Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Nhớ Nhà
Nguyễn Sơ Đông

Ðôi dòng về tác giả

Bác Sĩ Nguyễn Sơ Ðông là:

– Học sinh tại trường Chasseloup Laubat và trường Ðại Học Y Khoa ngày xưa.

– Ra trường và đi lính. Làm Y Sĩ Trưởng Sư Ðoàn 25.

– Sau 75, đi tù CS. Khi về cùng vợ con liều mạng vượt biên qua ngả
Biển Ðông và định cư tại Mỹ.

– Con trai thứ của BS Ðông là Bác Sĩ Nguyễn Ðông Quan, giáo sư giải
phẫu Nhãn Khoa Ðại Học John Hopkins, đã làm chủ tịch Y Sĩ Ðoàn Hoa Kỳ
trong 2 nhiệm kỳ. Trong thời kỳ làm chủ tịch Y Sĩ Ðoàn, BS Ðông Quan –
cùng với BS Jonathan Lâm – đã thành lập chương trình Ambassador Health
mỗi năm về các vùng hẻo lánh của quê hương ta, giải phẫu, điều trị cho
nhiều ngàn người bệnh thiếu phương tiện điều trị – hay không có tiền
nong đút lót để được nhập viện điều trị tại Việt Nam. Thành quả nhân
đạo BS Ðông Quan & Jonathan Lâm và bạn hữu đã gặt hái được, là một
điểm son cho thế hệ thứ 2 của cộng đồng Việt Nam hải ngoại.

***

Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.


Tôi muốn đổi chữ “brillant” thành “douloureux” vì trốn chui, trốn
nhủi, vượt biên còn thua con chó đói, thì có gì là “brillant.” Sợ mang
tội với Lamartine, lại thừa một “pied.”



Tôi là thằng “lăn chai,” lúc nhỏ suốt ngày ở ngoài đồng, lội hết mương
nầy đến rạch kia. Tôi không phải đi chăn trâu, nhưng tôi cỡi trâu
“nghề lắm.” Leo lên lưng trâu đâu có dễ. Tôi mới sáu, bảy tuổi, đứng
vừa qua khỏi ngang nửa bụng trâu, mà trâu đâu có “mọp” xuống như voi
cho mình leo lên. Vậy mà thằng tui phóng lên ngang hông trâu cũng
được, kẹp “đầu gối” (trâu) trước cũng xong, phăng lên bằng đầu gối sau
cũng “phẻ” mà kéo đuôi cũng yên. Trâu tốt hơn “người ta”: không khi
nào “đá giò lái,” không “đá ngược” bạn bè.

Nắng, mưa tôi có coi ra gì đâu? Mưa xối xả, mưa nặng hột,… tắm mưa
càng vui. Tắm đến chừng da tái mét, run lập cập mới thôi. Một lát có
khi cả giờ nữa, nắng lên, khô queo,… thì lội nữa.

Tụi chăn trâu “nhà nghề” chỉ tôi đủ thứ hết: làm sao “cột dàm” con
nghé để nó khỏi ăn mạ. Người ta vác chổi chà mà đập mầy đó (không đập
trâu đâu, vì chổi chà có thắm thía gì nó). Nhìn dấu ở cửa hang là biết
có cua ở trỏng hay không, cua lớn hay cua “nghé” (cua con, kẹp đau
lắm). Bắt cá bống kèo thì phải dùng một chân chận cái ngách nó lại,
câu cá trê phải sửa soạn mồi trước: đập mấy con ốc bươu, để qua bữa
sau có mùi hôi hôi là cá trê nó đớp nhanh lắm, xúc cá ròng ròng coi
chừng bị cá mẹ táp cẳng, vì bênh con (ròng ròng là cá lóc con, cỡ 1/2
ngón tay út, kho tộ mặn mặn, cay cay… ngon hơn caviar nữa. Mà tôi có
bao giờ được ăn caviar đâu mà xạo vậy!). Bọt trắng nhuyễn trên mặt
“mương,” nhưng bọt nào là ổ cá chìa vôi, chả làm gì được hết, bọt nào
là ổ cá “xiêm,” loại cá lia thia xanh mun, đá chết bỏ chứ nhứt định
không chạy.



Lên Saigon, “lội” gần hết “hang cùng ngõ hẹp” của quận Tư (sau nầy là
quận Năm, dành tên quận Tư cho bên Khánh Hội), chui vào Ðại Thế Giới
coi hát “cọp,” băng cầu chữ Y, qua giang sơn của ông Bảy (Bảy Viễn),
đi chen lấn giựt cái “lưỡi” ông Tiêu cúng rằm Tháng Bảy.

“Nắng Saigon, anh đi mà chợt mát

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông”

Tôi có biết lụa là gì đâu? Hà Ðông ở đâu? Thôi, tôi xin phép Nguyên Sa
mà sửa lại:

“Nắng Saigon, tui đi mà chẳng ngán
Bởi vì da mốc thích “đui then” rồi.

Ra Chasseloup, đến mùa me chín, leo lên “rung” mạnh. Me rụng đầy đầu
tụi ở dưới đất. Thằng nào ở “trển” vậy? Thằng Ðông chớ ai vô đây.

Trước Bộ Y Tế có hai cây gừa, trái tròn, ngọt, cây chót vót, lại cũng
thằng Ðông leo. (Sau 75, tôi vẫn còn thấy hai cây nầy, già lão rồi, có
ai để ý tới làm chi)

Vào lính, theo đơn vị hành quân, nhớ từng con suối nhỏ, từng gò mối,
từng cây cầu khỉ,… nhứt là những nơi “đụng” nặng. Lính tử trận. Quan
cũng đền nợ nước. Thứ Hai, người vợ trẻ đưa chồng lên Ðức Hòa. Thứ
Bảy, đã chít khăn tang. Nhưng tôi vẫn thương vẫn nhớ cái quận “nắng
bụi, mưa bùn”… nghèo xơ nghèo xác nhưng đầy ấp tình người. Hoàng hôn
xuống, nghe ễnh ương, nhái bầu, nhái bén, cả bao nhiêu thứ côn trùng
hòa tấu “symphonie pastorale” nghe mà rụng rún.

Giờ đây, lưu lạc xứ người, muốn nghe… có đâu mà nghe.

“Lòng quê đi một bước đường một đau” (Kiều)

Tâm trạng nhớ nhà là vậy

Tôi không dám “nghĩ” hoặc “đoán” tình cảm của ai khác. Riêng với tôi
thì: tình đầu, tình đuôi, tình giữa… gì gì, thì với thời gian cũng sẽ
khuây khỏa, rồi phai, rồi tàn và rồi thuộc về dĩ vãng, dù nó “apporte
chaque jour tout le bien, tout le mal.”

Nhưng, nhớ nhà thì hoàn toàn khác, lạ. Như một định luật tự nhiên,
“tên” nào “lội” nhiều, lăn lóc với “đất nước” nhiều,… khi về già, nhớ
nhà càng ray rứt, càng nhức nhối.

Cái khổ là càng muốn quên, càng lại nhớ. Có những đêm thức giấc, nhớ
quá, không tài nào ngủ lại được. Nhớ ai, ai đâu mà nhớ. Nhớ NHÀ!



Lúc ở Chasseloup, đọc sách tả Tour Eiffel, Montparnasse, Les
Invalides, Chateaux de la Loire… náo nức muốn xem lắm. Giờ xem qua rồi
thì “thôi.” Nó không “thấm” vào xương, vào tủy, vào tim, vào óc như
cái nhớ nhà.

“…Quê tôi chìm chân trời mờ sương

Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương.
(Làng Tôi – Chung Quân)

Chắc tại tôi là đứa “chả giống ai.” Thôi đành chịu vậy.

Mấy trang viết nầy không đầu, không kết, ý tứ lung tung, “à bâtons
rompus,” “du coq – à – l’âne.” Bà con có xem thì “xính xái,” từ bi hỉ
xả giùm. Thiện tai, thiện tai.

Thôi thì cứ xem như “mémoires d’outre tombe” của tôi vậy.

Trước sau gì, cát bụi cũng sẽ về cát bụi

Quando Satis Dixisti, Peristi

(Quand tu auras dit assez, tu seras mort)

(St Augustin)

“Mai đây trong chuyến tàu vạn cổ

Nếu có người thương đến tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa”
(Giang Hữu Tuyên)

Ðúng, hệ lụy núi sông xưa!

“Objets inanimés, avez vous donc une âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer“

Thôi đành

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng thử nhân sầu”

Thôi Hiệu

Vậy, tôi đã làm được gì?

*Gia Ðình: Trả hiếu?

– Má tôi mất sớm quá, tôi có nhớ gì đâu, nhứt là mấy tháng cuối cùng,
mỗi lần tôi muốn tới gần Má tôi, thì các dì, cô, cậu… (đều ở nhà tôi
để săn sóc má tôi) bảo: “Con ra ngoài chơi đi, để má con ngủ,” ngủ
yên… Yên giấc ngàn thu.

– Tôi có làm được gì giúp Ba tôi đâu. Chưa xong Y khoa, niềm an ủi duy
nhứt của tôi là: tôi đã cố hết sức nghe lời Ba tôi, dĩ nhiên, đôi lần
chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện “đâu đâu” làm Ba tôi không vui.

– Tôi rất mừng là đã cùng vợ tôi quyết định “sinh tử”: chết thì chết
chung, không thể sống với VC được. Tụi nó không lương tâm, không tim,
không óc, không cả tình người. Ít nhứt, dung thân ở xứ lạ, không ai
ngăn cấm con tôi: “Mầy là con sĩ quan ngụy, không được lên cấp ba.” Ðó
là nguyên văn của tên “giám hiệu” trường Petrus Ký (tôi không muốn
nhắc tên mới của trường) khi đứa con trưởng của tôi học xong lớp 9
(classe de 3è) không được lên lớp 10 (classe de seconde). Ðuổi học.

*Tổ Quốc: xin cho tôi mượn hai câu thơ của một nhà văn “gốc lính”

“Cúi đầu tạ với quê hương
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh.”

Tôi đã đội trên đầu sáu chữ: Danh Dự, Tổ Quốc, Trách Nhiệm. Ngày nào
còn thở tôi còn tôn thờ. Chỉ khi nhắm mắt thì trách nhiệm của tôi với
tổ quốc VNCH mới kể là hết.

Je ne fléchirai pas! Sans plainte dans la bouche,

Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel! Liberté, mon drapeau!



Victor Hugo (ultima Verba)

Thay lời cuối

Những dòng sau đây, tôi:

– Kính dâng quý trưởng thượng, niên trưởng đã rời Việt Nam trước 30.04.1975

– Gởi đến thế hệ trẻ, những người chưa “nếm” mùi VC.

Tôi dạy Vạn Vật ở Petrus Ký từ năm 1963. Lúc bấy giờ, thi Tú Tài 1 và
2 còn vấn đáp. Chưa khi nào tôi hỏi lý lịch thí sinh trước khi cho
điểm. Nói chung, trong suốt lịch trình thi, tất cả giáo sư đều xử sự
như thế.

Tết Mậu Thân, con đường tiếp liệu (y dược, y cụ…) của đơn vị tôi bị VC
(đã chiếm Vinatexco, Vifon, và các hãng kế cận) đóng chốt. Tôi phải
liên lạc với cố vấn đơn vị tôi, trình với cố vấn trưởng (cố vấn cho tư
lệnh sư đoàn) cho phép tôi dùng trực thăng riêng của ông về căn cứ 73
tồn trữ y dược, nhứt là bông, băng, băng cá nhân, nước biển và trụ
sinh.

Trớ trêu thay: người thương binh đầu tiên được truyền chai nước biển
“nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một VC.


Trong hơn bốn năm trấn ở Ðức Hòa, tôi đã gọi tản thương bằng trực
thăng về Tổng Y Viện Cộng Hòa ít nhứt là mười VC bị thương nặng. Không
tản thương thì chắc chắn 100% chúng đi “chầu bác” rồi.

Dù mưa, dù nắng, một giờ khuya, hai giờ sáng,… chưa lần nào phi hành
đoàn hỏi tôi tản thương lính nào vậy? QLVNCH hay VC. Tất cả đơn vị
Quân Y QLVNCH đều làm như thế.

Tôi muốn viết thật rõ, hét thật to, ý nghĩ thật trong sáng: Tôn chỉ
của dân VNCH, của QLVNCH, của chính phủ VNCH là Tôn Trọng Con Người,
cách hành sự chứa đầy tình người.


Sau Tháng Tư 1975, bọn khát máu chóp bu VC đã ra lệnh phá tan nát xã
hội miền Nam, mà nền tảng là gia đình. Bao nhiêu gia đình sĩ quan
QLVNCH, viên chức VNCH bị gây áp lực đến đổ vỡ.

Bao nhiêu dân miền Nam bị lừa gạt, rồi bị ép tử, bỏ cho chết, chết
đói, chết vì bệnh tật,… ở những khu gọi là kinh tế mới.

Bao nhiêu thanh thiếu niên “con ngụy” bị ép buộc qua Cambodia làm bia
đỡ đạn cho VC.

Bao nhiêu trăm ngàn người VNCH đã thiệt mạng trên đường tìm tự do, thoát ách VC.

Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lần nào mà người dân Việt Nam,
vốn rất gắn bó với “quê cha đất tổ,” với “mồ mả ông bà” liều chết, bỏ
nước ra đi tìm tự do đông đến số triệu.

Tôi viết để quý vị trưởng thượng và thế hệ trẻ hiểu được mức độ khát
máu, tàn ác, vô nhân đạo, đầy thú tính của VC.


Riêng cá nhân tôi, tôi không thù hằn VC vì:

1- Tôi đã hấp thụ nền giáo dục nhân bản miền Nam

2- VC không xứng đáng để tôi thù hằn, vì VC đã mất hẳn tính và tình người.

Tôi rất cám ơn, thương mến, kính yêu “bà xã” tôi đã chịu bao nhiêu cay
đắng, cực khổ tảo tần giữ vững gia đình, lo cho bốn đứa con tôi.

Hiện giờ, chúng là công dân đơn thuần (simple citoyen) của quốc gia
tạm cư, không là “quan to, quan bé” gì hết. Nhưng, người ta đã đối xử
với chúng tôi rất ấm áp tình người.

Bác Sĩ Nguyễn Sơ Ðông
lilac2010
Posts: 76
Joined: Sun Mar 21, 2010 10:45 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by lilac2010 »

Image

Tao gánh Mày về

Tụi Tao Gánh Mày Về. Mày bỏ cuộc chơi, khi tuổi vẫn còn xanh.
Chiến trường khốc liệt quá, bỏ mày lại cũng không đành.
Rừng cao su tơi tả, kiếm tạm một khúc cây.
Cột chân tay mày lại, xỏ đòn gánh gánh đi.

Biết làm sao bây giờ, lính Dù không bỏ bạn.
Có thằng Tây nó chụp hình, thì kệ mẹ nó đi.
Chiến trường đi ai tiếc đời xanh.
Biết đâu ngày mai sẽ đến phiên tao.

Vào nửa trăng Lính thường cháy túi.
Đạn dược bây giờ còn phải đánh cầm chừng.
Kiếm đâu ra băng ca để mày yên giấc ngủ.
Gánh mày đi như gánh một con mồi
Mà những thằng thợ săn vừa săn được.
Đầu mày chúc xuống đất
Lắc lư theo nhịp đi; Hồn mày ở trên cao
Có thấy tức cười không?
Ráng chút nữa rồi về với mẹ, ngày xưa mày khóc mẹ ru
Rồi thì mẹ khóc ru mi xuống mồ

À ơi, con ơi à ơi, đây là giấc ngủ ban đầu, mà mẹ ru con
Bên ngoài gió thổi nam man, hai mươi năm trường, mẹ ru con theo tiếng à ơi.
Rồi con lớn khôn, con ra chiến trường... Mẹ khóc hằng đêm.


Lính Dù

——————————————————————
Những người đã chết hôm qua, cho nước Việt bình yên.
Chúng tôi tri ân các anh.
Bây giờ không biết hai người Lính trong hình, gánh xác bạn, giờ Họ về đâu.
Tấm hình chụp vào ngày 15/4/1975.
Vỏn vẹn chỉ 15 ngày sau, quê hương rơi vào tay giặc.
Bốn mươi bốn năm sau, có còn ai cảm thấy bồi hồi xúc động khi nhìn tấm ảnh này.
Xin đừng nói những lời chót lưỡi đầu môi, đừng yêu Lính bằng lời.
Hãy tri ân Họ.
caubennoc
Posts: 535
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:43 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by caubennoc »

MỘT TÙ NHÂN SỜ MU RÙA.

(Để tưởng nhớ một người bạn tù đã ra đi)
letamanh

Những năm gần đây, báo chí trong và ngoài nước thường xuyên đề cập đến hiện tượng, mà, theo “Biện Chứng Pháp” của Mac-Lenin, thì không bao giờ có thể xãy ra trong “thế giới Cộng Sản” được! Trong một chế độ theo chủ nghĩa “vô thần”, lúc mới nổi lên đã chủ trương phá chùa, đập miếu, nhà thờ biến thành nơi chứa lương thực…! Người Cộng Sản không tin có Phật, Chúa, Thần thánh gì cả suốt một thời gian dài mấy mươi năm… Cho đến một ngày, chính những “đảng viên” quỳ gối cúng bái, đốt vàng mả, tin phong thủy, sùng bái những phù thủy gọi là “nhà ngoại cảm”; thì người ta mới chợt hiểu ra!

Tôi còn nhớ kỷ niệm lúc còn ở tù trong các trại tập trung từ Nam ra Bắc Việt Nam. Kỷ niệm về một “Tù Nhân Sờ Mu Rùa” rất ư là lợi hại đã cùng với tôi “rong chơi” từ hết trại tù nầy đến trại từ khác với hàng bao nhiêu chuyện về “tử vi. Tướng số” Ông bạn già “Thầy Bói” của tôi, vì say mê “bốc quẻ, chấm lá số” mà phải bị cùm, bị truất phần ăn… Nhưng cũng từ trong nơi cùm gông đó, anh ta cũng có thời được cưng chiều, ăn no để “nói dốc”!

Anh lớn hơn tôi chừng năm sáu tuổi, người to con, không cao lắm nhưng bệ vệ. Lúc sau nầy không có đủ thức ăn nuôi cơ thể, có lúc anh ốm như bộ xương biết đi, hai mắt lồi ra, mỗi lần xin được bi thuốc lào, rít lên một hơi là ngả bổ xuống sàn giãy đành đạch… Xuất thân là một SQ Phòng 7 Đơn vị 101, làm việc tại BTTM, ăn nói lưu loát, miệng “có quai có xách”! Tên cúng cơm là Đoàn Thế Lộc.

Anh nổi tiếng ngay những ngày đầu vào tù. Chúng tôi thường xuyên bu chung quanh anh, chờ cả giờ đồng hồ để xin anh nói cho một vài điều.. Có lúc năn nĩ anh xem hộ tử vi sao hạn của chính mình rồi đến vợ con ở bên ngoài ra sao.. Thù lao cho anh là những điếu thuốc lúc còn trong Nam, những bi thuốc lào hay là một vài cục đường, một vài khúc khoai mì lúc đã ở Bắc Kỳ – Hoàng Liên Sơn – Lao Cay – Yên Bái – Vĩnh Phú…

Đoàn Thế Lộc “quảng cáo” cho mình rằng: Hồi còn “huy hoàng”, anh ta thường xuyên xem tử vi cho các ông bà Tướng Tá trong Bộ TTM. Nghề xem tử vi của anh không biết ra sao, nhưng ăn nói rất lưu loát, đâu ra đó, hấp dẫn, tạo niềm tin cho người đối diện. Dĩ nhiên là lúc còn trong tù, anh nói quá khứ cho từng “tù nhân” đều nghe rất…hay, rất đúng. Nhưng về tương lai thì ai mà biết được!

Chúng tôi ở với nhau trong Nam cho đến năm 1977, lúc đó là mùa hè tại trại tù Long Giao. Anh Lộc và tôi ăn cơm chung, ngủ cạnh sát nhau. Hôm đó nhằm vào rằm tháng Năm, tôi không nhớ ngày Dương Lịch. Anh vừa ăn trưa với tôi vừa nói:
– Ba hôm nữa là mình huy hoàng!
Tôi ngạc nhiên nhìn anh nói vặn:
– Đừng nói là được thả về gặp vợ con, rồi Mỹ nó đưa máy bay rước tụi mình như anh từng nói nha!
Anh từ tốn cười, cầm khúc củ mì đưa vào miệng, vừa nhai vừa nói:
– Còn hơn việc thả về nữa, tụi mình sẽ xuống tàu ra khơi.
– Vừa thôi cha! Tỉnh lại đi, anh lấy đâu ra cái tin trời đánh đó?
– Tao bấm tử vi của tao và của mầy, hai số cùng có “mã khốc khách” và tương hội trong ba ngày nữa. Tao thấy mình được xe đưa đến NewPort (Tân Cảng), sau đó xuống tàu.
– Rồi sao? Chúng đưa cho Hà Bá nhai phải không?
– Tao nghĩ chúng sẽ đưa tụi mình ra Hạm Đội 7 để trao đổi!
Tôi trợn mắt nạt anh:
– Thôi đi! Đừng có mơ, anh bị bệnh hoang tưởng rồi.
Anh cười phân bua:
– Không tin thì ba ngày nữa mày sẽ thấy, chừng đó phải lạy tao mới nói tiếp!
Mà quả thật, buổi sáng ngày thứ ba như anh nói, chúng tôi có lệnh ở nhà chờ, không đi “lao động” bên ngoài. Lúc 7:30 sáng, bốn xe sơn màu xanh bịt bùng chạy vào đậu ở sân tập họp. Sau đó là lệnh tập trung ngoài sân nghe lệnh. Lần nầy là Cán Bộ thứ dữ “lên lớp”. Sau một hồi nói về chính sách khoan hồng và nhân đạo của Đảng, ông ta ra lệnh mọi người đem hết đồ đạc cá nhân ra sắp hàng chờ “Tổng vệ sinh”!

Thì ra mấy xe bịt bùng đó là những xe hấp hơi. Tất cả áo quần và chăn mền từng cá nhân dược cho vào cốp xe. Tiếng máy nổ, tiếng hơi xì khè khè, tiếng thì thầm bàn tán…! Lúc chờ đến phiên mình, anh Lộc khều tôi và mấy bạn ngồi gần nói nhỏ:

– Hôm nay tổng vệ sinh để chuyễn chúng mình đi – Hãy vui lên, tốt!
Tôi nhớ ba hôm trước anh đã nói câu nầy nên bán tín bán nghi. Nhưng tôi vẫn phản đối ý nghĩ hoang tưởng của anh:

– Thôi cha nội, đừng có tuyên truyền. Lo giữ sức khỏe mà chống với thời gian tù đi.
Sở dĩ tôi không tin lời anh ta vì trước đó mấy tháng, trong giờ “học tập”, một Bộ Đội nói với chúng tôi: “Các anh cứ tin lời tôi nói, chừng nào nhà nước gọi tên các anh để thả về mà các anh không thấy vui mừng nữa; đó mới đúng thời gian “học tập” tốt!”. Ở tù đến khi không còn cảm thấy vui khi được tư do, có nghĩa là con người của ta thành chai đá, thành vô cảm rồi. Như vậy còn gì hy vọng được về …

Nhưng sau cơm chiều, mọi việc lại bắt đầu “ứng” với “quẻ” tử vi. Người đầu tiên được gọi xách theo “hành trang” là tôi, đến tiếp theo một vài chục người nữa mới đến tên anh Lộc. Tất cả xếp hàng, cứ ba chục mạng, ngồi sau một chiếc xe Motolova màu xanh lá cây. Anh Lộc cố lết đến gần bên tôi cao giọng:
– Mầy thấy chưa! Tao nói như thần mà! Tí nữa mình sẽ ra Tân Cảng và xuống tàu…
Tôi tiếp :
– Ra Hạm Đội 7 ăn hamburger!
Anh ta cười nham nhỡ:
– Nhớ qua bên Mỹ tụi mình phải ở chung với nhau để mai kia một nọ giúp đở nhau. Mà rồi họ sẽ đưa vợ con mình qua. Họ đã cất cư xá Sĩ Quan cho mình rồi. Nhớ phải ở gần nhau…!
Xe chở tù cũng ra đến Tân Cảng. Tất cả xuống xe tay xách nách mang lĩnh cà lĩnh kỉnh nào lon guigo, nào đàn guitar tự chế. Có anh còn bê theo một con gà mái đẻ mập ú ù. Con gà vợ anh ta từ Bình Giả thăm nuôi. Anh nhốt nó bên giường, chia khẩu phần cho gà, gà đền ơn bằng cách đẻ trứng cho anh xơi!

Lần lượt rồi cũng xuống tàu, xuống tận đáy tàu, ngồi sắp lớp trên những rác và bụi xi măng. Ngồi sát nách nhau, không có chổ ngã lưng. Lòng tàu cao và phía trên chỉ chừa một lổ nhỏ thông hơi. Hai giờ đầu tiên có mấy thằng ngợp thở, mùi xi mang và bụi bay chui vào mũi… Chỉ có một giây thừng từ trên cái lổ nhỏ thòng xuống một thùng để chứa phân, nước tiểu. Cũng cái giây đó thòng xuống hàng ngày những lương khô Trung Cọng cho cái đám người mà theo như ông Thầy Bói, Nhà Ngoại Cảm Đoàn Thế Lộc là: Sắp trở thành những giá trị trao đổi với Mỹ… Đang nghẹt thở và sắp chết!

Anh ngồi bên tôi không một tiếng nói suốt từ khi thấy anh sáng tròn của một lổ trên trần tàu rọi xuống, Cứ sáng thì chỉ phía bên trái hông tàu, chiều thì đổi qua hông phải. Như thế có nghĩa là chúng tôi “được” chở ra Miền Bắc Xã Hội Chũ Nghĩa” đễ… Lưu đày!

Anh Lộc bấm tử vi, biết được ngày giờ di chuyễn, biết được “thiên cơ” trong muôn vàn “duyên nghiệp”. Nhưng vì quá chủ quan suy diễn theo tin thời sự đựng chuyện chuyền miệng nhau trong tù, nên anh phê phán “bản tin” tử vi theo ý mình! Tôi phục tài bấm số tử vi của anh. Có những việc anh đoán trúng phốc cho những người ngoài, nhưng bản thân anh thì không đoán được.
X
X X
Ra Bắc một thời gian “treo chén” anh lại ra chiêu xem tử vi. Anh nói với tôi là bình sanh anh chỉ mê học xem tử vị vì theo anh, nó là một môn khoa học, rõ ràng, mạch lạc và… chính xác! Với tài ăn nói vui vẻ, cởi mở và hòa đồng, anh được anh em tù cùng cảnh ngộ “nuôi”; nhất là những anh thường được gia đình gởi quà, hay có người vợ thương yêu, băng tàu vượt rừng từ Nam ra Bắc thăm nuôi!

Anh xem tử vi nổi tiếng, nổi tiếng đến tai Cán Bộ Trại Giam bởi một anh tù làm Anten (Báo cáo viên) nằm bên kia dãy sàn ngủ. Anh được “mời” lên ngồi làm bản tự kiểm và sau đó bị “cùm hai chân” một tuần lễ về cái tội gieo rắc mê tín dị đoan, làm cho trại sinh không an tâm tin tưởng Đảng và Nhà Nước..

Có điều lạ là, sau một tuần lễ nằm cùm, con người anh lại khác hẵn. Anh “bị” liên tiếp, hết Trưởng Trại đến Cán Bộ Giáo Dục, Cán Bộ Quản Giáo… lần lượt “mời” xơi nước trà hút thuốc lá. Có hôm anh đi từ sáng đến tối mịt mới bò về chỗ ngủ, bê theo một xách, trong đựng chừng hai ký củ mì luột. Anh dựng đầu chúng tôi dậy đãi củ mì và gải bụng cười:

– Hôm nay được “chén” một bửa no!
Tôi chặn đầu:
– Anh khai ngay, từ ngày bị cùm ra đến giờ, luôn được Cán Bộ “chiếu cố”, có phải đang bán đứng anh em để được no, được về sớm phải không?
– Lại nói bậy, im cái miệng thối mày đi! Nói nhỏ cho tụi mầy nghe, đừng có học đi học lại, lỡ tụi anten nó báo cáo thì…
Chúng tôi bao quanh lấy anh, tay thì bốc củ mì, tai vễnh ra, miệng thì nhai… Anh chậm rãi:
– Tao xem tử vi cho bọn chúng!
– Trời! Thật không? Tụi nó nhốt anh, cùm anh vì cái tội xem bói toán. Mà bây giờ lại nhờ anh xem tử vi cho chúng là sao?

Anh kéo ống thuốc lào trên vách xuống, lấy cây chọc vào nõ, vê một bi thuốc… Rồi thong thả theo tiên ông… Một lúc sau, cảm thấy hết phê, anh chầm chậm “khai”:
– Hôm tao bị cùm, nằm trên sàn xi măng lạnh quá, tao nghĩ là sẽ chết vì bị lạnh lưng và đói. Mấy con gián cứ đến nhâm nhi ngón chân của tao. Vách bên kia là một ông cha đang bị cùm, hình như là Cha Song mới vừa chuyễn về từ trại Cổng Trời. Cha hay hát thánh ca và đọc kinh. Hình như ông không sợ gì, kể cả bị cùm từ các trại nầy dến trại khác. Tao nằm như thế được hai hôm thì có một thằng Áo Vàng bước vào nhìn tao. Hắn có vẽ buồn, trẻ măng. Tao bèn lên tiếng: “ Chào cán bộ! Ông đang có chuyện buồn phiền gia đình. Ông mới vừa mất của!” Bò Vàng ngạc nhiên nhìn tao, đến sát bên hỏi tao: “ Sao anh biết tôi bị mất của?” Tao nói: “ Thì nếu Cán Bộ có mất thì tôi sẽ nói tiếp còn không thì thôi. Nhưng Cán Bộ tuổi con gì, sanh ngày giờ gì thì tôi mới nói đúng được!” Hắn nhìn trước ngó sau rồi kề tai nói nhỏ với tao. Tao nghĩ, trong chốn lao tù, chỗ tận cùng là nơi cùm gôm xiềng xích mà nó còn sợ có người rình nghe nữa thì hết ý.

Tôi nóng ruột thúc:
– Nói ngắn gọn thôi cha! Rồi sao?
Vẫn ra vẻ quan trọng, móc trong túi ra một cục thuốc lào to, nhìn mọi người cười:
– Hút đi! thuốc hạng nhất Hải Phòng đó! Cán Bộ Trực Trại thưởng cho tao hồi chiều! … Thằng nhải con “thành thật khai báo” với tao là nó vừa mất chiếc xe đạp xịn mua ở dưới phố Yên Bái, đạp về đến bến phà Âu Lâu thì bị mất lúc nó dựng xe vào quán ăn tô bún riêu. Tao hỏi tuổi và ngày giờ sanh rồi nói với nó là hãy về tìm ở cách nhà nó bốn cây số về hướng Đông sẽ lấy lại được. Nó lật đật chạy đi không kịp nói gì thêm. Sau khi tao hết bị cùm, về lán thì mầy với thằng Chánh Ruồi dìu tao thê thảm, tưởng không gượng giậy được. Ai ngờ chiều hôm sau Cán Bộ Trại xuống gọi tao lên phòng làm việc. Tao tưởng lại bị cùm nữa về cái tội tuyên truyền mê tín với cán bộ nhà nước!

Nói đến đây, anh Lộc lại làm một bi thuốc lào “câu giờ”! Một đám bu quanh la lên nóng ruột:
– Hút lẹ lên, khai mau! Còn đi ngủ mai cuốc đất!
– …Cha cán bộ trại mời tao ngồi, rót nước trà đậm, rút thuốc lá mời tao chứ không phải mời thuốc lào. Tao ngạc nhiên đứng như trời trồng. Hắn ta cười mời một lần nữa. Hắn nói : “ Anh tài thật, Cán Bộ Văn đã tìm được chiếc xe đạp theo hướng anh chỉ và đã bắt được tên trộm lấy cắp chiếc xe đạp.” Tao mừng quá, nghĩ là mình “chó táp phải ruồi”, bèn đủng đỉnh ngồi xuống ra cái điều tài thánh! Thế là từ bửa đó tao liên tục được chiếu cố, hết thằng nầy đến thằng khác “lảnh” lên xem tử vi” thay vì đi cuốc dất với tụi mầy! Bây giờ thì tụi nó tin tưởng tao còn hơn cha mẹ nó…

Thằng Chánh Ruồi cười nham nhỡ:
– Anh Lộc! Hôm sau có gì anh bỏ vào bọc đem về cho tụi em ăn với nha! Coi bộ anh mập ra và đẹp trai…
– Mầy chỉ được cái nịnh.
Anh Lộc từ đó cho đến ngày về Nam luôn là một ông thầy bói tử vi có hạng của tù và là Thầy của bọn Bò Vàng. Nhưng khi được thả về, anh tiếp tục cái nghề “sờ mu rùa” không phải dễ. anh mướn một xe xích lô, hàng ngày đạp ra đường kiếm khách. Nếu có khách gọi là anh có “mối tử vi”! Trong lúc đạp xe, người ngồi trên xe được gợi ý về tướng số, tiếp theo là bấm quẻ. Nếu “khách” lạ khoái thì cả hai cùng dừng lại ở đâu đó để “Xem cho kỹ”. Cuối cùng thì khách “hồ hởi phấn khởi trả tiền xe lẫn tiền “thầy”!

Năm 1984, tôi từ vùng kinh tế mới Đồng Nai dẫn vợ lên Sài Gòn thăm gia đình ba má, tôi gặp anh đang khệnh khạng trên chiếc xích lô không khách ở góc dường Bà Hạt và Nguyễn Duy Dương. Mừng quá, chúng tôi vào quán uống nước nói chuyện tránh nắng trưa. Anh nhìn vợ tôi và nói: “Chị đừng để nó vượt biên một mình, không được đâu. Sẽ có ngày cả gia đình qua Mỹ bằng máy bay…!” Tôi cười nhìn anh chế diễu: “ Giống như cái tin anh nói xuống tàu ra Hạm Đội 7 năm nào chứ gì!” Anh cười: “ Thì để xem!”

Anh đã nói đúng khi chúng tôi lên máy bay qua Hoa Kỳ, không những chỉ gia đình tôi mà còn cả tập thể những gia đình là tù nhân chính trị suốt bao nhiêu năm từ Nam ra Bắc. Anh đã nói đúng nhiều việc, nhưng chính anh không thể nào bấm trúng lá số của chính anh khi anh nằm trên giường bệnh vì bệnh gan, kết quả của những năm anh hay “ăn bậy” trong trại tù.
Anh nằm xuống ở Nam California sau khi đưa hết vợ và bầy con của anh định cư trên xứ tự do. Từ ngày biết mình bị bệnh dến khi nhắm mắt, anh vẫn “sờ mu rùa” cho những thằng bạn tù thỉnh thoảng đến thăm anh trên giường bệnh, trong nhà thương hay những ngày cuối cùng ở một Apartment trên trường Flower ở Garden Grove. Một ông “thầy bói”, một “nhà ngoại cảm”, một thầy “sờ mu rùa” vốn xuất thân từ đơn vị ẫn danh 101, một tù nhân đáng nhớ đã vĩnh viễn ra đi.
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

“Lấy Tình Thương xóa bỏ Hận Thù!”

Nhân cách đầy tình người, cao cả của một người lính Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ!
  
Image
Mark Walhberg

 Image

Ông Trịnh Hòa, là 1 cựu quân nhân VNCH sang Mỹ theo diện HO

 
Ngày nay nói đến Mark Walhberg thì ai cũng biết, đó là một ngôi sao màn bạc sáng chói, tài tử nổi tiếng, 1 ca sĩ và nhạc sĩ đa tài, đồng thời cũng là 1 chủ thương nghiệp giàu có thành đạt. Nhưng ít ai biết rằng Mark đã có 1 tuổi thơ dữ dội đầy tội ác và từng bị kết án tù vì tội ngộ sát. Càng ít ai biết rằng người đã giúp cho anh ta thay đổi toàn bộ cuộc đời của mình, là 1 cựu quân nhân VNCH!

Mark Walhberg sinh ra trong 1 gia đình nghèo khó, đông anh em. Cha mẹ ly dị sớm nên không có ai chăm sóc, dạy dỗ, Mark cùng 2 người anh và 1 người chị của mình từ tuổi vị thành niên đã phạm đủ loại tội danh, từ ăn cắp ăn trộm đến đánh người và lừa đảo.

Năm 16 tuổi, Mark mang trong lòng sự hận thù và căm ghét người da màu ... Mark cho rằng mình là người Mỹ da trắng thì phải có cuộc sống tốt đẹp hơn người di dân hay người tỵ nạn da màu. Với suy nghĩ này, Mark Walhberg thường xuyên gây sự đánh nhau với người da đen. Một ngày kia, Mark đã chặn đường đón đánh và cướp 2 người đàn ông Việt Nam, dùng gậy đánh vào đầu và mặt họ, khiến cho ông Johny Trịnh Hòa bị thương nặng, suýt chết và hỏng mù 1 con mắt! 

Mark Walhberg sau đó bị bắt và truy tố tội ngộ sát, nhưng vì tuổi vị thành niên nên cuối cùng được giảm thành tội hành hung và kết án 2 năm. Trong nhà tù , Mark chợt hiểu ra rằng anh đã hận thù sai đối tượng, và nếu không thay đổi cách sống thì 1 sẽ bị đánh chết, 2 là rục xương trong tù! 

Khi được tự do, Mark tìm đến 1 nhà thờ Công giáo nhờ các Cha giúp đỡ làm lại cuộc đời. Vị Cha xứ ở đây cho biết ông sẵn sàng giúp Mark, nhưng với 1 tội danh hình sự nghiêm trọng như vậy, thì Mark sẽ tiêu cuộc đời, rất khó mà tiến thân được ở Mỹ. Hầu như tuyệt vọng! “nhưng còn nước còn tát”. Với sự hướng dẫn của Cha xứ, Mark viết 1 lá đơn đến Tòa án Tối cao Pháp viện, trình bày ý nguyện hoàn lương của mình và xin được tha thứ, xin Tòa xóa đi các hồ sơ phạm tội cũ.

Chánh án Tòa án Tối cao cho biết, Tòa không có quyền tha thứ và xóa hồ sơ, trừ khi nạn nhân bị đánh mù một mắt của Mark đồng ý tha thứ cho anh!

Với sự giúp đỡ tìm kiếm của truyền thông, Mark Walhberg tìm đến ông Trịnh Hòa, là 1 cựu quân nhân VNCH sang Mỹ theo diện HO. Sau khi nghe trình bày, ông Hòa ôm Mark, ôn tồn cho biết ông không hề thù hận gì Mark cả!  Chưa kể thương Mark như đứa con lạc lối mà thôi!

Ông còn hiểu rõ, lúc đó Mark chỉ là 1 thiếu niên bồng bột và thiếu tình thương, thiếu sự giáo dục của gia đình, ông còn khéo nêu ra lý do, con mắt của ông đã bị thương tật từ khi ông chiến đấu chống CS ở VN (!) nên ông sẵn sàng tha thứ hết cho Mark!

Sau đó, chính ông Trịnh Hòa đi khắp nơi vận động và đã viết thư, năn nỉ Chánh án Tòa án Tối cao xóa bỏ mọi tội danh cho Mark, để anh có thể có cơ hội làm lại cuộc đời.

Khi đã thành đạt, nhớ ơn “cứu sống” của ông Trịnh Hòa, Mark nhiều lần đề cập đến việc đền bù và đền ơn cho ông, người cứu vớt cuộc đời Mark ra khỏi vũng bùn, nhưng ông Hòa đều từ chối, không nhận bất cứ một ơn huệ nào. Ông còn vui mừng khi thấy Mark ngày nay thành công và nổi tiếng khắp thế giới như vậy, lại còn có tâm nhân từ, biết làm từ thiện, giúp đỡ người khác, thì là đã trả ơn bội hậu cho ông gấp nhiều lần rồi, ông không cần gì thêm nữa cả!

Đó chính là nhân cách lớn thầm lặng, đáng khâm phục của 1 người lính VNCH, nhờ được hấp thụ mấy mươi năm giáo dục nhân bản quý báu “thương người như thể thương thân!” và  biết “lấy tình thương xóa bỏ hận thù” như chính sách chiêu hồi của chế độ VNCH ở miền Nam - Điều mà người cộng sản không thể nào có được! Với chủ trương “còn đảng còn mình” Cộng sản giết cả đồng chí, người dân, đem cha của mình ra đấu tố. Hai chế độ khác nhau ở diểm chinh này!

Hèn gì cuộc chiến đã qua gần nửa thế kỷ, hình ảnh người Lính VNCH là những hình ảnh thương mến nhất trong tim của người Miền Nam!!!
hoangphong
Posts: 364
Joined: Tue Feb 12, 2019 6:49 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by hoangphong »

Image

Một thoáng Pleiku
Phạm Tín An Ninh
Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa – thực sự vĩnh viễn xa – Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.

Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.

Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan Thiêt) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt – Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.

Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư Lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.

Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân Cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân Cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân phong quân kỷ?) như ai.

Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.

Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.

Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.

Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân , để “may mà có em đời con dễ thương !”

Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13.3.75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến tranh. Nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.

Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề..mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)

Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ – nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.

Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng ;

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….

cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó

….

Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.


Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Đỗ Bê … những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả -có lẽ cũng như tôi- chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.

Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:

Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền



Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”

Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!

Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.

Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.

Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku. •

Phạm Tín An Ninh
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Hạnh phúc xót xa

Phạm Tín An Ninh
Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên hai họ”. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa”?


Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it!”

Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.

– Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.
– Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.

Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên.

Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.

Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Na-uy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân đạo khác.

Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.

Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít. Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”. Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò:

– Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.

Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm những gì ông nói.

Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.

Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu (logo) Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xe tản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.

Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.

Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo mật). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện. Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, đôi mắt thật buồn. Theo y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.

Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.

Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.

Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng 1 di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác

Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.

– Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.

– Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.

Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.

Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.

Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thải trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?

Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho cô gái và cho cả anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.

– Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.

– Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.

Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.

Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất động nghe lòng dạ bồi hồi.

Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề, hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.

Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn tìm lại được!

Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.

Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:

– Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các em.

Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.

Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận.Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết trò chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng lo lắng gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.

Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.

Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu.

Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một it thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ.

Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.

Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô. Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.

Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.

Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.

Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá nhiều về cô.

* * *

Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45,46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.

– Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?

Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:

– Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.

Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm phấn son xong mới lên tiếng:

– Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ.

Cô cười bẽn lẽn:

– Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.

Tôi cười:

– Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.

Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu năm.

Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào trường NTH , một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.

– Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp được gặp bà.

Đang vui, bỗng Kiều xúc động:

– Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.

– Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi .

Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:

– Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm. Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.

– Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.

Tôi cười phụ họa:

– Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.

– Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm , phải không?

Cả ba chúng tôi đều cười.

Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.

– Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.

Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế gian này.

– Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.

– Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?

Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:

– Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.

Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:

– Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?

– Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.

Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc.

Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều. Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật mình, có cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.

Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con.

Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào. Sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc.

Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.

Phạm Tín An Ninh
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Image

Trả nợ ân tình
(riêng tặng những người bạn lính bất hạnh của tôi)

Phạm Tín An Ninh
Đầu mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát và ngắm trời xanh.

Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông.

Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn.
Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo:
– Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi
Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện một con người khí khái và nghị lực. Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.

Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình.
Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.
Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.
Sau đó, hững ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.
Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi, anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp nhà cửa bếp núc.
Mấy năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên thân thiết như anh em.
Quen biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai gái một trai.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một thời gian đến định cư ở vùng này.
Nhìn tấm ảnh, tôi khen:
– Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương.
Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ:
– Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi.
Tôi tò mò, không kịp giữ ý:
– Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam?
– Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston.
Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích:
– Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979.
Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp:
– Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó.
Tôi cố tìm một lời an ủi:
– Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn?
Anh cười:
– Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng.
– Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì.
Anh trầm ngâm:
– Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà.
Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà:
– Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá.
– Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi.
– Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được.
– Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh.
– Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết. Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu.
– Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi
Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
– Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.
Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi. Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi. Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà. Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.
Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.
Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười. Tính anh như thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa:
– Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết.
Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm:
– Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?
Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và nhân cách của mình.
Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”

Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.

Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu. Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau. Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn.
Anh cười:
– Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!”
Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.

Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe.
Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về thời gian chị đã có lỗi lầm.
Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị:
– Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em.
Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.
Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.
Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản.
Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.

Phạm Tín An Ninh
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tranphuongdong »

Image

Tháng Tư Nhớ Bạn
(đặc biệt tặng các bạn Khóa 18 Thủ Đức)

Phạm Tín An Ninh

Trước những ngày Tháng Tư buồn, tôi lại nhận thêm một tin buồn: Đồng môn Võ Văn Khoa vừa vĩnh viễn ra đi. Với tôi, anh Khoa không những là bạn cùng Khóa 18 Thủ Đức mà sau này, vì gốc giáo chức, nên theo nhu cầu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, anh được biệt phái về dạy ở trường Võ Tánh Nha Trang, ngôi trường trung học nổi tiếng ở quê tôi mà trước kia tôi đã từng theo học. Do đó chúng tôi nặng thêm mối thâm tình. Ngay từ những ngày còn trẻ, anh đã nghiên cứu, tu tập và viết nhiều sách về Thiền Học, cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Anh sống thanh đạm, chân thành, đạo hạnh, luôn hết lòng giúp đỡ tha nhân. Sau khi sang Mỹ một thời gian, anh trút bỏ mọi phiền não thế gian, xuất gia đi tu, trở thành Thiền Sư Di Như nổi tiếng của một Thiền Viện ở Las Vegas, do chính anh sáng lập và giảng dạy. Nhờ vào trình độ và đức độ, anh đã quy tụ đông đảo môn đệ. Vì vậy trên trang cáo phó được viết: “Sư Thầy Di Như Võ Văn Khoa viên tịch.”

Tuy biệt phái về làm nghề dạy học, nhưng trong hồ sơ lý lịch, anh vẫn còn mang cấp bậc đại úy và phục vụ nhiều năm trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, từng đóng góp cho việc hình thành và giảng dạy cho Trường Đại Học CTCT Đà Lạt, nên sau khi Cộng Sản chiếm Nha Trang, đầu tháng 4/75, anh bị tù đày nhiều năm. Ra tù, anh trở về Nha Trang, làm nghề sửa xe đạp ở một góc đường, ngay phía sau ngôi trường cũ mà anh từng dạy học. Thời buổi ấy gần như gia tài mỗi người chỉ còn mỗi chiếc xe đạp. Cùng cảnh thất cơ lỡ vận, nên anh thường nhắn các cựu giáo chức đồng nghiệp và học sinh của mình, khi nào xe bị hư, cứ mang đến để anh sửa miễn phí.

Tang lễ được tăng đoàn tổ chức rất trang trọng tại Peek Funeral Home, Westminster, California. Số người đến viếng và tiễn đưa anh khá đông. Ngoài một số giáo chức đồng nghiệp, những cựu đồng môn Khóa 18 Thủ Đức, số đông đảo còn lại là những đồng đạo của anh. Chúng tôi được sự đón tiếp nồng hậu của gia đình và đặc biệt của tăng đoàn, mà hầu hết là những học trò, môn đệ của anh. Nhìn cung cách của họ, chúng tôi hiểu được lòng tôn kính và hết mực tiếc thương mà họ dành cho vị Sư Thầy của mình. Cùng với những đồng môn Khóa 18 Thủ Đức, đứng trước linh cữu, đưa tay lên chào vĩnh biệt anh, bỗng tôi thấy lòng mình chùng xuống, bâng khuâng. Cả buổi trưa hôm ấy, tôi mênh mang nhớ tới bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ. Hình dung từng khuôn mặt của những thằng bạn thân thiết đã hy sinh trên các chiến trường, hay chết đau đớn tức tưởi trong các trại tù, và một số đông đã phải bỏ quê ra đi, đang sống lặng lẽ đâu đó trên xứ người, mỗi người mỗi cảnh, nhưng có cùng một nỗi đau chung, khi giấc mơ trở về lại trên quê hương ngày một héo hắt, mỏi mòn. Có thằng đã tự vẫn.

Ký ức bắt đầu đưa tôi trở về ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, nơi từng tọa lạc một quân trường nổi tiếng đã có mặt từ những năm đầu thập niên 1950, đào tạo hầu hết những sĩ quan trừ bị, có rất nhiều vị đã trở thành những tướng lãnh lẫm liệt một thời, có vị đã tuẫn tiết vào giờ thứ 25 để giữ tròn tiết tháo: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ…

Khóa 18 chúng tôi ra trường ngày 18.3.1965 với 1219 tân sĩ quan, vốn xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, và được phân phối về đủ các quân, binh chủng, các ngành chuyên môn, các quân trường, đặc biệt còn được biệt phái về một số cơ quan hành chánh, các cấp bộ, nha, sở. Hôm nay, trong những đồng môn Khóa 18 đến tiễn biệt anh Võ Văn Khoa, tôi được gặp lại một số anh em thân quen, từng phục vụ ở những đơn vị khác nhau như thế. Anh Nguyễn Văn Lân: trước khi nhập ngũ là giáo sư của một Collège Français, ra trường về làm việc ở Bộ Ngoại Giao; bạn Đào Minh Hùng: Thiếu Tá của Liên Đoàn 81 BCND, một đơn vị nổi danh ở các chiến trường đẫm máu nhất; bạn Nguyễn Nhật Minh: Thiếu Tá Trưởng Ty ANQĐ Lâm Đồng; bạn Vũ Ngọc Bích: Thiếu Tá của Cục Mãi Dịch, các anh Nguyễn Ngọc Kỳ, Bùi Trọng Nghĩa, Nguyễn Thế Hùng: CTCT, bạn Lê Trường Xuân: Biệt Động Quân, Nguyễn Thanh Thế, Trần Minh: Bộ Binh, Đỗ Văn Đạt: HCTC, và đặc biệt có bốn người bạn cùng Trung đội 14/ Đại đội 4 SVSQ với tôi: anh Nguyễn Xuân Hồng: giảng viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, về sau trở thành Mục Sư Tin Lành và phục vụ tại Nha Tuyên Úy; Phạm Duy Cường: CTCT, Nguyễn Văn Long: Thiết Giáp và Nguyễn Hồng Tâm: SĐ5BB, người trẻ tuổi nhất của Đại Đội 4.

Gặp lại nhau, cũng là dịp để điểm danh, xem ai còn ai mất, cùng ngậm ngùi cho phần số của mỗi người.

Riêng Đại Đội 4 và Trung Đội 14 SVSQ của chúng tôi cũng có nhiều điều đặc biệt khó quên. (Đại Đội 4 là hậu thân của Đại Đội 10 trong giai đoạn 1.) Cán bộ đại đội trưởng là Trung úy Phan Tấn Mỹ, tốt nghiệp Khóa 13 Võ Bị Đà Lạt, từ binh chủng TQLC thuyên chuyển về Trường, sau khi mãn một khóa học ở Hoa Kỳ. Ông là nhà thơ được nhiều người biết đến dưới bút hiệu Ý Yên (cũng là tên của quê hương ông ở miền Bắc). Ông có cung cách và tâm hồn của một thi sĩ hơn là một ông quan nhà binh. Biết SVSQ nào làm thơ, ông thường gọi lên văn phòng đại đội uống trà bàn chuyện thơ văn. Đi bộ cùng SVSQ ra bãi tập, thỉnh thoảng ông hứng chí đọc lên mấy câu thơ ông vừa nghĩ ra hay sáng tác. Chẳng bao giờ phạt ai và mỗi khi có SVSQ nào bị Quân Cảnh 301 bắt, ông liền chạy đến nhận về. Trung đội trưởng Trung đội 14 của bọn tôi là Thiếu úy Trần Bá Linh, Khóa 12 Thủ Đức. Ông là bào đệ của Thiếu tướng Trần Bá Di, rất thẳng thắn, kiệm lời, có thái độ bất cần, chẳng biết “ngán” ai, nên bọn tôi cũng dễ thở mà cũng có lắm khi hồi họp, lo âu.

Ba tuần trước ngày mãn khóa, một số trong đại đội đã biết mình được bổ nhậm hay biệt phái về đơn vị, cơ quan nào. Đặc biệt có hai đồng môn đầu tiên nhận lệnh về Trường Võ Bị Đà Lạt làm giáo sư Văn Hóa Vụ. Hai anh lại là bạn đồng nghiệp trước khi nhập ngũ, là giáo sư ở Đại Học Khoa Học. Trong cuộc thực tập cuối khóa, hành quân cấp đại đội suốt ba ngày đêm ở một bãi tập bên bờ sông Đồng Nai, khi diễn tập bài đại đội tấn công đêm lên đồi, một trong hai anh bị một quả đạn (chiếu sáng) súng cối 60 ly không nổ rơi trúng, ghim sâu vào lưng, làm tử thương tại chỗ. Tôi là một trong số những đồng môn được chỉ định về Tổng Y Viên Cộng Hòa, luân phiên đứng gác bên quan tài anh ba ngày trong “Nhà Vĩnh Biệt”, chứng kiến nỗi đau buồn, than khóc thống thiết của gia đình, đặc biệt vị hôn thê của anh, và nghe lời chia buồn, tiễn biệt của đồng nghiệp bạn bè và những sinh viên từng học với anh. Trong các bài điếu văn, ai cũng ca ngợi và thương tiếc anh, một vị giáo sư tài ba đức độ. Tôi ngậm ngùi, tiếc cho một người có tài mà yểu mệnh. Và đó là người bạn đồng môn, cùng khóa của tôi đã hy sinh đầu tiên, trước ngày tốt nghiệp. Người còn lại, anh Phùng Văn Bộ, ngay sau khi dự đám tang đưa tiễn bạn mình và lễ mãn khóa, đã một mình cô đơn lên trình diện Trường Võ Bị. (Cũng có thể có vài anh ở đại đội khác cùng được bổ nhậm về Trường Võ Bị mà tôi không biết.)

Một đồng môn khác cũng đã âm thầm chia tay trong trường hợp không vui. Khi cuộc hành quân thực tập chưa kết thúc, anh được gọi tên, lên xe về trình diện Trung tá Đào Duy Ân, Tham Mưu Trưởng. Ngày mãn khóa, anh không có mặt. Chúng tôi rất buồn và ngạc nhiên khi biết người bạn đồng môn hiền lành, dễ mến này đã bị đưa ra đơn vị với cấp bậc binh nhì. Năm 1973, trong một lần đến QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang thăm một sĩ quan cùng đơn vị bị thương nặng đang điều trị ở đây, bất ngờ tôi gặp lại anh, khi ấy anh là y tá với cấp bậc Hạ sĩ 1. Hai thằng nhìn nhau, bắt tay rồi ôm lấy nhau trong sự ngỡ ngàng. Anh vẫn sống độc thân trong căn phòng nhỏ thuê ở gần QYV. Buổi chiều, tôi lái xe đưa anh về căn phòng trọ này để anh thay áo quần dân sự, sau đó chúng tôi ra một cái quán bên bờ biển uống rượu tâm tình, nhưng tôi ngại không dám hỏi lý do vì sao anh bị ra trường non với cấp bậc binh nhì như thế. Ăn uống xong, thay vì về nhà, anh nhờ tôi đưa anh đến một ngôi trường gần đó. Anh dạy Anh văn cho một lớp đêm ở đây. Lúc còn trong quân trường, anh nằm giường kế bên tôi, là người gốc Quảng Bình, một con chiên ngoan đạo, rất tư cách, vui vẻ hiền lành, mọi người đều quí mến, nên lúc anh gặp tai ương, dù không biết lý do gì, ai cũng ngạc nhiên và tội nghiệp anh.

Người tử trận đầu tiên của Trung Đội 14 chúng tôi là bạn Dương Văn Chánh. Chánh là một trong số rất ít được chọn về Binh Chủng Nhảy Dù. Có lẽ vì Chánh là em vợ của Tướng Trương Quang Ân, lúc ấy đang là Trung Tá, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 ND. Sau khi tốt nghiệp khóa Căn Bản Nhảy Dù, Chánh được bổ sung cho Tiểu Đoàn 7 ND, và bị tử thương ngay trong trận đánh đầu tiên, trận Đồng Xoài, vào cuối tháng 6.1965. Một trận chiến đẫm máu khi lần đầu tiên Cộng quân đã sử dụng một lực lượng đến cấp sư đoàn. Trước khi nhập ngũ, Chánh học ở Luật Khoa. Da đen, giọng nói khàn khàn, ít nói, trông tướng tá hơi “ngầu”, nhưng rất hiền hậu, dễ thương.

Dù là sĩ quan trừ bị, nhưng Khóa 18 của chúng tôi đã đóng góp rất nhiều chiến công và xương máu cho cuộc chiến bất hạnh này. Bạn bè tôi không chỉ đã hy sinh trên chiến trường, mà còn chết oan khiên trong các trại tù man rợ của Cộng Sản, và có người đã chết trên xứ người bởi vì hệ lụy từ cuộc chiến bất hạnh, mà “bên thắng cuộc” lại là bọn người gian ác bị mê hoặc bởi một chủ thuyết man rợ.

Tôi nhớ tới Trần Công Lâm, một thằng bạn cùng Trung Đội 14, nó nằm giường trên, tôi giường dưới, nên hai thằng trở thành đôi bạn thân thiết nhất. Quê ở tận Nha Trang, nên những ngày cuối tuần về phép, tôi thường theo về nhà nó ở khu Bình Triệu, cùng đi chơi với cô vị hôn thê, sau này là vợ của nó. Lâm có ông anh là thượng sĩ, nhân viên Phòng Nhất của Bộ Tư Lênh Lực Lượng Đặc Biệt đồn trú tại Nha Trang, ngay trên quê tôi. Nó bảo đã nói chuyện với ông anh và ông cam kết là hai thằng bọn tôi sẽ được chọn về binh chủng này trước ngày mãn khóa. Thấy tôi có vẻ hoài nghi, nó bảo, dù chỉ mang cấp bậc thượng sĩ, nhưng ông anh khá thân thiết và là cánh tay mặt của ông trưởng phòng, nên chuyện chọn hai thằng về LLĐB chỉ là chuyện nhỏ. Thực tình, lúc ấy bọn tôi cũng không am hiểu mấy về binh chủng này, chỉ thấy bộ đồng phục rằn ri, cái bê-rê màu xanh và huy hiệu con cọp nhảy qua cánh dù, trông rất oai phong, nên thích vậy thôi.

Gần ngày mãn khóa, tôi đã thấy trên tủ áo của nó có cả bộ quân phục và bê-rê xanh LLĐB. Nhưng khi ra hội trường để được gọi về các binh chủng, cả hai thằng đều không có tên. Giờ chót chỉ còn chỗ ở các Sư Đoàn Bộ Binh. Tôi bảo nó theo tôi về Sư Đoàn 23, vì quê tôi nằm trong vùng hoạt động của đại đơn vị này. Lần này thì Lâm theo tôi, bỏ Sài gòn ra tận núi rừng miền Trung xa tít. (Sau này nó cho biết, đúng thời gian chọn tân sĩ quan về binh chủng thì ông anh của nó chẳng may bị tai nạn phải vào quân y viện, nên hai thằng bọn tôi bị lọt sổ.) Ngoài Trần Công Lâm ra tôi còn rủ thêm Nguyễn Văn Túc. Túc không cùng Đại Đội nhưng là bạn học cùng lớp Đệ Nhất C với tôi lúc trước ở trường Võ Tánh, và trước khi vào lính hai thằng rủ nhau về quê tôi dạy ở một trường trung học tư thục đệ nhất cấp vừa mới mở, mà ông hiệu trưởng là bạn của cha tôi.

Khi ra đơn vị, theo yêu cầu của chúng tôi, cả ba thằng được bổ nhậm về cùng một tiểu đoàn. Lâm về Đại Đội 1, Túc về Đại Đội 2, còn tôi về Đại Đội 3. Khi ấy, tiểu đoàn tôi có lẽ là một tiểu đoàn đánh đấm có hạng, nên được chọn làm đơn vị lưu động, có trách nhiệm tiếp ứng cho cả Khu 23 Chiến Thuật. Vì vậy có khi buổi sáng còn ở núi rừng Quảng Đức, Lâm Đồng, buổi chiều đã có mặt ở vùng biển Tuy Hòa, Phan Thiết. Về đơn vị đã hơn ba năm mà bọn tôi chưa hề biết hậu cứ tiểu đoàn nằm ở đâu trên Ban Mê Thuột. Thời gian ấy chiến trường chưa sôi động lắm, chúng tôi chỉ thường đụng độ với các đơn vị địa phương của địch. Chỉ có ở Quảng Đức và Phú Yên thỉnh thoảng có sự xuất hiện của lực lượng chính quy mới xâm nhập từ miền Bắc. Làm trung đội trưởng hơn hai năm, đánh đấm vài trận, được mấy cái huy chương, thì cả ba thằng lần lượt được lên nắm đại đội. Sau đó tôi được ông tiểu đoàn trưởng kéo về làm Ban 3, còn Lâm về làm Đai Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy kiêm Trưởng ban Truyền Tin, thay cho người tiền nhiệm thuyên chuyển đi nơi khác. Lúc ấy, Lâm hiền lành như con gái, mấy lần ông tiểu đoàn trưởng bảo Lâm: “cậu ra trường hơn hai năm rồi mà trông cứ như một thư sinh, làm sao lính nó ngán được!” Có lẽ với lý do này, nên ông gởi Lâm theo học Khóa Rừng Núi Sình Lầy rồi sau này lại học thêm khóa Viễn Thám. Riêng Túc, sau khi lên trung úy một thời gian, đang là một đại đội trưởng có hạng thì được lệnh giải ngũ vì cận thị quá nặng. Túc được nhận vào làm tại Nha Bưu Điện và được sang Singapore học một khóa khóa chuyên môn để về dạy ở Trường Bưu Điện Sài gòn.

Cùng lúc tôi được chuyển về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn thì Trần Công Lâm nhận lệnh theo học Khóa Căn Bản Truyền Tin tại Vũng Tàu. Nhưng chưa tới ngày mãn khóa tôi thấy Lâm đã về lại đơn vị. Trước khi trình diện ông trung đoàn trưởng, Lâm khoe “thành tích”với tôi:

-Học và làm cái nghề Truyền Tin này coi bộ nhức đầu quá, nên tao nản, cứ dù về nhà thăm vợ và thằng cu mới sinh, nên bị ông chỉ huy trưởng Trường ký cho mười ngày trọng cấm và trả về đơn vị. Mày trình với ông trung đoàn trưởng cho tao ra tiểu đoàn khác, về lại tiểu đoàn cũ khó làm việc!.

Lâm về Tiểu Đoàn 4 làm đại đội trưởng một thời gian. Khi anh đại đội trưởng ĐĐ Trinh Sát có lệnh thuyên chuyển đi đơn vị mới, tôi tìm gặp Lâm:

– Mày có muốn về nắm Đại Đội Trinh Sát không, tao sẽ “nổ”với ông trung đoàn trưởng, vì mày có bằng RNSL và cả bằng Viễn Thám. Về Trinh Sát có cơ hội thi thố tài năng, thử lửa ra sao, để không ai còn dám gọi mầy là “Lâm Con Gái” nữa!

Lâm vỗ vai tôi cười khoái chí.

Không ngờ, chỉ sau một thời gian, Trần Công Lâm trở thành một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh của cả Quân Đoàn. Bây giờ, chuyện xông pha trận mạc đối với Lâm còn dễ hơn chuyện dắt đào đi chơi ngoài phố. Nơi nào không giải quyết được chiến trường, Lâm tình nguyện nhảy vào, và lúc nào cũng xuống mục tiêu trước tiên với một toán Viễn Thám. Một lần, một tiểu đoàn trực thuộc cùng chi đoàn TQV và pháo đội PB 105 ly tăng phái, di chuyển đến vùng hành quân, bị một lực lượng Cộng quân hùng hậu đào giao thông hào, ngụy trang hai bên đường phục kích. Đơn vị phản công kịp thời, các sĩ quan Kỵ Binh dạn dày kinh nghiệm, cho thiết vận xa M 113 vừa tác xạ vừa cày nát đè bẹp các giao thông hào của địch, lực lượng Bộ Binh bung ra, vừa bảo vệ Pháo Binh vừa đánh cận chiến và tung lựu đạn xuống phòng tuyến địch, Pháo Binh hạ nòng trực xạ vào các cao điểm nghi ngờ địch tập trung. Địch chết khá nhiều, một số bị ta bắt sống, Khai thác cấp thời, biết được vị trí bộ chỉ huy của địch nằm cách nơi chạm súng khoảng hơn hai cây số, và chỉ được bảo vệ bằng một đại đội với quân số chưa tới 50 người. Đại Đội Trinh Sát của Lâm đang ứng chiến bên cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, được trực thăng Hoa Kỳ bốc thả xuống ngay sát bên hông địch, sau một tràng TOT của Pháo Binh cùng với sự yễm trợ của bốn chiếc Cobra, địch không ngóc đầu lên được. Với hỏa lực phi pháo và lối đánh thần tốc của Lâm, địch không kịp trở tay, cả bộ chỉ huy địch đều bị giết và một số bị bắt sống, trong đó có tên chính ủy và cả tên trung đoàn trưởng, ta tịch thu nhiều tài liệu quan trọng cùng mấy triệu đồng tiền VNCH (toàn giấy 1.000 mới toanh đựng trong các thùng gỗ), nhưng khi giao cho Ty Ngân Khố giám định, hóa ra đều là tiền giả được in từ Trung Cộng.

Một lần khác, được tin tình báo cho biết, một đơn vị địch vừa mới xâm nhập vào vùng núi giữa ranh giới ba tỉnh Lâm Đồng – Ninh Thuận – Bình Thuận, Lâm tình nguyện dắt một toán viễn thám, được cải trang thành những bộ đội mang theo AK-47 và B- 40 (chiến lợi phẩm tịch thu của địch) xâm nhập. Một tiểu đoàn được lệnh ứng chiến, cùng với Đại Đội Trinh Sát (-) của Lâm, do anh đại đội phó chỉ huy, để khi nào nhận hiệu lệnh của Lâm sẽ nhảy vào tiếp ứng. Nhưng đến khuya, Lâm cùng toán viễn thám trở ra an toàn, còn bắt theo ba tên địch, trong đó có môt phụ nữ. Sau khi khai thác, biết chính xác địa điểm ém quân của địch, Lâm báo về TTHQ, chúng tôi liên lạc cố vấn Mỹ xin mấy phi tuần cất cánh từ Căn cứ Cam Ranh đến đánh bom ngay khuya hôm ấy. Sau đó cũng chính Lâm, chỉ huy Đại Đội Trinh Sát nhảy vào kiểm soát chiến trường và truy kích địch. Đơn vị lại tạo thêm một chiến thắng lớn, gần cả trăm xác địch bỏ lại, rất nhiều vũ khí các loại bị ta tịch thu, trên mười tên bị thương bị ta bắt.

Lâm ngày một đam mê chiến trận. Chiến trường như là những tảng nam châm cực mạnh cuốn hút lấy Lâm. Đại đội nghỉ vài hôm là Lâm xin đi hành quân. Hành quân mà chưa đụng địch, Lâm không về và đề nghị tái tiếp tế để bốc đi nơi khác. Thuộc cấp cũng mệt vì Lâm, nhưng tất cả đều nể phục Lâm. Chính Lâm đã biến Đại Đội Trinh Sát này trở thành đơn vị thiện chiến, lừng lẫy một thời.

Khi một lực lượng chiến xa Hoa Kỳ đến hoạt động trong Mật Khu Lê Hồng Phong, một mật khu có địa thế khá rộng lớn và hiểm trở của Cộng quân tại Bình Thuận, đã xin đích danh Đại Đội Trinh Sát của Lâm biệt phái để phối họp, tùng thiết. Vị chỉ huy lực lượng chiến xa này đã hết lòng ca ngợi Lâm và đề nghị ân thưởng huy chương Hoa Kỳ cho Lâm.

Trong hơn ba năm làm đại đội trưởng, Đại Đội Trinh Sát của Lâm đã tạo rất nhiều chiến thắng, mà tổn thất rất ít. Số vũ khí và tù binh thu bắt được còn hơn cả số lượng chiến lợi phẩm và tù binh của các tiểu đoàn trực thuộc. Lâm trở thành người hùng của Sư Đoàn, được tưởng thưởng khoảng 3, 4 ADBT với nhành dương liễu và nhiều ADBT với ngôi sao vàng, bạc, 1 huy chương của Hoa Kỳ, 1 của Đại Hàn và tất nhiên có cả Chiến Thương Bội Tinh. Qua bao nhiêu lần thoat chết trong đường tơ kẻ tóc, Lâm khoe với tôi là nhờ đạn tránh nó. Mùa Hè 1972, Lâm ra nắm Tiểu Đoàn 3/44, đơn vị đầu đời của Lâm và tôi. Lâm đã góp rất nhiều chiến công để có được một “Kontum Kiêu Hùng.” Tháng 6/ 1973, Lâm được chọn làm“chiến sĩ xuất sắc của Quân Đoàn” để về dự tiệc khao quân trong Dinh Độc Lập nhân ngày Quân Lực 19.6, nhưng chưa đến ngày đi thì tử trận. Lâm đã hy sinh tại phía Bắc Kontum, khi cùng toán thám báo đi thám sát địa thế đóng quân trên một cao điểm. Do một thằng em vướng phải mìn Claymore của một đơn vị bạn triệt thoái trước đây, không kịp thu hồi. Thằng em thì chỉ bị thương mà ông thầy thì lãnh đủ. Cái chết thật xót xa, đáng tiếc đối với một người từng tạo nên nhiều chiến thắng lẫy lừng, và biết bao lần vào sinh ra tử như Lâm.

Ngày Lâm chết, tôi không có mặt ở đơn vị, vì đang nghỉ phép đặc biệt ở Nha Trang. Tôi ghé vào Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, tìm Nguyễn Tấn Hưng, một người bạn cùng khóa, cùng Trung Đội 14 SVSQ, rất thân thiết với Lâm và tôi, được bổ nhậm về quân trường này, và khi ấy đang là Trưởng Phòng Điều Hành. Hưng đón tôi vào văn phòng rồi đóng cửa lại. Hai thằng ôm mặt khóc.



Tôi nhớ tới một người bạn cùng khóa khác, Phù Văn Vũ, cũng về Sư Đoàn 23, cùng trung đoàn nhưng ở tiểu đoàn khác. Thỉnh thoảng, những ngày nghỉ quân, chúng tôi gặp nhau, rủ đi uống rượu. Sau khi lên trung úy, và bị thương trong một trận đánh ở Lâm Đồng, Vũ được theo học một khóa CTCT ở Sài gòn. Mãn khóa được về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn làm Sĩ quan Tâm Lý Chiến. Vũ có nét lai Tây, cao lớn, thuộc hàng “bô” trai, tính tình vui vẻ dễ thương, nên ai cũng quí. Và cũng là một cao thủ “nhậu”. Trong những cuộc so tài uống rượu, Vũ luôn chiếm giải quán quân. Lúc ấy trong toán cố vấn Mỹ có Thiếu Tá Davis rất chịu chơi, cung cấp đủ thứ whisky, nên rượu không bao giờ cạn. Là dân Sài gòn chính hiệu, gia đình mấy đời ở gần khu cầu chữ Y, thỉnh thoảng chị Vũ dắt con ra thăm và làm nhiều món ngon cho chồng đãi bạn bè. Chị vừa đẹp vừa hiền lành bặt thiệp, nên ai cũng quí. Lúc ấy vợ chồng có hai đứa con, một gái một trai, khoảng 8, 7 tuổi, xinh xắn, lễ phép, dễ thương. Lên đại úy một thời gian, Vũ xin ra tiểu đoàn để giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Mấy tháng sau đi học Bô Binh Cao Cấp rồi thuyên chuyển về Vùng 3. Chúng tôi mất liên lạc nhau từ đó.

Sau tháng 4/ 75, khi có thông báo của Cộng sản (Ủy Ban Quân Quản Sài gòn) kêu gọi đi “trình diện học tập cải tạo”, tôi đến địa điểm Trường Đại Học Kiến Trúc. Khi xếp hàng chờ ghi danh làm thủ tục, thấy phía đằng trước có một người chống hai cái nạng gỗ. Khi anh ta quay mặt lại, tôi nhận ra Phù Văn Vũ. Trong cảnh sa cơ cá chậu chim lồng này mà gặp được một người bạn thân thì mừng vui lắm. Hai thằng dặn nhau phải luôn đi chung. Đặc biệt Vũ rất cần tôi phụ giúp băng bó, chữa trị vết thương. Bọn tôi bị đưa tới trại tù An Dưỡng (Biên Hòa), may mắn ở cùng một nhà, một tổ. Vết thương khá lớn ở chân phải của Vũ vẫn còn mưng mủ, tôi trở thành “y tá” riêng cho Vũ, rửa vết thương và băng bó mỗi ngày. Theo lời Vũ kể, vào cuối tháng 3/75, lúc ấy đang làm tiểu đoàn trưởng thuộc Sư Đoàn 25 BB, Vũ bị thương nặng ở đầu gối chân phải do đạn pháo của địch. Ngày 1 tháng 5, đang điều trị ở TYV Cộng Hòa thì bị VC đuổi ra. Về nhà may mà bà xã săn sóc thuốc men chu đáo nên mới khá được như hôm nay.

Vì phải chống nạng, nên Vũ không phải đi lao động, (khi ấy bọn tôi phải đi tháo gở kẽm gai và mìn trong hàng rào phi trường Biên Hòa), chỉ ở nhà quét dọn nhà ở, nhà bếp và hội trường. Không đủ thuốc men, nên vết thương kéo dài, cho mãi đến tháng 6.1976, khi lên tàu sông Hương ra Bắc, vẫn chưa lành hẵn.

Khi xuống tàu để lên bến Hải Phòng, thấy tôi đi chung và xách ba lô cho Vũ, một tên bộ đội kéo tách chúng tôi ra, giữ Vũ lại và bảo tôi phải đi xuống trước, mặc dù tôi đã năn nỉ xin được đi chung để giúp đỡ Vũ trong tình trạng vết thương chưa lành và đi đứng khó khăn, nhưng hắn không cho mà còn nạt nộ.

Tôi bị đưa về Trại 3 (Hang Dơi) nằm cực bắc Yên Bái thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn lúc ấy. Sau một thời gian, trong một lần đi xuống kho tổng trại ở Nghĩa Lộ để vác gạo về cho trại, thấy một người chống nạng, chăn bầy bò bên đường, tôi nhận ra Vũ với đôi chân thấp cao, khập khiễng. Bất ngờ gặp lại nhau, cả hai thằng đều mừng mà ứa nước mắt. Vũ cho biết đang ở Trại 8, và vì phải chống nạng nên được cho chăn bò của trại. Khi tên vệ binh thúc tôi phải đi, Vũ kịp đưa cho tôi một gói nhỏ. Tôi bỏ nhanh vào túi áo. Khi dừng lại nghỉ trưa trên ngọn đèo cao, mở ra tôi thấy một cái bánh nướng làm bằng bột sắn (khoai mì), tôi vừa ăn vừa lau nước mắt.

Trại 3 của tôi cách Trại 8 của Vũ khoảng hơn hai mươi cây số, đặc biệt phải đi qua một cái đèo rất cao. Mỗi lần đi vác gạo, bọn tù chúng tôi khốn khổ bởi cái đèo này. Không biết tên gì, nhưng bọn tôi gọi đó là “Đèo Bá Thở.” Ba tháng sau, trong chuyến đi vác gạo kế tiếp, tôi lại được gặp Vũ, lần này thì cả hai thằng mừng rỡ, nhưng đứng cách nhau khá xa, chỉ kịp gọi tên và vẫy tay chào. Rồi ba tháng sau nữa, cũng trong một chuyến đi lấy gạo, khi gần đến khu Trại 8, thấy bầy bò từ xa, tôi háo hức để được gặp lại Vũ, nhưng khi người chăn bò đưa tay chào các bạn tù, tôi ngạc nhiên vì không phải Vũ, mà lại là một người khác, khá già, râu tóc bạc phơ. Anh cho biết là Vũ đã chết trước đó hơn một tháng, do bệnh kiết lỵ mà không có thuốc chữa. Tôi bỗng thấy đau nhói trong lòng, và bâng khuâng nghĩ tới vợ con Vũ, bởi lúc ngồi trên tàu Sông Hương ra Bắc, Vũ đã buồn bã nói với tôi, các con còn quá nhỏ, ngày Vũ đi vào tù, nhà không còn tiền và cũng chẳng có tài sản gì đáng giá, rồi không biết vợ con sẽ phải sống ra sao. Khi ấy tôi chỉ còn biết lấy hoàn cảnh tương tự của chính mình để an ủi Vũ.

Một hôm vào khoảng đầu năm 2007, trong một dịp sang Cali, tôi bất ngờ gặp lại một người bạn tù khá thân. Anh đang hợp tác trong tổ chức nhân đạo của cựu tù Thiếu Tá Nguyễn Đạc Thành, nhằm tìm kiếm mồ mả, hài cốt của những anh em chết ở các trại tù miền Bắc. Tôi hỏi ngay đến Phù Văn Vũ, và quá đỗi ngạc nhiên khi anh bạn cho biết đã tìm ra được mộ của Vũ và cũng đã liên lạc với vợ con Vũ để về Việt Nam bốc mộ. Anh bạn còn cho tôi xem tập hồ sơ, có cả hình ảnh của Vũ lúc còn trong quân ngũ, và hình của ngôi mộ hoang phế trong núi rừng Việt Bắc với tấm bia xám xịt còn lờ mờ mấy chữ: Phù Văn Vũ chết ngày 23.8.1977 (chỉ sau một năm chuyển ra Bắc). Vợ con Vũ đã may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO và đang sinh sống ở Tiểu Bang N. Carolina. Trong hồ sơ có ghi số điện thoại con trai lớn của Vũ. Tôi liên lạc hỏi thăm và nói chuyện mấy lần. Sau đó, vì chị Vũ không được khỏe, nên cháu Nguyễn Ngọc Thị Hương, cô con dâu trưởng của Vũ đã theo tổ chức này về VN phối họp cùng cô con gái lớn của Vũ (còn ở lại VN) bốc mộ Vũ vào ngày 26.2.2007 và mang tro cốt về cải táng tại Hoa Kỳ.

Tôi nhớ tới Trần Ngọc Thăng, thằng bạn cùng Khóa 18 khác và cũng là bạn học cùng truờng ở Nha Trang lúc trước. Ra trường, Thăng tình nguyện về Biệt Động Quân. Khoảng ba năm sau tôi bất ngờ gặp nó mang ba lô về trình diện trung đoàn tôi tại Sông Mao. Đúng lúc các đơn vị đang nghỉ dưỡng quân, tôi gọi tất cả đám bạn cùng Khóa 18 về Câu Lạc Bộ đón mừng nó. Khi ấy cả bọn tôi đều đã lên trung úy, chỉ duy nhất có Thăng còn mang thiếu úy. Hỏi ra mới biết chàng ta từ quân lao mới chuyển ra Đơn Vị 2 Quản Trị và được bổ sung về đơn vị tôi.Thăng bảo, mới vừa lên làm đại đội trưởng BĐQ thì đụng độ với ông tiểu đoàn phó khi ông chửi thề và tát tai một anh chuẩn úy mới ra trường, trung đội trưởng của Thăng. Đang cãi nhau thì bất ngờ bị ông đá thúc vào ống chân thách thức, nên sẵn súng trên tay Thăng bắn một phát vào bàn chân ông. Bị 30 ngày trọng cấm và ra Tòa Án Quân Sự lãnh tám tháng tù. Không biết có phải vì lý do này mà suốt thời gian ở đơn vị, ngoài những bạn cùng khóa, Thăng không chơi với ai. Tình nguyện về làm đại đội phó Trinh Sát. Hơn một năm sau được thăng cấp trung úy, Thăng xin ra nắm đại đội ở Tiểu Đoàn 2. Đầu năm 1973, khi đang làm tiểu đoàn phó TĐ3 cho Trần Công Lâm, Thăng được bổ nhậm làm tiểu đoàn trưởng TĐ 2/44 trong một trường hợp khá đặc biệt. Thời gian còn làm đại đội trưởng, hành quân ở khu vực Di Linh – Đức Trọng, Thăng quen biết một nữ sinh sắc tộc Thái Trắng, khá xinh, nhưng mãi đến đầu năm 1974 hai người mới làm đám cưới và một đứa con trai ra đời trong những ngày cuối tháng Tư buồn. Trong lúcThăng bị tù ngoài Bắc, ở nhà vợ Thăng treo cổ tự vẫn, đứa con trai được giao lại cho bà nội nuôi nấng. Theo người nhà kể lại, khi chết, vợ Thăng mặc chiếc áo dài trắng thuở còn đi học và có để lại một lá thư, nhưng bị công an tịch thu nên không ai biết vợ Thăng đã viết những gì trong đó. Ra tù vài năm, Thăng đưa mẹ, hai cô em gái và đứa con trai vượt biển. Đến Mỹ, định cư ở San Jose, Thăng nhờ mẹ chăm sóc đứa con thơ để vừa đi làm vừa đi học. Mỗi lần nói chuyện trong điện thoại, tôi đều ca ngợi Thăng có chí, nó cười bảo: “tao vùi đầu vào sách vở là chỉ để được quên, không muốn có chút thì giờ nào để phải hồi tưởng hay suy nghĩ điều gì”. Cuối cùng nó cũng lấy được bằng Cao HọcTâm Lý (Master of Psychology) và tìm được việc làm lương cao, ổn định. Bạn bè ai cũng khen và mừng cho nó. Bao nhiêu tình thương Thăng dồn hết cho mẹ và đứa con trai. Nó bảo mẹ nó đã một đời tão tần nuôi nấng cưu mang mấy anh em nó từ lúc còn tấm bé, di cư từ Bắc vào Nam năm 1954. Do lời khuyên nhủ của mẹ, Thăng tục huyền. Cô vợ nhỏ hơn nó khá nhiều tuổi, quen nhau lúc cả hai cùng là sinh viên ở một trường đại học Mỹ, cũng là ái nữ của một cựu thiếu tá ở Sư Đoàn 7 BB. Vẫn cái tính như ngày xưa, Thăng sống khép kín, ít giao tiếp với bạn bè, nhưng với vợ chồng tôi, Thăng luôn dành một tình cảm đặc biệt. Mỗi lần sang Mỹ, chúng tôi đều ghé lại thăm, và vợ chồng Thăng luôn giữ lại nhà vài hôm. Vợ Thăng cũng rất hiền lành, vui vẻ và hiếu khách. Đầu năm 2007, mẹ già ngã bệnh, vợ chồng Thăng đã hết lòng lo chữa chạy, nhưng vì tuổi già sức yếu, không chống chọi nổi bệnh tình, bà đã quy tiên. Biết Thăng rất đau lòng, từ Bắc Âu tôi bay sang với Thăng, và chạnh lòng khi nhìn thấy Thăng tiều tụy, chán chường. Trong dịp này, tôi lại biết thêm một nỗi buồn khác, cũng rất to lớn của Thăng. Đứa con trai duy nhất mà Thăng hết mực cưng chiều yêu quý, như muốn làm vui lòng người vợ bất hạnh ở dưới suối vàng, đã bỏ học và có con với một cô bạn gái cùng lớp trong high school, khi cả hai còn ở tuổi vị thành niên. Thăng giấu tôi chuyện này. Chỉ thỉnh thoảng than với tôi là không còn thiết tha gì nữa và hối tiếc là ngày xưa không được chết trên chiến trường. Tôi vừa an ủi vừa đùa, bảo Thăng đã học nhiều năm về Tâm Lý, sao không “lấy sở tồn ra làm sở dụng.”

Bỗng một hôm được tin Thăng chết. Chết một cách đau đớn. Thăng dối vợ, bảo đi thuê hộ khách sạn cho một người bạn từ tiểu bang khác tới. Nhưng thực ra Thăng đi thuê phòng trong một khách sạn nhỏ ở gần nhà, rồi ở đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, sau khi viết mấy lá thư để lại trên bàn. Tôi nhận được lá thư Thăng viết cho tôi, do Cảnh sát giao lại. Nét chữ ngay ngắn, đẹp đẽ, chứng tỏ Thăng rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình:

“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với núi rừng thuở trước. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, những thằng bạn thân thiết, đã từng sống chết với nhau. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không đựợc chết một cách oai hùng ở chiến trường nhưng thằng Lâm, thằng Bê, anh Tài, anh Đức…”

Đọc xong, thấy đau đớn trong lòng tựa hồ như đang có nhiều vết chém, vậy mà không hiểu vì sao tôi không khóc được.



Tháng Tư này, nhân dịp tiễn đưa đồng môn Võ Văn Khoa về miền miên viễn, nhớ tới bạn bè, bỗng tôi nghĩ thật nhiều đến ba cái chết của ba người bạn cùng khóa, cùng một đơn vị, và một thời rất thân thiết. Ba cái chết trong ba thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Một thằng đánh giặc nổi danh rồi chết tại chiến trường, một thằng luôn yêu đời, vui vẻ hiền lành bị chết trong tù với đôi chân tàn phế, và một thằng từng ngang dọc một thời, sống bất cần, ba chìm bảy nổi, vượt thoát thành công, đỗ đạt trên xứ người, cuối cùng bắn vào đầu mình tự vẫn. Ba cái chết khác nhau, nhưng chỉ có một nguyên nhân duy nhất: hậu quả của một cuộc chiến bất hạnh, và chúng tôi lại là những chiến binh bất hạnh nhất.

Trong nỗi xót xa, tôi thầm cầu mong không còn phải chứng kiến những tranh chấp, bất đồng , hơn thua giữa những người anh em từng một thời xuất thân từ một mái quân trường hay cùng chiến đấu, sống chết bên nhau trên các chiến trường lửa đạn. Chẳng lẽ cả một đời binh nghiệp, cuối cùng chúng ta chẳng còn giữ lại được điều gì, ngay cả cái tình đồng môn, huynh đệ? Tôi cũng thật đau lòng khi biết có những người đã vội quên mình từng một thời là lính, sống thản nhiên vô tâm trước nỗi đau của quê hương đất nước, và quên cả món nợ máu xương mà mình chưa trả được một chút gì cho đồng đội anh em.

Tôi bỗng chạnh lòng khi nhớ tới một đoạn đã đọc được từ khá lâu trong“Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”, tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque: “… Rồi mọi người sẽ không hiểu được chúng tôi…Chúng tôi sẽ trở thành một thứ thừa thãi ngay cả đối với chính mình, chúng tôi sẽ ngày càng già đi, một số có thể hội nhập được với cuộc sống mới, một số khác sẽ nhẫn nhục mà sống, và hầu hết là sống trong nỗi bàng hoàng đau đớn. Ngày tháng sẽ trôi đi và cuối cùng chúng tôi sẽ rơi vào tàn lụi”.

Không! Chúng tôi, dù là những người lính trừ bị, nhưng đã hiến cả đời mình cho quân đội, cho Tổ Quốc, luôn ngẩng cao đầu hãnh diện đã góp phần bảo vệ quê hương và phát huy giá trị tự do nhân bản. Chúng tôi đã từng sống chết hết lòng với đồng đội anh em, và chiến đấu bằng tất cả danh dự cùng cả trái tim mình.

Cuộc chiến bất hạnh khi người bạn đồng minh đành đoạn quay lưng, để phải kết thúc trong đớn đau, tức tưởi: “phía man rợ đã thắng”, lời của chính bà Dương Thu Hương, một nhà văn, một cán binh Cộng sản đã từng xác tín. Và một chế độ được dựng lên bởi một đảng cướp man rợ, độc tài, sống hèn mạt, phè phỡn trên nỗi thống khổ oán than của dân tộc cùng sự điêu linh của đất nước, sẽ không thể tồn tại lâu dài. Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ chúng tôi đã từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh và đau thương nhất của dân tộc.

Phạm Tín An Ninh
(Mùa Quốc Hận 2019)
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by nguyenvsau »

Image

Nơi Yên nghỉ cuối cùng của 81 người lính Nhảy Dù VNCH

Cựu bộ trưởng Hải Quân Hoa Kỳ năm 1987 thời Tổng Thống Ronald Reagn và là cựu nghĩ sĩ Dân Chủ Thượng Viện, đã từng là sĩ quan phục vụ trong chiến tranh Việt Nam thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, ông Jim Webb, có viết một bài đăng trên diễn đàn báo USA TODAY ngày 13 thang 9, năm 2019, thật cảm động cho những gì ông nói đến và cho những gì đã xẩy ra trong câu chuyện ngày hôm nay.

Với tựa đề: “ Remember South Vietnam’s Forgotten Soldiers “: hay “ Tưởng Nhớ Những Người Lính Miền Nam Việt Nam Bị Lãng Quên.”

Ông cho biết rằng ngày thứ sáu, 13 tháng 9 năm 2019 từ tiểu bang Hawaii, đã khởi sự một cuộc hành trình trở về với đồng đội ở quê hương mới, vùng Little Saigon, một ngày trở về với chiến hữu và mầu cờ vàng ba sọc đỏ của 81 hài cốt chiến sĩ nhẩy dù quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sau hơn 33 năm bị lãng quên và nằm ngủ yên trong căn cứ quân sự quạnh hiu ở Hawaii.

Ông cho biết, một buổi lễ nghi quân cách thật long trọng sẽ được tổ chức trọng thể để vinh danh và tưởng niệm 81 chiến sĩ sĩ này vào ngày 26 tháng 10 năm 2019 tại nghĩa trang Viêt-Mỹ lớn nhất của Hoa Kỳ ở thành phố Westminster, vùng Little Saigon, một nơi định cư của hàng ngàn người Mỹ gốc Việt hiện đang cư ngụ.

Jim Webb wrote:….


On Oct. 26, there will be a full military ceremony honoring their service in Westminster.

These forgotten soldiers will be laid to rest under a commemorative marker in the largest Vietnamese-American cemetery in our country.


Họ là ai và chuyện gì đã xẩy ra cho 81 người chiến sĩ nhẩy dù này?

Quân sử Quân Lực VNCH nói chung và Binh Chủng Nhảy Dù nói riêng , không ai không biết và không bao giờ quên câu chuyện về Đại Đội 72 thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919, một đại đội có những nét lịch sử bi hùng và khốc liệt.

Trong một cuộc hành quân không tải từ Pleiku đến Tuy Hòa, chiếc vận tải cơ C-123B của Không Lực Hoa Kỳ, số đuôi là 64-376 trong một phi vụ chuyển quân có chở theo 81 chiến sĩ thuộc đại đội 72, tiểu đoàn 7 nhẩy dù cất cánh vào lúc 1018H sáng thứ bẩy ngày 11 tháng 12 năm 1965.

Máy bay sau đó đã không đáp xuống phi trường Tuy Hòa cũng như ở nơi nào khác theo giờ ấn định. Mọi điện đàm bị mất và màn hình Radar đã không còn dấu vết của chuyến bay.

Đến sáng hôm sau, ngày 12 tháng 12 năm 1965, chuyến bay đã được xác nhận mất liên lạc không rõ lý do. Sau đó, phía không quân Hoa Kỳ đã cho phi cơ đưa toán chuyên viên RAMP đi tìm kiếm trong 3 ngày liên tiếp 12, 13, 14 nhưng không có kết quả. Đến ngày 15, cuộc tìm kiếm bị ngưng lại vì thời tiết.

Qua ngày 22 tháng 12, sau 7 ngày, trên phi cơ quan sát, toán tìm kiếm đã phát hiện ra xác phi cơ bị gẫy nát, chỉ còn lại khoảng 20 feet, nẳm trên một đỉnh núi về phía Tây Nam, cách Tuy Hòa chừng 20 dặm, có độ cao khoảng 4,000 Ft.

Toán tìm kiếm cho biết:

“không thấy dấu hiệu có sự sống của toàn bộ phi hành đoàn Hoa Kỳ và quân nhân nhảy dù “, thời tiết xấu và mây mù che phủ đã làm ảnh hưởng, gây trở ngại đến sự quan sát vị trí phi cơ lâm nạn, hơn nữa khu vực nầy lại do lực lượng Việt Cộng kiểm soát. Toán tìm kiếm đã cố gắng quan sát thêm, và không thấy có dấu hiệu phi cơ đáp xuống, trước khi đụng vào đỉnh núi ! Họ không thể xác nhận liệu có thể có sự sống sót xảy ra sau khi phi cơ lâm nạn trong khu vực .

Sáu tháng sau cuộc tìm kiếm được tiếp tục vào ngày 6 tháng 1 năm 1966, trên phi cơ qua kính quan sát trong thời gian khoảng 30 phút từ độ cao 30 đến 100 feet, toán tìm kiếm vẫn không tìm thấy được gì hơn trong khu vực phi cơ lâm nạn.

Phải đến tám năm rưởi sau, vào ngày 16 tháng 6 năm 1974, một toán tìm kiếm khác gồm 2 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà và 8 thợ cưa gỗ rừng tiến vào khu vực phi cơ lâm nạn quan sát tình hình trước.

Image
Cây xuyên qua thân phi cơ C-123 của không quân Hoa Kỳ lâm nạn ngày 11 tháng 12 năm 1965. Ảnh tài liệu của JPAC

Đến ngày 23 tháng 6 năm 1974, toán tìm kiếm đã gom lại được tất cả 17 bao tải từ phần còn lại bên ngoài phi cơ, họ không thể vào trong thân phi cơ vì còn nhiều lựu đạn và đạn M-79.

Đến ngày 28 tháng 6 năm 1974, 17 bao thu hồi bên ngoài phi cơ được Hoa Kỳ đưa về Thái Lan ( CIL-THAI ) để xác định và phân tích.

Trong hồ sơ giới hạn phổ biến của toán chuyên viên Phân loại và nhận dạng, được ghi nhận như sau: Họ không đủ quyền hạn để giải quyết thỏa đáng phần còn lại của bất cứ thi thể liên quan nào !

Theo một tài liệu lưu trữ về chiếc phi cơ C-123 của không quân Hoa Kỳ lâm nạn ngày 11 thàng 12 năm 1965 tại chiến trường Việt Nam được ghi nhận như sau:

Trưởng phi cơ là Thiếu tá Robert Milvoy Horsky, ông nguyên là phi công pháo đài bay chiến lược B-52 từ năm1962 đến năm 1964. Sau đó ông chuyển qua bay vận tải cơ C-123 từ năm1965 cho đến khi xảy ra tai nạn. Nguyên nhân phi cơ lâm nạn là do mây mù và mưa rào che khuất tầm nhìn của phi công làm cho phi cơ đụng vào cây trên sườn núi cao độ 4000 FEET, phi cơ rơi xuống một đĩnh núi cao độ 1000 FEET, làm cho tất cả 4 nhân viên phi hành đoàn không quân Hoa Kỳ và 81 quân nhảy dù QLVNCH thiệt mạng.

Năm 2012, Mr. Robert Maves, Civ JPAC J2; cựu thiếu tá KQVNCH Nguyễn Qúy An và Gia Đình Mũ Đỏ đã gởi một bản nhắn tin trên các báo chí Việt ngữ tại Hoa Kỳ để thông báo, liên lạc với thân nhân của 81 quân nhân nhảy dù, và thông báo duy vật còn lại như: Thẻ bài – ID Tags, căn cước quân nhân – ID Cards và vài giấy tờ tuỳ thân của 19 trong số 81 quân nhân thuộc ĐĐ72, TĐ7ND thiệt mạng đã tìm được, danh sách gồm có:

LE, Binh Van SQ 8 Vietnam Armed Forces Card
TRAN, Quy SQ 6DA 100401 ID Tag
NUON, Chau. SQ 121969/52 ID Tag
TRAN, G. O. SQ 58/202.400 ID Tag
NGUYEN, Tanh Xuan SQ 10172 ID Tag
TRAN, Than V SQ 63A 108.047 ID Tag
LE, Hoa Van Birth Certificate
NGUYEN, Tuyet Thi Partial ID Card
LE, Suyen Van SQ 57/211.162
NGUYEN, Tai Van SQ 566726 Vietnam Armed Forces Card
DO, Dien Van SQ 125.114 ID Tag
NGUYEN, Tanh Xuan SQ 10172 ID Tag
TRAN, Than V SQ 63A 108.047 ID Tag
NGUYEN, Tuong Van SQ 591535 ID CARD
DO, Linh Van SQ 55A 121.239 ID TAG
LE, Thu Ng SQ 55A 121.239
LAM Dan Sy SQ 51/302.734 ID CARD
THY ID CARD

BICH, Pham N. SQ 401978 ID TAG (Hình như là Đại Đội Trưởng ĐĐ72ND)


Một số hài cốt thu hồi được trong 17 bao vào năm 1974 của 81 chiến sĩ nhảy dù vẫn còn lưu giữ tại phòng giảo nghiệm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh tại Hawaii (Defense POW/MIA Accounting Agency Hawaii) đã qua 45 năm tính tới năm 2019. Không biết có bao nhiêu gia đình Cô Nhi Qủa Phụ và thân nhân của của các Tử Sĩ Nhảy Dù biết được chuyện chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng 12 năm 1965. “


Nơi Đất và Trời giao hòa, nơi Thiên và Địa gặp nhau:

Trong bài viết của mình, ông Jim Webb đã nói về những nổ lực của mình để tìm một nơi yên nghỉ ngàn thu cho những hài cốt của người lính miền Nam Việt Nam, ông gọi họ là những người lính không có quê hương vì ông đã liên lạc với Hà Nội hai lần về yêu cầu chôn cất và đều bị từ chối. Ngược lại, bởi họ không phải là chiến sĩ Hoa Kỳ hay có quốc tịch Hoa Kỳ để có thể được chôn cất theo lễ nghi quân cách trang trọng ở Hoa Kỳ.

Và rổi họ trở thành các chiến sĩ vô danh trong khi thực sự, họ đã hy sinh chiến đấu cho một đất nước nay không còn hiện hữu tồn tại nữa.

Sid Goldstein Freedom Park: Vietnam Memorial - California Through My Lens
While small, this park is a beautiful dedication to those that lost their lives or were a prisoner of war in the...

Ông Jim Webb vẫn không ngừng tìm kiếm nơi yên nghỉ cuối cùng cho 81 chiến sĩ nhẩy dù của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Trong trái tim của ông, 81 chiến sĩ VNCH này không phải là riêng rẽ ở trong chuyến bay bị tai nạn đó.

Với 17 bao tải đựng hài cốt lẫn lộn của 4 phi hành đoàn Hoa Kỳ, kết quả phân tích và xác định được hài cốt của 4 binh sĩ Hoa Kỳ qua kỹ thuật DNA ở Bangkok, phần còn lại không lên được danh sách xác nhận vì là binh sĩ VNCH.

Do đó, tới năm 1986, tất cả phần hài cốt còn lại được chuyển về căn cứ quân sự Hoa Kỳ POW/MIA lab ở Hawaii . Từ đó tới nay năm 2019 là 33 năm dài, họ đã nằm quạnh hiu và cô đơn ở đây.

Dù thế nào đi nữa, chuyện vẫn không làm thay đổi ý nghĩ và cảm xúc của ông. Ông vẫn coi 81 chiến sĩ này là những người lính đồng minh cùng chiến đấu bên cạnh những người lính Hoa Kỳ, ông luôn luôn nghĩ họ thật xứng đáng để được tưởng nhớ với danh dự và đầy nhân cách.

Ông vẫn tiếp tục đi tìm nơi yên nghĩ cuối cùng cho 81 hài cốt người lính nhẩy dù này.

Trong hai năm qua, ông không ngừng nghỉ tìm kiếm, thương thảo và tranh đấu trên phương diện ngoại giao và pháp lý để cuối cùng, ông đã tìm được một nơi yên nghỉ cho 81 chiến sĩ ông gọi là những người sánh vai đồng minh chiến đấu với đất nước Hoa Kỳ, xứng đáng có một nơi yên nghỉ với danh dự và đầy nhân cách.

Ngày 26 tháng 10 năm 2019, một buổi lễ rất trang nghiêm trong nghi lễ quân cách sẽ được thực hiện tại
Image
Westminster’s Freedom Park
Ông kết luận rằng buổi lễ không những sẽ mang ý nghĩa lớn hơn là sự hy sinh của những người lính trẻ chiến đấu cho tự do dân chủ của một đất nước nay không còn tồn tại mà còn là một câu chuyện nhắc nhở về hàng trăm hàng ngàn người lính khác đã hy sinh trong cuộc chiến mà thân xác không bao giờ được tìm thấy nhưng sẽ không bao giờ bị lãng quên.

Đó là trang sử buồn và là cái giá phải trả để đến được xứ tự do Hoa Kỳ của hai triệu người Mỹ gốc Việt.

Ông nói trong phần chót của bài viết:

Chúng ta sẽ nhớ đến và cám ơn những đóng góp của họ đã làm cho đất nước Hoa Kỳ mạnh mẽ và sáng sủa hơn. Đó là những gì chúng ta sẽ không quên khi là người Hoa Kỳ, một dân tộc luôn luôn trân quý sinh mạng con người và sẽ không bao giờ quên đến những người đã sát cánh bên vai với chúng ta khi bị cực kỳ lâm nguy khổ nạn.

Thân nhân muốn hỏi thăm tin tức về 81 quân nhân của ĐĐ72 - TĐ7ND bị mất tích, nên liên lạc gấp với Mr. Robert Maves, Civ JPAC J2 Robert.Maves@JPAC.PACOM.MIL.
Hoặc liên lạc với anguyen219@yahoo.com, dsmd@hotmail.com để được giúp đỡ thêm

Nguyễn Ngọc Phúc.
9/13/2019

Trích và tham khảo: lpk(114) cuối năm 1965 trong 3 ngày liền. Cất cánh sân bay Chóp Chài-Tuy Hòa trong phi vụ tìm cứu chiếc C 123 ở trong vùng Tây-Tây Nam Đèo Cả, kết quả là không tìm thấy được gì!!!

· Jim Webb: Remember South Vietnam’s forgotten soldiers
Jim Webb, Opinion contributor Published 6:00 a.m. ET Sept. 13, 2019 USA Today

81 Chiến Sĩ Đại Đội 72, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù tử nạn trên chuyến bay C-123 của Không Lực Hoa Kỳ ngày 11 tháng 12 năm 1965
Posted on May 29, 2019 by dongsongcu

Nguyễn Quân

Bài viết trên Vietbao.com: Đại đội 72, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng 12 năm 1965 - 28/09/2016 00:02:00(Xem: 8564) Tân Sơn Hoà
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image

Chút Tình Cho Thủ Đức

Bỗng như còn
Nghe thoáng chút dư âm
Vang vọng lại từ một thời rất cũ
Dòng kỷ niệm chảy về như thác lũ
nhớ trường xưa

Ôi! Thủ Đức thân thương.
Nhớ đêm đen,
Nhớ những sáng mờ sương
Hương dạ lý sân tiểu đoàn thoang thoảng
Một mùi hương chưa tàn theo năm tháng

Ôi Thủ Đức trường tôi!
Đã thăng trầm theo mệnh nước nổi trôi
Đã đào tạo biết bao chàng trai trẻ
Những trưa hè gió nhẹ
Những buổi sáng tơ mềm
Trung Nghĩa Đài sừng sững đứng uy nghiêm
Như thúc giục người đi làm lịch sử

Quên sao được Đồi Tăng Nhơn Phú
Chiều cuối tuần trên đại lộ Bình Long
Khu tiếp tân vội vã chút tình nồng
Và những tối một mình đi gác tuyến

Khu gia binh có mắt nhìn lưu luyến
Của người em đang độ tuổi xuân thì
Đã bao lần dõi bước người đi
(Đã lắm kẻ không bao giờ trở lại)

Thủ Đức ơi!
Lòng ta ghi nhớ mãi
Những bãi, sân, doanh trại, lớp giường đôi
Vẫn chưa quên cầu Bến Nọc lẻ loi
Đường ra bãi máu đàn anh đã đổ
Nhớ mái tôn dấu đạn thù loang lổ
Giao thông hào, đêm dã chiến mồ hôi

Thủ Đức ơi!
Trường mẹ mến yêu ơi!
Quên sao được những ngày xưa ấm áp
Vũ Đình Trường bước chân đi rầm rập
Đoàn sinh viên vang khúc hát quân hành

Sống oai hùng trọn vẹn tuổi xuân xanh
Chí đã quyết đi vào nơi gió cát

“Cư An Tư Nguy!”
Lời vàng ta ghi khắc
Trên cánh tay, trên phù hiệu huy hoàng
Khăn đỏ, khăn xanh
Khăn tím, khăn vàng
Khoá trước, khoá sau hàng hàng, lớp lớp

Quên sao được cuối thời gian huấn nhục
Lễ gắn Alpha trang trọng chí tình
“Quỳ xuống Tân Khoá sinh!”
Khi đứng dậy cầu vai vàng chói sáng

Quên sao được đêm cuối cùng thức trắng
Lòng nôn nao nghĩ đến buổi ra trường
“Quỳ xuống các ngươi!”
Tiếng hô to vang dội đến ngàn phương

Hồn tử sĩ đã về đây chứng kiến
Những đứa con trên đường ra trận tuyến
“Đứng dậy Tân Sĩ Quan!”
Lời hiệu triệu âm vang…

Trong hàng quân có kẻ lệ đôi hàng
Giọt nước mắt mừng vui ngày mãn khoá
Rời Thủ Đức bạn bè đi trăm ngả
Thằng Pháo Binh, Đứa Thiết Giáp, Nhảy Dù
Thằng Sư đoàn, thằng Biệt Động, Chi Khu
Bay tản mạc như chim non lìa tổ

Chua xót thay! Mộng đầu đời gãy đổ
Miền Nam rơi, trường mẹ cũng tan hoang
Kỷ niệm xưa nay chép vội đôi hàng
Lòng vẫn ước có môt ngày trở lại.


Vũ Đình Trường
khieulong
Posts: 3554
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by khieulong »

Image
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tranphuongdong »

Image

Người Lính VNCH… Tôi nợ Anh.
Hoàng Nhật Thơ

Quân đội là một tập thể lớn nhất trong một quốc gia, được hình thành từ đủ mọi thành phần trong xã hội ở khắp mọi miền đất nước theo luật động viên hoặc tổng động viên … Vì thế tập thể quân đội rất phức tạp nhưng sự phức tạp này đã được trui rèn trong những lò luyện thép để trở thành một tập thể kỷ luật nhất với trách nhiệm cao quý “Bảo Quốc – An Dân”.

Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được Quốc Trưởng Bảo Đại thành lập năm 1949 cho đến khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26/10/1955, Vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của nước Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng thân thương này được trân quý giữ cho đến ngày hôm nay và mãi mãi.

Từ sau cuộc chính biến ngày 01/11/1963, cuộc chỉnh lý tháng 01/1964 cho đến năm 1965, tình hình chính trường Miền Nam Việt Nam thật sự rối ren, bất ổn bởi những cơn lốc chính trị … tên đồ tể Hồ Chí Minh và bọn CSBV đã lợi dụng tình trạng này để gia tăng đánh phá trong mưu đồ thôn tính MNVN. Trước những cơn phong ba chính trị với cơn bão lửa chiến tranh lan dần và sau nhiều phiên họp của Thượng Hội Đồng Quốc gia … Chính phủ dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát lãnh đạo đã quyết định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho quân đội.

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương được thành lập và trình diện trước quốc dân ngày 19/06/1965. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, đã thay mặt đại gia đình quân đội nhận lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trong cơn nghiêng ngả của đất nước, vì thế ngày 19/06 được gọi là ngày Quân Lực chớ không phải là ngày thành lập Quân Lực VNCH như một số người đã hiểu sai.

Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề hơn đối với quốc gia, dân tộc … Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm “Bảo Quốc-An Dân”, họ còn phải chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh trên dòng sông lịch sử.

Nói đến quân đội là phải nói đến Người Lính, những người đã đem cả cuộc đời, một phần thân thể và sinh mạng để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương do tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.

Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 46, người viết xin được trải lòng mình trong những dòng chữ hạn hẹp, kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân Người Lính VNCH, những người đặt Tổ Quốc_Dân Tộc lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc-Dân Tộc hơn cả mạng sống của mình.

Trước khi gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường, họ là những thanh niên sống dưới khung trời Tự Do của Miền Nam Việt Nam, ý thức được trách nhiệm của người trai trong thời loạn … Họ từ giã học đường, xếp lại con đường công danh khoa bảng vào trang vở thơm mùi giấy học trò, giã biệt người yêu trong tiếng ve ngân ngày tháng Hạ, những cành phượng vỹ đỏ thắm nhẹ đong đưa trong gió như vẫy tay tiễn người đi khoác chinh y, bạn bè kẻ ở người đi nâng chén quan hà chúc tụng nhau những gì đẹp nhất ; Họ hy sinh tình cảm cá nhân, gia đình, người thân, người tình … đặt bước chân vào cuộc sống quân ngũ bảo vệ, gìn giữ quê hương.

Sau những tháng ngày dài chạy đều bước 1, 2, 3, 4 … hát vang “chân cứng đá mềm”, mũi thở ra khói nơi “thao trường đổ mồ hôi”, người thanh niên tuổi trẻ ngày nào đã gột rửa nét thư sinh bằng những giọt mồ hôi của mình … Mái tóc ba phân, ánh mắt cương nghị, thân thể cường tráng khỏe mạnh được phủ bởi làn da sạm nắng cháy quân trường với lời thề “Vị Quốc Vong Thân” trong ngày lễ mãn khóa … Người thư sinh ấy đã trở thành đứa con yêu của Tổ Quốc với tên gọi thân thương “Người Lính VNCH”.

Người Lính VNCH đem tấm thân được trui rèn từ lò luyện thép, kiến thức quân sự được đào tạo từ mái trường Tổ Quốc mang hành trang “Bảo Quốc – An Dân” hiện diện trên mọi nẻo đường đất nước, gìn giữ quê hương bằng chính sinh mạng của mình.

Người Lính VNCH không đi chinh chiến xây đắp tương lai cho cá nhân mình … Người Lính VNCH không đem sinh mạng vào vùng lửa đạn đánh đổi quyền cao chức trọng … Người Lính VNCH không mang giòng máu thắm đổi lấy huy chương trên ngực áo … Người Lính VNCH không đem một phần thân thể làm nấc thang binh nghiệp … Người Lính chỉ biết đi chiến đấu cho đất nước yên vui.

Hai mươi năm chinh chiến … Người Lính VNCH đi miệt mài không ngừng nghỉ, đôi giày trận mòn gót từ miền địa đầu giới tuyến nắng cháy da người … vùng cao nguyên khô cằn sỏi đá, bụi đỏ mịt mờ … miền Tây sình lầy nước đọng, rừng già âm u, núi đồi lộng gió cho đến cao vút không gian bao la vương dấu giày trên vùng mây trắng mênh mông … xa ngút ngàn trùng khơi sóng vỗ lắc lư chiến hạm … Người Lính đi trong lửa khói mịt mờ, đi trong mưa đạn pháo của quân thù, đi trên xác giặc xâm lăng, ẩn hiện như những bóng ma đi vào mật khu của giặc, âm thầm làm người chiến sĩ vô danh trong công tác đặc biệt “vượt tuyến” … không nơi nào thiếu vắng bóng dáng Người Lính VNCH, những người đem sinh mạng che chắn cơn bão lửa chiến tranh để mang niềm vui cho đời.

Người Lính đi từ lúc mặt trời còn say ngủ, sương đêm buốt lạnh đôi vai cho đến khi quả cầu lửa khổng lồ chiếu ngay trên đỉnh đầu, bộ chinh y đẫm ướt mồ hôi, thân thể bốc khói … Người Lính tạm dừng chân lấy nước từ sông hồ, kinh rạch, từ dây rừng đổ vào bọc gạo sấy, nuốt vội vã, hớp ngụm nước mát từ lòng đất mẹ, phì phà vài hơi thuốc lá rồi tiếp tục lên đường … Hoàng hôn buông phủ, đơn vị tạm dừng quân … sau khi lót lòng bằng phần lương khô, Người Lính dành chút thì giờ quý báu “từ KBC giá lạnh rừng sâu” trong cái lều vải cá nhân vội vàng viết lá thư tiền tuyến gởi về thăm gia đình … Kẻ thì thăm hỏi, kính chúc sức khỏe mẹ già vạn an, khói lửa chiến tranh vẫn còn phủ kín quê hương nên con chưa thể về bên mẹ để làm tròn chữ “Hiếu”, mong mẹ thứ lỗi cho con. Con vẫn khỏe mạnh, bình an … Thương nhớ mẹ nhiều ; Người thì cặm cụi bên chiếc balô làm bàn nên nét chữ không ngay, trải nỗi lòng nhung nhớ vợ hiền, con thơ trên trang giấy nhỏ bé … Thương nhớ em và con thật nhiều. Anh khỏe và an lành ; Người thì nắn nót từng nét chữ yêu thương gởi về người yêu nơi phố thị … đã từ lâu chưa một lần về thăm … hẹn ngày hoa giăng đầu ngõ … Hôn Em ; Kẻ thì nguệch ngoạc đôi dòng thăm bạn bè đang ghìm súng ở một KBC nào đó. Xếp vội những lá thư còn thơm mùi mực, Người Lính vừa chợp mắt thì có lệnh lên đường … Người Lính tiếp tục bước quân hành, âm thầm khuất vào màn đêm đen tăm tối dưới cơn mưa lạnh buốt để canh giữ quê hương cho người dân tròn giấc ngủ.

Hai mươi năm chinh chiến, hầu như Người Lính không có dư thì giờ nhiều để tắm gội nhưng họ lại là những người tắm nhiều nhất … họ tắm trên bước quân hành dưới những cơn mưa tầm tả ngày đêm, vừa đi vừa tắm bằng giòng suối mát ngọt ngào nơi núi cao dốc thẳm, sông hồ kinh rạch, họ tắm bằng những giọt nước từ chiếc biđông nhỏ giọt trên đầu dưới sức nóng gay gắt của mặt trời và họ tắm bằng những giòng biển mặn thoát ra từ cơ thể của họ.

Hơn bảy ngàn ngày đêm, Người Lính chưa bao giờ có một lần tròn giấc, Người Lính ngủ trong thức, thức trong từng giấc ngủ … Người Lính có thể ngủ bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi đâu dù chỉ năm ba phút, ngủ trong lúc di hành, ngủ trong lúc ăn, ngủ trong lúc đang nói chuyện với đồng đội, ngủ dưới cơn mưa tầm tả nơi giao thông hào, ngủ trong lúc đang đánh răng, ngủ ngay cả lúc đang đại hay tiểu tiện … Có người đã thiếp đi vài phút dưới cơn mưa pháo của quân thù vì họ quá mệt mỏi trong một trận chiến dài nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, trận chiến 510 ngày đêm trên ngọn đồi Tống Lê Chân. Người Lính rất thèm ngủ nhưng Người Lính tự ban “quân lệnh” cho mình không được ngủ khi quê hương còn thao thức vì tiếng súng đạn xâm lăng … Hầu như Người Lính đi và thức gần trọn cuộc đời khoác chinh y.

Hai mươi năm chinh chiến… có biết bao nhiêu Người Lính VNCH đã ngủ quên trên chiến địa, trên vùng trời Tổ Quốc Không Gian, dưới lòng Tổ Quốc Đại Dương mãi mãi không trở về với đồng đội … Bao nhiêu Người Lính VNCH trở về bằng mỗi một tấm thẻ bài lạnh giá hoặc ngủ im lìm trong hòm gỗ cài hoa, không bao giờ biết mặt đứa con thơ vừa cất tiếng khóc chào đời, không được nhìn thấy những giòng lệ trào tuôn trên khuôn mặt người vợ hiền đầu vừa chít vội mảnh khăn tang … không được vuốt mái tóc người tình hay vị hôn thê mới vừa đeo chiếc nhẫn đính hôn tháng rồi nay tan nát tâm hồn quấn chiếc khăn tang đang gục đầu trên quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ … không được tự tay lau những giọt lệ từ giòng nước mắt khô cạn của người mẹ già yêu quý.

Hai mươi năm chinh chiến … bao nhiêu Người Lính VNCH trở về không nguyên vẹn hình hài… kẻ trở về với một hoặc hai ống tay áo dư thừa… người thì vĩnh viễn không bao giờ mặc lại được cái quần dài vì đôi chân đã gởi lại chiến trường… người thì mãi mãi sống trong bóng tối suốt quãng đời còn lại vì họ đã hiến dâng cặp mắt cho hai chữ Tự Do của Miền Nam Việt Nam. Trong thời chiến, họ đem tấm thân gầy chống đỡ giang san… ngày tàn cuộc chiến, họ lê tấm thân phế tàn chống đỡ tang thương, bất hạnh phủ trùm lên thân phận người thua cuộc kéo dài hơn một phần ba thế kỷ.

Chinh chiến triền miên không biết bao giờ chấm dứt… Anh miệt mài đi mãi… đem sinh mạng đi canh giữ quê hương… lấy máu hồng đi dập tắt ngọn lửa chiến tranh… đi cho đến khi nào người dân không còn kinh hoàng, hốt hoảng dìu dắt, bồng bế nhau chạy loạn trong khói lửa ngút trời bởi thảm họa chiến tranh do lũ Cộng Sản gây nên … đi cho đến khi không còn thảm cảnh đứa bé thơ đang ngậm bầu sữa khô, nút những giọt máu rỉ ra trên xác người mẹ vừa chết bên ven đường bởi đạn thù, pháo giặc… đi cho đến khi đất nước thật sự thanh bình, người dân được sống an vui, hạnh phúc, tiếng cười đùa của trẻ thơ rộn rã khắp nơi nơi, tiếng ê a hồn nhiên tuổi thơ vang lên dưới mái trường làng rợp bóng mát thanh bình, tự do.

Đường quân hành dịu vợi mù xa… đôi chân nhỏ bé của Người Lính đã vượt qua ngàn ngàn cây số, bao nhiêu sông hồ kinh rạch, núi thẳm rừng sâu, sình lầy nước đọng, muỗi đỉa bám đen cả thân mình… gian nan trên mỗi bước đi, hiểm nguy trong từng hơi thở, tử thần lảng vảng bên cạnh, cái chết có thể đến bất chợt trong buổi ăn, giấc ngủ… Nhưng Người Lính VNCH, những người nguyện hiến dâng cuộc sống cho đời nào có xá chi hiểm nguy, chết chóc khi quê hương còn vang rền tiếng súng xâm lăng. Người Lính VNCH ơi … Anh thật là cao cả.

Hai mươi năm lao vào vùng lửa đạn do tên Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên … Hằng ngàn ngàn quân lệnh ban ra … phải chiến thắng, phải dứt điểm mục tiêu, phải giải quyết chiến trường không để một tấc đất quê hương, một căn nhà người dân lọt vào tay quân giặc … Lá Quốc Kỳ màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu phải tung bay phất phới trên xác giặc trong thời hạn bắt buộc. Người Lính VNCH nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh không một lời than van, hiên ngang bước vào vùng tử địa, đem máu đào và sinh mạng của mình giành lấy chiến thắng mang về dâng lên Tổ Quốc.

Trước khi đi vào chốn hiểm nguy, lao mình vào vùng lửa đạn, Người Lính VNCH không nghĩ đến gia đình mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của quê hương dân tộc ; Trong vùng lửa đạn mịt mờ … Người Lính VNCH vừa chiến đấu vừa bảo vệ người dân, dù Người Lính bị thương thân thể đẫm máu, họ vẫn cố gắng dìu dắt người dân, bồng bế trẻ thơ, cõng ông lão, bà cụ thoát khỏi vùng hiểm nguy … Người Lính VNCH chẳng những bảo vệ người dân mà còn chăm sóc, chữa trị vết thương cho những tù binh cộng sản bị bắt trên chiến trường, Người Lính VNCH tự tay băng bó vết thương cho tù binh, đút cho họ ăn từng muỗng cơm, từng ngụm nước, gắn lên môi họ điếu thuốc sau đó tải thương giao họ lại cho các cơ quan thẩm quyền đưa về điều trị vết thương, khai thác và giáo huấn họ trở về con đường chính nghĩa của quê hương dân tộc. Đây là tánh nhân bản của Người Lính VNCH trên con đường lý tưởng “Bảo Quốc-An Dân”.

Người Lính VNCH chèo chống con thuyền quốc gia trong cơn bão lửa chiến tranh, cắm ngọn cờ chiến thắng khắp mọi nơi từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến dài xuống tận mũi Cà Mau phần đất cuối cùng của quê hương. Sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, quân đội CSBV đã kiệt quệ, chiến tranh lắng dịu, quê hương hồi sinh, nắng ấm thanh bình tạm trải dài muôn nơi sau trận chiến kinh hồn, máu và lửa đỏ cả quê hương suốt năm tháng rưỡi trong cuộc chiến tang thương dài triền miên.

“Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu …”. Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, Người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo một chiến công lẫy lừng làm cả thế giới nghiêng mình kính phục … Lá Quốc Kỳ tung bay khắp mọi miền đất nước dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời thì cũng là lúc Người Lính VNCH bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH, Người Lính VNCH bị bức tử gãy súng … Con thuyền quốc gia chuyên chở “Tự Do-Hạnh Phúc” cho người dân Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươi năm đã bị người bạn đồng minh nhẫn tâm nhận chìm vào giòng sông máu của Cộng Sản ngày 30/04/1975.

Năm vị tướng lãnh cùng một số Quân Cán Chính VNCH các cấp đã quyên sinh theo con thuyền quốc gia nhưng họ không chìm vào giòng sông máu của cộng sản … Họ miên viễn đi vào lòng đất mẹ, linh hồn quyện vào Lá cờ Hồn Thiêng Sông Núi … Họ đã hiên ngang, can trường đi bước quân hành cuối cùng trong sự uất nghẹn “gãy súng” để bảo vệ danh dự cho đại gia đình QLVNCH, bảo toàn chính nghĩa Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, để lại ngàn đời sau nhắc nhớ và thương tiếc.

Ngay sau khi miền Nam Việt Nam lọt vào tay CSBV … Hằng ngàn Quân Cán Chính VNCH đã bị lũ quỷ đỏ mạo danh “chống Mỹ, cứu Nước” khoan hồng bằng những loạt đạn AK47 hận thù nơì pháp trường thù hận. Hằng trăm ngàn đã được “hòa hợp, hòa giải” bằng gông cùm xiềng xích, biệt giam ngục tối, bằng những cực hình tra tấn dã man, bị bỏ đói, cưỡng bức lao động trong thủ đoạn thâm độc giết dần mòn nơi các trại tù khổ sai, khắc nghiệt mang ba chữ hoa mỹ “Trại Cải Tạo” trên hai miền Nam Bắc.

Những người Thương Phế Binh.VNCH bị lũ quỷ đỏ chà đạp, lết lê hít thở khói xe, bụi đường bên lề cõi sống. Họ uống nước mắt uất nghẹn kéo lê kiếp sống vong quốc hơn nửa cuộc đời ngay chính trên mảnh đất quê cha mà họ đã hy sinh giòng máu, một phần thân thể để gìn giữ.

Lũ Cộng Sản vô thần không tim óc, độc ác, dã man cũng không buông tha những người đã chết. Chúng tàn phá nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn vô tri, những thân xác mục rã không còn lòng thù hận.

Người Lính VNCH dù đặt bước chân trên con đường vong quốc trước hay sau đều trở thành những người lính già xa quê hương, đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Người thì buồn bã khép mắt ra đi vĩnh viễn trong nỗi uất nghẹn không nguôi … Người thì đã về hưu sau những năm dài tạo lập cuộc sống mới nơi quê người, ngày ngày trông về cố quốc với ánh mắt xa xăm, hơi thở mỏi mòn, chiếc bóng đời đang ngã dần về Tây trên đất khách … Người thì vẫn tiếp tục cày trả nợ áo cơm …

Người Lính VNCH đã đi trên đoạn đường chiến binh dài bằng một phần ba đời người … Sau ngày “gãy súng”, họ vẫn cố gắng tiếp tục đi nốt quãng đường quân hành còn lại bằng con đường đấu tranh trong thời gian hạn hẹp của chiếc bóng hoàng hôn trên con đường vong quốc. Họ tranh đấu cho ai… Họ đã có tự do, cơm no áo ấm, con cái lớn khôn thành đạt, cuộc sống ổn định thì chắc chắn một điều là họ không tranh đấu cho bản thân hay gia đình họ… Trong thời chiến, họ không đem sinh mạng đi chiến đấu vì danh vọng, địa vị, quyền uy, chức tước thì ngày nay họ không đem tuổi già ra tranh đấu vì bất cứ một tham vọng gì … Họ chỉ muốn đóng góp những chuỗi ngày còn lại vào công cuộc đấu tranh giải thể lũ bạo quyền CSVN, cho quê hương dân tộc không còn ngập chìm trong bể máu Cộng Sản… Họ tranh đấu cho những thế hệ mai sau được hít thở không khí tự do, không còn bị nhồi sọ, cai trị bởi chủ nghĩa Cộng Sản bệnh hoạn, vô thần, khát máu. Hai mươi năm chinh chiến …Ba mươi sáu năm vong quốc… bây giờ họ là những người lính già lưu vong… con đường chiến binh dang dở năm xưa vẫn chưa thấy đoạn cuối nhưng hơi thở của họ… đã cạn…

Hai mươi năm chinh chiến… Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của mình đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.

Hai mươi năm miệt mài đi canh giữ quê hương… Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm dưới nắng ấm thanh bình trên quê hương mến yêu mang tên Việt Nam.

Những năm dài bị lũ giặc thù tra tấn dã man, chết đi sống lại bao nhiêu lần trong các trại tù khổ sai, khắc nghiệt sau ngày “gãy súng” … Người Lính VNCH không quỵ lụy, lòn cúi kẻ thù để được tồn tại. Người Lính VNCH trước sau vẫn thủy chung với con đường “Lý Tưởng” mà mình đã chọn, vẫn giữ được khí khái, “Danh Dự” của Người Lính VNCH khi bị bức tử trở thành kẻ thua cuộc.

36 năm vong quốc … bao nhiêu năm đem phần đời còn lại miệt mài tranh đấu… “Người Lính Già xa Quê Hương” không có bất cứ một tham vọng chính trị nào… Người Lính Già chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ Cộng Sản bạo tàn, độc ác để người dân Việt Nam có được nụ cười “Tự Do – Hạnh Phúc” mãi mãi nở trên môi.

Người Lính VNCH… Tôi nợ Anh.

Hoàng Nhật Thơ

__._,_.___
tranphuongdong
Posts: 524
Joined: Wed May 30, 2007 2:08 am
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by tranphuongdong »

Image

Đêm nhớ Huynh Trưởng Trần Thúc Vũ
* * *
Lửa bừng cháy rực dòng thơ
Mà người thắp lửa bây giờ .. nơi đâu ?

Từ thơ ..
Tưởng tượng năm, mười năm nữa, có người nào đó đọc lại những dòng "Thắp Lửa Vào Thơ" của anh, tôi nghĩ rằng người đó cũng sẽ cảm nhận được độ nóng hừng hực của lửa trong tim Trần Thúc Vũ phà vào những bài thơ anh viết. Chỉ buồn thay, những người bạn yêu thơ ấy sẽ không được cái hân hạnh nghe chính anh, Trần Thúc Vũ, đọc những bài thơ anh thuộc lòng, những lời thơ và cung bậc đầy ắp nét hào sảng của người lính dãi dầu chinh chiến, của người tù không có bản án như anh.
Thơ anh như chính máu thịt của anh. Vì anh đã phải học thuộc lòng những bài thơ sáng tác giữa ngục tù dài đăng đẳng 18 năm ấy, vì giữa ngục tù khủng khiếp của chế độ, làm sao anh có được một mẩu giấy để ghi chép, làm sao âm thanh vần điệu ấy vượt ra khỏi bốn bức tường giam, và khi mà lòng yêu nước và tự do là một trọng tội dưới mũi súng quân thù. Nên, thơ anh đã thẩm thấu vào máu thịt người cưu mang và khai sinh ra nó trong hoàn cảnh nghiệt ngã của quốc nạn 75. Và vì thế, khi Trần Thúc Vũ đọc thơ anh ở một nơi anh được cất tiếng thì nó như được tẩm đầy hơi thở, lời thơ ướp ngập máu nóng của người lính chưa hề biết uốn lưng trong cái độ dài khủng khiếp của đêm tối tù đày mà anh gánh chịu 18 năm. Cám ơn anh đã cho bằng hữu được nghe những lời thơ tâm huyết ấy, tiếng của các con chữ thi ca anh đọc, có công suất làm sống lại những tế bào rã rệu vì tháng năm của cơm áo đời thường.
Tiếc và buồn vì từ nay nhân gian sẽ vắng anh, vắng lời thơ sang sảng hào hùng làm sôi sục trong anh em tiếng kèn thúc quân thời trận mạc.

Ðến người ..
Trần Thúc Vũ đến với anh em San Diego bằng một "tao ngộ chiến" tình cờ, anh lang thang theo nhà báo Hải Triều nhàn du xứ lạ, và ngay trong lần đầu tiên hội ngộ ấy, anh là thành viên của Hội cựu SVSQTBTÐ/ San Diego, rất tự nhiên như câu nói của anh: "Tôi xin được là một thành viên của Hội Thủ Ðức San Diego" và khi được giới thiệu với anh em, anh đã chào kính một đàn em với câu nói cũng rất lạ: "Tôi chào trước vì Dũng là người vào Hội trước". Anh làm tôi vừa ngạc nhiên vừa xấu hổ trước một đàn anh có cung cách bộc trực ít thấỵ
Cũng từng là một người tù cải tạo dưới chế độ Cộng Sản, tôi biết ngay rằng, với tâm tính và cách hành xử quy luật như vậy, anh đã phải vô cùng khổ sở trong những tháng ngày tù ngục, và tôi không lấy làm ngạc nhiên khi được biết thêm anh là một tù nhân 18 năm vừa bị trục xuất ra khỏi nước dưới áp lực quốc tế.
Lần đến San Diego thứ hai nhân chuyến ra mắt sách của nhóm nhà văn quân đội, trong một ngẫu hứng, Trần Thúc Vũ đã ngâm bài thơ Hố Mắt tặng anh em trong quán Ngọc Lan. Trong âm thanh bi hùng của lời thơ anh đọc, tôi nhìn thấy lại thời xưa của chính tôi, của những ngày đêm chong mắt chờ giặc bên những xác đồng đội chưa được tản thương, và của những chiều chia nhau hớp cay của bi-đoong rượu đêm mưa dưới giao thông hào .. Anh đọc thơ và uống rượu y như ngày ấy, tiếc là không có chiếc nón sắt, súng đạn lăn lóc sau cuộc hành quân kế bên, và dăm ba anh em ta phạch ngực ngồi quanh bàn nhậu, nếu có, trời ơi, 30 năm thua trận, tù đày, chắc chỉ là cơn mộng dữ mà thôi !!!

Còn gì nữa với anh, chắc phải kể đến việc anh trợn trạo nuốt một món ăn mà anh không sao nhai nổi, mãi đến khi thanh toán xong món ăn đến đổ mồ hôi, anh mới thú thật, răng anh không còn nhai được thứ gì sau thời gian tù đày, nhưng anh em đã gắp cho thì anh không thể nào từ chối. Chỉ mới là buổi sơ giao nhưng cái tình bằng hữu của anh trân trọng dường ấy. Kể gì đến .. tình nghĩa mai sau.
Cái trân trọng đó như một phản ứng tự nhiên trong anh, không khách sáo, không trình diễn màu mè, chẳng trách ở buổi tiễn đưa anh lần cuối cùng, bạn bè khắp nơi đã kêu gọi, đã réo nhau đến với anh đông đủ, với tất cả tâm tình.

Anh Trần Thúc Vũ kính mến,
Sinh ra trong cõi nhân gian phù thế này, ai cũng phải đi qua ngưỡng cửa tử sinh, chúng ta trong thời trai trẻ há chẳng đã từng đêm ngày thách đố với sự sống còn qua lằn tên mũi đạn, há chẳng đã coi cái chết nhẹ như khói thuốc bay sao ? Chỉ có điều phải chi anh ra đi chậm hơn, để cùng anh em đi hết đoạn đường chiến binh như lời thề dưới chân Trung Nghĩa Ðài trường Mẹ, để còn nhìn lại quê hương đẹp như ước mơ mà anh đã đổ máu xương xây đắp từ thuở hoa niên.

Vĩnh biệt anh, Trần Thúc Vũ, thơ anh vẫn mãi cháy rực trong trái tim mọi người Việt Nam biết yêu Tổ Quốc Việt Nam.

Nhớ anh, Trần Thúc Vũ

Phan Anh Dũng
bichphuong
Posts: 620
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by bichphuong »

Image

Đại Hội TQLC 2019
Như là một truyền thống vô cùng cao đẹp cần phải bảo tồn, hàng năm, chúng ta những chiến sĩ TQLCVNCH ở mọi nơi đều tổ chức Ngày Sinh Nhựt của binh chủng,
đồng thời tưởng nhớ và cầu nguyện cho các chiến sĩ và đồng bào đã vị quốc vong thân, hy sinh cho chính nghĩa Quốc Gia.

Thưa các chiến sĩ TQLC!

Trong những ngày tháng khai sinh của nền đệ nhất cộng hòa cũng như phát triển của QLVNCH , các anh có thể được chọn một con đường khác vào đời. Nhưng chính các anh, trong những năm tháng ấy , các anh đã hiên ngang chọn và khoác lên mình chiếc áo lính Rằn Ri.

Không có sự lựa chọn nào anh hùng hơn khi chúng ta dấn thân trực tiếp đối mât với kẻ thù khi tổ quốc lâm nguy, bởi vì ý nghĩa cao cả với người thanh niên trong thời chiến là “Cuộc đời đẹp nhứt của thanh niên là oai hùng trên trận tuyến , sẵn sàng hy sinh trong công việc bảo vệ đất nước chống lại bọn xâm lăng ".
Có ai mà không nghe thấy các anh ra đi dồn dập trong tiếng kèn thúc quân của ngày đó để đắp xây cuộc đời trong chinh chiến, với nước mắt và máu. Đó là những anh hùng sinh ra từ khói lửa của đất nước Việt Nam.

Suốt cuộc chiến trường kỳ chống xâm lăng cog sản , các anh chưa từng vắng mặt. Các anh đã dũng cảm lựa chọn con đường đi, đã nỗ lực phấn đấu và các anh đã không bỏ cuộc dù dù biết bao trở ngại khôn lường.

Những thành tích của TQLCVNCH trong thời gian trước 1975 là kết quả của ý chí bất khuất và quyết tâm chiến đấu với tinh thần hết lòng bảo vệ Miền Nam Việt Nam.
Biết bao anh hùng đã đi trọn đường trần bằng tất cả gian nguy trong cuộc chiến chống xâm lăng. Nhưng cũng có biết bao anh linh đã ở lại một nơi nào đó trên những chiến trường khốc liệt, có biết bao lời hẹn ước với gia đình với những người thân yêu đã mãi mãi không thành…?

Các anh đã coi gian nan, nguy hiểm là “nợ anh hùng phải trà” nên đã dấn thân đương đầu với mọi thử thách ngoài chiến trận, và cũng sẵn sàng nằm gói thân xác thiên thu trong chiếc poncho lạnh lùng trên trận tuyến .

Các anh đã từng chiến đấu anh dũng, hiên ngang, đã từng gây cho kẻ thù những tổn thất kinh hoàng, nặng nề trên khắp vùng lãnh thổ của đất nước, đặc biệt là Tết Mậu Thân và Mùa Hè Đỏ Lửa, bao nhiêu kỷ niệm của ngày nào đã sống lại trong trái tim của các chiến sĩ anh hùng .
Quân Lực VNCH nói chung cũng như binh chủng TQLC nói riêng đã quyết chiến để bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc, có tinh thần nào cao cả hơn ; có ý chí nào sắt thép sánh bằng.

Dù biết rằng đã khoác áo chinh nhân thì đến bao giờ mới trở lại! Các chiến sĩ TQLC can trường này như những đại bàng vỗ cánh, như các vì sao sáng mãi trên bầu trời của tổ quốc thân yêu .
Không có kẻ thù nào có thể giành được chiến thắng khi phải đối mặt với những người lính TQLC quả cảm với tấm lòng yêu nước vô bờ bến như các anh.

Những niềm vui ngất trời khi lá cờ Vàng chiến thắng lồng lộng tung bay, với cả những giọt nước mắt nghẹn ngào, đau thắt khi lặng lẽ tiễn đưa những đồng đội anh hùng về nơi an nghỉ cuối cùng.
Một dân tộc chúng ta vô cùng yêu thương, một cuộc chiến đẩm máu và nước mắt chúng ta đã gắn bó mấy chục năm liền. Xương máu chúng ta đổ xuống đẫm đất nước Việt.

Nhớ thương nhiều lắm trên mảnh đất nước Việt Nam này thân xác các anh đã không còn nguyên vẹn, từng mảnh, từng mảnh đã hòa cùng sông núi, đất trời. Trong đó có những chiến sĩ trong tuổi mơ ước, đã ôm những ước mơ, hoài bảo, những khao khát của tuổi trẻ bước vào giấc ngũ ngàn thu, để đổi lấy sự tự do dân chủ, cho đất nước, dân tộc có được cuộc sống an bình thịnh vượng.

Các anh ai cũng có một cuộc đời để sống và một lần để chết, nhưng các anh sống được mọi người yêu thương, và khi chết được người đời ghi nhớ, xót xa và tiếc nuối.
Các chiến sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hy sinh của họ là “tấm lòng son gửi lại cho dân tộc”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi.
Chúng tôi xin nghiêng mình với tất cả những chiến sĩ đã không thể trở về sau trận chiến và những chiến sĩ trở về nhưng đã để lại một phần xương máu nơi chiến trường.
Trong hiện tại rồi đến tương lai , dù cuộc sống có nhiếu thay đổi. Nhưng chúng ta hãy cùng nhau quyết tâm đoàn kết một lòng hướng về Quê Hương khốn khổ để góp sức đấu tranh trong khả năng dù nhỏ bé của mình cho một ngày mai tươi sáng , đất nước sẽ không còn bóng dáng lũ cộng sản bóc lột , bán nước , tham tàn cho quê hương Việt Nam dấu yêu của chúng ta mãi mãi trường tồn trong tự do , thanh bình , dân chủ để theo kịp cũng như hiên ngang ngẩng mặt với các bầu bạn trên năm châu bốn bể .

Trân trọng kính chào quý vị.

Tháng 7-2019
Cổ Tấn Tinh Châu
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Re: Chân Dung Người Lính VNCH

Post by thienthanh »

Image

CƠN MƯA TRÁI MÙA & NIỀM THƯƠNG ĐAU
Phạm Lan Chi
Cơn mưa trái mùa bất chợt đổ xuống dữ dội, tiếng rì rầm như xé nát cái không gian tĩnh lặng của đêm khuya. Nằm cuộn mình trong chăn, trong cái ấm áp bình yên này, hắn chợt thấy tâm hồn buốt lạnh. Cái buốt lạnh tình cờ bởi một cơn mưa đêm.

Và rồi những kỷ niệm tự dưng tiếp nối gợn dần lên trong ký ức của hắn.

Ngày xưa, những ngày tháng đầu đời của một chàng lính chiến với trên lưng cái balô căng phồng vật dụng cá nhân, cặp alpha vàng chóe trên cổ áo. Hắn đã đến vùng đất trời máu lửa, nơi có những cánh rừng hoang tàn xơ xác, có những con đường nhầy nhụa đất đỏ cao nguyên, có những hố bom trải đầy nằm toang hoác như diện mạo của khuôn mặt của người bị bệnh đầu mùa tàn phá và cùng có những cơn mưa rừng dai dẳng mịt mùng.

Rồi những ngày tháng chập chững làm quen với gió sương, gai góc của chiến trường quả là những khoảnh khắc đáng nhớ không thể nào quên trong hắn. Nhiệm vụ thường nhật của một sĩ quan mới ra trường là hằng đêm dẫn lính đi phục kích. Chọn một góc rừng âm u, gối đầu trên ba lô, nệm chăn là vạt cỏ đượm ẩm sương đêm, suốt đêm lăm lăm trên tay súng đạn đã lên nòng, căng mắt trong khoảng trời đêm u tịch để nhận diện kẻ thù. Ngoài những đêm trời không mưa, nằm căng mình mặc cho muỗi đốt , kiến bò, còn có những đêm mưa mù gió lạnh nằm nghe tiếng mưa rả rích trong đêm dài tựa như những khúc nhạc não nề vô tận, quấn quanh người chiếc poncho sặc mùi nhựa mới, dựa lưng vào rậm cây bờ cỏ, nằm im không gây bất cứ một tiếng động nhỏ nào và chờ mong trời sáng để kết thúc một cuộc phục kích đêm.

Ngoài kia , mưa mỗi lúc một nặng hạt.

Hồi ức đớn đau lại chợt hiện về trong hắn hình ảnh một chuyến hành quân ngày nào. Cũng cơn mưa chiều trái mùa đã làm cho núi rừng trở nên âm u, hoang lạnh, đơn vị hắn đã vô tình tiến quân vào mật khu và rơi vào một vị trí bất lợi cho đơn vị, cuộc chiến diễn ra thật bất ngờ, chung quanh hắn là chỉ toàn là tiếng súng thượng liên dòn dã, tiếng lựu đạn xen lẫn trong tiếng mưa vang dội tạo nên thứ âm thanh hỗn tạp ghê rợn. Trong cuộc chiến đấu không cân sức đó, do mệnh lệnh của cấp trên để bảo toàn lực lượng hắn đã phải cắn răng bỏ lại xác 2 người chiến hữu tại đỉnh đồi Minh Thạnh. Nhìn xác đồng đội nằm bất động trong tầm tay với, bụi mưa nhạt nhòa trên rừng cây đầy xác lá hắn vẫn phải lặng lẽ quay lưng.
Giọt nước mắt nào cho đời trai thời chinh chiến?
Vinh dự nào cho cuộc chiến tương tàn?
Hạnh phúc nào cho máu nhuộm chinh y và cay đắng nào cho những bạn bè vĩnh viễn nằm lại nơi núi rừng hoang vắng?

Trong giây phút ấy, hắn đã nghĩ đến những người thân yêu của đồng đội đang dõi mắt mong đợi ngày về đoàn tụ, những người vợ trẻ đang ngóng đợi tin chồng, những đứa con bé bỏng đang ước ao lao vào vòng tay yêu thương của cha trong ngày về phép …. và hắn tự nhủ …. biết đâu một ngày nào đó rồi hắn cũng như các anh sẽ âm thầm nằm xuống ở một vùng núi rừng nào đó trên mảnh đất này...
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests