnh Ðịnh ở Ðông Bắc thành phố và bao vây phía Tây và Ðông không cho quân tiếp viện tới giải cứu.
Image
Ngày 11 tháng 7, các TQLC được trực thăng vận bởi 34 trực thăng CH 53 của Mỹ và được yểm trợ bởi các trực thăng võ trang Cobra. Cuộc hành quân hỗn hợp này vô cùng phức tạp và khó khăn nên không tránh khỏi tai nạn thí dụ như một chiếc CH 53 đã bị trúng hỏa tiễn SA7 khiến cho 55 TQLC bị chết, phi hành đoàn được cứu thoát. Ðến ngày 14 tháng 7 thì vòng vây đã siết chặt, địch không còn được tiếp tế như trước nữa khiến sức kháng cự yếu dần.

Các phi vụ tải thương được thực hiện dễ dàng hơn, nhưng trước con số thương vong quá lớn các vị tướng lãnh VNCH cũng phải nghĩ rằng nguồn nhân lực không phải là vô tận và phải nghĩ đến việc kết thúc trận đánh sớm hơn nhưng cùng một lúc phải tiết kiệm nhân mạng, khác hẳn với thái độ thí quân của Giáp coi sinh mạng con người như rơm rác trong các đợt tấn công biển người học được của Mao Trạch Ðông.

Ngày 27 tháng 7, SÐ Dù được lệnh rút về để cho SÐ TQLC đảm nhiệm việc chiếm Cổ Thành. Ðịch vẫn nhất định tử thủ với SÐ 325 được tăng cường bởi nhiều đơn vị của SÐ 308 và 320. Các tổn thất của địch thật là kinh khủng, gần 200 lính chết và 51 xe tăng bị bắn cháy. Vì bị bao vây cả 3 mặt còn phía sông Thạch Hãn thì bị phi cơ bắn phá, địch tung ra một cuộc phản công cuối cùng để thoát ra khỏi vòng vây trong tháng 8 nhưng bị TQLC đẩy lui. có thể nói Cổ Thành Quảng Trị đã trở thành một thứ Ðiện Biên Phủ cho quân Cộng Sản nhưng họ không được phép đầu hàng như quân Pháp!

Ở mặt trận Nam TQLC tiếp tục tiến đến gần khu Cổ Thành và càng đến gần thì sức kháng cự càng mạnh, thí dụ như trong ngày 22 tháng 8 địch đã bắn 3,000 phát đại bác và súng cối vào TÐ 8 TQLC để tìm đường rút lui ra khỏi tử địa.

TT Thiệu và Tổng Tham Mưu đòi Tướng Lân phải chiếm lại Quảng Trị bằng mọi giá, nhưng ông tỏ ra thận trọng vì ở trong vùng vẫn còn 5 sư đoàn địch và nếu đem Lữ Ðoàn 369 TQLC vào vòng chiến thì có thể bị hở ở mặt Nam. Tướng Trưởng đồng ý với Tướng Lân và ngày 8 tháng 9 ông quyết định đem 3 TÐ Biệt Ðộng Quân để thay thế cho Lữ Ðoàn 147 TQLC đang án ngữ mặt Bắc khiến Tướng Lân có đủ 2 lữ đoàn để tấn công trong khi vẫn còn một lữ đoàn trừ bị ở phía Nam. Theo đúng tinh thần của những vị Tướng TQLC, Tướng Lân luôn luôn hành sự hết sức thận trọng, để phòng những bất trắc có thể xảy ra và không có những việc làm khinh suất liều lĩnh gây thiệt hại đến tính mạng của binh sĩ.

* Kết thúc trận đánh:

Hàng trăm phi vụ B52 được tung ra và ở ngoài khơi chiến hạm Juneau cũng ào ạt nổ súng khiến quân BV tưởng là sắp có đổ bộ nên chui ra khỏi hầm hố địa đạo để bảo vệ khu Cửa Việt. Nhưng đây chỉ là nghi binh điệu hổ ly sơn khiến ở mặt Nam TQLC tiến sát đến bờ thành mà ít gặp trở ngại. Ðể nắm vững tình hình địch ở bên trong, một toán cảm tử thuộc TÐ 6 tiến vào bên trong và sau đó trở lại báo cáo về tình hình địch rất yếu và đây là cơ hội tốt nhất để dứt điểm. TÐ 1 vượt sông Thạch Hãn và cùng với TÐ 2 Trâu Ðiên và TÐ 6 bao vây địch. Ở phía Bắc Cổ Thành TÐ 3 và 7 đến sát chân thành và đến ngày 15 tháng 9 thì coi như làm chủ hoàn toàn Quảng Trị, địch như cá nằm trên thớt chờ đợi bị đem ra làm thịt.

Ðịch cố gắng chống lại một cách tuyệt vọng và đến khi người lính TQLC dựng lá cờ vàng 3 sọc đỏ ở bờ phía Tây Cổ Thành thì tiếng súng im bặt. Bao nhiêu lính BV ở trong thành đã bị chết hoặc chôn vùi dưới đống gạch vụn. Sáng ngày 16 một buổi lễ thượng kỳ long trọng được cử hành trước sự vui mừng của người chiến sĩ TQLC nhưng xen lẫn với những dòng nước mắt tưởng nhớ đến những đồng đội đã hy sinh nằm xuống cho trận đánh dữ dội nhất và hao tổn xương máu nhiều nhất trong quân sử VNCH.

Giá biểu của trận đánh tái chiếm Quảng Trị quá lớn và nhiều người cho rằng sự hao tổn này có xứng đáng không? Tr/Tá cố vấn Gurley viết trong cuốn hồi ký của ông rằng người lính TQLC Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng họ đầy lòng dũng cảm, giàu quyết tâm và họ là những chiến sĩ TQLC can trường không kém bất cứ một đơn vị TQLC nào khác. (Short in stature, rich in courage and full of determination, stood tall in the eyes for all Marines).

Ðể đạt được vinh dự đó, TQLC Việt Nam đã bị thiệt mất hơn 5,000 người từ tháng 6 và trong trận tái chiếm Quảng Trị đã có tất cả 3,658 chiến sĩ hy sinh. Trên 4 người lính TQLC thì có một người hy sinh vì tổ quốc.
Image

* Nếu chẳng may cộng sản thắng năm 1972?

37 năm trôi qua, xem xét lại những tài liệu lịch sử đã được bạch hóa của cả hai bên thì chúng ta thấy rằng tình hình miền Nam vào năm 1972 đã nguy hiểm hơn là chúng ta tưởng. Mỹ muốn phủi tay ra đi, Nixon khi tranh cử hứa sẽ giải quyết dứt khoát cuộc chiến. Kissinger muốn bán đứng miền Nam bằng mọi giá nên đã để mặc cho miền Nam đối diện với kẻ thù được võ trang đầy đủ hơn, quân số đông hơn gấp nhiều lần.

Nếu sau khi chiếm được Quảng Trị, Giáp cứ tiếp tục đem chiến xa đánh tràn xuống phía Nam và chiếm Huế gần như bỏ ngỏ, dân chúng mất tinh thần, Ðà Nẵng đang bị đe dọa và toàn thể Quân Ðoàn 1 sẽ tan rã như vào năm 1975. Bình Ðịnh đã bị cắt đôi ở Bồng Sơn, Tam Quan bị địch chiếm, Komtum bị vây hãm khiến miền Nam có thể bị cắt đôi. Tình hình ở An Lộc hết sức nguy kịch và nếu tin thất trận ở vùng 1 được loan đi thì các binh sĩ SÐ 5 đang tử thủ có thể sẽ mất tinh thần và An Lộc sẽ bị tràn ngập bất cứ lúc nào khiến Saigon có thể bị tấn công bằng đại pháo 130 ly và sẽ biến thành biển lửa.

Nếu lúc đó không có sự lãnh đạo can đảm của Tướng Trưởng, Tướng Lân và sự hy sinh của hai sư đoàn nhảy dù và TQLC thì tình hình đã đổi khác và miền Nam chắc chắn sẽ bị mất vào năm 1972, khi đó với sự say men chiến thắng thì sự trả thù của quân BV sẽ ghê gớm hơn là năm 1975. Một biển máu có thể sẽ xảy ra và một số lớn chúng ta sẽ không được như ngày hôm nay…

Những gì mà chúng ta đang an hưởng hiện nay trên đất Mỹ này một phần lớn là do sự hy sinh của những người anh hùng vô danh đó… Chúng ta có bổn phận phải ghi nhớ công ơn đó và để lại muôn đời con cháu mai sau về chiến công oanh liệt nhất của người chiến sĩ VNCH ngày 16 tháng 9 năm 1972 tại Cổ Thành Quảng Trị, một ngày cần được ghi vào lịch sử Việt Nam bên cạnh những trận Ðống Ða, Bạch Ðằng…

1. Tham khảo: Trail by fire: Dale Andrade.
2. The Easter Offensive: T. Gurley. Vietnam at War. Philip Davidson.
3. Vietnam on the frontlines. History Channel. 2001.


Sep 18, 2012

Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/newarticle/C ... 1972-0027/
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image

Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù và Trận Đánh Tết Mậu Thân, 1968

Mũ Đỏ Trần Đức Tường

Đoàn xe chuyển bánh đúng giờ. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù vừa hoàn tất thời gian tái huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp. Trên chiếc xe jeep chỉ huy, Thiếu tá Trần Quốc Lịch ngồi phía trước, Trung úy Lê Hồng và tôi ngồi phía sau. Hai chiếc máy truyền tin AN/GRC46 chiếm hai bên ghế sau, nên không có chỗ cho nhân viên truyền tin và cận vệ. Lê Hồng cầm máy liên lạc với các Đại Đội, tôi đóng vai trực máy Lữ Đoàn. Ngoại trừ trước khi khởi hành và trong những phút đầu đoàn “công voa” vào đội hình di chuyển thì Lê Hồng bận rộn, chuyển báo cáo cho Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng hay chuyển lệnh của ông cho các Đại Đội. Mất khoảng 20 phút đầu các “đứa con” đàm thoại, báo cáo liên tục khiến Lê Hồng luôn tay luôn miệng. Tấm bản đồ để trên đùi, Lê Hồng chấm lên những nét đen, đỏ dọc theo quốc lộ. Tiếng đàm thoại thưa dần trong máy, chỉ còn âm thanh rè rè của hai cái loa nhỏ. Đoàn xe rời khỏi Bà Rịa trực chỉ Sài Gòn với tốc độ chưa đến 40 miles một giờ.

Trong trận Dakto, trên ngọn Ngok Wan, đồi 1416, TĐ3ND lãnh mũi nặng nhất, trực diện đụng đầu với Trung Đoàn 24 của việt cộng. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung tá Nguyễn Khoa Nam đi cùng với TĐ3ND tiến thẳng lên đỉnh Ngok Wan, TĐ2ND đi bên cánh trái. Đáng lẽ TĐ3ND được đóng ven đô vì đúng thời điểm đó, Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng Trần Quốc Lịch và Thiếu tá Tiểu Đoàn Phó Nguyễn Chí Hiếu đều đi học. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đã cử Thiếu tá Nguyễn Viết Cần xử lý thường vụ chỉ huy tiểu đoàn. Ngay ngày đầu đụng trận, tôi đã di tản 3 đại đội trưởng. Vì địa thế bất lợi và phải đánh từ dưới lên đỉnh được địch phòng thủ rất vũng chắc. Ta và địch cách nhau chưa đầy 20 thước. Phi pháo của ta được kêu chỉ cách quân ta 50 thước. Có thể nói đây là một trận oanh liệt nhất của TĐ3ND, đã chiến thắng một lực lượng và một địa thế hơn hẳn quân ta. Kết quả là TĐ3ND đã chiếm được đồi 1416, tàn quân của trung đoàn 24 việt cộng đã rút chạy kéo theo nhiều thương binh của chúng, bỏ lại hàng trăm xác chết, súng đạn. Tuy chiến thắng, nhưng tiểu đoàn đã bị thiẹt hại khá nặng. Vì thế, nên sau khi rút ra Tân Cảnh, tiểu đoàn đã được không vận về Sài Gòn và trực chỉ đi tái huấn luyện, bổ sung quân số tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp.

Những ký ức của trận Dakto trong đầu người lính Nhảy dù đã lùi nhanh vào dĩ vãng, để chờ một ngày nào đó, chỉ nhớ lại về trận đánh lịch sử này. Chúng nhường chỗ cho những hình ảnh mới hơn, sống động hơn, những hình ảnh của trận tao ngộ chiến ngày hôm qua khi tiểu đoàn nhảy thao dượt hành quân ở chân núi Thị Vải. Thường thì sau khóa huấn luyện “rèn cán chỉnh quân” trong quân trường, một tiểu đoàn nhảy dù sẽ có một buổi thao dượt hành quân Nhảy dù, bắn đạn thật, có phi cơ và pháo binh yểm trợ. Buổi thao dượt của TĐ3ND được đặt dưới quyền chỉ huy của TTHL/VK và BCH/LĐ3ND. Trong buổi họp hành quân ngày hôm trước, Trung tá Nguyễn Khoa Nam đã trình bầy rõ là nếu diễn tập xảy ra bình thường thì TTHL/VK sẽ điều động, chỉ huy bên cạnh BCH/TĐ3ND. Nhưng nếu xảy ra biến cố chạm địch thì BCH/LĐ3ND sẽ dành lại quyền chỉ huy duy nhất. Tham dự cuộc họp, tôi nghĩ bụng, chắc không có gì bất thường xảy ra vì ở đây sát với Bà Rịa có các đơn vị đồng minh hành quân thường xuyên.

Nhưng thực tế thì biến cố bất thường đã xảy ra:

- Hôm qua lúc nào Tường Vi mới được đồ đệ mang đồ đạc đến cho người vậy? Thiếu tá Lịch hỏi.

- Dạ, thưa Thiếu tá, sau khi đáp xuống đất.

Tôi trả lời mà ngượng chín người. Đêm trước tài xế và đồ đệ của tôi đi nhậu. Sáng dậy không thấy mấy đứa ở đâu, tôi quá giang xe Thiếu tá TĐT ra bãi bốc phi trường Vũng Tầu. Gặp y tá trưởng trạm cứu thương của tôi, trung sĩ Nguyễn Mạnh Am, tôi hỏi mà cũng không ai thấy hai ông thần nước mặn của tôi ở đâu cả. Bực mình không thể tả được, ai nấy đai nịt gọn gàng, nón sắt, dây ba chạc, súng đạn đầy đủ... còn mình thì đầu đội nón đỏ, dây súng không có, túi thuốc cũng không... Chắc kỳ này có đứa ăn đòn đây. Những chiếc C130 khổng lồ của không quân Hoa Kỳ đã xếp hàng dài cánh quạt quay tít, đèn pha chiếu sáng. Trạm cứu thương được phân phối nhảy cùng BCH/TĐ3ND, tôi sẽ nhảy cách Thiếu tá TĐT một người là Lê Hồng ở cửa bên trái, trạm cứu thương và y tá trưởng nhảy cửa bên phải. Mặc dù vào mà thiếu cái nón sắt trên đầu, tôi có cảm tưởng như “cởi truồng”... Tôi nhét cái mũ đỏ vào trong ngực áo, ngồi yên trên máy bay mà không dấu được nỗi lo âu. Lần đầu tiên Nhảy đầu trần!

- Lúc dù mở, tôi nghe súng nổ bên dưới, cứ ngỡ là mình tập trận, bắn vào trong núi. Nhưng lúc gần đáp thì tôi thấy có mấy vệt đạn lửa từ trong chân núi bắn ra.

- Lúc đó Thanh Tùng đụng ở gần chân núi. Thiếu tá lịch nói.

- Bác sĩ đáp có đập đầu không, tại không thấy bác sĩ đội nón sắt, Lê hồng xen vào.

- Tôi cũng sợ đập đầu, vì thế nên đã liều đáp đứng, không lộn. Đang còn đứng hoay hoay cởi dù thì nghe trong bụi cây gần đó, có ai nói: “nằm xuống! có việt cộng đó!”, tôi kể lại.

Lúc xe chạy qua bãi nhảy hôm qua, mọi người đều không khỏi nhìn về phía bên phải quốc lộ, nơi hôm qua đã diễn ra trận đánh tao ngộ hy hữu.

- Chắc đơn vị việt cộng đang di chuyển ngang đây nên bất ngờ thấy trên đầu đầy dù nên hoảng rút vào phía chân núi. Lê Hồng nói.

- Tụi nó có vẻ không chủ trương đánh trả hay chúng có nhiệm vụ khác mà chỉ bỏ chạy. Chắc mang theo thương binh, nên mình chỉ luợm được hơn chục khẩu súng lấm máu mà không thấy xác địch. Thiếu tá Lịch giải thích.

- Sao mình không truy kích? Chắc sẽ hốt được một mớ nữa. Tôi hỏi.

- Đây là cuộc hành quân thao dượt của tiểu đoàn. Mình không có kế hoạch hành quân ở đây. Mình cũng có nhiệm vụ khác. Vì thế Chiến Đoàn đã ra lệnh rút sau khi oanh kích các mục tiêu. Thiếu tá Lịch cho biết.

- Tôi thấy các đích thân đại đội trưởng mới của mình đã cứng rồi, tôi nhận xét. Không biết trong những ngày tới mình đi đâu nữa đây?

Lê Hồng nhìn tôi im lặng, không có ý kiến. Thiếu tá Lịch tiết lộ:

- Chắc là sẽ ở ven đô trước khi đi đâu. Cũng cần thời gian để lính mình làm quen với không khí tiểu đoàn, các đại đội trưởng làm quen với con cái mình nữa. Tiểu đoàn cũng còn chờ bổ sung một số “tony” nữa.

- Tony là gi? Tôi hỏi nhỏ Lê Hồng.

- Trung đội trưởng. Các sĩ quan Đà Lạt hay Thủ Đức mới ra trường, Hồng giải thích.

- Thế thì chắc tết này tiểu đoàn được ở Sài Gòn rồi? Tôi hỏi trống không.

- Hy vọng là thế, Lê Hồng cười nói.

Quả đúng như vậy, chỉ vài ngày sau khi về đến hậu cứ là tiểu đoàn được lệnh đi giữ an ninh vòng đai Sài Gòn. BCH đóng tại Bà Hom.

Những ngày gần tết tại các thôn xóm ven đô thật là yên bình. Hoa mai trong nhiều khu vườn đã bắt đầu nở dưới ánh dương chan hòa của Miền Nam hai mùa mưa nắng. Người dân hiền hòa bắt đầu đã có nhà đi mua dưa hấu, bánh tét chuẩn bị đón xuân... Sau những trận chiến khủng khiếp ở vùng I và vùng II, tôi thấy rõ ràng một không khí an bình ở miền Nam này, tuy rằng chiến trận vẫn xảy ra đâu đây cách xa thành phố. Đêm đêm vẫn có những tiếng đại bác thay trống cầm canh; trên trời vẫn có những “ánh mắt hỏa châu” le lói phương xa..., nói như lời ca mà lính tráng chúng tôi hay hát.

Cũng như thường lệ, mỗi khi dừng quân, đóng chung với dân, tôi thường trình với Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng, hợp tác với Ban 2 và Ban 5 tiểu đoàn để làm “Dân Sự Vụ”. Ban 5 lo loan báo cho đồng bào có khám bệnh, phát thuốc. Tôi và Trạm Cứu Thương làm công tác chuyên môn. Ban 2 thì kín đáo quan sát... Mỗi ngày chúng tôi làm công tác dân sự vụ ở một xóm, một ấp khác nhau. Vùng Bà Hom, tuy gần Sài Gòn, nhưng cũng có khá nhiều gia đình nghèo khó. Họ trước đây là nông dân, có người ở các tỉnh lưu lạc về đây, có người là dân bản địa, nhiều đời trên phần đất này, trước đây là đồng quê. Nay thì người làm nghề nông cũng ít đi, trai tráng thì đều đi lính, nên phần đông những người tới khám bệnh đều là ông già bà cả, hoặc phụ nữ và con nít. Mỗi tối khi ngồi ăn cơm với “câu lạc bộ Tiểu Đoàn” có “Mặt Trời”, ám danh đàm thoại của Thiếu tá TĐT, chúng tôi thường có những nhận xét để trình với Mặt Trời. Về chuyên môn thì phần tôi báo cáo, phần quan sát thì Ban 2. Nói chung tất cả yên ắng, không như ở một số vùng ngoài Trung: ban ngày chúng tôi phát thuốc, vài hôm trở lại, bệnh không thuyên giảm; hỏi ra mới biết ban đêm việt cộng đã về tập trung những người đi khám bệnh và tịch thu hết thuốc của họ.

Mồng Một Tết Mậu Thân

Nghe nói có lệnh hưu chiến trong dịp Tết Nguyên Đán, nhưng Mặt Trời cũng vẫn cẩn thận ra lệnh các Đại Đội đóng rải rác nhiều địa điểm phải đề phòng bất trắc: vẫn phải gửi các nhóm sonnettes (1) ra ngoài để mai phục trên những bờ đê, đường mòn khả nghi. Đêm đó, sau khi ăn tối xong, ai về “nhà” nấy, đi ngủ. Thật không giống những Đêm Giao Thừa ở thành phố. Năm nay cũng cấm pháo nên thỉnh thoảng ở phía Sài Gòn chỉ ít có tiếng nổ bì bọp lẻ loi. Tôi nói với binh nhất Trung, cần vụ của tôi:

- Chắc mấy ông lính bắn chỉ thiên đây!

- Dạ, bác sĩ có muốn uống gì không?

- Hay cậu pha cho tớ một ly cà phê đi. Thầy trò mình uống cà phê đón Giao Thừa.

- Dạ em đi làm ngay.

- Pha nhiều nhiều, gọi trung sĩ Am với mấy anh em qua đây luôn, có tí mứt ăn chơi, tôi gọi với khi Trung đã nhanh nhẹn chạy xuống phía bếp nhà chủ.

Buổi đón Giao Thừa đơn sơ đạm bạc. Thế là hai bao Pall Mall của tôi đã được anh em y tá của tôi chiếu cố. Khói bay nghi ngút thay cho hương trầm trên bàn thờ ông bà trong đêm trừ tịch.

Chúng tôi rã đám. Tôi chui vào mùng dỗ giấc ngủ trong tiếng đì đọp lẻ loi ở phia Sài Gòn. Nơi đó, chắc vợ con tôi đang qua bên ông bà ngoại, cùng chung con hẻm, ở xế cửa nhà nhau. Chắc sắp đến giờ cúng ông bà. Năm nay, chắc không gầy sòng tứ sắc, vì mấy đứa con rể là lính đi xa. Có lẽ Bà Già buồn lắm. Có khi giờ này bà đang nhâm nhi chung rượu đế với mấy con tôm khô và củ kiệu mà bà đã làm từ cả tháng nay... Lòng bỗng nổi lên nỗi nhớ nhung chất ngất. Nhớ người chinh phụ vắng chồng khi xuân sang, nhớ lũ con thơ không có nhà cho quà mừng tuổi...

Sáng ra, vừa thức giấc, tôi đã nghe Lê Hồng, ở nhà bên cạnh gọi sang:

- Tường Vy ơi, 30 phút nữa mình lên Bộ Chỉ Huy chúc tết Mặt Trời đó!

- Biết rồi, Hồng Vân! tôi trả lời

Chúng tôi, quần áo mới ủi thẳng băng, đai nịt gọn gàng với đầy đủ nón sắt, équipement, súng đạn bước qua sân nhà Mặt Trời. Ông đã ra ngoài, nụ cười rạng rỡ, bắt tay mọi người. Thiếu tá Tiểu Đoàn Phó Nguyễn Chí Hiếu thay mặt anh em chúc tết Mặt Trời và cầu chúc TĐ3ND chiến thắng mau được dây biểu chương mầu tam hợp. Tiểu đoàn đã được dây đỏ Bảo Quốc Huân Chương năm ngoái. Mặt Trời đã chúc lại mọi người và đã làm một cử chỉ rất thân thương của người gia trưởng trong một đại gia đình huynh đệ chi binh: đó là chiếc phong bì ông trao cho mỗi sĩ quan từ Minh Hiếu đến các “Đích Thân” Đại Đội Trưởng, Sĩ Quan Ban 3, Bác Sĩ và cả cố vấn Mỹ, đại uý Andrews. Sau khi uống tí rượu ngọt, hút mấy điếu thuốc lá, và hàn huyên đủ mọi thứ chuyện, mọi người dần dần rút đi. Có nhiều Đại Đội đóng ở xa, nên phải về ngay. Mặt Trời kéo tôi lại và nói một cách rất khách sáo như thói quen của ông:

- Hôm nay để mời bác sĩ về thăm nhà ngày mồng một Tết. Cho tôi gửi lời thăm và chúc tết bà và các cháu. Chiều chiều khoảng 5 giờ bác sĩ về lại Tiểu Đoàn là được rồi.

Tôi thật bất ngờ, tuy là nằm ven đô, nhưng đây là Tiểu Đoàn hành quân, mà được đi phép mấy tiếng đồng hồ vào đúng ngày mồng một Tết thì thật là không thể tưởng tượng được.

Tôi ú ớ, chưa biết trả lời thế nào thì Mặt Trời đã nói ngay:

- Bác sĩ lấy xe tôi đi về, chiều xe lại đón bác sĩ lúc 4 giờ, nên “cụ” cứ thong thả.

- Cảm... cảm ơn Thiếu tá! Nhưng nếu bất cứ lúc nào cần, thì xin Thiếu tá cứ cho xe tới, tôi sẽ về Tiểu Đoàn ngay; vừa nói, tôi vừa đứng nghiêm dơ tay chào kính như mới nhận mệnh lệnh công tác, quay đàng sau theo đúng quy cách nhà binh và chạy nhanh về nhà.

Tôi nói với Trung là tôi sẽ về phép ngay, chiều quay lại và tôi biểu Trung đi kêu Y Tá Trưởng Am lên để tôi dặn dò công việc.

Xe dừng ngay trước hẻm đường Trần Quốc Toản, tôi mặc nguyên quân phục hành quân đi vào trong ngõ, bước vào trong nhà trong sự ngạc nhiên mừng rỡ của cả nhà. Ông bà ngoại và vợ con tôi tíu tít bao quanh. Tôi nói với cả nhà là nhờ sự ưu ái của ông Tiểu Đoàn Trưởng nên tôi được về ăn Tết, đến chiều lại phải về đơn vị. Trưa hôm đó, bữa cơm bên nhà ông bà ngoại mấy đứa rất vui vẻ. Để sẵn sàng, tôi giữ nguyên quân phục, không thay civil. Thực tình, được đi phép đúng ngày Tết thì có mừng thiệt, nhưng trong lòng cứ thấy áy náy không yên, y thể như mình bỏ nhiệm sở vậy. Cùng với vợ con về nhà mình, tôi mới kể Thiếu tá Lịch lì xì bao thơ và chúc tết. Tuy thế, tôi vẫn thấy đồng hồ dường như chạy nhanh hơn mọi ngày. Thoáng cái, cô bé người làm chạy vào nói:

- Thưa thầy, xe Nhảy dù tới rồi!

- Mau vậy, bà xã tôi nói như trách móc.

- Thôi, anh phải đi thôi, tôi ôm hôn vợ con.

- Rồi bao giờ bồ về nữa?

- Mai mốt anh về!

Vừa nói tôi vừa đeo dây ba chạc với súng đạn, cầm chiếc nón sắt trên tay, chân bước nhanh ra ngoài cửa, trước những cặp mắt dương to của các con nhìn theo. Tôi chạy trốn cái bịn rịn của bà xã và những cái nhìn ngây thơ của các con tôi.

Những hình ảnh vợ con, gia đình cứ ám ảnh tôi trên suốt tuyến đường từ Trần Quốc Toản về đến Bà Hom. Tôi cố xua đuổi nó để bình tâm trở lại với thực tại của cuộc đời phục vụ chiến đấu trong một đơn vị luôn cần có đôi bàn tay cứu thương của mình. Chiều mồng một Tết, xe cộ không nhiều nên chẳng mấy chốc mà đã về đến vị trí đóng quân. Xe đậu đầu ngõ đi vào BCH/Tiểu Đoàn. Tôi nhanh nhẹn Nhảy xuống và chạy vào trình diện Mặt Trời. Tuy lúc lên xe, tôi đã gọi máy về và báo cho Hồng Vân là đang trên đường “zulu back”.

Đêm mở màn cuộc chiến

Trung tới bên cạnh chiếc băng ca nơi tôi nằm ngủ:

- “Bác sĩ! Báo động! Có thương binh”

Tôi choàng dậy, như một chiếc lò xo. Quen quá cái cảnh bị đánh thức như thế này rồi. Nhìn đồng hồ dạ quang, chỉ 12 giờ đêm. Chỉ trong vài phút tôi đã thay đồ xong. Am chạy vào:

- Thưa thầy, không có thương binh, chỉ có 3 lính Đại Đội 34 tử thương vì bị đâm. Em đã coi và bó xác rồi. Coi bộ họ bị đâm lúc chập tối. Tôi vẫn bảo phải mở poncho để khám và làm phiếu di tản. Tôi chạy lên báo cáo với Mặt Trời. BCH đang điều động các Đại Đội kiểm tra quân số và tăng cường các chốt, các vọng canh gác, phục kích. Tôi tới gần chỗ Lê Hồng nói máy, ngồi im theo dõi. Cố vấn Mỹ cũng lên máy của họ, nói có vẻ nhiều hơn mọi khi. Tôi thầm nghĩ “Chẳng lẽ lúc mình trên đường về đây, mình chạy trên đầu việt cộng sao? Một mình một ngựa, sao nó không tặng cho mình một băng, dễ ợt?” Thắc mắc này, ngay lúc đó, tôi đã chia sẻ với Mặt Trời. Ông có vẻ suy nghĩ và tinh tế trả lời:

- Cũng lạ! Nếu du kích địa phương nó muốn có thành tích thì nó sơi tái người rồi. Nhưng chắc là cái gì lớn hơn du kích địa phương đây, nên nó ém.

- Mấy hôm làm “dân sự vụ”, mình không thấy dấu hiệu nào đáng nghi ngờ, tôi xen vào.

- Tôi nghĩ chúng nó cũng mới tới thôi, nên mấy hôm trước dân chưa biết. Nhưng mà nó biết được đích xác chỗ lính mình đặt sonnette mà hành động không nổ súng thì phải có dân địa phương “nằm vùng” chỉ điểm. Chúng sợ lộ nên không nổ súng, Mặt Trời suy diễn và nói tiếp:

- Coi bộ đây là một đơn vị lớn; nó đi qua chỗ mình, né đụng độ với mình. Vậy mục tiêu của chúng là gì?

- Mình có chỉ thị gì của Biệt Khu Thủ Đô và của Sư Đoàn không Thiếu tá? tôi tò mò hỏi.

- Tôi có báo cáo sự việc ở đây rồi, chưa thấy gì lạ. Hồng Vân, dặn mấy đứa con cẩn thận, mở mắt ra! Ông quay sang phía Lê Hồng ra lệnh.

Tôi vẫn còn nấn ná bên BCH/TĐ. Lê Hồng sau khi bận rộn quay sang hỏi tôi:

- Ở nhà bác sĩ mạnh khỏe cả chứ?

- Cảm ơn Trung úy, nhờ Mặt Trời, cả nhà không chờ đợi tôi về ăn tết ở nhà.

- Khuya rồi, bác sĩ về nghỉ cho khỏe, Mặt Trời nói với tôi.

Tôi thưa vâng rồi lặng lẽ quay về chỗ tôi ngủ. Trung sĩ Am đón hỏi:

- Có gì lạ không bác sĩ?

- Chưa có gì cả.

Tôi tóm tắt những suy nghĩ và lời nói của ông TĐT và bảo Am nói anh em cứ sẵn sàng. Tôi cởi dây ba chạc treo đầu giường và tháo dầy lên băng ca khó khăn dỗ giấc ngủ, mặc nguyên đồ trận.

Bỗng tôi vùng dậy vì những tiếng nổ lớn nhỏ thi nhau vọng tới liên tục. Tôi nghĩ bụng, đã cấm đốt pháo mà sao còn đốt. Mà có đốt thì đốt đêm giao thừa chứ ai đốt đêm mồng một. Lúc đó là khoảng hơn 2 giờ sáng. Tôi cảm thấy có gì bất thường, khi nghe những tiếng “pháo đùng” vọng từ xa lại mà có vẻ lớn hơn tiếng pháo thường. Tôi mang dầy, mang dây ba chạc, đội nón sắt, bước ra sân thì anh em y tá cũng sẵn sàng như vậy rồi. Tôi hỏi Am:

- Bộ có lệnh di chuyển hả?

- Dạ không, nhưng em cứ cho anh em ứng chiến.

- Tôi sang bên BCH/TĐ nghe!

- Dạ.

Tôi chạy nhanh sang chỗ Mặt Trời, thì thấy mọi người cũng đã tập họp đông đủ. Theo dõi máy của SĐND và Biệt Khu Thủ Đô thì thấy lúc đầu có nhiều lùng bùng. Chỗ thì nói vô sự, chỗ thì nói việt cộng tấn công... Phải cả tiếng đồng sau mới rõ nét là việt cộng đã huy động lực lượng tấn công nhiều nơi trong một lúc. Một số nơi mà TĐ3ND biết chính xác là việt cộng tấn công ở đầu bãi đáp phi trường Tân Sơn Nhất từ hướng hãng dệt Vinatexco. TĐ8ND lúc đó đang chờ để được chuyển quân ra miền Trung thay thế TĐ5ND, nên sẵn sàng vũ khí hỏa lực đã lập tức được lệnh của Bạch Long (Trung tướng Tư Lệnh SĐND) chống trả, đồng thời đưa một cánh quân sang tiếp cứu Tổng Tham Mưu, vì lúc đó một đơn vị việt cộng đã đột nhập vào cổng số 4. TĐ3ND được lệnh nằm án ngữ tại chỗ chặn đường tiếp viện của địch từ hướng Tây Ninh xuống cho đơn vị việt cộng đang tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất cũng như làm blocking force (2) chặn đường rút của địch.

Không khí ở Tiểu Đoàn rất căng thẳng. Ngoài tin tức nghe qua máy truyền tin về điều quân và chiến trận của Nhảy Dù, chúng tôi còn theo dõi liên tục đài phát thanh Sài Gòn và Quân Đội. Những tin các TĐND chạm địch ở đài phát thanh ở Tổng Tham Mưu khiến chúng tôi càng thêm nôn nóng. Cứ nghĩ trong đầu, sao giữa lúc dầu sôi lửa bỏng thế này mà bắt con hùm TĐ3ND phải nằm yên một chỗ thế này? Không riêng gì tôi, mà các Đại Đội Trưởng và anh em binh sĩ đều háo hức đợi lệnh xuất quân.

Vùng trách nhiệm của TĐ3ND vẫn hoàn toàn yên tĩnh, không một động thái nào của địch, không một tiếng súng nào nổ, trong lúc phía Sài Gòn thì súng nổ ran trời. Từ chỗ chúng tôi đôi khi còn nhìn thấy cả trực thăng võ trang xạ kích. Ban đêm, hỏa châu thả sáng cả một góc trời.

Một chuyến về hậu cứ liều lĩnh

Theo dõi trên đài phát thanh, nghe tin việt cộng đã lọt vào đến khu Bà Hạt, Trường Đua... và có tin chúng kiếm vào nhà các sĩ quan QLVNCH giết hại vợ con họ. Nhà tôi ở đường Trần Quốc Toản, với những ngõ ngách chằng chịt, việt cộng với bọn nằm vùng có thể biết và tới nhà những người mà chúng nhắm tới. Tôi gọi về cho hạ sĩ nhất Mai Trung Trực, y tá hậu cứ, nói anh ta tìm cách ra nhà tôi và đưa vợ với mấy đứa con tôi lên doanh trại Tiểu Đoàn. Tôi nghĩ, dù địch có tấn công hậu cứ thì cũng có lính và vũ khí để chống trả, còn hơn ở nhà không có tấc sắt trong tay để chúng giết hại. Tôi dặn Trực:

- Nếu bà ấy không chịu đi thì cứ bắt mấy đứa nhỏ lên xe thì bả phải đi theo.

- Tôi nhận rõ, sẽ thi hành ngay, Đích Thân yên tâm.

Tôi chỉ còn biết chờ đợi thôi. Không biết từ Ngã Tư Bảy Hiền xuống đến Trần Quốc Toản, đường có thông không. Chắc là Sài Gòn đã ban lệnh giới nghiêm, không biết cách nào mà Trực hoàn thành được nhiệm vụ này đây? Tôi có chia sẻ với Lê Hồng. Anh nói hy vọng là Trực nó làm được, vì hắn tháo vát lắm. Tôi bồn chồn như điên. Chẳng thiết ăn uống gì. Chỉ hút hết điếu Ruby Quân Tiếp Vụ này đến điếu thuốc kia... Bỗng khoảng 3 giờ chiều, nếu nhớ không lầm thì hôm đó là ngày mồng ba Tết, Ban truyền tin, trung sĩ Bản chạy lại chỗ tôi nói:


- Trực nó báo rằng đã đưa được bà với mấy cháu lên doanh trại bình yên, xin bác sĩ yên tâm.

- Cảm ơn ông Bản.

Tôi như trút được gánh nặng trong lòng. Tôi tới Ban Truyền Tin, nói với trung sĩ Bản:

- Đâu, ông có thể cho tôi nói mấy câu với bả được không?

- Dạ được.

Tôi đã cho bà xã biết là ở doanh trại không có tiện nghi, nhưng an ninh. Tôi nói, như thế tôi an tâm “đánh giặc”. Bả dặn dò, phải cẩn thận... Thế là yên được mọi chuyện. Thực chất, đâu có yên được “mọi” chuyện. Chuyện bất ngờ đã xảy đến sáng ngày hôm sau. Một anh lính truyền tin tới mời tôi xuống Ban Truyền Tin nói chuyện với bà xã tôi. Tôi choáng váng khi nghe nói bả nhất định đưa mấy đứa con về và chỗ nào có việt cộng thì bả sẽ tới. Hỏi tại sao thì bả cho biết có gặp mấy phu nhân các sĩ quan thuộc Tiểu Đoàn. Họ nói với bà rằng các ông bay bướm lúc ở Vũng Tầu, với nhiều chi tiết hoang tưởng. Là con người rất dễ tin và có máu Hoạn Thư hơi nặng và hay làm liều, nên tôi biết là phải bằng mọi cách chữa đám cháy này ngay. Phải có kế hoạch để gặp mặt mới thuyết phục được bả.

Tôi lên gặp Mặt Trời và trình với người:

- Chắc chắn Tiểu Đoàn sẽ được điều động trong nay mai là cùng. Theo tôi thấy, Sài Gòn đang tùm lum, đánh nhau trong thành phố rất là gay go. Khó mà tiếp tế và tản thương. Tôi xin đề nghị Thiếu tá gọi cho ông Chuẩn úy Danh, chỉ huy hậu cứ chất lên một chiếc GMC đạn dược các loại, nòng đại liên M60, pile cho các máy truyền tin và các thứ cần thiết... Tôi sẽ nói Trực nó chất bông băng, nước biển truyền.

Ông Lịch ngồi lắng nghe, không nói gì, có vẻ suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi bèn chêm vào:

- Tôi chỉ dự trù cho một cuộc hành quân bình thường, nên độc dược như morphine chỉ có giới hạn. Nếu không tản thương được ngay mà phải giữ ít ngày thì sẽ phải dùng nhiều. Tại hậu cứ không có tồn trữ. Tôi xin phép được về TĐQY xin thêm.

- Bác sĩ đi nguy hiểm lắm, để cho cậu Am đi cũng được mà. Mặt Trời bàn ra.

- Thưa Thiếu tá, chắc là Trực hắn không xin được với bác sĩ Lân đâu. Tôi thấy cần phải đích thân tôi về mới được. Tôi nằn nì.

- Thôi được, nhưng bác sĩ phải cẩn thận đấy!

- Vâng, tôi sẽ đi bằng xe jeep Hồng Thập Tự nên chắc quân mình không chặn đường đâu. Còn việt cộng thì ở đâu cũng vậy thôi.

Tôi chào tay rồi quay về trạm cứu thương, gọi Am giao công việc. Anh này thẳng tính nên gây liền:

- Đâu cần bác sĩ phải đi? Tôi đi là được rồi. Bác sĩ ăn học bao nhiêu năm, vợ con đầy đàn, có chuyện gì thì sao?

- Thôi đi cậu ơi! Đừng cãi lệnh. Tôi đi với Đặng Là và Bùi Văn Trung, lấy cho tôi hai khẩu M16 và một khẩu M79, một ít lựu đạn. Trên đường về hậu cứ thì hơi ngại, chứ lúc quay lại đây sẽ có một xe GMC và lính bổ sung nữa. Không sao đâu.

Thế là chúng tôi mau chóng phóng xe đi. Chỉ sợ ông Tiểu Đoàn Trưởng đổi ý. Xe chạy ra tới đường Trần Quốc Toản nối dài mới thấy là mình quên một điều khó tha thứ. Đó là quên lấy một cái máy truyền tin AN- PRC 25. Nếu rủi có gì thì làm sao báo cho Tiểu Đoàn. Nhưng, đành liều thôi.

Xe chạy tới khoảng trường đua Phú Thọ thì thấy súng nổ về phía chúng tôi. Tôi hét lên với tài xế Trần Văn Kê:

- Cứ chạy thẳng đi. Kệ nó, trúng đạn thì chịu thôi. Tới đường Nguyễn Văn Thoại mình ngoẹo trái thì có tường cao của trường đua che rồi.

Kê mắm môi chạy như bay. Đúng là sau khi ngoẹo đường Nguyễn Văn Thoại là ngớt tiếng súng. Bên vệ đường có mấy anh lính Mỹ bị thương đang nằm núp sau một cây cột đèn. Họ vẫy tay. Nhưng tôi bảo tài xế tiếp tục chạy. Họ có xe cứu thương của họ. Không phải nhiệm vụ của mình.

Về tới nơi, Trung vào trạm cứu thương trước và quay ra báo cáo:

- Bà với mấy đứa nhỏ ở trỏng, bác sĩ.

Tôi vào trong nhà, thấy bả mắt còn đỏ hoe. Thế là lại phải có một màn giải thích. Rồi tôi ra nói với Trực để chất đồ lên xe GMC. Ông Chuẩn úy Danh có mặt đang cho lính khuân đạn và lương khô lên xe. Tôi nói với Trực:

- Tôi lên TĐQY xin thêm thuốc độc dược

Tôi và Kê chạy xe ra trực chỉ trại Hoàng Hoa Thám. Tới nơi, tôi vào trình diện Y Sĩ Thiếu tá Hoàng Cơ Lân, TĐT/TĐQY/SĐND và trình bày nhu cầu xin thêm thuốc và bông băng. Nhu cầu của tôi được thỏa mãn cấp kỳ. Các bác sĩ đàn anh đang túi bụi với thương binh của các tiểu đoàn đang đụng dịch.

Nhận đủ tiếp tế, tôi nhảy lên xe chạy lại về Tiểu Đoàn. Tới nơi thì thấy bà xã có vẻ nguôi ngoai và còn thêm vẻ hối hận nữa. Chắc là nghe Trung hay Đặng Là nói dọc đường bị bắn như thế nào. Tôi dặn dò đôi điều rồi cho xe chạy ra chuẩn bị lên đường. Chuẩn úy Danh đề nghị để chiếc xe Dodge 4 chạy trước, rồi đến xe tôi và tiếp đó là xe GMC.

Trên đường về, qua ngã tư trường đua không bị bắn phát súng nào. Về đến vị trí hành quân an toàn. Từ lúc khởi hành đến lúc trở về chỉ mất có hơn hai tiếng đồng hồ.

Sau khi vào trình diện Mặt Trời, tôi trở về trạm cứu thương và chỉ thị cho y tá trưởng Am gọi các y tá đại đội về lãnh thêm bông băng, thuốc men về để phát cho các quân nhân tác chiến. Các anh em của trạm cứu thương cũng bổ sung thêm thuốc men, chuẩn bị cho một cuộc chiến trong đường phố, với các cao ốc, thường có các vết thương đầu và ngực do từ trên cao bắn xuống... Cũng phải dự trù phải giữ thương binh chưa di tản được với thuốc men điều trị. Việc tản thương trong thành phố chủ yếu là bằng đường bộ, khó có chỗ để làm LZ, bãi đáp cho trực thăng. Tôi đã dặn dò anh em rất kỹ.

Trời sập tối, tiếng súng có vẻ xa dần. Không gian khá vắng lặng. Mảnh trăng lưỡi liềm lên cao hơn ngọn tre. Sao trời vằng vặc. Giải ngân hà với vô vàn tinh tú sáng hơn mọi hôm. Mai đã là mồng năm Tết Mậu Thân.

Vào vùng khói lửa

Trời tờ mờ sáng, Trung đã gọi tôi dậy để lên BCH/TĐ họp gấp. Chỉ kịp đánh răng rửa mặt xong là tôi đai nịt gọn gàng chạy nhanh sang BCH. Các đích thân đã có mặt đầy đủ. Hồng Vân đang phát bản đồ với overlay vùng hành quân của TĐ3ND. Sau đó, anh theo lệnh Mặt Trời brief về nhiệm vụ của TĐ3ND. Tóm lại, SĐND dưới quyền tư lệnh của Thiếu tướng Dư Quốc Đống trách nhiệm khu vực A, tức vùng Bắc phi trường Tân Sơn Nhất và thủ đô Sài Gòn với hai Chiến Đoàn: Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù của Trung tá Đào Văn Hùng với TĐ6ND và TĐ8ND trách nhiệm vùng Tây Bắc bao gồm khu Bà Quẹo, Phú Thọ Hòa, Bà Điểm. Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù của Trung tá Nguyễn Khoa Nam, gồm TĐ1ND và TĐ3ND trách nhiệm tảo thanh quân địch trong vùng Đông Bắc thủ đô dưới quyền chỉ huy của Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cụ thể là vùng Gò Vấp, thay thế cho TQLC để tiến lên giải tỏa khu các căn cứ tiếp vận như trại Phù Đổng của Thiết Giáp, Cổ Loa của Pháo Binh và các căn cứ của Quân Cụ, Truyền Tin, v.v. Các đại đội đã được chỉ định vùng hoạt động trên overlay. Mặt Trời chỉ có vài lời khích lệ, đại ý nói rằng TĐ3 trong suốt 4 ngày qua đã chưa chạm địch, là tiểu đoàn khỏe nhất hiện nay của SĐND. Tất cả phải cố gắng duy trì truyền thống của tiểu đoàn.

Tiểu đoàn đổ quân xuống trước những con mắt ngưỡng mộ của dân chúng quanh vùng Gò Vấp, dù rằng họ đã phải sống trong những ngày súng đạn, chết chóc khủng khiếp vừa qua. Đoàn quân tiến lên phía trước, càng lúc dân đứng hai bên đường càng thưa để rồi chỉ thấy còn những bộ đồ hoa rảo bước, với mắt rực lửa, súng cầm tay, sẵn sàng nhả đạn vào kẻ thù đã phản bội cam kết ngưng bắn, tấn công gieo rắc chết chóc cho bao thường dân vô tội... Dọc đường tới trại Phù Đổng, nơi đặt BCH binh chủng Thiết Giáp, rải rác còn vài xác chết việt cộng đã chương phình. Mùi tử khí bắt đầu bốc lên, khiến không gian trở nên hoang lạnh, mặc cho trời đang nắng gắt. Mồng Năm Tết! Sáng nay tôi thoáng nghe có ai trong tiểu đoàn nói “mình xuất quân ngay ngày Mồng Năm Tết”. Chắc anh ta nhớ bài hát “Chuyến xe lửa mồng năm” của Trần Văn Trạch với đủ mọi thứ xui xẻo. Lính tráng có khi cũng dị đoan hơn cả các bà, các cô nữa. Nhưng tôi chợt nghĩ tới vua Quang Trung đã đại thắng quân Minh trong một ngày mồng năm Tết.

BCH/TĐ3ND và Đại Đội 30 đóng ngay trong vòng thành căn cứ Phù Đổng. Nơi đây, nghe nói khi bị việt cộng chiếm được đã tàn sát gia đình binh sĩ rất dã man. Nghe Mặt Trời kể sơ về chuyện việt cộng giết hại gia đình Trung tá Nguyễn Tuấn, chúng tôi tin chắc vong linh cố Trung tá Nguyễn Tuấn chỉ huy trưởng Căn Cứ này đang đón TĐ3ND vào căn cứ của Trung tá. Chúng tôi thấy dâng lên lòng căm thù và nguyện sẽ trả thù cho gia đình Trung tá 8 mạng đã bị việt cộng sát hại một cách hèn hạ.

Cả một vùng bao gồm nhiều doanh trại với tường thành cao ba, bốn thước với dây thép gai và concertina tăng cường, chìm vào màn đêm. Điện bị cúp, tiểu đoàn cấm lửa. Ánh trăng yếu ớt trải trên những nóc nhà đen ngòm hoang lạnh. Thỉnh thoảng vài trái hỏa châu lắc lư từ xa, chiếu sáng những mái tôn, mái fibro ciment rồi lại tắt ngấm, trả cảnh vật vào bức màn đen tối. Chỗ tôi ngủ là sát chân tường ngoài hành lang của một căn nhà Eiffel. Trung và Đặng Là nằm gần, võ trang bảo vệ. Giấc ngủ nhất định không đến với tôi. Đầu óc tràn ngập những hình ảnh hãi hùng của cảnh việt cộng giết hại thường dân, bỏ lại trên hiện trường trước khi chúng chui lủi, tháo chạy thoát thân... Căm hờn, tức giận không sao nhắm mắt được.

Trời mờ mờ sáng, tôi đã đai nịt sẵn sàng. Tưởng mình là sớm nhất, ai ngờ anh em trạm cứu thương cũng đã đóng xong balô ngồi hút thuốc chờ lệnh rồi. Không cần chờ lâu, chỉ trong chốc lát, trong lúc vừa uống ngụm cà phê cuối cùng và hít một hơi Ruby Quân Tiếp Vụ, là Mặt Trời đã sai người sang mời bác sĩ sang họp.

TĐ3ND được lệnh tiến vào khu các trại định cư Xóm Mới. Xuất phát ngay, trực chỉ hướng Bắc. Đây là khu các đồng bào miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève năm 1954 định cư. Hầu hết dân cư đều là công giáo. Họ theo các linh mục cai quản kéo nhau cả họ đạo, cả làng, cả giáo xứ di cư. Tới khu định cư, dọc theo con đường lộ theo hướng Đông Tây nối liền các giáo xứ với nhau, tiểu đoàn đi hai bên lộ. Dân chúng ra trước cửa nhà chào đón, hoan hô.

Trận giáo xứ Lạng Sơn

Vừa đi qua khỏi Nhà Hưu Dưỡng các Cha già thuộc giáo phận Phát Diệm thì ĐĐ31ND chạm địch phía trước. Các đại đội bung ra hai bên, dàn thành đội hình. Bộ Chi Huy tạm dừng tại một khu nhà phía bên phải đường. Theo các báo cáo của Thanh Tùng thì địch ít nhất cũng là cấp đại đội, có thượng liên, trung liên và súng cối. Địa điểm chạm địch là phía sau nhà thờ giáo xứ Lạng Sơn, giáo xứ cuối cùng của chuỗi giáo xứ nằm dọc theo đường lộ.

Tiếng súng càng lúc càng nổ ran, dân chúng vẫn cứ nấn ná bám theo quân ta để theo dõi tình hình. Mặt Trời phải ra lệnh cho Tango, đài hiệu của Trung úy Trần Văn Toán, ĐĐT/ĐĐ30ND giải tán dân. Hữu hiệu hơn lệnh giải tỏa là một quả 61 rơi ngay trên lộ phía trước chúng tôi khoảng 50m nổ chát chúa. Dân chúng bỏ chạy tán loạn vô nhà. Trả lại đường phố cho các quân nhân của TĐ3ND đang điều quân lên phía trước và chiếm các cao ốc.

Mặt Trời ra lệnh BCH tiến lên phía trước. Trước khi vào địa phận của giáo xứ Lạng Sơn là một ngã tư, với mấy căn nhà lầu, và một khu chợ, hôm nay không có một ai. Tới nhà thờ giáo xứ Lạng Sơn, cách tuyến đầu của tiểu đoàn đang chạm địch chỉ 100 thước. Mặt Trời ra lệnh thiết lập BCH.

Trạm cứu thương của tôi ở ngay sau lưng phía hông phải của nhà thờ, hiện các cửa đều đóng chặt khiến kế hoạch dùng nhà thờ làm trạm cứu thương trong đầu tôi tan thành mây khói. Sau khi kiểm tra, thấy có một căn nhà khá rộng, có lan can, tôi hạ lệnh đặt trạm cứu thương. Xe hồng thập tự đậu sát hông nhà thờ.

Lúc đó, theo hướng trục tiến quân thì trực diện phía trước, ĐĐ32 đã chiếm được bờ đê ấp chiến lược. Khu di cư này trước đây được xây dựng theo mô hình ấp chiến lược, nên có đắp bờ đe cao vây quanh ấp. Phía ngoài bờ đê là khu ruộng mía được trồng sát chân đê.

Cũng phía trước ở cánh trái thì ĐĐ34 của Bích Vân chạm địch nặng. Thôn xóm ở đây, khi trước vốn nằm ngoài bờ đê bao quanh ấp, chủ yếu là nơi cư ngụ của đồng bào địa phương Miền Nam và có cái tên là Xóm Dừa. Ở khoảng này bờ đê đã bị phá hủy sau khi giải tán các ấp chiến lược, có một khoảng trống là ruộng rồi tới rặng tre. Trước đó có một căn nhà lá thấp lè tè. Khi ĐĐ34 dàn quân tính sang bám bờ tre bên cánh trái thì từ căn nhà lá đó, dịch đã nã thượng liên sối sả vào quân ta gây thương tích cho một số voltigeurs (3) của đại đội. Mặt Trời và Hồng Vân cùng cố vấn Mỹ ở cách tôi khoảng 30m. Chúng tôi nhìn thấy nhau.

Tiểu đoàn đã dồn nỗ lực khá mạnh gồm đại liên 30, M60, súng M79 và cả đại bác không dật 57 nã vào căn nhà. Nhưng khi quân ra xung phong lên là lại bị việt cộng từ trong đó bắn ra gây thiệt hại cho quân ta. Chắc rằng chúng có hầm có nắp nên khi ta bắn chúng núp được. Tính tôi thích tò mò, nên đã lặng lẽ tới sát chỗ những anh em ở tuyến đầu. Đứng nép sát vào một góc tường nhìn sang khoảng trống và căn nhà lá, tôi đã nghe những tràng đạn AK 47 chát chúa bắn về phía tôi. Tiếng đạn ở thành phố nghe nó dữ dội và dễ sợ hơn ở trên rừng hay ngoài đồng trống. Biết nó bắn từ phía trước, nhưng khi nghe những tiếng chát chúa thì hình như nó bắn từ phía trái hay phía phải, hay ngay đàng sau mình; tiếng vang dội thật khiến mình dễ mất tinh thần.

Tôi chứng kiến anh em chạy ra kéo thương binh và tử sĩ từ ngoài bờ ruộng vào. Có người vì ra cứu đồng đội mà bị thương hay bị chết. Kéo được về đến chỗ tôi, tôi và anh em dìu, cáng về trạm cứu thương ở cách đó mấy thước để băng bó, điều trị. Cũng may, ngày đầu tuy số thương binh có lên đến hơn 10 người, nhưng chưa cần di tản gấp.

Nếu không dẹp được ổ kháng cự và bọn việt cộng đang thủ trong căn nhà lá và bên hông, trực diện với ĐĐ34 thì không thể có bãi đáp để tản thương bằng trực thăng. Chỉ còn cách tản thương bằng đường bộ. Xe jeep hồng thập tự, chỉ chở được hai băng ca, quá lắm là cái thứ ba đặt trên capot đàng trước tài xế. Tôi suy nghĩ nát óc. Nếu cần thì có thể dùng chiếc xe Dodge cũng được một số.

Trận chiến kéo dài cả ngày, chưa thấy một tên việt cộng nào bị bắt hay bị giết, chưa thu được một chiến lợi phẩm nào. Tôi cảm thấy sốt ruột, bực mình. Nhưng nhớ lại trận Dakto ba ngày đầu Tiểu Đoàn cũng bị vậy với tổn thất nặng nề hơn nữa. Mặt Trời và Hồng Vân đều trấn an tôi là không phải Tiểu Đoàn mới ra khỏi lò ấp nên xìu xìu ển ển đâu. Tôi cũng hy vọng là sẽ mau chóng thanh toán mục tiêu này. Nhiều phi vụ trực thăng võ trang đã được gọi tới yểm trợ cho tiểu đoàn để tấn công vào trận tuyến của địch hay để tản thương.

Trời dần tối, Mặt Trời gọi các ĐĐT về họp và lập kế hoạch đêm nay đánh đặc công việt cộng. Giống như trong trận Dakto, các Đại Đội được chỉ thị đưa ra những quân nhân thiện chiến nhất để thành lập một đội commando dưới sự chỉ huy của thượng sĩ Toản, một hạ sĩ quan kỳ cựu từng đánh trận ở Điện Biên Phủ. Lợi dụng đêm tối, khi trăng lặn sẽ bò ra dọc bờ ruộng, chủ yếu là phải thanh toán căn nhà lá bằng lựu đạn và dao găm nếu cần.

Mãi sau nửa đêm. tôi ngồi bên cạnh hố cá nhân của Mặt Trời và Hồng Vân, cố vấn Mỹ, bên một giàn máy truyền tin. Miệng tôi khô ran, đắng ngắt. Thèm một điếu thuốc nhưng có lệnh cấm lửa nên đành nhịn. Đưa tay ra sau lấy cái bi đông tu một ngụm. Rồi ngồi chờ. Trăng đã lặn. Nhìn mặt đồng hồ dạ quang, đã quá nửa đêm, cây kim nhảy từng giây thời gian dường như chậm hơn mọi khi...

Bỗng ĐOÀNH! một tiếng nổ lớn và tiếp là những tiếng nổ tương tự và từng băng súng tự động nổ ran làm cả tôi và Lê Hồng giật bắn mình lên. Bỗng “Tây coọc”, hỗn danh của thượng sĩ Toản, vang lên trên máy: Hồng Vân, đây Tango! 4 tên đầy đủ vũ khí. Cả tuyến bên hông trái cũng như phía bờ đê đều nổ ran. Những người cận vệ BCH bố trí quanh chúng tôi. Có lẽ chưa bao giờ BCH ở gần tuyến đầu như thế.

Súng các cỡ nổ cho đến sáng, trực thăng võ trang đến yểm trợ hết phi tuần này đến phi tuần khác. Bỗng ĐĐ33 đoạn hậu của Tiểu Đoàn báo cáo một toán việt cộng đã đột nhập vào khu di cư và đang kiểm soát ngã tư chợ Xóm Mới, chỗ có tiệm vàng. Chúng chiếm cao ốc này. Tôi chạy về trạm cứu thương giải quyết một số thương binh, giờ đó đã lên đến trên hai chục. Sau đó, tôi ra sân trước nhà thờ, trên đường lộ, nhìn về phía ngã tư. Ở đó súng cũng đang nổ ran, tôi tìm cách tới gần thì một quả B40 bay về phía tôi, tôi nép mình vào cửa sắt một cửa tiệm thì nó nổ chát chúa cách tôi không đầy mười thước.

Điệu này thì chắc tản thương bằng đường bộ cũng không thực hiện được rồi. Tôi chạy về đến trạm cứu thương thì có một thương binh bị thương đùi và khi mở băng cá nhân ra thì thấy rõ anh ta bị gẫy xương đùi. Một vết thương trầm trọng có thể gây kích xúc đi đến suy tâm mạch và tử vong. Đang tìm cách nẹp im đùi cho anh ta sau khi chích một mũi morphin giảm đau... thì...

Trời đất bỗng tối thui. Tôi không nghe tiếng gì, tai thì chỉ có tiếng ve kêu... Bỗng có tiếng của trung sĩ AM:

- ĐM, bás sĩ Tường chết rồi!

- Bác sĩ Tường chưa chết, tôi ráng nói mà ngực tức ran. Nhưng không được ĐM bác sĩ Tường.

- Bác sĩ ơi, bác sĩ đè em đau quá! tôi nghe ở dưới tôi có tiếng nói.

Lúc đó tôi mới nhận ra là mình đang nằm đè lên vết thương đùi của anh thương binh lúc đó. Thì ra một quả đạn súng cối đã rớt ngay ngoài ngõ, ngay sau lưng tôi. May mà có bức tường lan can ngăn cách giữa tôi và quả đạn. Ba thanh ciment đập vào lưng tôi. Cũng may có mặc áo giáp có cổ nên không có thương tích. Chiếc nón sắt bay tuốt vào trong nhà... Đứng dậy, thấy không có chỗ nào chảy máu, phủi bụi và lau mặt còn ám khói đen, tôi bước ra ngoài.

Sau trận pháo, chúng nhất loạt xung phong, nhiều tràng AK đã bắn vào hướng BCH. Tôi băng sang chỗ Mặt Trời xem người có hề hấn gì không? Rất may, không có ai làm sao cả. Các tuyến đều báo bắn hạ việt cộng và tịch thu chiến lợi phẩm. Liếc nhìn chiếc xe jeep hồng thập tự của tôi: bạt thì rách lỗ chỗ, hai bánh xe bên ngoài xẹp lép. Bỗng BCH Chiến Đoàn 3 báo trong máy, tăng cường 4 thiết vận xa cho TĐ3ND. Tôi mừng thầm trong bụng. Có phương tiện tản thương rồi đây. Nhưng mừng chưa được bao lâu thì Hồng Vân nói với tôi Ngô Tùng Châu bị thương vào ngực. Tôi nói ngay:

- Tôi lên đây!

Vừa nói tôi vừa chạy về trạm cứu thương kêu Phan Khuynh, y tá cấp cứu, và Đặng Là cận vệ phóng ra khoảng trống. Từ khu nhà ra đến bờ đê, khoảng cách chỉ cỡ 100m. Thấy có vẻ êm tôi lao người ra trong lúc Đặng Là gọi với theo:

- Bác sĩ cẩn thận

Tôi chạy khoảng được nửa đường thì súng bắt đầu nổ, thấy dưới chân mình bụi bay lên mỗi khi có viên đạn ghim xuống. Thực chất từ chỗ nó bắn, chắc nó chỉ quan sát được khoảng 10m, qua chỗ đó là không thấy nó bắn nữa. Ba thầy trò đều lao tới bờ đê cùng một lúc. Tôi lên tới chỗ trung uý Ngô Tùng Châu, ĐĐT/ĐĐ32ND thì người sĩ quan can trường này mỉm cười nói với tôi:

- Thối phổi rồi Tường Vi ơi!

- Thưa bác sĩ em đã băng kín cho Trung úy rồi. Lỗ ra không lớn lắm, y tá Nhơn của Đại Đội báo cáo.

Tôi kiểm tra tổng trạng, thấy ông còn khỏe, tôi để ông ngồi dựa một cái balô của lính cho dễ thở. Tôi cầm máy báo Mặt Trời tình hình, đồng thời cũng trình ông về vụ việt cộng còn bắn ở phía căn nhà ra lúc tôi băng ra đây. Ông đã chỉ thị cho toán đang chiếm căn nhà bung ra triệt hạ một tổ việt cộng trên bờ tre phía sau căn nhà lá.

Bỗng nhiên, toàn tuyến nổ ran, các quân nhân ĐĐ32 đều nổ súng trong lúc bên kia bờ đê có tiếng hô xung phong từ ruộng mía. Có tên vừa ló ra đã bị bắn hạ, có đứa chạy lên đến gần mặt đê mới ngã gục. Hầu hết đều mặc quần áo kaki và đi dép râu...

Hai đợt xung phong liều lĩnh của địch đều thất bại, ngoài ruộng mía đã có khoảng hơn 20 xác bỏ lại. Không biết Mặt Trời đã giao quyền chỉ huy Đại Đội cho ai mà từ tuyến mình có tiếng hô xung phong. Rồi từng đợt những người lính nhảy dù vừa bắn vừa chạy xuống bờ đê đánh vào khu vườn mía và bọc hai bên. Tôi ở lại cạnh Ngô Tùng Châu, anh lại mỉm cười:

- Mấy thằng con ngon lành rồi!

- Ông về kỳ này chắc phải điều trị vài tháng. Không biết có còn quay lại tiểu đoàn hay ĐĐ32 nữa không đây?

Châu lại mỉm cười...

Anh em ở lại đánh giặc bình yên...

Chợt nhìn trên bờ đê xuất hiện hai quân nhân khiêng băng ca trên đó có thương binh. Tôi chưa kịp nói gì thì Phan Khuynh đã chạy lại vừa lúc cái cáng được hạ xuống một chỗ bằng phẳng đưới chân đê. Tôi chạy lại vừa lúc tôi thấy anh ta gạt tay Phan Khuynh đang cầm cuộn băng bụng định đậy lên vết thương băng bó:

- Thôi, khỏi, tôi không xong rồi, để băng cho người khác... Gọi thượng sĩ nhất Ruy cho tôi.

- Tao đây!

Ông thượng sĩ già đã từng lăn lộn biết bao trận mạc từ Bắc vào Nam, thương lính như thương con, ngồi xuống bên cạnh đầu anh, mặt đã tái dần vì mất máu.

- Thượng sĩ nghe kỹ tôi dặn nghe...

Đại ý anh dặn, anh còn thiếu ai bao nhiêu, ai còn thiếu anh bao nhiêu, anh sửa đồ hoa ở đâu, dặn vợ con...

Ông thượng sĩ lắng nghe như vị linh mục nghe xưng tội, gật đầu; rồi nựng mặt người lính nhảy dù can trường.

Anh bỗng ngước mắt lên nhìn tôi và những người ở quanh anh, anh dơ tay phải lên như muốn chào tay, miệng nói:

- “Anh em ở lại đánh giặc bình yên...” rồi mắt bỗng đứng tròng, tay anh rơi xuống bên cạnh khuôn mặt thanh thản như không hề đau đớn.

Chắc anh đã lãnh cả một băng AK vào bụng. Vết thương đổ ruột ra ngoài, mất máu rất nhiều, sẽ không thể cứu chữa gì được ở trên mặt trận. Tôi ngậm ngùi trong lòng. Bỗng thấy tay mình còn ở thế chào tay tự lúc nào mà chưa bỏ xuống.

Lính Nhảy dù là như thế đó. Sòng phẳng với mình, sòng phẳng với người, sòng phẳng với đất nước, sòng phẳng với kẻ thù. Người đời gọi lính Nhảy dù là anh hùng, là thiên thần... thật tình chúng tôi chỉ là những con người cố gắng.

Thì ra đợt xung phong của địch ngày hôm nay là đợt cuối cùng để rút lui. Chúng nghĩ quân ta sẽ cố gắng phòng thủ không truy kích để chúng yên ổn chém vè. Chúng không thể ngờ là TĐ3ND có truyền thống là ngay sau đợt xung phong của địch, TĐ phản công ngay. Chính ở Đakto TĐ3ND đã chiến thắng vì chiến thuật này.


Ngay khi đó Mặt Trời và toàn BCH lên mặt bờ đê. Đặt ống nhòm về hướng Cầu Bến Phân qua An Phú Đông, địch đang hỗn loạn kéo nhau đi, dìu vác thương binh của chúng. Mặt Trời đã kêu pháo binh tác xạ vào đội hình của chúng và Chiến Đoàn đã điều TĐ1ND truy kích và tịch thu nhiều chiến lợi phẩm.

Chấm dứt nhiệm vụ tại giáo xứ Lạng Sơn, BCH/TD3ND đã rút về đóng tại Nhà Hưu Dưỡng Phát Diệm để điều động các Đại Đội tảo thanh quanh vùng.

Tiêu diệt địch tại kho đạn Gò Vấp

Chiều hôm đó, bếp Chiến và bếp Lược của Mặt Trời đã nấu một bữa cơm thật thịnh soạn. Từ hôm rời Bà Hom, thú thật tôi gần như không nuốt nổi chén cơm nào. Mỗi bữa cứ xin một hộp fruit cocktail hay miếng dưa hấu lúc ở Xóm Mới... Không thấy đói, chỉ thấy khát. Không nghĩ tới ăn, chỉ nghĩ đến đánh giặc, cứu chữa thương binh và nhất là di tản họ ra khỏi chiến trường. Còn nhớ mấy hôm trước đang nan giải vấn đề tản thương thì Tiểu Đoàn được tăng phái 2 chiếc thiết vận xa M113. Tôi xin được Mặt Trời cho phép một chiếc tản thương để giải quyết những anh em bị nặng về TYV/Cộng Hòa vốn gần ngay phía Nam Xóm Mới. Nhờ xe M113 và khẩu đại liên 50 trên pháo tháp nã đạn vào các cao ốc chỗ ngã tư chợ, xe và thương binh đã vượt qua được chỗ nguy hiểm. Phải khen ngợi tinh thần những người lính mũ đen thiết giáp. Họ đã hoàn tất nhiệm vụ di tản đến nơi, đến chốn và đã an toàn quay trở lại cùng với Tiểu đoàn chiến đấu.

Từ sau trận Chợ Cạn, Quảng Trị trong cuộc hành quân Lam Sơn 63, Mặt Trời mời tôi hàng ngày dùng bữa với câu lạc bộ Tiểu Đoàn. Bữa cơm hôm nay ngoài Bộ Chỉ Huy gồm Mặt Trời, Hồng Vân, Cố Vấn Mỹ, ĐĐT/ĐĐ30, còn có thêm các “tony” mới về trình diện Tiểu Đoàn. Đó là mấy Thiếu úy vừa tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Những vị sĩ quan hiện dịch, chọn đời lính làm nghiệp. Mặt Trời tính rất hào phóng và rất thương yêu đồng đội, nên các “tony” đã được mời dùng bữa với ông trước khi trở về các Đại Đội.

Đêm hôm đó, không nghe tiếng súng, trăng lên cao trên mấy hàng cau trong nhà hưu dưỡng. Tôi ra sân thượng, bàn ghế còn ngổn ngang sau bữa ăn tối, hút điếu thuốc Pall Mall, cố vấn Mỹ vừa được tiếp tế hồi chiều, tặng cho một bao. Dưới ánh đèn trong phòng tôi hắt ra, tôi lấy thư bà xã vừa nhận hồi chiều ra đọc. Đại ý bả nói, thấy yên rồi, nên xin phép đưa mấy đứa về nhà. Tôi nghĩ cũng phải, vì dù sao ở nhà cũng vẫn tiện nghi hơn trong doanh trại với trạm cứu thương chật hẹp. Cẩn thận xếp thư vào túi ngực, định bụng, sáng mai sẽ nhờ truyền tin gọi cho hậu cứ để bả về nhà, tôi vào phòng, tháo đôi dầy botte de saut, chui vào mùng đi ngủ.

Giật mình choàng dậy vì những tiếng nổ lớn... Không lẽ tụi nó pháo vào khu này để tấn công? Đai nịt gọn gàng, phóng sang bên chỗ Mặt Trời thì mới biết là chúng tấn công Kho Đạn Gò Vấp. Đã có lệnh cho TĐ3ND can thiệp. Nghe trong máy truyền tin Hồng Vân chuyển lệnh Mặt Trời cho ĐĐ31 chuyển quân ngay trực chỉ Kho Đạn. Những tiếng nổ lớn không phải là địch pháo kích mà là đạn đại bác trong kho đạn phát nổ. Không biết là do ta cho nổ hay địch phá hủy. Tiểu Đoàn được lệnh di chuyển tới vùng Kho Đạn. Tôi lấy xe Hồng Thập Tự phóng lên phía trước Từ xa xa đã thấy những cột khói đen bốc lên và tiếng nổ càng lúc càng gần. Tôi cho xe tắp và sát bờ tường gần cổng vào. Một số quân của Đại Đội 31 còn nép dọc theo bờ tường, chờ xung phong vào trong kho đạn.

- Sao chưa vào được hả, tôi hỏi trống không.

- Tụi nó ở trong bắn đại liên ra., một Thiếu úy mới nói.

Một lát sau, tôi thấy trung đội của ông thiếu uý này băng qua cổng vào bên trong. Tôi và trạm cứu thương là những người sau cùng của toàn quân chạy vào. Chúng tôi tắp vào phía bên phải mặt tiền của dẫy nhà Eiffel, có lẽ là ban chỉ huy kho đạn. Tôi bảo anh em thiết lập trạm cứu thương tại đó. Đã bắt đầu có một vài anh em bị thương được dìu, cáng về đây. Chúng tôi có việc làm ngay rồi. Những tiếng nổ lớn tiếp tục vang rền nhưng thưa thớt hơn trước. Những lúc chưa có thương binh, tôi đã bọc ra phía sau, tức là phía đang có đụng trận giữa ta và địch. Hai chiếc M113 len lỏi giữa các ụ chất đạn pháo binh. Trên nóc xe có lính TĐ3 ngồi cạnh pháo tháp, nhằm phía tường thành phía sau doanh trại tác xạ. Chiếc xe cứu hỏa của quân đội cũng tích cực, bất chấp đạn địch, cố gắng phun nước vào đám cháy phía sâu bên trong, gần lô cốt sát tường phía sau. Giữa hai loạt đạn, tôi ghé mắt nhìn ra phía đụng độ, thấy tường thành phía sau có một lỗ hổng lớn, đường kính phải rộng đến 3 thước. Tôi thấy đại liên 50 của chiếc M113 đậu sau ụ đất nhả đạn liên tục vào lỗ hổng đó. Tôi đã thấy dường như có người chạy vừa vào đến đó đã bị bắn gục, có kẻ chạy ra, chưa lọt cũng bị đốn ngã. Hay thiệt! Tôi đã báo cáo Mặt Trời phải tưởng thưởng các chiến sĩ thiết giáp này.

Bỗng có ai gọi tôi đàng sau. Tôi chạy lại thì một y tá của tôi nói, có xe jeep của ai đậu chắn ngang cổng, xe tản thương không ra được. Tôi chạy ra thì quả là có chiếc xe jeep không phải của Nhảy Dù. Tôi hét lên:

- Xe của ai, mang đi chỗ khác!

Tôi tới chỗ sát chân tường nới có lẫn lộn mấy người lính của mình lẫn với bộ binh. Bỗng nghe thấy đứng sát tường, phía sau tôi, một người mặc áo giáp, nói:

- “Xe của tôi. Để tôi nói em nó lái ra chỗ khác”

Vì áo giáp che cổ áo, nên tôi không biết ông này là ai, cấp bậc gì. Anh lính bộ binh lấm lét nhìn vào trong kho đạn rồi chạy ù ra nhảy lên xe, đề máy, rất may, máy nổ liền, anh ta phóng lên phía trước, vừa lúc một tràng AK bắn với ra phía cổng, tầm đạn bay cao ngang đầu. Một lúc sau, có ai đó nói với tôi rằng:

- Đại tá Đồng Văn Khuyên đó!

Tiếng nổ vừa dứt, tôi phóng trở vào trong. Và dặn tài xế xe hồng thập tự chạy qua cửa thật nhanh để tránh bị bắn. Nhìn kỹ lại, thì ra địch từ nóc lô cốt bắn ra cửa. Chứ toàn bộ kho đạn, quân ta đã tảo thanh hết địch rồi. Chỉ còn trong lô cốt là có tụi nó, và thường hay trồi lên bắn về phía quân ta. Xác địch nằm rải rác bên cạnh các ụ đạn khá nhiều. Súng ông và quân dụng của chúng được gom lại gần trạm cứu thương. Quân ta, cho đến lúc khoảng giữa trưa, không có nhiều thương binh, không có tử sĩ. Xe cứu hỏa hết hoạt động được vì các vòi rồng bị trúng đạn phun nước tung tóe. Cũng may là các đám cháy không còn nữa và cũng hết tiếng đạn nổ. Đại Đội 31 xung phong tới lỗ hồng ở bờ tường phía hậu kho đạn. Phía trong và phía ngoài lỗ hổng, ngổn ngang hơn ba chục xác giặc với đầy đủ vũ khí.

Đang lúc quân ta còn đang reo hò chiến thắng thì bỗng có tiếng nổ lớn ngay phía sau khiến có mấy quân nhân của mình ngã xuống. Thì ra cái lô cốt cao khoảng 6m, nằm trong vòng thành còn có việt cộng trong đó. Chắc chúng không dám chạy ra lỗ hổng, nên đã chui vào lô cốt, đóng chặt cửa sắt, tử thủ. Thỉnh thoảng chúng mở cửa trên vọng gác có mái bê tông che, ném lựu đạn ra.

Tất cả các loại súng lớn nhỏ đã nhắm vào cái lô cốt nhả đạn. Quân ta lúc đó chưa có đạn chống chiến xa nên không sao bắn xuyên qua cánh cửa sắt của lô cốt. Từ trưa đến chiều, hàng chục ngàn viên đạn bắn vào mà chiếc lô cốt chỉ mất lớp xi măng ngoài, trơ cốt sắt ra. Trong một phản ứng của địch, chúng đã ném ra một trái lựu đạn, trong lúc xung quanh, quân mình còn đang đứng bắn vào cửa sắt. Chưa kịp báo động thì lựu đạn phát nổ, một người nằm xuống. Tôi chạy lại thì đó là một trong những “tony” Thiếu úy mới đáo nhậm tiểu đoàn hôm qua. Chưa kịp nhớ tên thì nghiệp lính của anh đã hết.

Một nỗi buồn dâng lên trong tâm hồn tôi khi nhớ lúc trên tay tôi, anh nấc lên từng hồi, mắt môi hé mở, rồi... ra đi... Tôi đau xót nhìn theo anh em cáng anh ra đi ra phía trạm cứu thương!

Chung quanh lô cốt, các chiến sĩ TĐ3 tìm cách ném lựu đạn vào khe hở giữa mái che và bờ thành lô cốt. Nhưng gần như tất cả đều không ai ném lọt. Không biết bị hụt bao nhiêu lần rồi, lần này thượng sĩ Minatra, hạ sĩ quan trong toán cố vấn Mỹ ném lọt một quả M26 lọt vào bên trong. Lựu đạn nổ tung, khói tỏa ra khe cửa sắt dưới chân lô cốt. Chắc chúng nó tiêu rồi. Lúc đó, anh em đã có thể bám sát lô cốt. Người ta mang khẩu đại bác không dật 57 lại thổi thẳng vào cửa sắt làm cửa bung ra. Những người lính Nhảy Dù đầu tiên của ĐĐ31 nhảy vào và đưa ra một lá "cờ đảng" mầu đỏ với búa liềm mầu vàng chéo nhau, một lá cờ "Mặt Trận Giải Phóng," nửa đỏ nửa xanh sao vàng, và một tấm hình Hồ Chí Minh bằng vải dệt tại Thượng Hải. Ba khẩu AK47 và một khẩu súng lục K54. Chắc đây là ban chỉ huy của tiểu đoàn việt cộng tiến đánh kho đạn. Chúng đã bị đồng đội sống sót rút ra khỏi kho đạn bỏ lại trong cái lô cốt oan nghiệt này.

Tôi rút ra ngoài vừa lúc Mặt Trời và BCH/TĐ tới nơi. Tôi báo cáo sơ khởi. Mặt Trời cũng lấy làm tiếc như tôi: nếu không có cái chết của ông Thiếu úy mới ra trường thì bên ta chỉ có 5 hay 6 người bị thương gì đó, thiệt hại rất nhẹ. Địch thì chết la liệt, hàng chục súng ống đã lọt vào tay TĐ3ND.

Tối nay, BCH/TĐ trở lại nhà hưu dưỡng. Tôi bỗng khựng lại khi bước lên sân thượng. Chính ở chỗ này, tôi đã bắt tay các sĩ quan mới ra trường về TĐ3. Tôi không còn nhớ khuôn mặt anh ta lúc tôi bắt tay. Tôi chỉ nhớ khuôn mặt nhợt nhạt với tiếng nấc cuối cùng của anh trên tay tôi!

Ngày hôm sau, TĐ3ND được lệnh di chuyển đến Trại Cưa Quân Đội để chuẩn bị tiến vào khu An Phú Đông truy kích địch. Sáng hôm đó, có một binh sĩ Tiểu Đoàn gặp tôi, chào kính rồi nói nhỏ:

- Em có cái này muốn tặng bác sĩ.

Còn đang sửng sốt thì anh ta dúi vào tay tôi một miếng vải và một sấp giấy rồi vội vã bỏ đi, chưa kịp cho tôi cảm ơn. Tôi kín đáo mở miếng vải ra xem: Thì ra đó là tấm hình Hồ Chí Minh, lớn hơn bàn tay một chút. Sấp giấy là một bức thư lấy trên xác việt cộng. Tôi bỏ tất cả vào túi. Ăn trưa qua loa xong, tôi kéo Đại úy Andrews ra hút thuốc và lấy tấm hình ra khoe. Thấy trong mắt anh ta ánh lên một sự thèm thuồng. Tôi ngẫu hứng hỏi:

- Do you want it?

- Oh yes!

- I offer it to you!

- Oh no, I don’t believe it! Thanh you Bac Si! Thank you so much!

- Forget it. It’s my pleasure.

Thực chất, tôi rất cảm ơn anh lính đã cho tôi món quà mà anh đã đánh đổi mạng sống mình để đoạt được nó. Nhưng thấy cái bản mặt tên Hồ thì tôi lại không quên được những hình ảnh khốc liệt của "Cải cách ruộng đất" năm xưa. Tôi không muốn giữ nó. Vì thế nên tôi có nhã ý tặng lại cho người bạn đồng minh, đã bỏ quê nhà qua chiến đấu bên cạnh tôi, và biết đâu, có ngày sẽ bị hy sinh vì chúng ta. Đang còn nói chuyện với Andrews thì tôi bỗng giật mình vì thấy vợ tôi ôm đứa con nhỏ nhất đang đi đến phía tôi. Tôi chạy lại hỏi:

- Làm sao bồ tới được đây?

- Em theo xe tiếp tế. Chú Trực nói, có phép của Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng.

Dĩ nhiên là tôi quá mừng và đây là điều ngạc nhiên thú vị nhất. Chúng tôi hàn huyen được một lúc, trước khi nàng phải theo xe về. Tôi nói với Trực là ngày mai cho bả và các con tôi về nhà. Chiến sự đã ra ngoài thành phố rồi.

Trước khi chia tay, vẻ mặt nghiêm trọng; vợ tôi nắm tay tôi nói:

- Trước đây em chỉ đồng ý cho anh đi Nhảy Dù một năm rồi phải về đi đơn vị tỉnh tại. Nhưng mấy hôm ở trên trại, em thấy mỗi lần xe chở xác các anh em về, vợ con họ chạy lên, khóc lóc đòi xem mặt. Nhưng khi mở poncho ra họ vừa bỏ chạy vừa khóc, vì có người bị cháy xém cả mặt mày... Em thương lính của anh và các người vợ lính lắm. Em nói hết cho anh nghe nha: Anh muốn đi bao lâu cũng được. Anh em cần anh lắm đó.

Tôi nghe mà lặng người. Nàng lên cabine chiếc xe GMC vẫy tay chào tạm biệt.

Đây An Phú Đông!

Ngay chiều hôm đó Tiểu Đoàn trực chỉ tiến vào khu An Phú Đông, một địa danh có tiếng thời Việt Minh. Vùng này từ đó vẫn được coi là vùng xôi đậu. BCH tiểu đoàn chia ra đóng tại một số căn nhà gạch bỏ trống ở “miệng túi” vùng An Phú Đông, vốn là một eo đất, một bán dảo nằm giữa vòng lượn của sông Sài Gòn.

Nếu không có chiến tranh, không có những trận chiến ác liệt vừa xảy ra ở trong vùng này thì đây quả là một vùng đồng quê êm đẹp. Những vườn cau, đang trổ hoa, những ruộng trồng huệ đơm bông trắng ngần. Những vườn ngâu cao vượt đầu người, hoa vàng thơm ngát. Đêm xuống với ánh trăng sáng vằng vặc khiến tôi nhớ đến những văn hào của Tự Lực Văn Đoàn khi xưa tả những cây cau trong bóng đêm, trông như những con nhện khổng lồ treo mình bằng sợi tơ vô hình từ trên trời thả xuống, hay ánh trăng loang loáng trên các tầu lá cau cho cảm tưởng như ướt át sau một cơn mưa... Bỗng nhớ lại sấp giấy anh lính trao cho tôi còn nằm trong túi. Tò mò, tôi lấy ra, bật đèn pin có kính mầu đỏ ra đọc.

Bức thư này của một người lính việt cộng mang tên là Khang. Anh ta đã rời quê hương Hưng Yên và được điều đến chiến trường Bắc Sài Gòn, để rồi đã bỏ mình bên hàng rào kho đạn Gò Vấp chiều hôm qua. Lá thư đang viết dở dang. Chữ viết đều đặn, nghiêng nghiêng cho thấy anh chắc đã học hết cấp ba. Thư viết cho một người tên Hải, không rõ là người yêu, là vợ, là em gái hay em trai. Lời lẽ rất thân thương. Thời gian sắp 48 năm qua, không nhớ từng câu từng chữ. Nhưng đại để anh viết, đây là lá thư đầu tiên gửi về thăm “nhà” từ “miền Nam ruột thịt”. Anh khoe “Anh hãnh diện sẽ là một trong những người đầu tiên nện gót dày trên thành phố mang tên Bác”. Thì ra, ý định đổi tên Sài Gòn đã có từ những năm đó, chứ không phải là sau ngày 30/04/1975. Anh kể những gian khổ, bom đạn, sốt rét trên rừng Trường Sơn. Không có xóm làng, không gặp ai chào đón như được học tập. Cho đến lúc nhìn thấy được nhà dân ở xa xa thì cũng là lúc được lệnh phải “ếm quân tránh địch đi càn”. Anh kể, nghe ké đài của cán bộ mới biết “ngoài mình” đang chuẩn bị Tết. Anh thú thật “cũng chẳng biết ngày nào là Tết, đã qua rồi hay sắp tới.” Trước khi anh và đồng đội tới đây, anh đã được cán bộ “lên lớp” là “nhân dân miền Nam đang nổi dậy và đang chờ đón quân giải phóng”. Anh rất phấn khởi... Và lá thư đã bị bỏ dở dang ngay chỗ đó. Dở dang vĩnh viễn...

Tiếng côn trùng, ếch nhái vang lên trong đêm, tôi không dám đốt điếu thuốc đã cầm trên tay, sợ làm mất đi cái hương thơm đồng nội. Tôi đi vào giấc ngủ cảnh giác một cách êm đềm. Đầu óc diễn lại bao nhiêu biến cố hiểm nguy, đau buồn, cảm động... đã diễn ra trong cái ngày hôm nay.

Sáng sớm, tôi thức giấc lúc trời mới hừng sáng, không bằng tiếng nổ, không cần ai đánh thức. Tôi đã được đánh thức bằng hương hoa vùng An Phú Đông. Thật là khoan khoái. Tôi chui ra khỏi mùng, đi ra ngoài hè lát gạch đỏ ối, hoa cau rụng trắng cả lối đi. Cùng lúc các mùi thơm của huệ, hoa lài, hoa ngâu, và dĩ nhiên là hoa cau... đầy ắp không gian. Gần 50 năm sau, khi viết những dòng này, tôi còn dường như ngửi thấy tổng hợp những hương thơm huyền diệu đó. Rất khó tả nó là mùi gì vì là sự pha trộn những mùi hương nhẹ nhàng nhất, êm ái nhất mà tạo hóa đã ban cho từng loài hoa. Giữa nơi bom đạn, lửa khói như hỏa ngục, đã có những khoảnh khắc thanh thoát lừng hương hoa thơm cỏ lạ như cảnh thiên đường! Quả là huyền diệu...

Bỗng Trung tới, mời tôi sang họp BCH. Thế là lại bắt đầu một chuỗi ngày súng đạn nữa rồi. Càng tiến sâu vào vùng An Phú Đông, các ruộng vườn hoa thơm dần dần nhường chỗ cho những bãi mía mênh mông. Tiểu Đoàn đi được nửa ngày thì súng nổ. Địch quân ở trong các ruộng mía bắn ra. Khi quân ta bắn trả thì chúng rút sâu vào trong rừng mía. M16, M60 nã vào chỉ làm gẫy cây mía mà việt cộng thì an toàn. Tiểu đoàn đã điều động tất cả M79 câu vào giữa ruộng. Bỗng có một trái M79 gây đám cháy, gió thổi vào làm cả ruộng mía phát hỏa, khói bốc lên nghi ngút. Việt cộng trong ruộng bỏ chạy thục mạng ra ngoài, không biết phương hướng nào cả, nhiều tên chạy thẳng vào phía quân ta. Có đứa bị bắn hạ, có đứa bị bắt sống. Từ đó, mỗi khi gặp “trận địa mía” là ta đánh hỏa công. Lần nào ta cũng thắng.

Càng vào sâu, địch càng chống trả mãnh liệt. Quân số của địch chắc cũng phải cấp tiểu đoàn vì chúng có cả súng cối và đại liên. Lực lượng giang thuyền của hải quân ta đã từ ngoài sông đã dùng súng MK- 18 gắn trên tầu bắn từng tràng M79 vào các lùm cây ven bờ khiến địch quân bị kẹt giữa hai lằn đạn phía trước và phía sau. Trực thăng võ trang cobra của Mỹ đã tác xạ rất chính sác vào các ổ súng cộng đồng của địch. Từng ổ việt cộng bị tiêu diệt vì không có lối thoát, không có tiếp viện. Những đứa nhảy xuống sông lặn vào giữa những bụi cây um tùm cũng bị bắt sống hoặc bị lựu đạn chết chìm tại chỗ.

Trận An Phú Đông kéo dài mấy ngày liên tiếp, bên ta chỉ có một số không đáng kể bị thương nhẹ. Địch tổn thất nặng. TĐ3ND một mình một chợ đã tịch thu hàng trăm vũ khí đủ loại.

Sau trận An Phú Đông Tiểu Đoàn được điều đến an ninh vòng đai phía Bắc Sài Gòn. Bộ Chỉ Huy đóng gần Hãng Bột Ngọt Vị Hương Tố.

Cuộc tấn công của việt cộng trong dịch Tết Mậu Thân tại Sài Gòn đã bị hoàn toàn thất bại, với những tổn thất rất lớn cho địch. Một lần nữa, TĐ3ND, dù mới được bổ sung quân số và tái huấn luyện, đã chứng tỏ vẫn duy trì được truyền thống bách chiến bách thắng của Tiểu Đoàn từ ngày mới thành lập đến nay. Trận đánh ở Xóm Mới đã thắng lợi lớn vì bẻ gẫy được mũi tấn công của địch vào phía Bắc phi trường Tân Sơn Nhất và thủ đô Sài Gòn. Nó còn một thành công nữa về tình quân dân cá nước. Ông y tá trưởng của tôi và nhiều quân nhân khác của tiểu đoàn đã thành rể Xóm Mới.

Những tấm huy chương, những cặp lon mới đã nở trên cổ áo, trên ngực của rất nhiều quân nhân Tiểu Đoàn. Cờ Tiểu Đoàn được gắn thêm một Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu nữa. Chỉ cần một huy chương nữa là TĐ3ND sẽ được mang dây biểu chương mầu tam hợp.

Bây giờ khi ngồi viết những dòng này mới thấy thời gian đã xóa mờ nhiều ký ức, nhiều chi tiết, nhiều kỷ niệm. Mong rằng những ai của TĐ3ND đã dự trận này bổ túc thêm. Sao cho thế hệ con em chúng mình biết được những gì cha anh họ làm trong những ngày chiến đấu lịch sử trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Tiểu đoàn đóng ở Hãng Bột Ngọt chưa được bao lâu thì đã được không vận ra miền Huế để tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 207A hay Pegasus, giải tỏa Khe Sanh. Nhưng đó lại là chuyện khác.

Mũ Đỏ Trần Đức Tường
Chỉ Huy Trưởng KBC 3053
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tramthaiha »

NGƯỜI NỮ TU TRONG CÔ NHI VIỆN PLEIKU...

Image

Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng gió mưa lầy lội. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ. Bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn, phải nói là ông anh mới đúng, là Liên Đoàn Trưởng của một Liên Đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.

Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.

Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp tùi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:

– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?

Tôi khựng lại, ngạc nhiên:

– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!

– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?

Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:

– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà.

Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:

– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?

Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.

***

Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.

Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghị anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:

– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo lại là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Là một cô con gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ. Cô có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt còn có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.

Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:

– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?

Vị linh mục buồn bã:

– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.

Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.

Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thấy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.

– Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?

Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:

– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.

Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.

– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?

Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặc.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:

- Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.
Image
Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng”nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng “gió lạnh mưa mùa”, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị xưa, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tramthaiha »

NGƯỜI NỮ TU TRONG CÔ NHI VIỆN PLEIKU...

Image

Hơn sáu tháng sống chết với chiến trường và giữ vững được Kontum, đầu tháng 10 1972, đơn vị tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt dành cho một đơn vị đã tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng trên Đồi Đức Mẹ lại là một tháng gió mưa lầy lội. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những vết chém đang còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên trong chốc lát đã là một điều không dễ. Bọn tôi thèm những cơn say. Rất may, tôi có một anh bạn, phải nói là ông anh mới đúng, là Liên Đoàn Trưởng của một Liên Đoàn Biệt Động Quân, có căn cứ tại Biển Hồ. Vợ và hai đứa con bị chết thảm tại Quảng Đức hơn một năm trước, khi xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ còn làm người tình với rượu. Những ngày không bận hành quân, anh đến đón tôi đi uống rượu trong một cái quán nằm trong Khu Chợ Mới, đã vậy mỗi khi trở về, anh còn dúi cho tôi một chai Hennessy. Trước kia anh từng là một cấp chỉ huy có tiếng trong binh chủng này, nhưng vì bản tính ngang bướng bất cần, nên nhân một lý do phe phái chính trị nào đó, anh bị ngồi tù một thời gian ngắn. Ra tù, anh bị thuyên chuyển về đơn vị tôi với cái lệnh “không được giữ bất cứ chức vụ chỉ huy nào”. Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ, an ủi anh và kéo anh về ở chung nhà trong khu cư xá, vợ tôi lo chuyện cơm nước cho anh. Một thời gian sau, bỗng dưng anh được xét cho “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một liên đoàn Biệt Động Quân. Do cái ân tình đó mà anh quý mến tôi, kéo tôi theo các cuộc giải sầu này.

Dường như ngoài quán rượu ra, thỉnh thoảng anh chỉ ghé đến thăm một cô nhi viện. Nói là viện nhưng thực ra đây chỉ là một ngôi trường cũ, được chỉnh trang lại, tạm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một trại cô nhi. Có lẽ anh muốn tìm lại bóng dáng của hai đứa con đã phải chết oan một cách đau đớn qua hình ảnh các cháu cô nhi mà đa số là con của tử sĩ, có cả con của những người lính Biệt Động Quân của anh, mà cả người mẹ cũng chết, hay vì một lý do nào đó không có khả năng nuôi dưỡng, nên đành phải gởi lại nơi đây, nương nhờ vào bàn tay và tấm lòng nhân ái của những bà sœur. Anh bảo là từ sau trận chiến Tân Cảnh và Kontum, cô nhi viện này nhận thêm khá nhiều cô nhi. Hằng tháng, anh ghé lại đây thăm và tặng cho viện một số tiền, bởi bây giờ anh sống độc thân, không còn phải chu cấp cho ai. Biết điều này, tôi càng kính quí anh hơn. Một người ngang tàng không biết sợ ai, sống bất cần đời, nhưng bên trong là cả một tấm lòng vị tha nhân ái.

Một hôm theo anh đến đây, chúng tôi được một bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó. Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu rồi. Cũng có thể vì khuôn mặt khả ái, hiền thục của sœur phảng phất gương mặt của Đức Mẹ Maria mà tôi thường thấy trên các bức ảnh hay bức tượng trong các nhà thờ. Được giới thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên của tôi trên nắp tùi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:

– Có phải lúc trước đại úy ở Tiểu Đoàn 3/44?

Tôi khựng lại, ngạc nhiên:

– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!

– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình như đại úy suýt chết trong trận ấy?

Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa nghĩ ngợi, thăm dò:

– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi mà.

Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:

– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải không?

Tôi giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng của một người con gái khác.

***

Vào khoảng đầu mùa hè năm 1966, tôi đang làm đại đội phó Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 3/44. Thời gian này hậu cứ tại Ban Mê Thuột, nhưng tiểu đoàn được chọn làm đơn vị trừ bị lưu động cho Sư đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Thời ấy chưa có các đại đội trinh sát. Đơn vị tôi có mặt gần như trên khắp lãnh thổ Khu 23 Chiến Thuật, kéo dài từ vùng cao nguyên có biên giới với Cam Bốt cho đến tận miền duyên hải. Có khi hôm trước còn hành quân ở Quảng Đức, Lâm Đồng, hôm sau lại có mặt ở Bình Tuy, Tuy Hòa, Phan Thiết…

Một hôm, sau cuộc hành quân dài hạn ở khu Cà Ná, thuộc tỉnh Ninh Thuận, tiểu đoàn được lệnh di chuyển về Cam Ranh, vừa nghỉ dưỡng quân vừa giữ an ninh các đảo ngoài khơi để lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân xuống đây thiết lập căn cứ.

Trong một đợt bổ sung quân số, đại đội tiếp nhận ba hạ sĩ quan và gần hai mươi tân binh vừa rời khỏi quân trường. Tôi đến bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận lãnh và đưa về trình diện anh đại đội trưởng. Trong ba trung sĩ, một anh có dáng dấp, nói năng hiền lành như một thầy tu. Xem qua lý lịch và nhất là sau khi nói chuyện, tôi biết anh là thầy giáo một trường dòng và cũng là trưởng ca đoàn của một nhà thờ ở ngoại ô thành phố Nha Trang, quê hương tôi. Tôi không phải là người Công giáo, nên không mấy am tường các sinh hoạt này, nhưng biết chắc một điều, trưởng ca đoàn phải là một người hát hay và giỏi về nhạc lý. Vốn có máu văn nghệ, lại là người đồng hương, nên tôi dễ thân tình và thường bắt anh hát cho cả đại đội nghe. Tôi đề nghị anh đại đội trưởng cho anh làm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của đại đội. Từ đó chúng tôi rất thân nhau, ăn cơm chung và treo võng ngủ gần nhau dưới một vòm cây dương liễu.

Thấy anh có cái tên hơi lạ, Nguyễn Phú Hùng Em, tôi đoán và hỏi anh có phải anh có người anh tên Nguyễn Phú Hùng Anh. Anh cười mà nét mặt không vui:

– Dạ, đúng là có một người là Nguyễn Phú Hùng Anh, nhưng không phải là anh ruột. Chúng tôi lớn lên trong viện mồ côi, vì trùng tên, và anh ấy lớn hơn tôi ba tuổi, nên các sœur đặt lại tên chúng tôi như thế. Bọn tôi cũng rất thân nhau và xem như anh em. Điều buồn, là anh ấy đi lính trước, vào Trường Sĩ QuanThủ Đức và tử trận cách nay hơn một năm rồi.

Thời gian này, đơn vị chúng tôi rất may mắn, chẳng khác nào được đi nghỉ mát. Hải đảo lại là nơi thực tập cho các toán Biệt kích của Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn, nên khá an toàn. Suốt ngày bọn tôi chỉ tắm biển, câu cá, ban đêm nằm nghe sóng vỗ, đàn hát nghêu ngao. Có lẽ đây là thời gian đặc biệt thoải mái nhất trong cuộc đời làm lính của tôi. Nhân cơ hội hiếm hoi này, ông Tiểu đoàn trưởng cho phép binh sĩ được luân phiên đón vợ con ra thăm và được ở lại trong hai tuần lễ.

Một hôm anh Trung sĩ Hùng Em xin tôi cho được đón người yêu mà anh cho biết, nếu anh không bị động viên thì chắc hai người đã làm đám cưới. Tôi sắp xếp, dọn sang nằm với người lính ô-đô và nhường chiếc võng lại cho anh. Cả bọn tôi khá bất ngờ khi anh đưa người yêu đến chào. Là một cô con gái đẹp, làn da trắng, khuôn mặt phúc hậu, đôi môi mọng đỏ với nụ cười hiền lành, lễ độ. So với anh, cô còn khá trẻ. Cô có cái tên cũng rất khả ái: Thụy Khanh. Đặc biệt còn có giọng hát rất hay. Mỗi lần cô hát, cả đám lính tráng bọn tôi ngồi nghe mê mẩn.

Sau đó, cô đến đảo thăm anh vài lần nữa. Những ngày có cô, núi rừng trên đảo dường như bỗng trở nên đẹp, thơ mộng và vui vẻ hơn, sóng biển thì êm ả hơn như để cùng hòa theo tiếng hát của cô. Ngoài ra cô còn có tài nấu ăn, thường đãi bọn tôi những bữa cơm rất ngon miệng. Tất cả đơn vị, từ quan tới lính ai cũng nghĩ anh Trung sĩ Hùng Em thật là tốt phước, ông trời đã cho anh một người tình, một người vợ lý tưởng sau này. Qua tâm tình, chúng tôi được biết, hai người quen biết nhau trong viện mồ côi từ khi còn rất nhỏ. Sau này anh vừa là thầy dạy học, dạy nhạc vừa là trưởng ca đoàn của cô trong cùng một nhà thờ. Hai người đều chơi dương cầm và hát hay nhất trong ca đoàn. Tình yêu bắt đầu nẩy nở từ môi trường cô nhi và âm nhạc. Và cuộc tình của hai người được các vị linh mục cùng các sœur đồng tình, khuyến khích, như là một sự kết hợp nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Hơn ba tháng thần tiên ở đảo Cam Ranh, khi các đơn vị tiền trạm của Hoa Kỳ được ào ạt đổ xuống thành lập “Cam Ranh Air Base”, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi đảo, di chuyển để tiếp tục lưu động khắp nơi. Lâm Đồng, Bình Thuận rồi Ninh Thuận, Sau những cuộc hành quân dài hạn trong rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu. Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng có được một hạnh phúc như thế.

Tháng bảy năm 1966, khi đơn vị nghỉ quân ở Tháp Chàm – Phan Rang, Trung sĩ Hùng Em xin một tuần phép đặc biệt để về Nha Trang làm đám hỏi. Anh bảo cả hai người đều không có cha mẹ anh em, nên lễ đính hôn đều do các vị linh mục và các sœur đỡ đầu tổ chức.

Đúng lúc anh vừa mãn phép trở lại, thì đơn vị có lệnh không vận khẩn cấp lên Ban Mê Thuột để tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị thiệt hại khá nặng tại trận chiến Quảng Nhiêu, nằm phía Tây Bắc, cách thành phố Ban Mê Thuột khoảng hơn mười cây số. Trận chiến khá cam go, ác liệt. Một lực lượng địch cấp trung đoàn, sau khi tổ chức phục kích gây tổn thất cho chi đoàn Thiết Quân Vận và một đại đội Biệt Động Quân tùng thiết, bọn chúng đào nhiều giao thông hào và hầm hố cá nhân kiên cố trong các vườn cà phê, để chặn đánh các cánh quân của ta tiếp viện. Tiểu đoàn tôi cùng một chi đoàn Thiết Vận Xa khác được tăng phái cho Trung Đoàn 45, đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Võ Văn Cảnh, đảm trách cuộc hành quân phản công, bao vây tiêu diệt địch.

Địch chiếm ưu thế về vị trí, chuẩn bị trận địa, bên ta có sức mạnh của thiết giáp và không yểm. Sau suốt năm ngày đêm không ngủ, lăn mình trong mịt mù lửa đạn quần thảo với địch, cuối cùng chúng tôi đã đạt được chiến thắng. Một số lớn địch quân bị tiêu diệt và bắt sống, nhưng bên ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ. Đại đội tôi may mắn, chỉ có ba quân nhân tử trận và khoảng mười người bị thương, trong đó có anh đại đội trưởng. Tôi được chỉ định tạm thời chỉ huy đại đội.

Cuộc hành quân vẫn chưa kết thúc, một số đơn vị tiếp tục truy kích địch, riêng tiểu đoàn tôi được lệnh ở lại Quảng Nhiêu. Ban ngày tung các cuộc hành quân tảo thanh chung quanh, ban đêm phòng thủ bảo vệ khu vực dân cư, mà đa số là người Công giáo, đề phòng địch quay lại quấy rối, phục thù. Đại đội tôi được chỉ định bảo vệ một Pháo đội Pháo Binh 105 ly. Điều tồi tệ là vị trí Pháo đội này nằm trên một khu đất trống trải, trong phòng tuyến và cả phía bên ngoài cũng không có một cành cây, dưới đất chỉ toàn là bụi đỏ, dày cả một gang tay. Mỗi lần Pháo binh tác xạ, cả đất trời gần như chỉ toàn là bụi. Đám lính chúng tôi từ đầu tới chân cũng phủ đầy bụi đỏ. Đơn vị Pháo Binh thì đã có sẵn hầm hố kiên cố từ trước, còn đại đội tôi phải tự đào lấy những hố cá nhân, nhưng không thể đào sâu được, vì dưới đất chỉ toàn bụi và bụi, đào đến đâu bụi đỏ tràn theo tới đó, và mỗi lần Pháo Binh tác xạ, những cái hố này bị bụi lấp cạn thêm. Ban đêm, chúng tôi nằm trong những chiếc hố ấy, nhưng không che đủ nửa thân người. Cái hố của tôi dành cho hai người nằm, tôi và anh Hạ sĩ mang máy truyền tin. Hố kế bên trái là Trung sĩ Hùng Em và anh lính ô-đô của tôi.

Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh, mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên, nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61 ly từ hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng nghe anh lính ô-đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh nguyên một quả đạn 61 ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô-đô của tôi nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu và thịt của người đồng đội xấu số. Tôi theo hai người lính khiêng thi thể Trung sĩ Hùng Em, được gói tạm trong tấm poncho, vào hầm cứu thương của Pháo Đội. Anh chết thật thê thảm. Tôi đứng lặng người, sau khi vuốt đôi mắt cho anh. Từ khi ấy cho đến sáng, tôi không hề chợp mắt. Tôi nghĩ đến Thụy Khanh, cô con gái xinh đẹp hiền thục, có giọng hát khuấy động cả trái tim người, vừa trở thành vị hôn thê của anh chỉ mới hai tuần trước. Trưa hôm qua, khi rủ nhau vào thăm ông cha xứ trong xóm đạo và để xin được tắm giặt ở cái giếng sâu phía sau nhà thờ, anh đã khoe tôi tấm hình anh chị chụp chung trong lễ đính hôn, và bảo rằng cuối năm này hai người sẽ làm đám cưới. Anh còn nói nhỏ với tôi, ông cha xứ của anh hứa sẽ giới thiệu anh với vị Linh mục Tuyên Úy của Sư Đoàn để xin anh về làm ở Phòng Tuyên Úy, vì hai ngài là bạn tu với nhau và được thụ phong cùng một ngày.

Nhớ tới hai khuôn mặt hiền lành với nụ cười rạng rỡ trong tấm hình đính hôn, lòng tôi se lại. Chiến tranh tàn ác quá, đã chia ly biết bao nhiêu người, và làm dang dở biết bao mối tình đẹp đẽ như anh Hùng Em và cô gái Thụy Khanh. Tôi bỗng chạnh lòng, nhớ tới người yêu, cũng là vị hôn thê của chính mình, hằng đêm cầu nguyện cho tôi, từ một thị trấn nhỏ, mà giờ đây đang xa tít mịt mùng.

Một năm sau đó, tôi được nghỉ mười lăm ngày phép về Nha Trang làm đám cưới. Nhớ đến Hùng Em, tôi rủ vợ cùng tìm đến nhà thờ gần khu Đồng Đế để hỏi thăm tin tức về nơi chôn cất anh. Chúng tôi được một vị linh mục trẻ đón tiếp niềm nở và hướng dẫn đến thăm mộ Hùng Em, nằm trong một nghĩa trang nhỏ của giáo xứ, gần biển. Từ đó, tôi có thể nhìn thấy Hòn Chồng, nơi chôn giấu nhiều hang động của tuổi thơ tôi. Đọc trên tấm bia, tôi thấy tên người lập mộ được ghi vỏn vẹn hai chữ: Thụy Khanh.

Nhớ tới người con gái xinh đẹp, phúc hậu, có giọng hát rất hay ấy, tôi hỏi vị linh mục:

– Thưa cha, chị Thụy Khanh, vị hôn thê của anh Hùng Em có khỏe không, và bây giờ chị đang ở đâu?

Vị linh mục buồn bã:

– Chị ấy đã di chuyển đến một nơi khác, khoảng ba tháng sau khi anh Hùng Em qua đời, nhưng thi thoảng chị có ghé về đây ít hôm thăm giáo xứ và viếng mộ anh ấy.

Tôi không dám tò mò thêm nữa. Cám ơn cha và đưa ngài về lại nhà thờ rồi xin phép cáo từ.

Sau đó, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi theo đơn vị hành quân liên miên, bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Người lính chiến, chuyện sống chết chỉ tùy vào số mệnh, không ai có thể tránh được lằn tên mũi đạn. Đồng đội tôi đã có biết bao người ngã xuống. Có những cái chết còn thê thảm hơn cả cái chết của anh Trung sĩ Hùng Em lúc trước. Tôi đã chứng kiến cảnh một người vợ trẻ ngất xỉu khi đến nhận xác chồng mà không tìm thấy cái đầu, một bà mẹ đã lăn đùng ra chết ngất khi thi thể đứa con hy sinh chỉ còn lại một phần và bà không thể nhận diện được con mình. Những khủng khiếp của chiến tranh sau này, cùng với thời gian, dần dà làm tôi tạm quên nhiều chuyện đau đớn cũ.

– Ông Trung úy Điệp, người Huế, làm đại đội trưởng lúc ở ngoài Cam Ranh, bây giờ ra sao rồi, đại úy?

Câu hỏi của sœur Anna làm tôi giật mình, trở về thực tại:

– Dạ, anh Điệp đã chết lâu rồi. Anh tử trận tại Thiện Giáo – Phan Thiết, chỉ sau hai tuần làm đám cưới với cô giáo Diệu, cũng người Huế, nhưng sống ở Ninh Hòa. Hai người quen nhau khi đơn vị tôi về thụ huấn bổ túc tại TTHL Lam Sơn. Không ngờ sœur vẫn còn nhớ tên anh ấy.

Sœur cúi xuống, trầm ngâm giây lát. Khi ngước lên, bà lấy khăn tay lau nước mắt.

– Tôi và anh Hùng Em cũng làm đám hỏi đúng hai tuần. Cô giáo Diệu nào đó không biết may mắn hay là bất hạnh hơn tôi khi đã được làm vợ, cũng chỉ mới hai tuần?

Vừa nói xong, sœur vội vàng nói lời xin lỗi, bảo đúng ra, một người đi tu, không nên suy nghĩ đến những điều như thế.

Bốn tháng sau lần gặp gỡ bất ngờ đó, tôi đến thăm cô nhi viện môt lần nữa, nhưng lần này, tôi cùng đi với cô trung úy Trưởng Ban Xã Hội, để giới thiệu với sœur Anna, nhờ cô nhi viện tạm chăm sóc hai đứa bé, con của một anh chuẩn úy. Cả hai vợ chồng bị chết bởi đạn pháo ở Kontum. Sœur Anna rất vui vẻ, ân cần, sẵn sàng nhận giúp và bảo tôi bất cứ khi nào có dịp về Pleiku, nhớ ghé lại thăm. Chúng tôi cám ơn, biếu cô nhi viện một ít tiền, và hứa nhất định sẽ trở lại thăm sœur và hai đứa bé.

Nhưng rồi tôi đã không giữ được lời hứa ấy. Từ đầu năm 1973, sau khi Mỹ ký hiệp định Paris trên xương máu của người bạn đồng minh, những người lính VNCH đã phải chống đỡ làn sóng xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, ồ ạt đưa đại quân, xe pháo vào quyết chiếm miền Nam, tôi đã cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn, mà sự viện trợ ngày một cạn dần, nên xương máu anh em lại càng đổ ra nhiều hơn nữa.

Ngày 11.3.75, Ban Mê Thuột thất thủ. Đơn vị tôi đang hành quân ở khu vực Tây Nam Pleiku, có lệnh kéo về Hàm Rồng để được trực thăng vận xuống Phước An, quân lỵ cuối cùng còn lại của tỉnh Đắc Lắc, nhằm tái chiếm Ban Mê Thuột, nơi có bản doanh Sư Đoàn và hậu cứ của đơn vị chúng tôi. Khi BCH Trung Đoàn và một tiểu đoàn cùng đại đội Trinh Sát vừa được đổ xuống Phước An thì Pleiku có lệnh di tản. Hai tiểu đoàn còn lại của chúng tôi phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên Tỉnh Lộ 7B. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ đã đưa đến thất bại nặng nề bi thảm. Cả hai tiểu đoàn khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại một phần tư quân số, hai anh tiểu đoàn trưởng đã phải tự sát để không lọt vào tay giặc.

Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc. Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy Khanh, được Chúa gọi về ngày 15.3.1975. Tôi không biết vì sao cô chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh hoàng trên Tỉnh Lộ 7B. Chúng tôi tìm đến nhà thờ với ý định hỏi thăm cha xứ, nhưng rất tiếc ngài đi vắng, trong nhà thờ chỉ có hai thiếu niên rất trẻ, không hề biết sœur Anna là ai. Khi rời khỏi nơi này, trong cái man mác buồn tôi bất chợt thấy vui vui, và buột miệng như để nói với chính mình:

- Cuối cùng thì hai người cũng được ở bên nhau.
Image
Tôi chưa (và có lẽ không) có cơ hội nào để trở lại Pleiku. Ngày xưa, tôi chỉ ghé lại thành phố bụi đỏ này một đôi lần ngắn ngủi, như chỉ một thoáng chợt đến chợt đi, chưa hề làm quen với một “em Pleiku má đỏ môi hồng”nào. Ngoài Đồi Đức Mẹ, nơi đơn vị đóng quân một tháng, cả một tháng “gió lạnh mưa mùa”, tôi chỉ còn nhớ cái quán rượu trong Khu Chợ Mới, nơi anh bạn Biệt Động Quân đưa tôi đến để tìm những cơn say, và một ngôi trường được dùng làm cô nhi viện, nơi có sœur Anna xinh đẹp, đã gợi lại trong tôi hình ảnh của những đồng đội đáng mến mà vắn số như Nguyễn Phú Hùng Em. Tôi da diết nhớ đơn vị xưa, thời chúng tôi còn trai trẻ, nhớ từng khuôn mặt bạn bè đã nằm lại trên các chiến trường xưa hay đang lưu lạc muôn phương, tiếc thương cho cuộc tình đẹp của những người lính trẻ, lãng mạn, thơ mộng, nồng nàn nhưng sớm chia lìa đớn đau bởi cuộc chiến tranh oan nghiệt.

Phạm Tín An Ninh
dailien
Posts: 2458
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by dailien »

Thắp nén hương lòng: Giữa núi rừng Việt Bắc....
Buồn !

(Viết để tưởng nhớ quý chiến hữu Quân, Cán, Chính VNCH đã gục chết tủi hờn và oan khiên trong lao tù khổ sai của bọn cộng sản vô nhân, và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại úy Cảnh Sát QG Trần Thiên Thọ Hải. ….)

… Tình hình sức khỏe anh em khi còn ở các trại do quân đội Việt cộng quản lý đã tồi tệ, thì nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dã man của bọn công an, mà anh em tù quen gọi là bọn “chó vàng”. Tiêu chuẩn ăn uống thì bị bọn chúng cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một thìa cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh. Họa hoằn, một đôi ba tháng vào các ngày lễ,

Tết thì được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt heo to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đã không còn kéo cày nổi hay bị chết vì không chịu nổi cái lạnh mùa đông. Với chế độ ăn uống vô cùng thiếu thốn như vậy mà phải làm việc khổ sai cực nhọc, dẫn đến tình trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ còn da bọc xương. Mỗi buổi chiều, hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói tội nghiệp.

Tình trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đã có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” vì hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi.

Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.

Thiếu Tá Hà Sỹ Phong, Phó Giám Đốc Đài Phát Thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:

– Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.

Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ.

Sáng hôm sau, khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng anh đã chết vài giờ sau đó.

Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc, Phòng 2 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:

– Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v…

Quả thật, những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.

Giữa năm 78, vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang đến Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết.

Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh Trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi!”.

Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:

“Rồi một ngày mai không có anh, em không còn phải nhớ phải mong

– Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi

– Cô đơn ngồi khóc một mình

– Không một lần kịp vuốt mắt anh

– Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,

nhìn trông theo cánh chim từng đàn,

để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu,

bụi thời gian lấp kín hồn mình,

đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa,

ôi ngày về còn dài bao lâu

– Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải khóc phải thương

– Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất, cô đơn phủ kín đời mình.

– Không một lần kịp nói tiếng yêu.”

Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã đi tìm báo cho gia đình tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79, mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh, cán bộ giáo dục của trại, trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một giờ.

Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.

Gần tết năm 79, tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại. Thời gian này, do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình những người tù VNCH đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi.

Hàng đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về. Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.

… Anh em đã san sẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn.

Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi.

Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra Đại Úy Hải đã chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút, chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc.

Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sang. Chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút, chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa.

Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:

– Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình. Mới đây, một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt. Sau mấy lần làm đơn, cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế.

Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy.

Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo. Bỗng, sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:

– Đ.M.! Rồi có ngày chúng mày sẽ phải trả giá cho hành động này! Chúng mày sẽ bị quả báo!

Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.

Đã quá nửa đêm, cái lạnh của núi rừng Việt Bắc đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh.

Chị mang hài cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh rét mướt của vùng rừng núi Việt Bắc; như người vợ, người mẹ Việt Nam đang phải oằn mình mang nặng nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng về một phương vô định…

Ôi, Dân Tộc tôi sao lắm nỗi đọa đày !!!

ĐTH
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Image

TRẬN ĐÁNH THÁNG 3/75 QUÂN KHU I.
MX Phạm Vũ Bằng.
(Viết cho mùa Đại Tang).
Từ trên 10 năm nay, tôi đã khuyến khích các đồng đội TQLC viết một bài hồi ký tương tự như bài này, nhưng tiếc thay họ là những quân nhân thuần túy coi trọng kỷ luật quân đội không muốn phê bình thượng cấp cho nên họ đã im lặng…Tôi lại có cơ duyên trong tháng 3/1975 đã theo đơn vị chiến đấu từ Bắc đến Nam tỉnh Quảng Trị-Nam Thừa Thiên-Đà Nẵng, trên mỗi bước đi tôi đều đã ghi chép vào quyển nhật ký hành quân mà tôi còn giữ cho đến bây giờ, ngoài ra Đại Úy Nguyễn Quang Đan-Chánh Văn Phòng Tư Lệnh TQLC- là bạn học của tôi thời niên thiếu, ông đã cho tôi biết nhiều chi tiết, và rất đặc biệt là trong những năm cuối đời của Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, tôi đã là bác sĩ riêng của Ông, chính Ông đã cho tôi biết những chi tiết của Trận Đánh Tháng 3/75 Quân Khu I và khuyến khích tôi viết ra. Ngoài ra xin chân thành cám ơn Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và các chiến hữu trong và ngoài binh chủng đã kiên nhẫn trả lời những thắc mắc liên quan đến bài viết của tôi.

Sau mấy tháng làm Địa Phương Quân "trấn thủ lưu đồn" tại xã Triệu Phong, Đông- Bắc tỉnh Quảng Trị, TĐ9/TQLC di chuyển tới làng Gia Đẳng-Quảng Trị để dưỡng quân. Gia Đẳng là một làng đánh cá ven biển vì vậy khí hậu ấm áp khô ráo khiến chúng tôi thoải mái hơn là tại Triệu Phong, tuy nhiên một tuần lễ sau, khoảng đầu tháng 3/1975 tôi nhận lệnh thuyên chuyển về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC và bàn giao chức Trung Đội Trưởng QY TĐ9/TQLC cho một bác sĩ mới ra trường.

Vì không thích về Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC và hơn nữa vì cảm nhận được tình hình chiến trận đã đến lúc căng thẳng, tôi tình nguyện về Đại Đội Quân Y Lữ Đoàn 258/TQLC và được tạm thời bổ nhiệm làm y sĩ điều trị tại Lữ Đoàn này vào ngày 08/3/1975 mà không ngờ tôi sắp bước vào một cuộc gió tanh mưa máu đang ập đến toàn thể Quân Đoàn I.

Ngày 8/3/1975, tôi trình diện Đại Đội Quân Y Lữ Đoàn 258/TQLC, đại đội này đóng chung với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258/TQLC tại làng Mỹ Thủy- Quảng Trị. Làng Mỹ Thủy tọa lạc tại phía Nam Gia Đẳng mấy cây số, cũng giống như tất cả các làng đánh cá ven biển tỉnh Quảng Trị, làng này có những hàng dương liễu yểu điệu trong gió, cát trắng, biển xanh hiền hòa, nước trong nhìn tận đáy, nếu không có chiến tranh thì nơi đây sẽ là một điểm du lịch nên thơ, chỉ huy Đại Đội Quân Y là Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Lê Minh, dưới quyền ông là BS Nhi và BS Duy. Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258/TQLC là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ Đoàn Phó Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, nguyên Tiểu Đoàn Trưởng TĐ9/TQLC của tôi.
Phòng thủ tỉnh Quảng Trị lúc đó gồm có:

- Phía Bắc có Lữ Đoàn 369/TQLC.
- Phía Tây có Lữ Đoàn 147/TQLC.
- Phía Đông là Lữ Đoàn 258/TQLC.

Ngày 8/3/1975, Trung Đoàn Bình Trị Thiên Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tấn công một vị trí của của Tiểu Đoàn 4 TQLC- Đồi 51 phía Tây Bắc Sông Bồ, đồng thời một lực lượng Việt Cộng (VC) khác uy hiếp ấp Hiền Lương khoảng 2 cây số Tây Bắc Mỹ Chánh, sáng hôm sau, ngày 9/3/1975, Tiểu Đoàn 4 TQLC và Thiết Kỵ phản công, chỉ trong một buổi sáng, hai lực lượng CSBV bị đẩy lụi, chạy trốn về phía núi để lại hơn 100 xác chết cùng vũ khí, phe ta có 10 TQLC hy sinh, hôm đó chúng tôi đứng tại cổng Lữ Đoàn 258/TQLC để xem Thiết Kỵ xuất quân buổi sáng, cứ tưởng sẽ có một trận đánh gây cấn không ngờ buổi trưa đã thấy họ đi về.

Ngày 13/3/1975, được tin Ban Mê Thuột thất thủ, tôi buồn bực đi lên BCH/LĐ thì gặp Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, ông mời tôi ăn trưa và tâm sự:

-“Cái” chiến lược đem 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị ra Quân Khu I để giữ đất không khá được, VC gom quân để đánh chỗ này chỗ khác mà Tổng Trừ Bị lại bị giam tại Quân Khu I cho nên ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột, đất QK I có mất một phần mà quân còn thì mình chiếm lại được, quân mất thì làm sao giữ đất!”.

Trầm ngâm rồi Tr/Tá Lượm giải thích thêm:

-“Hai SĐ Dù và TQLC có hậu cứ tại Saigon và Thủ Đức nơi gần phi trường và hải cảng, nếu VC tập trung quân đánh ở bất cứ nơi nào tại Miền Nam thì chỉ vài ngày đến 1 tuần là cả 2 SĐ có thể tăng viện cho vùng đó. Từ sau năm 1972 cả 2 Sư Đoàn Dù và TQLC bị giam tại Quân Khu I vì vậy khi VC đánh Phước Long tháng 12/74 và Ban Mê Thuộc 3/10/75 mình không có quân Tổng Trừ Bị tiếp viện cho nên mất 2 nơi này”.

Ông tiếp:

-“Sử dụng Tổng Trừ Bị như Địa Phương Quân làm tinh thần chiến đấu binh sĩ sa sút, hơn nữa Tổng Trừ Bị đang ở thế chủ động trên chiến trường trở thành thế bị động trên những cứ điểm mà địch biết rõ, và khi một đạo quân đã căng ra để giữ đất muốn rút đi tiếp viện một chỗ khác thì rất khó vì địch sẽ truy kích, cản đường nhiều khi không rút được, mình đã bị trúng kế “diệu hổ ly sơn” rồi!”.

Trung Tá Lượm còn nói về nhiều vấn đề khác nhưng không liên quan đến bài viết này, riêng câu “mình bị trúng kế điệu hổ ly sơn rồi” làm tôi suy nghĩ suốt 40 năm qua, không biết ai là kẻ tung kế này!?

Trong những năm 1966, 1967, 1968 CSBV mỗi năm đều tung quân ra quấy phá Quân Khu I, chúng đã bị các đơn vị Tổng Trừ Bị Dù và TQLC từ hậu cứ tại Saigon và Thủ Đức tới Quân Khu I trong thế chủ động đánh đuổi chúng vào rừng núi, sau chiến thắng Tổng Trừ Bị rút về hậu cứ để nghỉ và bổ xung quân số và sẵn sàng cho những trận chiến khác.

Năm 1968 (Mậu Thân) chúng đánh lớn và thua lớn, thiệt hại nặng nề. Theo wikia.org thì trong năm 1968 có 181.149 tên VC và CSBV bị giết, khiến chúng phải dưỡng quân 3 năm, đến năm 1972 CSBV gom góp đám thanh niên mới lớn tại Miền Bắc rồi nướng trên 100.000 quân trong trận 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa tại Miền Nam.

Tóm lại từ 1966 đến 1972 với chiến pháp Tổng Trừ Bị sẵn sàng tại hậu cứ chờ quân CSBV xuất đầu lộ diện bất cứ nơi nào tại Miền Nam VN thì ta mang quân Tổng Trừ Bị khỏe mạnh, trong thế chủ động đến tiêu diệt quân CSBV đang mệt mỏi, đã lộ diện và ở thế bị động, chiến pháp này đã thành công, VNCH đã chiến thắng CSBV tại khắp mặt trận. Vì vậy muốn để CSBV chiếm Miền Nam thì phải “giam giữ” hai Sư Đoàn Dù và TQLC, điều này người “bạn đồng minh” Mỹ biết rất rõ.

Năm 1971, tên Kissinger bí mật đến Tầu, dọn đường cho năm 1972, Kissinger và Nixon qua thăm Trung Cộng chính thức, không biết chúng ăn bả gì của Tầu mà sau đó ngoài mặt Mỹ vẫn là đồng minh của VNCH nhưng sau lưng họ đã bí mật liên kết với Tầu Cộng và tay sai là CSBV để triệt hạ Miền Nam VN, sự phản bội này đã dần dần được giải mã. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong chương “Mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Saigon” của cuốn sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” thì từ năm 1971, sau khi qua Trung Cộng tên Kissinger đã xui Nixon bán đứng VNCH cho Trung Cộng và tay sai là CSBV, khi Nixon sợ mất mặt nước Mỹ, tên Kissinger đã hiến kế: “Cứ đổ cho VNCH là bất lực và yếu kém (incompetence)”, và từ đó chúng đã thực hiện dần dần âm mưu và kế hoạch làm suy yếu VNCH!.

Bước đầu tiên là “giam” 2 Sư Đoàn Dù và TQLC tại Quân Khu I, Tổng Trừ Bị VNCH đang ở thế chủ động biến thành bị động giữ đất trong các cứ điểm đã lộ rõ. Thật vậy, sau chiến thắng của VNCH trong Mùa Hè Đỏ Lửa, CSBV bị kiệt quệ, chúng đã phải ký Hiệp Định Paris 1973, Quân Khu I yên tĩnh, vậy thì cớ sao lại phải giữ 2 Sư Đoàn Tổng Trừ Bị tại đây? Tổng Thống Thiệu, người có thẩm quyền điều động Tổng Trừ Bị và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư Lệnh Quân Khu I) người nhận và có thể cũng là người đã yêu cầu giữ Tổng Trừ Bị tại Quân Khu I, là 2 người có liên quan, không biết trong bóng tối Người Mỹ có dính dáng gì đến quyết định này không?

Sau khi mất Phước Long và Ban Mê Thuột, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu họp với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I hai lần vào ngày 13/3 và 19/3/1975 tại Saigon để tái phối trí lực lượng. Không ai biết rõ nội dung hai buổi họp này! Đã có nhiều bài viết về các buổi họp, nhưng không sát với thực tế, cho nên tôi đã lấy tin tức từ Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải là người gần với Tướng Trưởng nhất và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch và Cố Vấn của Tổng Thống Thiệu, cả hai đều viết giống nhau, và theo hai nhân chứng này thì Quân Khu I (QKI) đã được tái phối trí như sau:

1.QKI trả Sư Đoàn Nhẩy Dù lại cho Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH.
2.QKI giữ lại Sư Đoàn TQLC để cùng với 3 Sư Đoàn Bộ Binh cơ hữu 1, 2, 3 và Biệt Động Quân- Thiết Kỵ co cụm tử thủ 3 cứ điểm Huế, Đà Nẵng, Chu Lai, nếu vì lý do gì không giữ được cả 3 cứ điểm trên thì bằng mọi giá phải giữ Đà Nẵng.

Hồi ký của Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT/QL/VNCH viết về phiên họp ngày 19/3/1975 giữa Tổng Thống Thiệu và Trung Tướng Trưởng như sau:

“Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:

Kế hoạch thứ nhất:
Nếu Quốc lộ 1 (QL1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng.

Kế hoạch thứ hai:
Nếu QL1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chính do bốn Sư Đoàn Bộ Binh và bốn Liên Đoàn BĐQ đảm nhận”.

Trong tinh thần trên, Sư Đoàn Nhẩy Dù rời Quân Khu I vào hạ tuần tháng 3/1975.

Ngày 16/3/1975 LĐ369/TQLC rời Quảng Trị đến Thượng Đức Quảng Nam để thay thế Nhẩy Dù.

Ngày 18/3/1975 LĐ258/TQLC (trong đó có tôi) rời Mỹ Thủy-Quảng Trị đến Nam Thừa Thiên để bảo vệ Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng.

PHÒNG THỦ CỨ ĐIỂM THỪA THIÊN- HUẾ:

Để viết phần này, tôi dựa vào tài liệu từ phỏng vấn và hồi ký của:
- Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí-Lư Lệnh Lực Lượng Tây Bắc Huế.
- Wipekida Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH.
- Y Sĩ Đại Úy Ngiêm Ngọc Đỉnh Y Sĩ Trưởng Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh.
- Và phỏng vấn những người liên quan khác thuộc SĐ TQLC, LĐ 15 BĐQ, SĐ 1BB.

Lưu ý: Tôi chỉ kể quân chính quy của 2 bên, không nói đến các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát của VNCH, các lực lượng Du Kích, Đặc Công của CSBV.

Lực Lượng VNCH Tại Thừa Thiên-Huế:
1-Tây Bắc: LĐ147/TQLC, LĐT là Đại Tá Nguyễn Thế Lương, gồm 4 Tiểu Đoàn 3, 4, 5, 7/TQLC, 1 Đại Đội Viễn Thám, TĐ 2 Pháo Binh TQLC, Liên Đoàn 14 BĐQ gồm 3 tiểu đoàn và 1 Đại Đội Viễn Thám.
Tất cả các lực lượng trên được chỉ huy bởi Đại Tá TLP/TQLC Nguyễn Thành Trí.

2-Tây Nam: SĐ1BB gồm 4 trung đoàn và 1 Đại Đội Hắc Báo, 1 Đại Đội Trinh Sát, các thành phần yểm trợ như 3 tiểu đoàn pháo binh 105 ly, 1 tiểu đoàn pháo binh 155 ly, Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh.

3-Yểm Trợ: Yểm trợ cho toàn mặt trận Thừa Thiên-Huế là Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh gồm Thiết Đoàn 20 Chiến Xa có 51 chiến xa M48 mới tinh, (nên nhớ chiến xa M48 là khắc tinh của chiến xa CSBV T54), Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh gồm khoảng 100 chiếc M113 và M41, các Tiểu Đoàn Pháo Binh 155 Ly. Về Hải Quân VNCH có Duyên Đoàn 12, Duyên Đoàn 13, Giang Đoàn 60, Giang Đoàn 92, các giang-duyên đoàn này được trang bị các chiến hạm nhỏ với những dàn hải pháo tự động rất hùng hậu.

Các lực lượng kể trên được gọi là Quân Đoàn I Tiền Phương và được chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi, ông cũng là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I. Đây là 1 đạo quân thiện chiến hàng đầu của Quân Lực VNCH, đạo quân này sẽ đánh bại bất cứ lực lượng CSBV nào.

4-Nam Thừa Thiên và Quốc Lộ 1:
-Liên Đoàn 15 BĐQ gồm các Tiểu Đoàn 60, 61, 94 BĐQ. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 15 BĐQ đóng tại Phú Bài. Liên đoàn này trải quân sâu về phía Tây-Nam Thừa Thiên cách Quốc Lộ 1 khoảng 5 cây số.
-Lữ Đoàn 258/TQLC gồm TĐ1 và TĐ8 ém quân ven QL1 từ Bắc Cầu Truồi đến Cầu Đá Bạc- Phú Lộc. BCH LĐ258 đóng tại phía Bắc Sông Truồi cùng với Đại Đội B Viễn Thám, Tiểu Đoàn trừ 1 Pháo Binh 105 Ly.

Lực Lượng CSBV Tại Thừa Thiên-Huế:
Lưu ý: Tôi chỉ kể quân chính quy, không kể du kích địa phương, đặc công.
Theo tài liệu Wikipedia CSBV thì lực lượng Chính Quy CSBV tấn công vùng Huế-Thừa Thiên gồm:
-Sư Đoàn 324 với 3 trung đoàn, Sư Đoàn 325 với 2 trung đoàn, 1 trung đoàn đã tăng phái cho mặt trận Ban Mê Thuột và yểm trợ cho cả 3 mũi tấn công Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam có Lữ Đoàn Xe Tăng 203 tập trung tại Quảng Trị và Quảng Ngãi, Lữ Đoàn Pháo 164, Sư Đoàn Phòng Không 673.

TƯƠNG QUAN QUÂN SỐ CỦA HAI BÊN TẠI CHIẾN TRƯỜNG HUẾ THỪA THIÊN:

Tôi chỉ kể những tiểu đoàn chính quy tác chiến. Nên nhớ 1 tiểu đoàn Bộ Binh quân số khoảng 500-600 binh sĩ. Tiểu Đoàn TQLC có quân số khoảng 700. 1 tiểu đoàn CSBV quân số khoảng 300-400 binh sĩ.

-VNCH: Tổng cộng 24 tiểu đoàn tác chiến gồm: .
LĐ147/TQLC (4 tiểu đoàn).
Liên Đoàn 14BĐQ 3 tiểu đoàn.
SĐ1BB gồm 4 trung đoàn mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn như vậy là 12 tiểu đoàn.
LĐ258/TQLC có 2 tiểu đoàn.
Liên Đoàn 15BĐQ 3 tiểu đoàn.

-CSBV:Tổng cộng 15 tiểu đoàn gồm Sư Đoàn 324 có 3 trung đoàn mỗi trung đoàn 3 tiểu đoàn, Sư Đoàn 325 có 2 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn.

TRẬN ĐÁNH TRÊN QUỐC LỘ 1 HUẾ-ĐÀ NẴNG NAM THỪA THIÊN.

(Từ phần này đến những đoạn sau, tôi viết dựa theo kinh nghiệm của chính tôi, phỏng vấn những quân nhân tham dự trận chiến thuộc Lữ Đoàn 258 TQLC và Liên Đoàn 15 BĐQ, Y Sĩ Đai Úy Nguyễn Trung Tín Y Sĩ Trưởng LĐ 2 BĐQ, riêng với Thiếu Tá Đỗ Thanh Quang-Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61BĐQ và Đại Tá TQLC Nguyễn Năng Bảo-LĐT/LĐ258/TQLC lúc đó. Tôi đã phỏng vấn họ 10 năm trước, khi tôi viết bài “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”.

Phía CSBV tôi dựa theo hồi ký của tên Thiếu Tướng Nguyễn Đức Huy lúc đó là Phó Tư Lệnh-Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 325 CSBV và tài liệu trên Wikipedia CSBV, điều cần phải nêu ra là hồi ký của tất cả bọn cán binh CSBV đều được viết theo đơn đặt hàng của Ban Chính Huấn CSVN, nên có nhiều khoác lác bịa đặt, cho nên tôi chỉ lấy ra những phần hợp lý)

Ngày 18/3/1975, LĐ258/TQLC rời Mỹ Thủy- Quảng Trị, đoàn xe dài đưa chúng tôi ra QL1, khi qua cầu Mỹ Chánh thì “được” CSBV chào đón bằng mấy trái cối 82 ly, nhưng không có thiệt hại. Chúng tôi qua Huế mà lòng bồi hồi thương tiếc vì linh cảm rằng đây là lần cuối cùng.

Địa điểm đóng quân mới của LĐ258 tại phía Nam Tỉnh Thừa Thiên, từ phía Bắc Cầu Truồi đến Phú Lộc.
Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm-Lữ Đoàn Phó cho biết Lữ Doàn có nhiệm vụ:
-Bảo vệ giao thông và tiếp tế trên Quốc Lộ 1 phía Nam Thừa Thiên.
-Làm thành phần cản hậu nếu Quân Đoàn I Tiền Phương rút về Đà Nẵng.

Cùng nhiệm vụ với LĐ258/TQLC có Liên Đoàn 15BĐQ, bộ chỉ huy đóng tại Phú Bài các tiểu đoàn đóng sâu trong núi phía Tây còn, TQLC thì ém quân ven Quốc Lộ 1, tuyến phòng thủ từ Bắc Sông Truồi đến Phú Lộc.

Tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn 258/TQLC

Quân rút thì dân cũng chạy theo, người dân Quảng Trị-Huế đã có quá nhiều kỷ niệm đau thương với CSBV, năm Mậu Thân 1968 CSBV đã chôn sống trên 5.000 người dân Huế bao gồm cả đàn bà và học sinh. Năm 1972 CSBV đã xả súng tàn sát mấy ngàn dân Quảng Trị gồm thường dân, đàn bà trẻ em khi họ bỏ trốn khỏi vùng giao tranh trên “Đại Lộ Kinh Hoàng”, chiến pháp của CSBV là “Tam Dân”- dùng dân lành làm bia đỡ đạn, dùng dân để lấy lương thực, dùng dân để lấy tin tình báo, vì vậy khi dân chạy trốn thì bị chúng khủng bố và tàn sát dã man.

Từ ngày 18/3/1975 đến ngày 21/3/1975, người dân Quảng Trị-Huế đã bỏ nhà cửa ruộng vườn, theo Quốc Lộ 1 chạy về Đà Nẵng, họ dùng tất cả phương tiện xe hơi, xe gắn máy, xe đạp và đi bộ để chạy giặc đầy trên Quốc Lộ 1, bất kể ngày đêm. CSBV không bỏ lỡ cơ hội này nên các dàn đại pháo 130 ly của chúng đã xả đạn không thương tiếc vào đoàn người, nhiều người trúng đạn ngã gục nhưng những người phía sau vẫn hoảng loạn đạp lên những người xấu số để đi, chính quyền địa phương Quân Đoàn I hầu như bỏ rơi họ, tôi không thấy các toán y tế săn sóc sức khỏe cho dân, tôi cũng không thấy các toán an ninh cảnh sát thanh lọc lũ đặc công CSBV đang trà trộn trong dân để lọt vào Đà Nẵng, những TQLC của Lữ Đoàn 258/TQLC đã tự động làm công tác “dân sự vụ”, các toán Quân Y săn sóc sức khỏe, cứu thương, cung cấp lương thực cho dân, các binh sĩ thì mai tang những người xấu số.

Trái-Quân Y Lữ Đoàn 258 TQLC săn sóc đồng bào trên QL1. Phải-Cầu Truồi trước khi bị QĐI phá

TRẬN ĐÁNH TẠI NAM THỪA THIÊN:

Trước khi nói về trận đánh tôi xin làm một bản so sánh quân đội hai bên tại Mặt Trận Nam Thừa Thiên:

- CSBV: Sư Đoàn 325 có hai trung đoàn bộ binh bí số 18 và 101, (Trung Đoàn 95 đã tăng phái cho mặt trận Ban Mê Thuột), như vậy là 6 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn CSBV có quân số từ 300 đến 400 vậy thì tổng cộng CSBV có khoảng 2400 quân bộ binh.

- VNCH: 3 Tiểu Đoàn BĐQ, mỗi tiểu đoàn quân số khoảng 500, như vậy khoảng 1500 BĐQ, 2 tiểu đoàn TQLC quân số khoảng 600- 700 mỗi tiểu đoàn như vậy là 1400 TQLC, 1 đại đội viễn thám khoảng trên 100 TQLC, vậy thì VNCH có khoảng 3000 Quân.

Theo binh thuyết thì lực lượng tấn công phải có quân số và hỏa lực gấp 3 lực lượng phòng thủ, nhìn bản so sánh trên ta đã thấy lẽ hơn thua rồi!

Từ ngày 21/3/1975, CSBV nổ súng tấn công tuyến của Liên Đoàn 15BĐQ phía Tây cách QL1 từ 3-5km, chúng có gây một số thiệt hại cho BĐQ nhưng không chọc thủng được phòng tuyến này và chúng cũng không biết đằng sau BĐQ có Lữ Đoàn 258 TQLC ém quân. Riêng tuyến Cầu Đá Bạc-Phú Lộc có nguyên cả Tiểu Đoàn 8 TQLC bảo vệ, vài nhóm quân CSBV cấp trung đội bị BĐQ đánh tan tác chạy dạt tới gần Quốc Lộ 1 đã bị TQLC tiêu diệt. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC phía Bắc Sông Truồi, tôi nhận được nhiều thương binh, đa số thương binh TQLC bị thương vì đạn pháo kích còn BĐQ bị thương do đạn súng bắn thẳng.

Sáng ngày 24/3/1975, Đại Úy Q… Trưởng Ban 2 Lữ Đoàn mang đến một tên tù binh CSBV, tên tù binh ốm yếu vàng vọt bị thương tại chân cần tiểu giải phẫu, khi y tá bầy ra bộ tiểu giải phẫu gồm dao kéo, kìm kẹp, kim chỉ, thằng CSBV hoảng hốt tưởng là tôi sắp tra khảo, nó quỳ xuống đất lạy như tế sao miệng lắp bắp: “Lậy quan, xin quan tha cho con, con xin khai hết”.

Theo lời khai thì hắn là trung úy đại đội trưởng thuộc Trung Đoàn 101, ngày 23/3/1975, thủ trưởng của hắn cho biết Phú Lộc đã được giải phóng, sai hắn mang quân đên tiếp thu, khi đến gần vòng đai Phú Lộc đại đội của hắn bị phục kích (Tiểu Đoàn 8 TQLC) cả đại đội bị tiêu diệt, hắn bị thương nhưng giả chết nên bị bắt làm tù binh.

Từ ngày 18/3/1975 đến 24/3/1975, CSBV pháo rất nhiều vào Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258/TQLC tại ven Quốc Lộ 1, chúng pháo bằng đại bác tầm xa 130 Ly, không có súng cối, điều này cho chúng tôi biết chúng đã bị chận từ xa quốc lộ ngoài tầm của súng cối.

Trận chiến tại Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên có 3 đặc điểm sau đây:

1-Sáng ngày 23/3/1975 đài phát thanh CSBV loan tin chúng đã chiếm được Phú Lộc và cắt QL1 tại đây. Hình như có sự ước hẹn với nhau như một vở kịch nên liền sau đó đài BBC và VOA đồng loan tin y hệt như vậy. Hai đài này không có ký giả tại đây tại sao chúng lại loan tin thất thiệt? Chúng tôi liên lạc với Bộ Chi Huy Tiểu Đoàn 8 TQLC tại Phú Lộc thì được biết quân ta vẫn bình yên. Tin “mất Phú Lộc” tuy không đúng sự thật nhưng đã gây đau thương cho Quân Đoàn I, vì nếu muốn rút Quân Đoàn I Tiền Phương về Đà Nẵng trên Quốc Lộ 1 thì phải qua Phú Bài, Cầù Truồi, Cầù Đá Bạc, Phú Lộc. Cái tin “mất Phú Lộc” không hề được Quân Đoàn I kiểm chứng nhưng đã khiến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Ngô Quang Trưởng và Trung Tướng Tư Lệnh Phó Lâm Quang Thi quyết định rút Quân Đoàn I Tiền Phương qua ngả Thuận An để gây bao đau thương cho đạo quân thiện chiến này.

2-Xin nhắc lại: “Cái tin thất thiệt CSBV chiếm Phú Lộc làm rung động cả Quân Đoàn I vậy mà Quân Đoàn đã không kiểm chứng” và đính chính để nâng cao tinh thần quân dân Vùng I Chiến Thuật.

3-Trong suốt trận chiến tại Nam Thừa Thiên, chúng tôi như một đạo quân bị bỏ rơi, mặc dù đây là một trận đánh cấp sư đoàn quan trọng đến sự sống còn của cả quân đoàn nhưng không có một cấp chỉ huy Quân Đoàn I nào đến thăm, không có một máy bay nào bay trên trời, không có ký giả chiến trường, hoàn toàn không có ai, mặc dù Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 TQLC trên Quốc Lộ 1 chỉ cách Huế có 20km, và cách Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn I tại Đà Nẵng 30 phút trực thăng. Ngay cả khi có tin “vịt” Phú Lộc thất thủ cũng không có cấp chỉ huy Quân Đoàn nào gọi máy hỏi thăm kiểm chứng, làm như mọi chuyện đã được an bài.

5 giờ sáng ngày 25/3/1975, Lữ Đoàn 258 TQLC được lệnh bỏ tuyến phòng thủ Quốc Lộ 1 phía Nam tỉnh Thừa Thiên để rút về Đà Nẵng, theo Trung Tá Lữ Đoàn Phó Huỳnh Văn Lượm thì lệnh này do đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh. Vì Cầu Truồi đã bị Công Binh Quân Đoàn I phá trước đó nên quân xa không sử dụng được, chúng tôi được lệnh đi bộ. Chúng tôi ra đi trong lòng buồn bực vì đang chiến thắng mà phải rút đi, đồng thời cũng lo lắng cho quân bạn tại Thừa Thiên-Huế vì đoạn đường này là huyết mạch duy nhất để tiếp tế hoặc rút lui về Đà Nẵng của đạo quân Tiền Phương Quân Đoàn I. Cùng rút với TQLC có một số BĐQ của Liên Đoàn 15, vì Cầu Truồi bị phá nên tất cả quân xa và pháo binh TQLC đều bị bỏ lại sau khi phá hủy.

Đến Sông Truồi, chúng tôi thấy Cầu Truồi đã bị phá, Cầu Truồi gồm 2 cầu, cầu sắt cho xe lửa đổ gục xuống sông, cầu cho xe hơi bị mìn thủng một lỗ lớn bằng 2 cái bàn. Để tránh pháo của CSBV, chúng tôi lội qua Sông Truồi nước trong vắt và chỉ sâu đến đầu gối. Cả Lữ Đoàn 258 TQLC đi bộ trên Quốc Lộ 1 qua Cầu Đá Bạc và Phú Lộc mà không thấy một tên CSBV nào và cũng không có một phát súng của CSBV bắn về phía chúng tôi. Qua khỏi Phú Lộc cả Lữ Đoàn được xe GMC Quân Vận đón, đoàn xe đưa chúng tôi qua Đèo Hải Vân rồi về đến Căn Cứ TQLC tại Non Nước Đà Nẵng khoảng 10 giờ tối cùng ngày 25/3/1975.

Viết đến đây chúng tôi lại có một thắc mắc mà suốt 40 năm không có câu trả lời. Chúng tôi đã giao tranh với Sư Đoàn 325 CSBV từ 18/3/1975 đến 25/3/1975 tại Nam Thừa Thiên mà không thấy chúng có chiến xa, có thể vì địa thế núi rừng tại đây nên chúng không mang được chiến xa đến. Đơn vị chiến xa gần nhất là Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ VNCH gồm 51 chiếc M48 mới tinh và trên 100 chiếc M41, M113 của Quân Đoàn I Tiền Phương còn đơn vị chiến xa CSBV lúc đó còn tại Quảng Trị. Như vậy tại sao phải phá Cầu Truồi? Tôi nghĩ mãi mà chỉ thấy có 2 giả thuyết:

1-Cấp chỉ huy QĐI quá hoảng hốt và không nắm vững tình hình chiến trường.

2-Cấp chỉ huy QĐI vì một lý do gì không muốn Đoàn Quân Tiền Phương VNCH về Đà Nẵng với đầy đủ khí cụ và chiến xa vì nếu vậy thì cuộc chiến tại Quân Khu I sẽ kéo dài rất lâu…

Cách đây trên 10 năm, tôi có gặp Thiếu Tá Đỗ Thanh Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61BĐQ tại Las Vegas, lúc đó ông chưa qua đời, ông cho biết:

Tối ngày 25/3/1975, Thiếu Tá Quang rút Tiểu Đoàn 61 BĐQ từ đồi 500 phía Tây Quốc Lộ 1 về Phú Lộc, từ đấy Tiểu Đoàn 61BĐQ đi ngược về Phú Bài-Huế rồi ra Thuận An, ông có tả Cầu Truồi bị phá giống như tôi viết phía trên, ông cho biết từ Phú Lộc đến Huế đường đi an toàn không gặp CSBV. Khi đến Thuận An thì đơn vị của ông mới gặp Quân CSBV.

Như vậy trong ngày 25/3/1975 từ Phú Lộc TQLC xuôi Nam về Đà Nẵng, BĐQ từ Phú Lộc lên Bắc tới Huế an toàn. Vậy thì Quốc Lộ 1 Huế Đà Nẵng trong thời gian từ 18/3/1975 đến tối ngày 25/3/1975 đã không bị CSBV cắt đứt.

Đại Tá TQLC Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 TQLC lúc đó cũng đã khẳng định:

-Quốc Lộ 1 Huế-Đà Nẵng cho đến ngày 25/3/1975 vẫn an toàn để rút Quân Đoàn I Tiền Phương về Đà Nẵng và Lữ Đoàn 258 TQLC có thể giữ đoạn đường này thêm nhiều tuần lễ nữa.

Khi viết các dòng chữ kể trên, tôi đã tham khảo nhiều tài liệu về Trận Chiến Trên Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên tháng 3/1975 của nhiều tác giả không tham chiến trong trận đánh này, hầu hết đều lấy tài liệu của CSBV hoặc của Mỹ viết rằng Phú Lộc bị CSBV chiếm trong ngày 23/3/1975!

Tôi khẳng định rằng từ ngày 18/3/1975 đến ngày 25/3/1975, Cầu Đá Bạc và Phú Lộc được Tiểu Đoàn 8 TQLC bảo vệ, không hề lọt vào tay quân CSBV. Nếu mất Phú Lộc trong ngày 23/3/1975 thì Lữ Đoàn 258 TQLC, trong đó có tôi đã không thể về Đà Nẵng trên Quốc Lộ 1 an toàn trong ngày 25/3/1975.

Tên tướng Nguyễn Đức Huy tư Lệnh Phó Sư Đoàn 325 CSBV khi khoác lác viết rằng đã chiếm được Phú Lộc và 10 km Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên vào ngày 23/3/1975 đã không biết rằng có 1 Lữ Đoàn 258 TQLC ém quân tại đây. Hắn còn láo khoét là đã bắt được Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 61 BĐQ (Thiếu Tá Quang) trong ngày 3/23/1975.

SỐ PHẬN CỦA QUÂN ĐOÀN I TIỀN PHƯƠNG.

Để viết đoạn này, tôi đã phỏng vấn Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải và trước đó Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC khi tôi viết hồi ký “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”, Đại Úy Chánh Văn Phòng Tư Lệnh TQLC. Ngoài ra tôi cũng tham khảo hồi ký của Ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch Và Phát Triển kiêm Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, hồi ký của Đại Tá TLP/TQLC Nguyễn Thành Trí lúc đó là Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế, hồi Ký của Thiếu Tá Phạm Cang Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 TQLC, hồi ký của các TQLC Phan Văn Đuông, Cao Xuân Huy là các quân nhân tham dự trận đánh…

Nói chung thì tình hình Huế-Quảng Trị không sôi động, quân CSBV bám sát quân ta nhưng đã không có trận nào lớn hơn cấp đại đội. Tại tuyến Tiểu Đoàn 7 TQLC có 5 chiếc T54 của CSBV xâm phạm, liền bị M48 của ta bắn hạ 3 chiếc 2 chiếc còn lại bỏ trốn, ngoài ra có một đoàn tầu CSBV xâm nhập hải phận của ta, chúng bị M48 bắn và bỏ chạy, quân ta vô sự, ngoài Huế thì CSBV dùng pháo tầm xa 130 Ly pháo khích.

Theo Đại Tá Nguyễn Thành Trí thì Tướng Tư Lệnh Lâm Quang Thi nhận thấy khó giữ được Huế và tin rằng Phú Lộc bị thất thủ do đó không dùng được Quốc Lộ 1 để lui quân về Đà Nẵng cho nên Tướng Tư Lệnh Lâm Quang Thi triệu tập phiên họp ngày 24/3/1975 tại Căn Cứ Hải Quân Thuận An lúc 14.30, phiên họp này gồm có:

-Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh QĐI Tiền Phương
-Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
-Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế.
-Đại Tá Hy, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I Tiền Phương
-Đại Tá Duệ Tỉnh Trưởng Thừa Thiên.
-Trung Tá Chỉ Huy Căn cứ Thuận An

Buổi họp này kéo dài không lâu và kết quả là:

1-Bỏ Huế-Quảng Trị.

2-Lực Lượng Tây Bắc Huế bỏ chiến xa, đại bác, chiến cụ nặng trang bị nhẹ rút về Cù Lao Thuận An rồi xuôi Nam đến cửa Tư Hiền. Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng bỏ chiến xa, đại bác, chiến cụ nặng trang bị nhẹ rút về cửa Tư Hiền.

3-Hải Quân và Công Binh Quân Đoàn I sẽ lập cầu phao tại cửa Tư Hiền để Đạo Quân Tiền Phương băng qua, sau đó xuôi Nam. Hải Quân sẽ bốc quân từ từ, phần còn lại sẽ quay trở lại Quốc Lộ 1 về Đà Nẵng.

Kế hoạch rút quân này được Chuẩn Tướng Điềm và Đại Tá Hy mang về Đà Nẵng trình Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, được chấp thuận và sau đó được mang về Thuận An lúc 17.30 cùng ngày 24/3/1975. Lệnh rút quân được thi hành lúc 1800 cùng ngày 24/3/1975.

Như vậy chỉ trong mấy tiếng đồng hồ từ 2.30PM đến 6PM ngày 24/3/1975 số phận của Đạo Quân Tiền Phương Quân Đoàn I đã “được” định đoạt!

Rút một đạo quân cấp quân đoàn cần sự điều nghiên tính toán và thiết kế của Bộ Tổng Tham Mưu, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với sự hợp tác của Tư Lệnh Không Quân và Hải Quân. Lệnh rút quân này đã được thiết kế bởi 2 ông tướng và mấy ông tá trong vòng vài tiếng đồng hồ nên đã đưa đến thảm họa cho Đạo Quân Tiền Phương QĐ I.

Vứt súng bỏ chạy ra biển không phải là một cuộc rút quân, quân ta mạnh hơn địch và đang chiến thắng tại sao phải rút? Phiên họp ngày 24/3/1975 của Quân Đoàn I Tiền Phương chẳng qua chỉ là màn kịch để cấp chỉ huy Quân Đoàn I Tiền Phương bước lên tầu về Đà Nẵng một cách hợp pháp.

Đà Nẵng: Chiều ngày 24/3/1975, sau khi họp với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về lệnh rút quân của Quân Đoàn I Tiền Phương, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bàn luận với ban tham mưu của ông gồm 3 vị Hải Quân Đại Tá mưu lược, đó là các Đại Tá: Nguyễn Xuân Sơn, Phạm Mạnh Khuê và Nguyễn Công Hội, đã nhận ra những điều bất lợi của lệnh rút quân này, ông vội mời Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC cùng đến gặp Trung Tướng Trưởng.

Buổi họp lúc 6 PM ngày 24/3/1975 tại Đà Nẵng, có Thiếu Tướng Hoàng văn Lạc-Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Phó Đề Đốc Thoại trình bày lên Trung Tướng Trưởng những điều sau đây:

1-Vì thời gian cấp bách chỉ có 12 tiếng, vì Hải Quân đang bận lấy quan tại Chu Lai, vì thời tiết khí tượng xấu cho nên Hải Quân không thể tổ chức hoàn hảo để bốc 1 đạo quân trên 20.000 quân vào ngày 25/3/1975, và cũng vì khí tượng xấu và thời gian cáp bách nên Hải Quân và công binh không thể thực hiện được cầu phao qua cửa Tư Hiền.

2-Vứt bỏ súng đại bác và chiến xa để bỏ Huế-Thuận An sẽ có một phản ứng dây truyền làm mất tinh thần binh sĩ không những tại Đà Nẵng, toàn thể Quân Khu I mà còn lan tới Quân Khu 3 và Quân Khu 4, hơn nữa khi ta rút bỏ Huế-Thuận An thì CSBV sẽ rảnh tay để mang 2 Sư Đoàn 324, 325 cùng với súng đạn, chiến cụ chiếm được về đánh Đà Nẵng

Vì vậy Phó Đề Đốc Thoại đề nghị với Trung Tướng Trưởng:

1-Tử thủ Huế-Thuận An vì quân ta mạnh hơn CSBV tại đây. (đọc phòng thủ Huế Thừa Thiên phần trên) Hải Quân sẽ lo phần tiếp tế, yểm trợ vì ta vẫn làm chủ trên biển và bầu trời, như vậy ta sẽ cầm chân lực lượng phía Bắc QKI của CSBV và có nhiều khả năng sẽ tiêu diệt chúng tại đây vì lực lượng của chúng không mạnh và đã lộ diện sẽ là mục tiêu cho Hải-Phi Pháo.

2-Nếu vì lý do gì phải bỏ Huế-Thừa Thiên thì tập trung quân gồm 4 trung đoàn của SĐ1BB, 2 Liên Đoàn 14,15 BĐQ, Lữ Đoàn 147 TQLC, Lữ Đoàn 1 Kỵ Kinh với 51 chiếc M48 và hàng trăm chiếc M41, M113 giữ thế chủ động đánh thẳng vào hậu cứ của 2 sư đoàn 325, 324 CSBV đã lộ diện gần QL1, rồi về Đà Nẵng trong tinh thần quyết chiến quyết thắng

Tướng Bùi Thế Lân cũng nhiệt liệt đồng ý với Phó Đề Đốc Thoại, Tướng Lân cũng cho biết là ông có 1 Lữ Đoàn 258 TQLC đang ém quân trên Quốc Lộ 1 phía Nam Thừa Thiên sẵn sàng yểm trợ trận đánh, ông nói tiếp: “Đi phía biển tôi sợ sẽ mất hết”

Trung Tướng Trưởng suy nghĩ một lúc rồi nói với 2 ông tướng là ông không thể thực hiện được kế hoạch này mà không cho biết lý do. Phó Đô Đốc Thoại kết luận: “Có thể Trung Tướng Trưởng biết những điều chúng tôi không biết”!

6 PM ngày 24/3/1975, Đạo Quân Tiền Phương được lệnh bỏ vị trí chiến đấu, bỏ vũ khí nặng, bỏ chiến xa đại bác, bỏ lương thực, trang bị nhẹ để đến điểm hẹn là Cù Lao Thuận An, họ tin rằng khi lên tầu thì họ sẽ có lương thực, nước uống và đạn dược. Dọc đường họ thấy chiến xa, xe cộ và đại bác vứt đầy đường,

Ngày 25/3/1975 là một ngày dài nhất của Quân Khu I nên tôi viết lại những diễn biến tình hình xẩy ra trong cùng một thời gian tại 3 nơi khác nhau: Thuận An-Huế, Đà Nẵng-Bộ Tư Lệnh TQLC, Saigon-Dinh Độc Lập:

-Sáng 25/3/1975 tại Thuận An-Huế:

8AM ngày 25/3/1975, cả đạo quân đã có mặt tại Thuận An, 9.30 AM ngày 25/3/1975 họ được lệnh chờ tại chỗ vì không có cầu phao tại Cửa Tư Hiền.

-Sáng 25/3/1975 tại Đà Nẵng-Bộ Tư Lệnh TQLC,

Trước khi viết đoạn này tôi đã bàn luận rất nhiều lần với Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, ông cho biết lệnh rút Quân Đoàn I Tiền Phương có nhiều khuyết điểm có thể mang đến thất bại hoàn toàn mà ông đã trình bầy với Trung Tướng Trưởng vào chiều ngày 24/3/1975, rất không may là Tướng Trưởng đã không nghe lời, Tướng Lân còn cho biết Ông là Tư Lệnh của một sư đoàn tăng phái cho QKI nên không có quyền điều động TQLC nếu không được sự chấp thuận của Tư Lệnh QKI và trong cuộc rút quân này Ông đã không được lệnh điều động TQLC của Ông.

Sáng 25/3/1975, Thiếu Tướng TQLC Bùi Thế Lân ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh dùng trực thăng của Tướng Lân bay ra Thuận An gặp Đại Tá Nguyễn Thế Lương Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147TQLC để trao cho ông 1 lá thư kèm theo lời dặn: “Tìm ra Quốc Lộ 1 mà đi”. Đại Úy Đan còn bay đi và về Thuận An-Đà Nẵng thêm 2 lần nữa để tiếp tế cho Lữ Đoàn 147 TQLC. Trên đường về Đà Nẵng lần thứ 3 ông đã cứu được Tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư Lệnh SĐ1BB khi trực thăng của Tướng Điềm trục trặc máy trên đường về Đà Nẵng bị rơi trên Quốc Lộ 1.

-Sáng 25/3/1975 tại Dinh Độc Lập-Saigon:

9.30 AM ngày 25/3/1975, tại Dinh Độc Lập, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Tổng Trưởng Kế Hoạch kiêm Cố Vấn Tổng Thống họp Nội Các và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi Tướng Khuyên trình bày tình hình QKI và QKII, trước mặt mọi người, Tổng Thống Thiệu nhấc máy gọi cho Trung Tướng Trưởng tại Đà Nẵng. Sau đây là nguyên văn cuộc đối thoại:

Tổng Thống Thiệu hỏi Tướng Trưởng:

-“Có giữ được Huế hay không?”. (Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia):

Trung Tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”

Tổng Thống Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”

Trung Tướng Trưởng: “Ngày một ngày hai.”

Tổng Thống Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”

Trở lại Thuận An: Vào cùng thời điểm của phiên họp nội các tại Dinh Độc Lập, lúc 9.30 AM ngày 25/3/1975, Đội Quân Tiền Phương được lệnh chờ tại chỗ để tầu Hải Quân vào đón vì không có cầu phao tại cửa Tư Hiền. Theo hồi ký của những Mũ Xanh Lữ Đoàn 147 TQLC thì trước mặt họ có rất nhiều tầu Hải Quân nhưng không có chiếc tầu nào vào đón, giải thích lý do tầu không vào lấy quân được, Phó Đô Đốc Thoại cho biết: “Vì sương mù, vì biển động, vì sóng ngầm”!

Chiều ngày 25/3/1975, quân Việt Cộng bắt đầu truy kích, từ những bụi cây, mô cát, chúng tác xạ vào đoàn quân trên bãi cát trống trải, với số lượng đạn ít ỏi mang theo Đạo Quân Mũ Xanh vẫn anh dũng chiến đấu.

Sáng ngày 26/3/1975, có 1 chiếc LCU liều mạng vào cứu được thương binh, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147 TQLC và khoảng vài trăm binh sĩ, chiếc LCU này cũng bị trúng 1 hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 làm Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Thế Lương bị thương, chiếc LCU thứ hai bị mắc cạn và từ đó không có tầu nào vào đón, các chiến sĩ Mũ Xanh tiếp tục chiến đấu cho đến rạng sáng ngày 27/3/1975 sau khi uống những giọt nước cuối cùng, bắn những viên đạn cuối cùng và ném quả lựu đạn cuối họ mới chợt nhớ là phải dành cho riêng họ 1 quả lựu đạn. Đây là tâm sự của một MX thuộc LĐ147. MX Đoàn Văn Tuấn viết:

- "Một mùa đại giỗ nữa của gia đình anh em Mũ Xanh lại đến. Đã trên bao năm trôi qua mà sao vẫn nhớ mãi cái cảnh những người lớn chơi trò trẻ con! Họ ngồi quây quần bên nhau, úp lá khoai môn lên trái mãng cầu. Những lời bình thản:“Ê, từ từ đã mày, chờ thằng Toàn đang chạy đến tham gia kia kìa.”. Rồi sau đó... “bùm”!!!

Trời ơi! Đó là thực tế của bạn bè anh em chúng tôi, những người lính Mũ Xanh kiêu hùng nhưng họ đã phải đi nhặt những viên đạn để chống trả với quân thù! Dùng hàm răng làm vũ khí và sau cùng thì đành trở về với tuổi thơ, ngồi xúm lại trên bãi cát trắng bờ biển Thuận An miền Trung thơ mộng. Trời vẫn xanh, biển vẫn rì rào lời mời gọi. Đường về! Ôi quá xa. “Bùm” những thân người đổ vật ra! Anh em ta đã về nhà, về với đất mẹ thân yêu. Một thực tế mà trên thế giới ít một nước nào có. Sự tự sát tập thể không khác gì với những huyền thoại của những người võ sĩ đạo của xứ Phù-Tang. Tinh thần bất khuất ấy vẫn sống mãi trong ký ức những người còn lại."

Hôm nay ngồi đây, tôi viết những dòng này gửi đến các anh, đến bạn bè, những người lính MX năm xưa để chúng ta cùng cúi đầu dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống tháng 3, tháng gió lớn của gia đình Mũ Xanh.

Còn đây là tâm sự của MX Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng:

-“Ngày 26 Tháng Ba là ngày Người Cày Có Ruộng.

Ngày 26 Tháng Ba là ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một đại đội du kích Việt Cộng bắt sống.
Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra.”.

Như vậy thì rạng sáng ngày 27/3/1975 toàn thể Đạo Quân Tiền Phương Quân Đoàn I đã tan rã trên bãi biển Thuận An.

Đặc điểm của cuộc rút quân của Quân Đoàn I Tiền Phương:

1-Quân ta đang chiến thắng tại sao phải vội vã rút quân? Theo Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế thì: “Chưa có một vị trí nào đã bị mất trên hành lang Sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bi…Địch chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị-Huế”.
Và hồi ký tôi đã viết ở phần trên tại mặt trận Nam Thừa Thiên quân ta đã đang toàn thắng!

2-Kế hoạch rút quân được thiết kế vội vã, thiếu sót, khiến Hải Quân và Công Binh không kịp chuẩn bị.

3-Các cấp chỉ huy cao cấp của Đạo Quân Tiền Phương đã bỏ rơi quân lính để về Đà Nẵng: Trung Tướng Lâm Quang Thi và Bộ Tham Mưu Tiền Phương bỏ về Đả Nẵng ngày 25/3/1975 bằng tàu Hải Quân. Chuẩn Tướng Điềm, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cũng bỏ về Đà Nẵng trong ngày 25/3/1975 bằng trực thăng.

4-Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã được Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại báo trước là Hải Quân và Công Binh sẽ gặp khó khăn, và rút quân theo ngả Thuận An có thể sẽ mất hết, còn rút quân bằng đường bộ sau khi đánh tan hậu cứ của 2 sư đoàn CSBV-đã lộ diện gần QL1- là khả thi, mà Tướng Trưởng không nghe.

5-Trong lúc Đạo Quân Tiền Phương bị vây hãm tại Thuận An chỉ có Đại Tá TQLC Nguyễn Thành Trí còn ở lại ngoài khơi Thuận An, ngoài ra đã không có một cấp chỉ huy cao cấp của Quân Đoàn I nào, từ Trung Tướng Trưởng đến Trung Tướng Thi, hay Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I bay thị sát mặt trận để trực tíếp tìm phương cách cứu nguy cho Đạo Quân Tiền Phương.

6-Không Quân, Hải Quân của Quân Đoàn I còn nguyên vẹn nhưng đã không can thiệp cứu nguy. Theo Phó Đề Đốc Thoại thì vào thời điểm 24/3/1975 đến 27/3/1975, Hải Quân có sẵn 12 chiến hạm tại ngoài khơi Thuận An sẵn sàng yểm trợ hỏa lực nhưng không được lệnh và cũng theo Phó Đề Đốc Thoại thì tại Đà Nẵng Không Quân có trên 40 oanh tạc cơ A.37 còn tốt khiển dụng, nhưng đã không được lệnh can thiệp để cứu Đạo Quân Tiền Phương, tóm lại đạo quân này đã bị bỏ rơi.

7-Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không biết về lệnh rút bỏ Huế lúc 6 PM ngày 24/3/1975?, mãi đến 9.30 AM ngày 25/3/1975 trong phiên họp Nội Các và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, khi Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng thì ông vẫn chưa biết. Tổng Thống Thiệu còn hỏi Tướng Trưởng: “Có giữ được Huế không?”.
Tuy nhiên, đây là sự thật hay chỉ là màn dàn cảnh cho lịch sử thì không ai biết.

8- Nếu rút quân theo Quốc Lộ 1, chúng ta sẽ có thể mang về Đà Nẵng toàn thể Quân Đoàn 1 Tiền Phương gồm lính, chiến xa, đại bác, nếu quân CSBV chặn đường thì với địa thế trống trải, Hải, Không Quân VNCH còn nguyên vẹn, quân ta thiện chiến và đông hơn địch, chúng ta sẽ tiêu diệt bất cứ đạo quân nào chặn đường, tất cả đạo quân Tiền Phương sẽ về để giữ Đà Nẵng một thời gian dài. Rút quân bằng Hải Quân thì, nếu may lắm, cũng chỉ mang về Đà Nẵng quân lính và vũ khí cá nhân, còn chiến cụ nặng phải bỏ lại.

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THẤT THỦ:

Lực lượng chính quy hai bên tại chiến tuyến Đà Nẵng:
-VNCH:
Bắc: Lữ Đoàn 468TQLC tại Đèo Hải Vân.
Tây: Lữ Đoàn 369TQLC tại Đại Lộc- Thượng Đức.
Lữ Đoàn 258TQLC làm trừ bị tại Căn Cứ Non Nước-Đà Nẵng.
Tây Nam: Sư Đoàn 3 Bộ Binh với 14.000 quân.
Nam: Sư Đoàn 2 Bộ Binh và Liên Đoàn 12 BĐQ.
-CSBV:
Bắc: Sư Đoàn 324, 325. Hai sư đoàn này sau khi tiến vào Huế đã bị bỏ ngỏ, chúng tịch thu được một số lượng vũ khí đạn dược khổng lồ của Đạo Quân Tiền Phương gồm Đại Bác 105, 155 ly, 51 Chiến Xa M48 còn mới và hàng trăm Chiến Xa M41, M113, chúng đã trở thành một lực lượng quân sự hùng mạnh.
Tây: Sư Đoàn 304. Tháng 8/1974, sư đoàn này cùng với Sư Đoàn 324B CSBV và các thành phần tăng phái yểm trợ của Quân Đoàn 5 và Quân Đoàn 2 CSBV chiếm Quận Thường Đức, chúng đã bị Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù đẩy lui, trận chiến kéo dài đến đầu năm 1975, kết quả CSBV bị thiệt hại 2,000 quân chết và 5,000 quân bị thương, CSBV giấu xác chết rất giỏi, nếu Nhảy Dù đếm được 2000 xác địch thì con số thực tế phải cao hơn nhiều, như vậy thì SĐ 304 CSBV chỉ còn cái tên thôi. Khi Lữ Đoàn 369 TQLC đến thay Nhẩy Dù từ ngày 16/3/1975 đến 29/3/1975, theo Đại Úy Kiều Công Cự Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 2 TQLC thì không có hoạt động nào của CSBV tại vùng này.
Nam: Sư Đoàn 2 CSBV và 1 trung đoàn của SĐ 3 CSBV.

Diễn Tiến Tình Hình:

Phần này tôi viết theo chi tiết từ phỏng vấn Phó Đô Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, phỏng vân Thiếu Tướng Bùi Thế Lân lúc tôi thực hiện hồi ký: “Trình Tổng Thống Tôi Quyết Định Theo Tình Hình”, Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Trung Tín-Y Sĩ Trưởng LĐ 2 BĐQ, các MX Nguyễn Bác Ái, MX Nguyễn Thế Thụy là những người có mặt cùng với Thiếu Tướng Lân và từ kinh nghiệm của người viết.

LĐ 258 TQLC về đến đỉnh Đèo Hải Vân vào 7pm ngày 25/3/75, tôi được lệnh mang thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân. Tại đây tôi gặp Niên Trưởng Phạm Văn Lương, ông hứa sẽ săn sóc thương binh của tôi, và cho tôi biết tình hình phía Nam Đà Nẵng bắt đầu rối loạn. Sau đó khoảng 10 PM ngày 25/3/1975, tôi được lệnh trình diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế tại Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC tại căn cứ Non Nước Đà Nẵng, trên đường đi tôi thấy thành phố Đà Nẵng rất hỗn loạn, đầy dân tỵ nạn, quân nhân rã ngũ và có thể rất nhiều đặc công VC trà trộn.

Trưa ngày 26/3/75, tôi được lệnh ra bến Thương Cảng Đà Nẵng đón tàn quân của Lữ Đoàn 147 TQLC. Cả 1 Lữ Đoàn gần 4000 TQLC về Đà Nẵng chỉ trên 1 chiếc LCU duy nhất, gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, trên 1 trăm thương binh và khoảng vài trăm binh sĩ. Ông Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 TQLC Đại tá Nguyễn Thế Lương bị thương tại đầu gối do hỏa tiễn tầm nhiệt của VC bắn lúc di tản khỏi bãi Thuận An và tôi đã được lệnh săn sóc ông từ đây.

Ngày 27/3/75, toàn là tin xấu, Quảng Ngãi thất thủ, ½ Sư Đoàn 2 Bộ Binh được tầu Hải Quân cứu mang về Cù Lao Ré, BĐQ tan hàng phần còn lại rút về Đà Nẵng. Thiếu Tá Trần Vệ ban 3 SĐ/TQLC có việc phải lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I thì không thấy ai, như vậy sĩ quan và binh sĩ trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã bỏ đi nhiều, dân chúng tranh nhau ra phi trường Đà Nẵng để về Saigon, các bến tầu đông đúc hỗn loạn.

Căn Cứ Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải- Đà Nẵng.

Ngày 28/3/75 buổi sáng chúng tôi nhận được lệnh tử thủ Đà Nẵng, trên trời máy bay L19 phát thanh kêu gọi các quân nhân bộ binh và BĐQ rã ngũ về trình diện đơn vị, và bây giờ tôi mới được biết Trung Tướng Trưởng đang ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC tại Căn Cứ Non Nươc.

Tại Bệnh Viện Dã Chiến Sư Đoàn TQLC, tôi và Bác Sĩ TQLC Nguyễn Quang Khoa, với tinh thần tử thủ, đã thong thả đốt từng lá thư tình và từng hình ảnh của các “em gái hậu phương”, để nếu chúng tôi có hy sinh thì lũ “cán ngố” sẽ không xem đọc được.

Buổi Trưa 28/3/1975, có một khách không mời là Tổng Lảnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng AL Francis cùng 2 người da trắng tự nhận là nhà báo ngoại quốc, chúng trang bị vũ khí cùng mình, đến Căn Cứ Non Nước để xin gặp Trung Tướng Trưởng, không biết tên Al Francis này đã nói gì với Trung Tướng Trưởng để ông đổi ý định tử thủ Đà Nẵng, theo hồi ký của Phó Đề Đốc Hồ Văn Ký Thoại thì sau khi gặp Al Francis vào buổi chiều 28/3/1975 Tướng Trưởng đã quyết định bỏ Đà Nẵng và không còn nghe lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nữa, tên Al Francis sau đó dùng trực thăng đi về căn cứ Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải tại Tiên Sa- Đà Nẵng, Chúng tôi cũng nhận được tin tình báo là CSBV sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân và phi trường Đà Nẵng lúc 11pm đêm ngày 28/3/1975.

Chiều ngày 28/3/1975, tôi được lệnh mang Đại Tá Nguyễn Thế Lương đến căn cứ Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để tìm thêm phương tiện về Bệnh Viện Cam Ranh điều trị cho ông, chúng tôi quá giang trực thăng của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đến Căn Cứ Hải Quân vì Tướng Lân cũng đến đó để họp Quân Đoàn.

Chúng tôi đên căn cứ Hải Quân lúc 7pm, Đại Tá Lương được khiêng vào 1 căn hầm nổi kiên cố xây bằng nhiều bao cát, căn hầm này là Trung Tâm Chỉ Huy Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải. Trong hầm có Trung Tướng Trưởng, tôi đã xúc động vì đây là lần đầu tiên được gặp vị tướng huyền thoại này. Tuy nhiên, chưa kịp chào kính ông thì tôi đã phải săn sóc Đại Tá Lương đang kêu đau, vết thương rỉ máu. Trong căn hầm này còn có Phó Đề Đốc Hô Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Hải Quân, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC.

Đại Tá Lương ngồi bệt xuống đất, dựa trên chiếc bàn có điện thoại viển liên và tôi, bác sĩ của Đại Tá Lương, đang băng bó cho ông, tôi thấy Trung Tướng Trưởng gọi điện thoại cho Tổng Thống Thiệu. Tướng Trưởng muốn cho 2 ông tướng kia cùng nghe nên không áp sát điện thoại. Tướng Trưởng xin bỏ Đà Nẵng, Tổng Thống Thiệu không chấp nhận và lệnh cho ông phải tử thủ Đà Nẵng*.

(*sau này tôi có hỏi Thiếu Tướng Lân và Phó Đề Đốc Thoại về cuộc điện đàm này và cả hai đều xác nhận những điều tôi vô tình nghe là đúng).

Trung Tướng Trưởng trả lời: “Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình”, rồi cúp máy. Sau đó ông nói với Thiếu Tướng Lân: “Mình rút đêm nay”.

Trong bài hồi ký trước, tôi đã viết về phiên họp này nhưng vì không liên quan, nên tôi đã không đề cập đến chi tiết cuộc điện đàm này.

Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cho biết: Trong cuộc họp Quân Đoàn I sáng ngày 28/3/1975 các đơn vị trưởng đã được lệnh giữ Đà Nẵng bằng mọi giá, chỉ sau khi gặp tên Al Francis chiều ngày 28/3/1975 Trung Tướng Trưởng không còn nghe lời Tổng Thống Thiệu nữa, quyết định bỏ Đà Nẵng là của Trung Tướng Trưởng, thậm chí sáng ngày 29/3/1975 khi Trung Tướng Trưởng đang ở trên Tầu HQ 404 trên đường rời Đà Nẵng, Tổng Thống Thiệu còn gửi Trung Tướng Trưởng một công điện xác nhận lệnh tử thủ Đà Nẵng vẫn còn hiệu lực.

7.30 PM ngày 28/3/1975, Trung Tướng Lâm Quang Thi, Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh và một số sĩ quan cấp tá đến họp, trong phiên họp Trung Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng đêm nay. Thiếu Tướng Hinh xin 3 ngày để rút quân, Trung Tướng Trưởng không chấp nhận. Trong lúc 2 ông đang thảo luận về thời gian rút quân, tôi bỏ ra ngoài phòng họp, đi tìm tầu Hải Quân để gửi Đại Tá Lương về Cam Ranh thì biết lúc chiều vì có tin CSBV sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân lúc 11pm, nên Phó Đề Đốc Thoại đã ra lệnh cho tầu Hải Quân ra khơi để tránh pháo kích, còn 1 chiếc tầu riêng của Phó Đề Đốc Thoại thì đã bị tên Al Francis mượn để ra tầu HQ5, sau đó tầu không trở về.

Theo nhận xét của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân thì: “Trung Tướng Trưởng chỉ họp các đơn vị trưởng tối ngày 28/3/75 tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để ra lệnh rút quân ngay lập tức trong đêm, không có bàn thảo kế hoạch và phương cách rút quân”. Như vậy thì chỉ có những người có mặt tại buổi họp rút được nếu may mắn, còn binh sĩ trong các cộng sự phòng thủ xung quanh Đà Nẵng không thể nào rút ngay lập tức được, cuộc rút quân khỏi Đà Nẵng sáng ngày 29/3/1975 đã đẫm máu và hỗn loạn.

9pm ngày 28/3/1975, trong khi Thiếu Tướng Hinh đang xin Trung Tướng Trưởng thêm thời gian rút quân cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh thì CSBV bắt đầu pháo kích vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bằng đại bác 130 ly. Chúng pháo kích rất chính xác và nhắm vào hầm chỉ huy nơi các ông tướng đang họp.

Khoảng 10.30 pm, người nhái Hải Quân và TQLC bắt được mấy tên tiền sát viên VC nên chúng pháo kích rời rặc và không còn chính xác. Trận pháo kích này đã phá hủy 2 trực thăng của Tướng Trưởng và Tướng Lân.

Lúc 10.30pm ngày 28/3/1975, buổi họp kết thúc, Tướng Lâm Quang Thi dùng trực thăng bay ra Soái Hạm HQ5, Tướng Trưởng được 1 trực thăng khác đến đón.

Vì trực thăng của TQLC bị phá hủy nên Tướng Lân và chúng tôi phải theo Phó Đề Đốc Thoại và cận vệ của ông.

Lúc 11pm CSBV pháo kích căn cứ Hải Quân rất nặng nề, chúng tôi phải bỏ căn cứ di chuyển bộ quanh chân núi Sơn Trà và mãi đến sáng ngày 29/3/1975 mới đến một bãi biển hoang vắng, lúc đó Tướng Thoại mới gọi được một tầu nhỏ vào đón và đưa ra Chiến Hạm 802.

Theo các TQLC tại Trung Tâm Hành Quân tại căn cứ Non Nước thì lúc 12am ngày 29/3/1975 Trung Tướng Trưởng đã bay đến Bộ Chỉ Huy TQLC để qua đêm, 6am ngày 29/3/1975, khi có tầu HQ vào bờ biển căn cứ Non Nước đón TQLC, Tướng Trưởng cùng những quân nhân TQLC thuộc Trung Tâm Hành Quân TQLC lội ra tàu.

Cũng từ giờ phút này, Quân Dân Quân Khu I như rắn mất đầu tìm đường “tự thoát” và lũ cán binh CSBV trước đó một tuần đã bị chúng tôi đánh chạy “vắt giò lên cổ” trốn trong lùm rừng khe núi, giờ thì ngoi ra, chỉ trời vạch đất huênh hoang khoác lác.

Vì lệnh rút quân quá bất chợt và gấp rút nên quân sĩ trong các vị trí phòng thủ quanh Đà Nẵng không thể đến các bến tầu được và nhất là không có cấp chỉ huy cao cấp nên cuộc rút những đơn vị còn lại của Quân Đoàn I trong ngày 29/3/1975 tại các bến tầu Đà Nẵng đã diễn ra trong hỗn loạn và đẫm máu.

Riêng Sư Đoàn TQLC, quân số lúc ra Vùng I Chiến Thuật là trên 12 ngàn người về đến Vũng Tầu chỉ còn 4 ngàn TQLC. Tính từ lúc CSBV bắt đầu nổ súng trên Quốc Lộ 1 Nam Thừa Thiên ngày 21/3/1975 đến lúc Đà Nẵng thất thủ ngày 29/3/1975 thì Quân Đoàn I đã tan rã chỉ trong 8 ngày.

TQLC đang chờ tầu quân tại Căn Cứ Non Nước Đà Nẵng ngày 29/3/1975.

Đặc Điểm Của Cuộc Rút Bỏ Đà Nẵng:

1-Chưa có một trận đánh lớn nào quanh Đà Nẵng mà cấp chỉ huy Quân Đoàn I đã quyết định rút.

2-Theo Phó Đề Đốc Thoại thì sáng ngày 28/3/1975, trong cuộc họp Quân Đoàn, Trung Tướng Trưởng cương quyết bảo vệ Đà Nẵng, chỉ sau khi họp với tên Al Francis với vỏ bọc là Tổng Lãnh Sự Mỹ, trưa ngày 28/3/1975 tại căn cứ TQLC Non Nước- Đà Nẵng, ông mới đổi ý và quyết định rút bỏ Đà Nẵng khẩn cấp.

3-Bỏ Đà Nẵng là quyết định của Trung Tướng Trưởng, Tổng Thống Thiệu hoàn toàn bị bất ngờ. Tôi viết câu này dựa theo phỏng vấn Thiếu Tướng TQLC Bùi Thế Lân, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và Hồi Ký của ông Nguyễn Tiến Hưng Cố Vấn Tổng Thống Thiệu.

4-Lệnh bỏ Đà Nẵng quá đột ngột, thời gian rút quân quá vội vã cho nên các đơn vị trưởng bị bất ngờ không kịp
lengoi
Posts: 486
Joined: Sat Oct 23, 2010 7:17 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by lengoi »

Tháng Ba Buồn… Hiu !

- Tiểu Cần Nguyễn Thế Thụy -


Thời gian 35 năm, từ 3/75 tới 3/2010, là một nửa đời người nếu tôi chỉ xin được sống bình an đến 70 tuổi thôi là đủ rồi, vậy mà hằng năm cứ đến tháng 3 là lòng tôi lại nao nao buồn bã, bao hình ảnh của chiến trận năm xưa, vào hạ tuần tháng 3/75, lại hiện về khiến tôi giảm tuổi thọ! Cuộc chiến “không chiến*” ấy chỉ xảy ra trong vòng một tuần lễ trên một đoạn đường không xa, từ cửa Thuận An, Huế đến bờ biển Non Nước Đà Nẵng mà có quá nhiều đổi thay, quá nhiều điều khó hiểu luôn dày vò tâm can khiến tôi lại ngậm ngùi nghĩ về Tháng Ba Buồn Hiu! (* Tôi gọi cuộc chiến “không chiến” không có nghĩa là máy bay ta và địch đấm đá nhau trên trời mà là quân ta ở dưới đất chưa có đánh nhau thực sự với địch mà đã phải rút theo lệnh, theo lệnh vào ngõ cụt khiến quân ta bị đẩy vào cửa tử! Tôi còn nhớ như in những ngày buồn thảm ấy, như mới xảy ra ngày hôm qua mà thôi!

Ngày 25/3/1975

Mới 6.30 sáng, Đại Úy Nguyễn Quang Đan, danh hiệu Đại Dương, chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã gọi tôi trình diện gấp, vừa gặp anh, Đại Dương vội vã nói với tôi như có việc khẩn cấp:

– “Tiểu Cần mang PRC.25 ra ngay bãi trực thăng TL/SĐ chờ tôi”.

– “Nhận rõ, tôi chờ Đại Dương tại bãi trực thăng của TL”.

Theo kinh nghiệm, tôi lập lại khẩu lệnh cho chắc ăn để không hiểu lầm rồi làm sai lệnh của cấp trên, chào Đại Dương xong là tôi mang máy PRC25, ba chân bốn cẳng chạy thẳng ra chỗ trực thăng của Tư Lệnh đang đậu, nhưng trong đầu không khỏi thắc mắc về cử chỉ vội vã khác thường này của Đại Úy Đan. Nhưng cũng không còn thì giờ để nghĩ tiếp vì xe jeep của TĐ/THD chở phi hành đoàn cũng vừa tới, hai phi công phóng vội lên trực thăng và cho nổ máy. Khoảng 5 phút sau thì Đại Úy Đan đi tới cùng với Đại Tá Tham Mưu Trưởng/SĐ Lê Đình Quế, danh hiệu Quang Trung tất tả đến, chúng tôi tôi cùng leo lên trực thăng ngay.

Cất cánh lên cao, trực thăng trực chỉ hướng Bắc, dọc theo bờ biển, khi vừa qua khỏi Lăng Cô, Đại Úy Đan ghé sát miệng vào tai tôi gần như hét lên để át tiếng cánh quạt máy bay:

– “Tiểu Cần gọi LĐ.147 để Quang Trung nói chuyện với Long Mỹ”

Long Mỹ là Đại Tá Nguyễn Thế Lương Lữ Đoàn Trưởng LĐ.147/TQLC. Khoảng 30 phút sau, trực thăng đến vùng bờ biển Thuận An, nơi tập trung quân của Lữ Đoàn, theo lời yêu cầu của Đ/Úy Đan, trực thăng giảm độ cao, bay rất thấp, thấp đến độ tôi có thể nhìn rõ màu bảng tên của tiểu đoàn các anh TQLC ở dưới đất, thấy rõ các anh ngước lên đưa tay vẫy mỗi khi trực thăng bay qua phạm vi đóng quân của từng đơn vị, những gương mặt vui tươi với những nụ cười hy vọng dù rằng cả một ngày và đêm các anh phải đi bộ từ tận cùng phía Bắc Huế về đây theo kế hoạch lui binh. Nhưng các anh vui tươi và hy vọng điều gì khi chỉ một chiếc trực thăng bay ngang? Hẳn nhiên là mong thẩm quyền “cõi trên” nhìn thấy và biết rõ những gì các anh đang cần để mà đáp ứng hầu tiếp tục chiến đấu.

Là lính truyền tin mang máy đi theo Tư Lệnh nhiều năm, loáng thoáng nghe qua cuộc điện đàm giữa Quang Trung và Long Mỹ nên tôi hiểu được tình hình và những chuyện gì đang xảy ra dưới bờ biển kia! Tôi thông cảm với nụ cười và hy vọng của các anh mỗi khi trực thăng bay qua, dù rằng không biết là giới chức nào ngồi trên đó, nhưng ít nhất “trực thăng” cũng đã thấy tận mắt hoàn cảnh bi đát của các anh, “kìa đoàn quân chiến thắng” không phải trở về mà bị buộc lui binh, lui binh trên lộ trình “rút cầu”! Cầu phao ở cửa Tư Hiền, trên đường lui binh đã không được thực hiện theo kế hoạch Alfa!

Trực thăng bay dọc theo bờ biển theo hướng Nam Bắc và ngược lại nhiều lần để Quang Trung nói chuyện với Long Mỹ, khoảng 30 phút sau thì trực thăng quay về BTL/SĐTQLC trong căn cứ Non Nước.

Về đến BTL/SĐ chưa đầy 10 phút, đang uống ly nước lạnh do T/S Hòa, văn thư của TL cho để dằn “bụng đói” thì Đại úy Đan gọi vào văn phòng:

– “Tiểu Cần, tụi mình sẽ bay ra Thuận An nữa để tiếp tế gạo cho anh em, chúng ta vẫn dùng trực thăng của Thiếu Tướng Tư Lệnh”.

– “Tôi luôn sẳn sàng, chúng mình sẽ bay ra tiếp tế gạo cho anh em, tôi ra trực thăng trước để chờ thẩm quyền”.

Khi tôi đến nơi thì một số anh em thuộc TĐ/THD đang chất những thùng gạo sấy lên chiếc trực thăng, tôi phụ một tay để cố sắp xếp sao cho càng nhiều càng tốt, nhưng khoang tàu chỉ có sức chứa 10 thùng là tối đa. Vậy với chỉ một chiếc như thế này thì chở không được bao nhiêu, và phải bao nhiêu chuyến trong lúc hơn 3000 người đang “bụng không, bãi cát trống”?

Vẫn bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc, khi gần đến vị trí LĐ.147 thì phi công hỏi Đại Úy Đan kế hoạch tiếp tế những thùng gạo sấy này thì anh Đan cho lệnh đáp xuống bãi cát, anh em dưới đất phụ vào để giải tỏa rất nhanh cho trực thăng cất cánh làm chuyến khác. Nơi đầu tiên nhận được gạo sấy là một đơn vị PB.

Qua chuyến thứ hai, theo tính toán của anh Đan và phi công thì đáp và cất cánh tốn nhiều thời gian nên các anh cho trực thăng bình phi cách mặt đất chừng 10m rồi chúng tôi xô các thùng gạo sấy xuống, làm cách này rất nhanh, nhưng sau đó thì được biết một vài anh em bị thương vì thùng gạo rơi trúng người!

Xin lỗi các anh, cái khó nó bó cái khôn, chúng tôi không biết làm gì hơn. Chuyến thứ ba đã hoàn tất, như vậy chúng tôi đã thẩy xuống được tất cả 30 thùng gạo sấy, nhưng một thùng có bao nhiêu bịch gạo thì khó mà biết. Vội vã quay trở lại Non Nước để làm chuyến thứ tư trước khi phi cơ phải đi đổ xăng thì một bất ngờ, hết sức bất ngờ xảy ra.

Phi công báo cho Đại Úy Đan (K21VB) biết là trực thăng của Chuẩn Tướng Điềm, TL/SĐ.1/BB lâm nạn, rớt xuống đất, hiện ông Tướng Tư Lệnh, sĩ quan tùy tùng và phi hành đoàn đang trong tình trạng hết sức nguy hiểm, lại chưa liên lạc được với giới chức nào để tiếp cứu, phi công xin ý kiến Đại Úy Đan.

Nên nhớ trực thăng Đại Úy Đan đang sử dụng là trực thăng chỉ huy của TL/SĐTQLC và được Thiếu Tướng TL cho dùng để tiếp tế gạo cho lính của ông, vì không còn bất cứ phương tiện nào khác, nên trong trường hợp cần thiết và nguy hiểm này Đại Úy Đan hiểu được Chuẩn Tướng Điềm cũng sẽ không còn “chuồn chuồn” nào tới cứu ông! Đại Dương Đan OK với phi công đi cứu người ngay trước khi thông báo về BTL/SĐTQLC để xin “hợp thức hóa” sự liều mạng này.

Trực thăng đang xuôi Nam liền “quẹo” phải về hướng Tây (Trường Sơn) rồi “quẹo” phải một lần nữa về hướng Bắc, bay chừng 5 phút thì chúng tôi phát hiện trực thăng của Tướng Điềm nằm nghiêng đằng sau hàng dương liễu gần QL1, khoảng 10 km phía Bắc Lăng Cô.

Chúng tôi vừa đáp xuống cách trực thăng bị nạn chừng 150m thì phi hành đoàn, Chuẩn Tướng Điềm và một vị thiếu tá rời khỏi trực thăng chạy về hướng chúng tôi. Lập tức toán VC ở bìa làng gần QL1 cũng đang tiến đến chỗ trực thăng bị nạn liền khai hỏa về phía chúng tôi.!

Có lẽ trước khi chúng tôi đáp xuống cứu chuẩn tướng thì toán VC này còn ở xa hoặc đang thăm dò tình hình và xin lệnh “thủ trưởng” là bắt sống hay giết chết! Nhất định phải bắt sống, vì VC nghĩ những “địch quân” ngồi trên “máy bay lên thẳng” ắt phải là cấp “sư”. Nay thấy chúng tôi đến cứu vớt, “hớt tay trên” những nhân vật quan trọng từ “trời rơi xuống”, những mồi ngon của chúng nên chúng vội vã xả súng để hy vọng gỡ gạc may ra gây cho địch “từ chết tới bị thương”.

Nhìn thấy Chuẩn Tướng Điềm khập khiễng khó khăn chạy trên cát mà VC thì bám sát bắn rát sau lưng ông, tôi tự động không cần đắn đo suy nghĩ mà phóng ào ra khỏi trực thăng, chạy thật nhanh đến ông, dìu tiếp sức giúp ông chạy nhanh hơn. Ông và tôi là hai người cuối cùng còn “đầu đội trời, chân đạp đất”, vừa chạm tay vào mép sàn trực thăng thì trên máy báy bao cánh tay của các “thượng đế” đưa ra nắm lấy chúng tôi, người túm áo, người nắm vai, thậm chí còn có thượng đế dám nắm cổ ông tướng kéo lên, miễn sao thoát khỏi bàn tay của quỷ dữ.

Trực thăng bốc lên ngay khi hai chân tôi còn đang tòng-teng phía ngoài, vài tràng súng bắn theo, tôi lạnh giò đúng nghĩa, nhưng khi đã an vị trên sàn thì tôi đưa tay vẫy vẫy chọc quê mấy cháu “baác”, giã từ vũ khí AK. Cùng lúc một bàn tay vỗ nhẹ vai tôi, tôi quay lại, ông tướng mỉm cười nói:

– “Cám ơn em, em tên gì?”

Trực thăng của TL/SĐTQLC đưa TL/SĐ.1BB và phi hành đoàn bị nạn về đến phi trường Đà Nẵng (SĐKQ) là Đại Úy Đan cho quay trở về BTL/SĐ ở Non Nước ngay. Tôi chuẩn bị sẵn sàng chất gạo xấy lên máy bay cho chuyến tiếp tế thứ tư, nhưng khi anh Đan và tôi vừa nhảy ra khỏi thì trực thăng bốc cao, tôi hỏi:

– “Trực thăng đi đâu vậy Đại Dương?”

– “Đi đổ xăng”. Anh Đan lắc đầu đáp gọn, giọng nói như nghẹn họng!

Sau ba phi vụ tiếp tế, tôi không còn nhận được lệnh gì nữa, coi như chuyện bay ra Thuận An để thả những thùng gạo sấy xuống cho anh em nhai chấm dứt, tôi xin nhấn mạnh chữ “nhai”, vì anh em có còn giọt nước nào đâu để đổ vào gạo sấy cho gạo sẽ thành cơm! Dù xung quanh các anh là những đầm nước, là đại dương mênh mông, vì người ta có thể uống nước tiểu chứ không thể uống nước biển. Quả thật anh em LĐ.147 đang chết “vì nước” trước biển cả! Nếu anh em ăn được cát thì đâu cần trực thăng tiếp tế lương thực! Không ăn được cát thì “cát ăn”, cá ăn kiến, kiến ăn cá mà, đã có nhiều xác phải vùi vội vàng xuống cát vì không có tiếp tế! Chết vì không có trực thăng tiếp tế đạn dược, thuốc men, nước uống và lương thực dưới bầu trời đầy “chuồn chuồn” đang xuôi Nam!

Vị danh tướng tiền phương QĐ.1 khi ra mắt cuốn sách viết về trận chiến Bình Long Anh Dũng “Hell In An Lộc” đã trả lời phóng viên báo Người Việt:

– “Trận An Lộc chứng tỏ một cách hùng hồn rằng QLVNCH nếu được yểm trợ đầy đủ về hỏa lực và tiếp liệu thì có thể đánh bại các sư đoàn thiện chiến nhất của Bắc Việt, dù chúng được pháo binh và thiết giáp yểm trợ” (NV 8803).

Vậy mà khi điều binh cuộc chiến “Tháng Ba Buồn Hiu 3/75” này, dưới tay Tướng Tư Lệnh có SĐ.1/KQ và HQ vùng I Duyên Hải, PB đủ loại mà ngài lại quên sử dụng để yểm trợ hỏa lực và đạn được khiến quân dưới quyền của ngài, cụ thể là LĐ.147/TQLC thiếu đạn để bắn quân thù, anh em chúng tôi bèn dùng lựu đạn M26 để ôm nhau rút chốt!

Ba mươi năm năm sau hay 70 năm thì vẫn thắc mắc suông vậy thôi chứ nào dám hỏi ai đâu! Ngay việc muốn hỏi Đại Úy Đan là tại sao không tiếp tục tiếp tế gạo sấy cho LĐ.147 mà tôi còn không dám hỏi thì nói chi tới chuyện lấy “sào khều mặt trời”, dám thắc mắc với Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.1, tác giả “Hell In An Lộc” rằng sao ông không cho lui binh theo QL.1 mà lại điều quân ra bờ biển, bảo quân đi qua cầu phao ở cửa Tư Hiền, nhưng ngặt nỗi cầu phao thì không bắc mà những con thuyền (tàu) thì cũng “viễn xứ”! Thôi thì đành anh em ta ôm “em 26” vào lòng cho sướng!

Đại Tá Nguyễn Thành Trí TLP, chỉ huy lực lượng TQLC tại mặt trận Quảng Trị Huế đã ghi lại lệnh rút lui của Tướng Tiền Phương Lâm Quang Thi như sau:

– “Lực lượng Tây Bắc Huế do tôi (Tướng Thi) chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó di chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây Hải Quân và Công Binh QĐ.1 sẽ thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. LĐ.468/TQLC từ đèo Hải Vân sẽ cử một đơn vị đến chiếm núi Vĩnh Phong để bảo vệ điểm vượt sông đồng thời làm thành phần tiếp đón. SĐ.1/BB do Tướng Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục QL1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông (cửa Tư Hiền), song song cùng với cánh quân TQLC…”.

Hay quá! Nhưng chỉ kẹt một sợi tóc là “cóc có” cầu phao nên SĐ.1 tan hàng và LĐ.147/TQLC bị đưa ra “pháp trường cát Thuận An”! Tại sao không có cầu phao? Câu trả lời thuộc về HQ vùng I và CB/QĐ.1, cao hơn là TL Tiền Phương.

Ngày 26/3/1975

Phạm vi trú đóng của TL/SĐ yên lặng, mọi người làm việc bình thường, cái bình thường hình như không yên ổn. Tôi chỉ loanh quanh trong vị trí đóng quân, sẵn sàng xách máy chạy theo TL bất cứ lúc nào ông đi bay. Thỉnh thoảng tôi lên TOC (TTHQ/SĐ) để kiểm soát lại hệ thống liên lạc, mật hiệu, tần số xem có gì thay đổi hay không rồi trở về ngay chốn cũ “bến đò xưa”.

Ngày 27/3/1975

Tin LĐ.147 bị hốt trọn gói, bị bắt hết (trừ một số thương binh đã được LCM vào bốc từ hôm trước) chỉ vì hết đạn và tàu HQ không vào đón theo kế hoạch lui binh Alfa khiến chúng tôi rụng rời tay chân. Trời hỡi, trời ơi! Tôi thực sự bàng hoàng sửng sốt, không tin là sự thật! Mới chỉ hôm qua hôm kia thôi, các anh còn cười đùa “vẫy tay chào nhau” với chúng tôi để đón những bịch gạo sấy. Cái kết thúc quá tàn nhẫn và đau thương!.

Các anh còn đội ngũ đội hình vững vàng, còn đầy đủ cấp chỉ huy can trường luôn sát cánh cùng quân sĩ của mình, các anh vẫn còn đầy đủ hay dư thừa sự gan lì và kỷ luật của một đoàn quân luôn chiến thắng và chưa bao giờ chưa bao giờ biết lùi bước. Nhưng các anh lại thiếu đạn dược lương thực và đau đớn là bị bỏ rơi chỉ vì bờ biển “cạn” tàu không vào được! Các anh bị bắt chỉ vì cầu phao tại cửa Tư Hiền không được HQ và Công Binh thiết lập theo lệnh của Trung Tướng TL/TP. Ai là người gây ra thảm họa này. Nếu TL/QĐ.1/TP chọn lui binh theo QL1 thì chắc chắn không có thảm cảnh cá nằm trong rọ. Ai đã đơm LĐ.147? Lữ đoàn 147/TQLC gồm các Tiểu Đoàn 3,4,5 và 7 chính là những tiểu đoàn tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị thì nay những tiểu đoàn ấy lại bị bỏ rơi một cách khó hiểu.

Trận chiến năm 1972 và tái chiếm Cổ Thành, chỉ một đoạn đường không bao xa, từ ngã ba Tri Bưu đến chân thành Đinh Công Tráng, các anh đã phải bò, trườn, lăn có ngày chỉ tiến được 50m với hằng trăm đồng đội bị gói trong “poncho”. Trung Tá Nguyễn Văn Cảnh TĐTr/TĐ.3, một trong mũi tấn công đã nói rằng ngày nào tiểu đoàn chỉ hy sinh dưới 20 mạng là “may mắn” lắm rồi! Vì thế trong 55 ngày đêm từ khi khởi sự cho đến lúc ngọn cờ quốc gia phất phới bay trên đống gạch vụn thành Đinh Công Tráng theo lệnh của Tổng Tư Lệnh tối cao thì binh chủng TQLC chúng tôi đã phải hy sinh hơn 3000 tay súng, mà một người hy sinh thì 4 người bị thương! Nhưng ngày đó chúng tôi không khóc, vậy mà hôm nay 27/3/1975, cũng hơn 3000 tay súng TQLC phải “chết đứng” trên bãi cát chỉ vì súng họ không còn đạn khiến anh em chúng tôi khóc!

Chúng tôi khóc vì thương cho đồng đội bị dồn vào lưới, tống vào rọ ở bờ bên kia cửa Tư Hiền, ngăn sông chỉ vì thiếu một cái cầu phao!Tôi thương cho thằng Hùng, thằng Lý, thằng Đức v.v.. Tôi nhớ đến Cam Ranh, Thiếu Tá Phạm Cang TĐTr/TĐ.7, một thần tượng của tôi, anh là xử lý Lữ Đoàn 147 sau khi LĐT bị thương, anh đã ở lại để cùng bị trói với đồng đội Lê Quang Liễn, Phạm Văn Tiền, Nguyễn Văn Sử với hơn ba ngàn thuộc cấp!

Ngày 28/3/1975

Như thường lệ, cứ 6 giờ sáng là tôi đã quân phục chỉnh tề, kiểm soát máy PRC25, pin, hệ thống liên lạc v.v.., nếu có một trục trặc nhỏ là tôi được ưu tiên đổi máy mới toàn hảo, mang máy theo Tư Lệnh thì mọi thứ mọi điều phải 5/5. Tánh của ông nghiêm nghị ít nói, suốt 3 năm mang máy theo ông tôi chỉ một lần bị sao “quả tạ” chiếu mạng. Ngày N, trên đường bay đến LĐ.258, TL muốn nói chuyện với Đồ Sơn, Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng, nhưng không hiểu vì sao mà tôi không thể liên lạc được với BCH/LĐ dù máy móc OK, thời tiết tốt.

TL nhắc lần thứ nhất với Đại Úy Đan, chánh văn phòng TL, rồi lần thứ 2, thứ 3, anh Đan nhìn tôi lo lắng thương hại, còn tôi thì hồn vía “lên mây”! Lần thứ 4 TL quay sang “gõ” vào đầu tôi và nói tiếng Đức, chỉ có vậy thôi, rồi trực thăng cũng đáp tại LĐ.258 và đã có Đại Bàng Đồ Sơn ra đón TL. Có điều nghĩ lại cũng buồn cười, TL là “Bắc Kỳ” 100% mà lại nói tiếng Đức theo lối “Nam Kỳ” nên nghe lạ tai và kỳ-kỳ làm sao ý. Một kỷ niệm khó quên.
Đã 10 giờ sáng rồi mà không thấy động tĩnh gì cả, thường thì TL đi thăm các đơn vị vào lúc 8 giờ sáng. Tôi lò mò đến gặp đầu bếp của TL, Tr/S Nam để thăm dò tin tức chứ trong lòng đầy mối lo nhưng lại “bụng không dạ trống”, anh Nam luôn cưu mang tôi mỗi khi túi không tiền, mà túi tôi không tiền gần như suốt 25 ngày trong tháng.

Vừa trông thấy tôi mang bộ mặt rầu rĩ, anh Nam tưởng lầm tôi đói nên cho một chén cơm nguội đỡ lòng. Kể ra sự “hiểu lầm” của anh Nam cũng rất dễ thương và ước mong ai cũng hiểu lầm nhau theo phong cách này. Vừa nhai lưng chừng nửa chén cơm nguội thì Tr/Hòa vào gọi bảo tôi đi gặp Đại Úy Đan gấp! Thế là đành bỏ dở chừng chén cơm nguội đang ngon miệng, rồi ba chân bốn cẳng chạy đi, lòng thầm nhớ câu cải lương “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”.

Tôi không còn nhận ra Đại Úy Đan của ngày hôm qua nữa, trông anh tựa như người vừa bị VC bắt, hẳn là anh đã thức trắng đêm, tôi nào có hơn gì anh, quanh đây đầy một không khí tang tóc, hình như ai cũng khóc cho đồng đội vừa mới…! Không phải như lời ca Cờ Bay “vừa mới chiếm lại đêm qua bằng máu” mà các anh “vừa mới bị trói đêm qua đầy máu”! Đại Úy Đan nhỏ nhẹ bảo tôi:

– “Tiểu Cần đến TĐ truyền tin SĐ nhận 2 bộ antena trời, 2 âm thoại viên và 2 máy PCR25 rồi sang BTL/Hải Quân bên Sơn Chà gặp Đ/Úy (?) Hải Quân trực TOC, ông ấy sẽ hướng dẫn địa điểm để Tiểu Cần thiết lập hệ thống liên lạc dã chiến cho Tư Lệnh”.

– “Thưa Đại Dương, anh em tôi đi bằng phương tiện gì?”

– “Tiểu Cần đi bằng xe của TL, Tài xế Ngọc đã sẵn sàng rồi”

– “Sau khi xong rồi tôi phải làm gì tiếp, thưa Đại Dương?”

– “Standby, chú ở đó để chờ lệnh mới”

– “Nhận thẩm quyển 5/5, ở tại đó để nhận lệnh mới”.

Tôi đến TĐTT thì gặp Đai Úy Trần Văn Viễn (ĐĐT/ĐĐKTHQ) đang chờ tại văn phòng, Đ/U Viễn là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi, anh em tôi làm việc với nhau lâu rồi và có thật nhiều kỷ niệm êm đềm, anh luôn hướng dẫn và giúp đỡ mỗi khi tôi cần đến. Sau khi trao cho tôi 2 bộ antena trời và những gì cần thiết cùng 2 âm thoại viên, T/S Tân, H/S Mạnh, Đ/U Viễn nắm chặt tay tôi nhắn nhủ:

– “Sang bên đó nếu có gì trở ngại, chú gọi cho tau ngay, đi bình an”

– “Cám ơn anh, tôi sẽ…”

Theo đúng nhà binh thì phải gọi là “đại úy”, nhưng đối với tôi, gọi cấp bậc tuy đúng nhưng họ chỉ là cấp chỉ huy, còn khi tôi gọi anh Viễn, anh Cang, anh Đan ở chỗ riêng tư thì các anh vừa là cấp chỉ huy vừa là vai anh về mọi phương diện trong một gia đình. Tôi không ngờ đó là lần cuối củng chào anh! Chúng tôi gặp lại nhau sau 33 năm trên đất tạm dung nhân dịp đại hội TQLC 2008 tại Nam CA.

Chúng tôi đến BTL/HQ vào lúc 12 giờ 15 và đã gặp ngay vị Đ/U HQ (quên mất tên rồi), ông dẫn tôi đến địa điểm đã chỉ định sẵn, đó là một “bunker”, hầm nổi bằng bao cát 10m x 6m, nằm cách hầm TOC/HQ chừng 5m. Sau khi quan sát, tôi quyết định dựng antena trên nóc hầm. Sau hơn một giờ làm việc, tôi,TS Tân, HS Mạnh và cả TS Ngọc tài xế đã dựng xong antena, bắt đầu vào hệ thống liên lạc để thử từ QĐ, SĐ, các đơn vị bạn được 5/5, tôi gọi về báo cho Đ/U Đan bằng tần số riêng thì vẫn nhận được lệnh y như cũ, có nghĩa là “standby”, chờ lệnh mới.

Ngồi tựa vào tường cát của hầm trú ẩn để nghỉ cho bớt mệt, khi hăng say làm việc thì quên đói, giờ đây ngồi không, bao tử trống réo gọi! Đói cồn cào, từ sáng sớm đến giờ mới chỉ có nửa chén cơm nguội, nghĩ đến nửa chén còn bỏ dở mà vị chua tiết ra càng làm bao tử sót! Chính lúc này tôi lại nhớ đến cái đói của anh em trên bãi cát Thuận An mà cách nay 3 hôm mới chỉ nhận được 30 thùng gạo xấy cho hơn 3000 người, nếu chia đều, mỗi TQLC được 1 thìa café! Ê chề quá!

Mặt trời khuất bóng về hướng Tây, cái váng vàng úa của buổi chiều tàn phản chiếu lại lên bầu trời một màu ảm đạm thê lương! Hay tại tôi “lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”! Màn đêm bắt đầu bao phủ cũng là lúc Tư Lệnh TQLC đến rồi lần lượt các vị TL quân binh chủng khác đáp trực thăng về đây mở cuộc họp ngay tại TOC/HQ (Trung Tâm Hành Quân Hải Quân).

Ngồi ở cửa hầm TOC với Tr/Uy Tạ Hạnh, chúng tôi nhận diện được quý tướng lãnh vào họp trong TOC là Trung Tướng Tư Lệnh QĐ.1 Ngô Quang Trưởng, Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.1 Lâm Quang Thi, Thiếu Tướng TL/TQLC Bùi Thế Lân, Tướng Nguyễn Duy Hinh TL/SĐ.3/BB, Tướng TL/HQ Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi không biết rõ cấp bậc Hải Quân nên cứ gọi là ông Tướng cho chắc ăn, cùng khoảng năm sáu vị đại tá, trong đó có Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ.147, ông bị thương nên Th/Tá Phạm Cang TĐT/TĐ.7 được chỉ định xử lý LĐT/LĐ.147).

Cũng cần nói thêm là trong các vị tướng Tư Lệnh đến họp, tôi không thấy 2 vị tư lệnh “không quân”, (nói lại cho rõ là tôi không thấy chứ chưa hẳn là nhị vị này vắng mặt), Đó là Tướng “không quân” TL/SĐ.1/BB, đại đơn vị của ông đã bị cái “cầu phao” lừa, còn Tướng Khánh TL Không Quân vùng 1 chả nhẽ cũng “không quân” nên không cần đến dự? Có cũng như không chăng? Vì mấy ngày này chẳng thấy phản lực bỏ bom đâu cả mà bỏ đi đâu! Chằng thấy chuồn chuồn chuyển quân, tiếp tế, tải thương đâu cả! Chẳng lẽ “mắng mí phí táy, thiểm zường tú lọoc tài zỉ”, có nghĩa là chuồn chuồn bay mất thì mưa ngập bờ ao!

Trong khi các vị tướng lãnh đang họp trong TOC thì CSBV bắt đầu pháo kích vào BTL/HQ, cường độ tăng dần, lúc đầu có những trái rớt ngoài vòng đai BTL/HQ nhưng rồi tiền sát viên của chúng nằm gần đâu đây để điều chỉnh dần vào mục tiêu, nhiều trái nổ gần chỗ chúng tôi, tài xế Ngọc báo cho biết xe jeep của Tư Lệnh bị pháo không còn sử dụng được nữa, môt số C&C bất khiển dụng.

Cuộc họp khoảng hơn một giờ thì chấm dứt, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đi ra trực thăng trước, Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC ngoắc tôi và bảo mang máy theo Trung Tướng TL/QĐ.1. A-lê-hấp, tôi quảy máy PRC25 lên lưng và tức tốc chạy theo, ra đến sân cờ, nơi trực thăng đậu, tôi còn đang chờ một vị thiếu tá lên trước rồi tôi mới lên. Ngồi trên trực thăng ngó xuống, thấy tôi Tr/Tướng hỏi:

– “Chú đi đâu đây?”

– “Thưa Trung Tướng, Th/Tướng TL tôi bảo tôi mang máy theo Tr/Tướng”.

Suy nghĩ trong giây lát rồi ông Tướng khoác tay bảo:

– “Thôi, không cần, chú trở lại với TL đi, cho tôi gửi lời cám ơn ông”.


Trở lại cửa TOC/HQ, Tr/Úy Tạ Hạnh vẫn còn ngồi đó, tôi trình bày tự sự nhưng cũng chẳng nghe TL hỏi han gì nữa. Rồi tất cả mọi người trong phòng họp lần lượt bước ra và rời BTL/Hải Quân, lúc đó vào khoảng gần 10 giờ đêm, VC vẫn còn pháo lai rai vào sân cờ.

Thiếu Tướng Tư Lệnh bước tới chỗ tôi và Tr/Úy Hạnh, gương mặt TL đăm chiêu, suy nghĩ, Tr/Úy Hạnh vội trình với Tư Lệnh:

– “Thưa Thiếu Tướng, mình phải bám theo Tư Lệnh HQ thôi, vì tất cả phương tiện không còn nữa, xe trúng pháo hư rồi, trực thăng cũng hư…”

Tư Lệnh suy nghĩ đôi phút rồi gật đầu, Tr/Úy Hạnh quay sang tôi:

– “Tiểu Cần, chạy sang gọi tất cả anh em lên đường”

Tôi vội chạy sang “bunker” gọi 2 ATV, TS Ngọc, HS Hương và vài người nữa rồi nối gót theo TL đi về hướng mà Tướng Thoại mới đi. Chúng tôi băng ngang sân cờ, vừa gần tới vọng gác thì có tiếng anh lính HQ la lớn:

– ”Ê, đề-lô VC, bắn nó, bắn nó”.

Sau tiếng la là một tràng M16 vang lên rồi tiếng người lính HQ:

– “Đ.M. ông hạ được mày rồi, thằng khốn nạn”.

Đến chân núi thì chúng tôi bắt kịp toán của TL/HQ, mọi người nối tiếp từng bước thật khó khăn ven theo chân núi Sơn Chà, những tảng đá to nhỏ bám đầy rong biển, lại thêm sóng đánh vào nên tạo ra đoạn đường rất ư là trơn trượt, chỉ sơ sẩy một tí thôi là sẽ bị té nhào hay bàn chân bị kẹt vào giữa 2 tảng đá thì gãy như chơi! Thỉnh thoảng tôi và Tr/Úy Hạnh phải kè hai bên TL để tiếp sức và giúp ông lấy lại thăng bằng. Lúc này mà gãy chân thì cuộc đời coi như đi đứt, cũng may là đêm nay “trăng sáng quá em ơi” nên cũng giúp cho chúng tôi thật nhiều.

Đi vòng dưới chân núi Sơn Chà chừng 2 tiếng thì chúng tôi ngồi nghỉ, TL/HQ làm tín hiệu bằng đèn pin cho tàu vào rước, có lẽ đến hơn 30 phút sau mà cá lớn cá nhỏ vẫn lặn mất tiêu, không có tàu nào vào đón cả nên TL/HQ nhờ tôi liên lạc bằng hệ thống TT.

Đà Nẵng – Những ngày cuối

Trời đất! Một giới chức đứng đầu vùng I Duyên Hải mà không có một ATV hay hệ thống L/L TT đi theo? Cũng may là trưa nay, trong lúc rỗi rảnh chờ lệnh mới, và qua nhiều năm tháng trong nghề đã dạy cho tôi những kinh nghiệm và lanh lợi nên tôi đã xin được tần số nội bộ của HQ nên bây giờ tôi vô tình lại kiêm nhiệm thêm vai trò một ATV của TL/HQ nữa, một ATV, hai TL! Chuyện hi hữu như các tướng lãnh họp hành quân mà không có tướng KQ (Tướng Khánh), như TL/HQ mà phải hành quân bộ trong đêm bên bờ biển!

Sau khi liên lạc được với HQ, họ gửi vào 2 tàu chiến, loại trang bị chiến cụ, không phải để chở quân, hình như là giang tốc đỉnh. Vì có nhiều đá ngầm và sóng biển nên tàu chỉ đậu cách xa bờ chừng 10m nên chúng tôi phải bơi ra. Muốn giữ cho máy PRC25 khỏi ướt, nên tôi phải đội máy lên đầu, vì vậy chuyện bơi ra tàu khá vất vả và mệt nhọc, và TL cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng an vị trên boong tàu.

Thiếu Tướng TL, Tr/Úy Hạnh và tôi ngồi trên boong, cuối đuôi tàu, bộ quân phục ướt sũng, gió thổi mạnh, hơi nước biển, sương đêm phủ trùm càng làm tăng thêm cái lạnh suốt một đêm dài, ba thầy trò bó gối nhìn nhau. Người ta thường nói “bụng đói cật rét” nhưng chúng tôi bụng đói thì có, nhưng không phải cật rét, rét bên ngoài mà là rét từ trong, tự đáy lòng. Hai hàm răng lập cập vào nhau, cố mím môi cắn lợi để kềm lại mà không được, vậy mà TL luôn nhắc tôi phải cố giữ liên lạc với Hải Quân, với HQ802, Tư Lệnh nói:

– “Tiểu Cần chú cố gắng giữ liên lạc với HQ802, không có tôi họ không vào bốc anh em mình đâu”.

Nhắc lại điều này chắc hẳn một số bạn lính biển không vui, nhưng sự thật nó là vậy mà. Điển hình là khi Phó Đề Đốc TL/HQ phải nói rõ tên thì “tầu trưởng” mới tin và cho tàu vào đón. Điển hình là sau khi họp xong, tại sao PĐĐ không đi ra hướng cầu tàu ngay trong BTL/HQ Sơn Chà mà lại phải đi bộ, mò mẫm trong đêm dưới chân núi Sơn Chà? Vì cầu thì có mà tàu thì không!

Theo lời yêu cầu của TL/TQLC, chiếc tàu chở TL và anh em chúng tôi cứ ngược xuôi ngoài khơi trước cửa bãi biển Non Nước. Mãi tới 8 giờ sáng ngày 29/3/75, sau khi được biết đã có 2 tàu vào đón TQLC tại bãi biển Non Nước thì giang tốc đỉnh mới chuyển chúng tôi sang tàu lớn HQ 802, đậu ở ngoài khơi để đón các TQLC chuyển đến. Tới xế chiều không còn thấy tàu thuyền nào từ trong bờ chuyển quân ra nữa thì HQ802 nhổ neo, trực chỉ hướng Nam, nối đuôi nhau vượt trùng dương! Vĩnh biệt vùng đất địa đầu giới tuyến! Vĩnh biệt anh em LĐ.147/TQLC nằm lại hay bị bắt trên bãi cát Thuận An!

Để chấm dứt ở đây bài viết ghi lại những gì tôi chứng kiến, những gì một quân nhân nói chung và một ATV cho Tư Lệnh nói riêng đã hoàn thành nhiệm vụ, tôi xin được mượn lời của Đại Tướng Cao Văn Viên khi được báo chí phỏng vấn:

– “Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, 100 chứng nhân có 100 sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch”.

Vì thế tôi đã hết sức cố gắng loại bớt những chi tiết không cần thiết để tránh suy diễn bàn cãi mất thì giờ, nhưng cũng sẽ không thể tránh được một số sự kiện khác với cái nhìn của người khác. Nhưng cái chính xác không thể phản bác được mà ai cũng phải công nhận là SĐ.1/BB đã bị tan hàng bất đắc dĩ một cách đau khổ bệnh tr.. LĐ.147/TQLC với hơn 3000 quân đã bị lùa vào bước đường cùng, đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Và cuộc lui binh này nếu dựa theo trục chính là QL1 thì hẳn sẽ tránh được những thảm họa và không có thảm họa tiếp theo ở Đà Nẵng.

Tiểu Cần tôi ước mong được đọc những sự thật về “Hell on Thuận An Beach” của Lâm Tướng Quân trước khi (tôi) nhắm mắt.

MX Tiểu Cần
10 tháng Hai 2015



-----------------------------------------------

Những dòng chữ tô đỏ ở trên là chi tiết Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lên trực thăng bay ra hạm đội 7.

Còn Lực Lượng CSQG chúng tôi: Đại Tá Lộc CHT/BCH/ CSQG/Khu 1 và các sĩ quan thuộc cấp như Đại úy Lê Hà Dũng, Trung Uý Đoàn Văn Sang... ( nhiều nữa mà không nhớ hết). Và, chúng tôi gồm Trung Tá Vinh CHT/BCH/CSQG/ĐN. Đại Uý Võ Như Lăng, Đại Uý Hà Thức, Đại Uý Nguyễn Ngọc Tiến, Đại Uý Đinh Banh, Trung úy Trần Văn Lâu... và cả chục sĩ quan khác nhận lệnh tử thủ cho đến tối 28/03/1975 mới biết là Quân Đoàn 1 đã tan hàng!!! Trung Tướng TL đã cao bay. Và, sáng 29/-3/10975 VC vô tiếp thu thành phố ĐN.
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tiendung »

BA DÒNG NƯỚC MẮT

Phạm Tín An Ninh

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận được thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31.

Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
“Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chữa trị những vết thương khó lành được trong lòng.

Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt”.

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình.
Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa.
Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng?
Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.

Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện.
Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần “inh”. Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung Đại Đế, cái nơi nổi tiếng “con gái cầm roi đi quyền” đó nó ra sao.

Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè.
Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân.

Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài Gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính.
Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm.

Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui.
Vì kể từ hôm nay, không còn “chúng mình ba đứa” nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài Gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó.
Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho quân đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt.
Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch.

Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang.
Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần “anh về với em rồi anh lại đi”. Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động.
Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước “thăm dân cho biết sự tình”, không ngờ “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà.
Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận.

Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế.
Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị.
Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc.

Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.
Chỉ có thằng Bình là “số đẻ bọc điều”. Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hòa, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói.

Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo “tán”, sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm.
Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, Phi Đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ.

Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu.
Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành.
Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu: Cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao “đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.

Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate.
Khách khứa lên đến trăm người. Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi “xác thân đã nhuốm mùi trần tục”, một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.

Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển.
Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói “lắm mối tối nằm không”, đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hòa.
Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học.
Mỵ Khê, bà xã của Bình, cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hòa lẫn tiếng khóc của trẻ thơ.
Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần.
Biên Hòa bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo.
Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khóa, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29/4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển.
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường.

Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài Gòn để kịp đưa vợ con đi.
Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là Vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam.
Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.
Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày, thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.

Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện “học tập cải tạo” bất ngờ gặp Bình.
Trong cái cảnh “nước mất nhà tan” này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn.
Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em.
Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả.
Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng.
Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên.
Trong trại tị nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên.
Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina, lúc 9 giờ rưỡi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ.
Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế “ứng chiến” để đối phó với những điều bất trắc.
Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khóa chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box.
Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép.
Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.

– Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.
– Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trước khi gặp vợ chồng Bình.
Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.
Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á Châu.
– Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quầy mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự:
– Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình, sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè. Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quẩn.
Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì bác mà gây nên cớ sự.

Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào.
Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó.

Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết.
Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.
Tôi đưa tay xin ngưng lời bác:
– Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác?
– Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi “mu” qua Hawaii.
Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn.
Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè.
Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.
– Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác?
– Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư.
Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó.
Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.

Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó.
Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi.
Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm.
Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự:
– Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này.
Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người.

Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.
Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng. Mong nó trở về đây.
Cháu Lina, con gái của tao, cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống.
– Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao?
– Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.
– Bây giờ mày tính sao? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày?
– Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.
– Còn mày thì sao?
– Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Na Uy ở với mày là phúc cho tao.
Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.
Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những giông tố trong đời.
Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má.

Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ ‘hello’, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.
Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, Chủ Nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu dây giọng nói quen thuộc của thằng Định:
– Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.
Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình:
– Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây.
Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận.
Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của người cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu.
Bác sĩ bên này giỏi thật. Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà:
– Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối.
Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào:
– Hello, Ninh! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ.
Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.

Phạm Tín An Ninh
lengoi
Posts: 486
Joined: Sat Oct 23, 2010 7:17 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by lengoi »

Người Hạ Sĩ Nhứt

Nguyễn Vô Danh

Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, "Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?". Chuyện tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp - ý tui muốn nói là xuông xẻ đó. Còn chuyện người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng Trời tính mà. Tía hay nói như dzậy.
Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt tui là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng hơi chậm nói - nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.

Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.

Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với cà lem ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.

Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng xong nếu tiếp tục cá đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã xóng xoài - chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.

Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô gôn luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn "đội banh nhà" ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên, và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ.

Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn ... hồi nhỏ), tui được huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ. Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh. Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc. Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay, vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ tui.

Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần. Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Tụi Việt Cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng. Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị. Sau thời gian dưỡng thương, tại tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1 quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.

Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm Phó quận trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên kia rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ. Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:

- Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.
Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo, ... chắc là người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) - một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi - thường qua lại nhà cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? hay là xem cá có cắn câu chưa? hay là đang dò sét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?... Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là đề phòng thì vẫn hơn.

Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ, ... Một buổi chiều tháng tư, tụi Việt Cộng đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn. Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:

- Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thi trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới đây.
Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm.

Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:

- Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú ... như người nhà. Cám ơn chú ... đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và ... đã giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.

Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới -cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời - cái ngày mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.

Hai hôm sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Xã trưởng là 1 tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ nhăn nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt:

- Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.
- Thưa đồng chí xã trưởng ...
- Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.
- Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính khiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn giết ai đâu?
- Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được Đảng khoan hồng.
- Thưa Xã Trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.
- Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.

Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty Công An tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An, tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi.

Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn.

Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó được "khoan hồng" về làm rẫy với gia đình ở cồn Dừa.

Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui 1 tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị xung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm tiền.

Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại cải tạo trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong tại cải tạo mùa thu năm 1977. Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ 1 đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà. Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm 1 bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.

Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn 1 miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn chim, ... Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được, tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.

Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa ra đều thất bại, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:

- Chú Sơn có nhận ra tôi không? ... anh Đức đây?
- "Hả, ... ôi trời, Thiếu Úy Đức, ... ông Phó!..."; Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
- Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của tôi mà.
- Dạ, dạ ... ông Phó, à quên, ... anh Đức. Tưởng là anh đã ... Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.
- Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.
- Còn đây là bà xã của anh.
- "Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?"; Tui hỏi.
- "Chú nhìn kỹ xem ai ? Cô Hân ở Suối Dây đó"; TUĐ trả lời.

Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:

- Tui hổng có dè có ngày này... 20 năm rồi. Cám ơn anh chị ... đã nhớ đến tui... Tui mừng quá. Sao ... tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui có nằm mơ hông ?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
- Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.

* * *
Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi như vậy.

Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la, ...

Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.

Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm "Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má"

Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.
Ngày đó chắc là phẻ re, há?

Nguyễn Vô Danh
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests