Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Đến Lai Khê ngày 5 tháng 4, 1972, Lữ Đoàn 1 Dù nhập cuộc ngay ngày sau. Đại Tá Lê Quang Lưỡng nhìn con đường sáu-mươi cây số trước mặt với những hiểm
nghèo cao nhất đang chờ đợi. Lê Lợi di chân lên mặt đường như thể đo độ cứng của con đường, sự chịu đựng của mặt nhựa, nhưng thật ra ông đang ước tính bao
nhiêu mìn bẩy, ổ phục kích nơi những cây số phía Bắc.. Ở Bầu Bàng, Bầu Lòng, Chơn Thành, Suối Tàu Ô. Ông nói cùng Ngọc Long (Danh hiệu truyền tin của
Trung Tá Ngọc, Lữ Đoàn Phó) và Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền, Trưởng Ban Hành Quân) : Con đường dài quá, tụi nó có đủ yếu tố thuận lợi.. Địa thế, quân số,
hỏa lực để chơi mình bất cứ lúc nào, ở đâu, nếu chúng muốn. Mình có ba tiểu đoàn, nghe thì nhiều, thực tế không bao nhiêu, mình lại phải phân tán.. Nhưng nhiệm
vụ phải thi hành khẩn cấp, mình chỉ còn có được con đường khốn nầy - Vậy mình phải đi lên nó.. Đi theo kiểu chân chim: “Thằng 8” (Tiểu Đoàn 8 ) đi trước, đóng
quân lại; “Thằng 5” theo đường cũ leo cao hơn.. “Thằng 6” đi sau hết. Pháo sẽ theo thằng 5 ở bước đầu; thằng 8 ở bước sau. Giai đoạn I, mục tiêu 1 là Bầu Bàng;
mục tiêu 2 là Chơn Thành. Đến Chơn Thành, lập thêm đầu cầu phía Bắc mình sẽ qua giai đoạn II.
Các tiểu đoàn trưởng 5, 6, 8, cùng gật đầu đồng ý, vì họ cũng không thấy có biện pháp tốt hơn kế hoạch “Bước chân chim” với ý chí “Cố Gắng” như khẩu hiệu của
binh chủng. Ngày 7 tháng 4, Tiểu Đoàn 8 vượt tuyến xuất phát, lấy con đường làm chuẩn, mở rộng đội hình ra hai bên, đến hoành độ 48 thì ngừng lại. Tiểu Đoàn 5
vượt qua mặt TĐ8, bung quân tối đa để lục soát và tránh phục kích. Mấy trăm con người chìm hẳn vào vũng xanh đậm của rừng dày đan lá. Tiểu Đoàn Trưởng
Nguyễn Chí Hiếu kẹp sát ống liên hợp vào mang tai, linh cảm nguy biến hẳn sẽ tới.. Súng nổ, thoạt đầu chỉ có hướng trước mặt, đoàn quân dừng lại, lập tức hướng
cánh trái súng dồn dập đổ xuống: Tiểu đoàn cộng quân dựa thế vào giải mô đất của đường rầy xe lửa cũ (Lộ trình Sàigòn-Lộc Ninh, đã bị bỏ phế từ đầu thập niên
60) để tấn công chia cắt đội hình nhảy dù. Chỉ còn một phương cách - Phản tấn công vào thế trận đối phương. Trận chiến kéo dài nửa ngày, cuối cùng Bắc quân
rút lui về hướng tây; thương binh nằm chật vùng rừng, ngỗn ngang trên đất. Tiểu Đoàn Trưởng Hiếu nhìn vào bản đồ: Bàu Hót, toạ độ 78051.. Còn bao nhiêu cái
bàu nữa mới tới được An Lộc? Chiến trường mới qua được một ngày.

Từng cây số đường được nhích lên khó khăn, gần đến Chơn Thành độ căng cứng chiến trường càng hiện rõ. Lê Lợi đã nghe ra “mùi” địch - Mùi của pháo, cối mà
chắc chắn sẽ mãnh liệt không kém như kỳ ở Hạ Lào - Chỉ mới đây. Năm ngoái. Đại Tá Lưỡng cau cau chiếc trán.
..Quyền nầy, cố gắng xin mấy trực thăng, ngày mai mình “thẩy” Thằng 6 lên trên Chơn Thành, xong cho lục soát về ngược lại. Đâu ai bắt buộc mình phải đi từ dưới
nầy đi lên để rơi vô phục kích của tụi nó?! Bùi Quyền (Sĩ quan thủ khoa Khóa 16 Đà Lạt), Thiếu Tá Trưởng Ban 3 (Ban Hành Quân) nhìn người chỉ huy kính
phục.. Anh nghĩ thầm: Lê Lợi hay thật, biết cách chuyển đổi thế trận để đối thủ không thể lường được.
Ngày 9, có trực thăng, Tiểu Đoàn 6 bất thần nhẩy lên phía Bắc Chơn Thành, xong quay ngược lại để đón Tiểu Đoàn 5 từ Bầu Bàng vọt lên. Đúng hai giờ chiều, hai
tiểu đoàn “bắt tay” nhau cái rụp ở Chơn Thành. Lê Lợi gật gù tự đánh giá: Tụi nó kông biết mình làm trò gì với cú nhẩy của Thằng 6.. Đi lên hay đi xuống? Thêm
một ngày tương đối bình yên đi qua. Đại Tá Lưỡng cởi đôi giày. Toàn ban tham mưu lữ đoàn bắt chước. Mỗi chiều được cởi giày là một hạnh phúc !
Thêm hai ngày đẹp đẽ đi qua, lữ đoàn đi được ba-mươi cây số về phiá bắc. Đối với một địa thế bằng phẵng, tốc độ tiến quân hiện tại kể là quá chậm, nhưng Lê Lợi
không muốn đơn vị tăng phái, Thiết Đoàn Kỵ Binh 1/5 của Đại Tá Đức mở vào quá sâu, dễ bị lún lầy, và bộ binh nhẩy dù không bảo vệ cạnh sườn được. Ngày 12,
lại theo chiến thuật “bước chân chim”: TĐ8, pháo binh Dù, và thiết kỵ nhảy bước lớn từ cực Nam (của đoàn quân) qua mặt Chơn Thành, đến ngang TĐ5 bỏ pháo
binh lại, tiếp tục “mu” lên hướng Bắc. Lê Lợi nói lời hy vọng: Nếu “Thằng 8” tới được Suối Tàu Ô, thì hy vọng tuần sau mình “đụng” nó- Nó, tức là An Lộc với
quảng cách còn lại khoảng mười cây số.

Nhưng hy vọng của ông vỡ tung như bọt nước: Tiểu Đoàn 8 vừa chạm tới “Hoành độ 72”, cách con suối khoảng hơn một cây số thì đụng. Quân cộng sản không
cần ngụy trang, chựïc sẵn ở vị trí phục kích. Lê Lợi rung tay, ép sát ống liên hợp máy truyền tin vào tai nghe các đơn vị báo cáo dồn dập: Tụi nó gom tôi và con cái
ông Đức (Thiết Đoàn Trưởng 1/5 Chiến Xa) thành vòng tròn.. Pháo dữ quá, đề-lô tụi nó theo sát đây.. Chúng bắn không phí một quả! Đào Thiện Tuyển, Tiểu Đoàn
Phó Tiểu Đoàn 8 nói nhanh giữa tiếng đạn. Sau TĐ8 là TĐ5, Nguyễn Chí Hiếu bảo cáo đỉnh đạt, điềm tỉnh: Trình Lê Lợi, tôi chưa có vị trí, pháo binh cũng thế.
Chúng pháo từ xa, cối gần hơn, và B40, 75(Ly) Không Giật chỉ cách tôi khoảng 50 thước. Dứt.
Ngày 13 tháng 4, tình hình bế tắc nghẹt thở: Tiểu Đoàn 8 bị vây kín; 5 bị cô lập; 3 Pháo Dù chưa thiết lập xong các vị trí pháo; bộ chỉ huy lữ đoàn và TĐ6 kẹt cứng
trong vòng đai chi khu Quận Chơn Thành. Như nước tràn chiếc ly rạn nức, Đại Tá Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn Trưởng 1/5 tăng phái hành quân với Lữ Đoàn 1
tử nạn trực thăng, và người em thân thiết của Lê Lợi: Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù tử trận nơi Căn Cứ Charlie, chiến trường
Kontum. Đại Tá Lưỡng có cảm giác “tê cứng” trong khoảng khắc rất rõ. Lữ Đoàn 1 trở lại Chơn Thành, giao vùng trách nhiệm cho đơn vị bạn, Sư Đoàn 21 Bộ
Binh để nhận nhiệm vụ mới - Phải vào An Lộc bằng một đường khác. Đến nhanh hơn. Khẩn thiết hơn. Bởi lúc 7 giờ 15 sáng ngày 13 “khốn nạn” nầy, xe tăng T54
cộng sản đã vào sát hầm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Toàn bộ chỉ huy mặt trận không còn ai, không còn thời gian (tính theo từng ngày, giờ một) để giải bài
toán An Lộc ngoài LêLợi Lê Quang Lưỡng và những tiểu đoàn nhảy dù thuộc quyền của ông.

Chiếc trực thăng chỉ huy ở một cao độ rờn rợn lạnh người lượn vòng thứ năm trên An Lộc. Đại Tá Lưỡng hỏi Thiếu Tá Quyền..
- Thấy cái đồi ở phía đông-nam không?
- Thấy đại tá.
- Chỗ đó.
Vâng, mình đi thêm một vòng để thấy rõ hơn đại tá.. LêLợi gật đầu đồng ý, ra dấu cho Quyền bảo phi công quay lại đường bay. Không cẩn thận không được. Bao
tính mạng quân binh tùy thuộc vào quyết định về vị trí nầy: Bãi đáp trực thăng đổ quân. Cũng là đầu mối để thực hiện kế hoạch tăng viện, giải vây An Lộc, chứng
thực cùng cả nước và thế giới sức chiến đấu của người lính Miền Nam.
.. Mình sẽ xuống cái ấp gì đây Quyền; ấp tên nghe lạ quá? Lê Lợi chỉ xuống xóm nhỏ nằm ẩn dưới màu xanh của khói rừng mờ đục và cũng do đạn pháo liên tục..
- Dạ, ấp Srok Ton Cui, chắc là tên Miên. Quyền kiểm chứng lại trên bản đồ.
.. Ừ, cái ấp đó được dãy đồi phía tây-bắc che dấu; trực thăng khi vào vùng sẽ bay sát ngọn cây từ dưới lên, tránh được “đề-lô” tụi nó quan sát. Thả ở đó mình có
bất ngờ vì nó cứ tưởng mình không bao giờ dám đỗ quân ở hướng đông (Đông Thị Xã An Lộc); nó giữ chặt phía nam vì đó là đường về của mình.. Mình nhẩy
xuống ấp đó, xong chiếm ngay mấy cái đồi chung quanh là giữ được đầu cầu. Phải hết sức cẩn thận trong líp đầu tiên thả “Thằng 6”.
Vâng đại tá. Quyền không bàn gì thêm. Lê Lợi đã “đánh hơi” chiến trường không chút sơ hở.

Ngày 14 tháng Tư, bãi đáp là một đoạn đường nhựa ở Ấp Srok Ton Cui, Đường 245 nối từ Xa Trạch vào đồn điền Quản Lợi, tây-nam An Lộc, cách nhau bởi hệ
thống đồi với cao độ 150 thước. 14 giờ 30, chiếc trực thăng đầu tiên đỗ Đại Đội 62/Tiểu Đoàn 6 Dù do Đại Úy Ngô Xuân Vinh chỉ huy xuống vùng ruộng của Ấp
Suối Rô dưới chân đồi không tên (Cao độ 176 thước) thay vì nơi Ấp Ton Cui như đã ấn định. Vinh lúng túng không biết điều quân theo hướng nào do lộn bãi đáp;
nhưng Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh và bộ chỉ huy tiểu đoàn đã xuống kịp.. Đánh lên đồi đi! Giữ lấy nó để làm an ninh bãi đáp cho mầy thằng (đại đội) xuống sau..
Đỉnh dục Vinh gấp vì đang lúc khó khăn nhất của cuộc hành quân không vận.
Để em xin trong An Lộc bắn lên trên đó mấy trái cho ăn chắc, lên khơi khơi ngán quá! Vinh vào thẳng tầng số pháo binh An Lộc xin tác xạ yểm trợ. Pháo An Lộc
đã “tiêu” gần hết, “rỏ giọt “ cho vinh đúng ba trái! Dứt tiếng nổ, Vinh xua quân lên đồi.. Địch chỉ là một toán tiền đồn nên Đại Đội 62 thanh toán trong mấy mươi
phút chóng vánh. Đỉnh đưa bộ chỉ huy lên đồi đặt tên “Đỉnh E” (Chữ thứ Sáu-Con Số 6 của tiểu đoàn). Đại Đội 61 xuống tiếp, chiếm cao độ đông-bắc của E, đặt
tên E2. Nhưng chiến trận không chỉ lànhững thắng lợi bình yên suông xẻ nầy, phát hiện được cuộc trực thăng vận, pháo cộng sản từ phía bắc, và 75 ly không giật từ
cơ sở cao-su Tân Lợi (Ba cây số đông-bắc An Lộc) cùng dập xuống E và E2. Lính Tiểu Đoàn 6 vội vàng đào hố dưới giàn lưới đạn với chiếc ba-lô là vật che chở
chiếc đầu mong manh. Tiểu đoàn trưởng Đỉnh; Nghiêm (Sĩ quan Ban 3); Cố vấn Morgan tất cả đồng bị thương vì mảnh pháo.. Đỉnh đè tay lên miếng băng, nói
nhanh với Vinh: Mầy gắng giữ thằng E nầy, tao xuống dưới kia, có bãi tải thương, và giữ bãi cho ngày mai. Mầy thâm niên coi luôn “Thằng 1” bên E2. E cũng có
tên nguyên thủy, Đồi Gió - Gió lửa và gió bão như một tên tiền định.
Ngày 15 tháng 4, bộ chỉ huy lữ đoàn, hai Tiểu Đoàn 5, và 8 xuống bãi bình an. Lê Lợi lên Đồi E họp với hai tiểu đoàn trưởng 5 và 8 Dù..
- Mình đi liền, anh Ninh (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 ), đưa thằng con vào An Lộc, nhưng khoan vào hẳn, tới ngang chỗ con suối thì đợi tôi. Tôi và Hiếu (TĐ5) vào Ấp
Sóc Gòn, mình dọn đường vào thật sạch, có gì bung ra lại, hoặc để cho đơn vị khác sau nầy vào dễ dàng hơn. Đồi Gió-An Lộc chỉ cách quảng bốn cây số qua
những sườn đồi thoai thoải của rừng cao su Phú Hòa, chuyển quân bình thường chỉ mất khoảng hơn hai giờ.. Nhưng vì đây là An Lộc, Đại Tá Lưỡng hiểu rõ độ
chật của chiến trường, và đấy cũng là chiếc bẩy đang siết chặt nên ông không thể không cẩn thận khi đến với nó. Ngày 16, để Tiểu Đoàn 6 ở lại giữ Đồi Gió, Lê
Lợi sấn hai “Thằng 5 và 8” song song tiến vào An Lộc. Tiểu Đoàn 5 chia làm hai cánh vào ấp Sóc Gòn, quân đang đà di chuyển bỗng nhiên khựng lại.. Dân ùa ra
như thác lũ băng qua con đê nhỏ.. Lính mình.. lính mình.. Toàn là đàn bà, con nít, những người đàn ông già lão. Tiểu Đoàn Trưởng Hiếu (TĐ5) dạn dày kinh
nghiệm, dặn các đại đội trưởng: “Cẩn thận, nó lùa dân đi trước để mình bị trói tay, thế nào cũng đụng ở đây. Đợi đến sát ấp là nhào vào, không cần tiền pháo yểm.”
Bìa làng đến gần.. 100, 80, 50.. thước, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù - Đơn vị Nhảy Dù Việt Nam hai lần nhảy xuống Điện Biên Phủ 1954. Tiểu đoàn đã khai sinh bốn vị
tướng lãnh cho quân lực - Và cũng là đơn vị đầu đời của Đại Tá Lê Quang Lưỡng, vị tướng tương lai của trận chiến 1972 là Người Thứ Năm - Con Số Năm định
mệnh của chính nó cũng như của Người Lính Đại Diện: Lê Lợi Lê Quang Lưỡng. Đơn vị bách thắng hôm nay đứng trước Ấp Sóc Gòn với một trạng huống kỳ dị:
Họ phải xung phong vào một mục tiêu với tư thế cá nhân chiến đấu để giữ an toàn cho người dân.. Hai lần, ba đợt.. Tiểu đoàn không sao dứt điểm mục tiêu. Cuối
cùng, khi chắc chắn những người dân còn kẹt lại đã rời ấp, Lê Lợi quyết định dội trận lửa. Hai-mươi phi tuần khu trục Việt Nam và Mỹ lần lượt thay nhau vào
vùng. Khu vực của ấp từ một dạng hình lục giác (Ấp Chiến Lược kiểu mẫu xây dựng từ đầu thập niên 60) nay không còn một hình thù nào nữa, ngỗn ngang gò
đống bốc khói điêu tàn.Nhưng so với An Lộc bên cạnh, Ấp Sóc Gòn chỉ là một lò than nhỏ.
Ngày 17, Bộ chỉ huy lữ đoàn cùng TĐ5 rời bỏ Ấp Sóc Gòn, di chuyển song song với TĐ8 theo đường Tỉnh Lộ 303 vào An Lộc. Từ suối Quản Lợi, Tiểu Đoàn 8
vào thẳng vòng đai thị xã lúc 7 giờ sáng sau khi diệt xongnhững chốt nhỏ.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Người lính Tiểu Khu Bình Long nhảy ra khỏi hố phòng thủ, anh báo
hiệu cho những ngưòi lính cùng tuyến.. Nhảy Dù! Nhảy Dù! Phải ở trong cảnh chết mới hiểu được độ xúc động khi nhìn thấy bạn đến tiếp cứu. Phải từ sự chết,
người dân mới thấy ra nỗi hân hoan sống lại khi nhìn ra vóc dáng anh lính cộng hòa giữa vũng lửa. Một Giờ, chiều ngày 17 tháng 4, 1972 Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng
Lữ Đoàn 1 Dù bước chân vào trong vòng đai An Lộc. An Lộc được cứu viện lần thứ nhất.
.. Không còn gì hết Quyền hả?
- Vâng. Kinh thật.
Hai người trao đổi câu nói ngắn. Đại Tá Lưỡng mượn chiếc xe jeep của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Quyền cầm lái chạy như bay qua gò đống, hầm hố và xác
người. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh còn hai hộp bia và chai bia lớn..
- Mời anh Lưỡng. Tốt quá. Có được anh tôi vững tâm. Ông tướng mới nhất quân lực cười tươi trên nét mặt lo âu.. Có anh, tôi mừng lắm!
Trên đường đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long của Đại Tá Trần Văn Nhật, Đại Tá Lưỡng hỏi Quyền.. Mầy biết tao vào An Lộc bằng cách nào không?
Quyền không hiểu ý câu nói, anh đưa mắt hỏi thầm.. À, tao vào bằng lưng, chân bị vọt bẻ quá, phải xoay lưng đi ngược.. Cái mặt mà sưng bằng cái lưng là không
khá. Khó lắm đó mầy. Quyền nghĩ thầm.. Lê Lợi 612 biết nói đùa quá. Cách đùa rất chính xác.

Vượt hẳn hết ý niệm từ trước, bỏ xa trí tưởng tượng đã xếp đặt, An Lộc không “hư” từng khu, không đổ từng khóm, An Lộc vỡ nát, vỡ tan tành, vỡ vụn... Không
còn sự sống trên mặt đất, không còn dấu vết người trên mặt đất, thành phố chìm dưới hầm, sâu dưới đất, càng sâu càng tốt như một ổ mối khổng lồ dưới lớp đất bùn
bề mặt. Một diện tích rộng chưa tới cây số vuông đã có lần nhận được 8000 viên đạn như trong đêm 11 rạng 12 tháng 5; 8000 viên đạn loại xuyên phá chưa kể hỏa
tiễn và cối tung hoành trên mảnh đất chỉ bằng khu vực Đa Kao. Mỗi thước vuông đất phải nhận hơn 10 trái đạn. Đạn delay (công phá, nổ chậm) xuyên xuống đất
hơn một thước mới nổ. Không cần phải trúng ngay hầm chỉ cần nổ bên cạnh cũng đủ xô ngã vách hầm. Dân và lính thụ động co rút dưới hỏa ngục đổ từ trên trời
xuống trong hơn hai tháng. Pháo không phải từng cơn, từng giờ, từng loạt, pháo đầy trời như mưa, pháo ào ạt như gió, pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng
đường như Mậu Thân, pháo không đi từng luồng như ở Hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như mưa bay giăng giăng che kín không gian của những ngày xuân
mưa bụi. Dưới bầu trời đầy những đóa hoa tử thần đó. An Lộc co quắp, vật vã, tan thành mảnh, phất phới bay như tờ giấy xé nát được tung lên giữa trời gió lớn.
Một hỏa tiễn nâng chiếc xe jeep bay bổng, khối sắt nặng 1/4 tấn vừa rơi xuống chạm mặt đất lại bị thổi ngược lên cao, nhẩy lên một mái hầm như hộp thiếc nhỏ bị
quay cuồng vì những viên đạn tinh nghịch chính xác trong phim cao bồi Mỹ..
Lê Lợi và Tố Quyên đứng im, nhìn kỹ thêm một lần trước An Lộc điêu tàn. Hai người lính không thể nói thêm một lời nào. Họ cúi thấp người, bước xuống chiếc
hầm của Đại Tá Trần Văn Nhật - Bộ chỉ huy Tiểu Khu Bình Long (20)

Không phải đợi đến lúc bước xuống căn hầm chỉ huy ngột ngạt của Tiểu Khu Bình Long, Đại Tá Lưỡng mới thấy ra sự chật chội thụ động của chiến trường, nhưng
từ khi cùng Quyền bay trực thăng trên các cao độ vùng đông-nam An Lộc, ông đã biết rất rõ độ ngặt nghèo thu hẹp của trận địa. Ông cần một nút thoát hơi cho
An Lộc, và đối với đơn vị của ông - Đồi Gió, cao độ “E” của Tiểu Đoàn 6 Dù là điểm thở quan yếu nầy. Vì từ cao điểm “E”, An Lộc có được một bàn đạp để
khai triển lên Bắc hay xuống Nam do được dãy cao độ 160, 175, 140 bảo vệ cạnh sườn phía Đông. Vì lý do nầy, Tiểu Đoàn 6 và pháo đội 105ly của Tiểu Đoàn 3
Pháo Dù giữù nhiệm vụ trấn đóng yết hầu mặt trận An Lộc là những đơn vị hứng chịu những mũi nhọn tiến công nặng nề nhất kể từ ngày bước xuống Đồi Gió.
Chúng ta theo dõi diễn tiến chiến trận của đơn vị nầy.. Khi Đại Đội 62 của Vinh “con” lên Đồi Gió chiều ngày 14 tháng Tư thì bộ chỉ huy cộng sản mặt trận Bình
Long cũng nhận ra cuộc đổ quân tăng viện, và dồn tất cả hỏa lực của vùng Bắc; Tây-Bắc An Lộc đồng đổ xuống vùng Đồi Gió, nơi có ba cao độ nổi rõ lên tạo
điểm chuẩn để pháo binh địch rơi xuống không trật một trái ra ngoài mục tiêu. Cũng bởi, phía chỉ huy cộng sản tại mặt trận đã xác định rõ qua một công điện gởi
về Trung ương cục R: “Một D (Tiểu Đoàn) Ngụy Dù chiếm Đồi Gió, gây khó khăn cho việc chiếm Bình Long, phải diệt gọn “D Ngụy” với tất cả phương tiện”(21)
Song song với chỉ thị của Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng qua việc để lại Đồi Gió bộ chỉ huy nhẹ của lữ đoàn với Lữ Đoàn Phó Trung Tá Lê Văn Ngọc, Đại
Đội 3 Trinh Sát, và pháo đội 105ly ND; Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Tiểu Đoàn Trưởng 6 Dù cũng không hoàn toàn thụ động đối với tình thế ngặt nghèo dưới cơn
mưa pháo. Đỉnh nhận định: “Nó phân tán pháo binh, tập trung hỏa lực để bắn mình.. Tại sao mình không phân tán các “đứa con” ra ngoài để tránh pháo, cũng để
phòng thủ lưu động được toàn miền? Đỉnh phối trí các “đứa con” theo thế trận: Đại Đội 63 của Đại Úy Hoàng trấn giữ ngã Ba đường 245, Bắc của Ấp Ton Cui;
Trung Úy Cao Hoàng Tuấn chỉ huy ĐĐ64 giữ phần chính của ấp. Khi các đại đội đã vào vị trí. Đỉnh tự hỏi: “Dẫu đã có một hàng rào phía đông của “E”, nhưng
không hiểu đồi có giữ được không?” Thắc mắc của Đỉnh không kéo dài lâu, phía cộng sản cho liền đáp số. Đại Đội 63 bị tấn công trước, ngay vào lúc buổi trưa
ngày 17 với một lự c lượng quân số áp đảo, bởi phía chỉ huy cộng sản cũng đã hiểu ra rằng: Ấp Ton Cui là “bãi đáp trực thăng hữu dụng để tăng viện An Lộc”;
nhưng thêm ước tính nhầm là bộ chỉ huy TĐ6 vẫn còn ở tại ấp nên họ đã sử dụng một quân số vượt trội để quyết “diệt gọn” bộ chỉ huy tiểu đoàn. Đại Đội 63 có
được vị trí phòng thủ nên giữ tuyến chắc chắn; đến chiều tối, Đại Đội 64 được lệnh kéo lên tăng cường bởi Trung Tá Đỉnh hiểu rõ thêm ý đồ của đối phương.
Quảng cách hai đại đội khoảng chừng 600 thước, nhưng Trung Úy Tuấn phải mất năm giờ mới “bắt tay” được đại đội bạn. Hai viên đại đội trưởng nói cùng nhau:
“Một mình tao nó đánh không xong, nay hai đứa sức mấy tụi mình bị lũng.” Từ An Lộc, Đại Tá Lưỡng theo dõi diễn tiến trận đánh của Tiểu Đoàn 6, và ôn gcũng
thấy ra rằng nếu TĐ6 bị bứng khỏi khu vực Đồi Gió có nghĩa, các đơn vị của lữ đoàn hoàn toàn mất hẳn với liên lạc bên ngoài - Lần tiếp vận của Lữ Đoàn 1 hoá ra
chỉ tăng cường quân số cho đạo quân bị vây ở An Lộc thêm đông đảo. Ông trầm ngâm bảo Quyền: Hỏi bên Mỹ, rồi xin ở quân đoàn phi vụ “Daisy Cutter - Bom
BLU-82B” (22) thả xuống cho tụi “Thằng Đỉnh”.. Phải có thứ nầy mới ăn thua đủ với bọn chúng!! Trái bom từ bụng chiếc phi cơ vận tải võ trang AC130 (Phi cơ
AC130 thiết trí giàn phóng lựu 20, 40ly; đại liên 7.26ly; đại bác 105ly, chuyên trách công tác yểm trợ cận phòng, thả bom dọn bãi, phá chướng ngại vật (thiên nhiên)
lớn, thả trái sáng yểm trợ tác chiến đêm) chứa 15,000 cân Anh thuốc nổ và mãnh thép rơi bằng dù chính xác vào giữa đội hình đơn vị cộng sản chấm dứt cuộc
huyết chiến rạng sáng ngày 18 giữa tiếng reo hò của binh sĩ hai đại đội 63, 64.
Ngày 18 tương đối bình yên, Trung Tá Đỉnh đưa Đại Đội 61 xuống thay thế để hai Đại Đội 63, 64 trở lại đồi với lời khen ngợi: “Làm trưởng ấp một đêm là giỏi lắm
rồi.. Lấy được hai K54 (súng ngắn của người chỉ huy) như vậy nó đánh hai toa phải là cấp tiểu đoàn, và thằng tiểu đoàn trưởng thế nào cũng đã về với bác nó!”.
Hai-mươi bốn giờ “bình an” của ngày 18 đi qua nhanh chóng để bão lửa phục thù của Bắc quân ào xuống. Đồi Gió hay cao độ 175 dần nát vụn dưới cơn pháo
cường tập liên hồi, đồng thời phá nổ tung kho đạn dã chiến của pháo đội 105ly của pháo đội/TĐ3Pháo Dù. Tiểu Đoàn Trưởng Đỉnh và cố vấn Peyton đồng bị
thương cùng với 32 quân binh.. Trong hầm chỉ huy của Đại Tá Nhật, Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng biết đã đến lúc địch quyết tâm dứt điểm Đồi Gió, khóa
cửa ngõ vào thị xã trước khi thanh toán mục tiêu chính: Cứ điểm trung tâm phòng thủ An Lộc. Ông mau mắn quyết định: Tiểu Đoàn 6 không còn nhiệm vụ giữ
pháo binh, tiểu đoàn trưởng toàn quyền điều động đơn vị để giữ thế trận. Trên Đồi Gió, Đỉnh lẫm bẩm:”Chỉ 48 giờ mất toi sáu khẩu pháo và ngàn quả đạn, thêm
một lô thương binh không tải thương.. Ở làm gì nơi cái đồi quái quỷ nầy nữa.” Dọt! Đỉnh để lại hai Đại Đội 63, 64 do Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng trấn giữ, đẩy
Vinh “con” xuống lại Ấp Ton Cui với lời dặn: “Mầy cố gắng bắt tay “Thằng 1” (ĐĐ 61) dưới kia để có bãi tản thương, tiếp tế, ở trên nầy nó pháo mờ người không
làm ăn gì được.” Từ chân đồi đến ấp chỉ khoảng 400 thước nhưng Vinh với ĐĐ62 phải mất hẳn một đêm 19 mới đi thấu. Quân binh hai bên trộn với nhau như gạo
và trấu, chỉ còn cá nhân chiến đấu qua cách sờ nón sắt để phân biệt ta hay địch! Đêm 19 chuyển qua ngày 20 với tiếng kèn thúc quân vang dội dọc Đường 245,
cùng lúc, đầu con đường, nghe rõ tiếng động cơ máy nổ của tăng T54 rầm rầm di chuyển.. Đỉnh rung tay: Bỏ mẹ, nó dứt điểm mình rồi! Tăng T54 ầm ầm tiến lên
Đồi Gió trước (ý hẳn phía cộng sản ước tính bộ chỉ huy TĐ6 vẫn còn ở trên đồi) .. Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng cùng hai đại đội trưởng Hoàng, Tuấn cùng ra
giao thông hào với khinh binh, đợi chờ những chiếc tăng lố nhố lính Bắc quân tùng thiết xông lên. Trận chiến không cân sức dần tàn vào trưa ngày 20 với kết thúc
bi thảm: Tiểu Đoàn Phó Bằng bị bắn tung một mắt; Đại Đội Trưởng Tuấn hứng ngay quả 75 ly, giã từ đời ở số tuổi 23. Bằng buông ống liên hợp máy truyền tin
thều thào bảo Hoàng khi máu chảy xuống ướt đẫm mặt: “Thay tôi, dẫn hai đại đội về Đồi 169, đem theo thương binh, chết để lại.”
Thanh toán xong Đồi Gió, quân cộng sản tập trung, điểm danh, chuyển lệnh ngay trên Đường 245 trước khi thanh toán phần còn lại của Tiểu Đoàn 6 ở Ấp Ton Cui.
Không lẽ đời mình tàn tại cái chỗ khốn nạn nầy hay sao Nghiêm? Đỉnh than nhẹ với Nghiêm, sĩ quan Ban 3 khi chờ lệnh Lê Lợi. Hơn hai-mươi bốn giờ của ngày
19 và 20 tháng Tư, Đại Tá Lưỡng không hề chợp mắt, ông ngồi cạnh máy truyền tin theo dõi và ra từng lệnh ngắn cần thiết đến Tiểu Đoàn 6 bởi ông biết rõ: Sinh
mạng đơn vị đang đụng trận ngoài kia hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi quyết định của ông. Ông cũng phải dấu đi mối đau riêng tư về tin Thiếu Tá Bằng bị thương
nặng - Bằng là một trong đại đội trưởng thân yêu của ông từ ngày mở trận Tiểu Đoàn 2 ở năm 1965 - Ông sống cùng, với bao nhiêu người đã nằm xuống, tưới máu
lên từng ngày, giờ chiến địa. Phải vô cùng khó khăn Lê Lợi mới lập lại được liên lạc với Đỉnh (do các tầng số âm thoại bị phá bởi phía Bắc quân dò được các tầng
số âm thoại đang xử dụng) qua hệ thống máy cố vấn Mỹ với trạm chuyển tiếp trên Núi Bà Đen (Tây Ninh), nơi cách An Lộc 100 cây số đường chim bay..
..Đây Lê Lợi 612.. Đỉnh chong đôi mắt mệt mỏi nghe rõ từng chữ: “Sẽ có ba line B52 đánh xuống chỗ anh, cách anh chỉ 500 thước thôi (phi cơ B52 dùng trong
công tác yểm trợ chiến thuật CAS (Close Air Support) trên lý thuyết phải có khoảng cách an toàn hai cây số), ở ba hướng, Bắc, Đông, và Nam, xong anh theo
hướng Đông-Nam đến bờ Sông Bé có trực thăng rước về.. Gắng lên, đời anh và tôi chỉ có một lần”. Ba line B52 đánh xuống như cơn địa chấn, 500 thước đối với
bom 500 cân Anh thả một loạt 24 trái (số lượng tối thiểu tùy theo cự ly bay, và giờ hoạt động trên mục tiêu) (23) quả thật không còn “khoảng cách an toàn” nào
nữa. Những chiếc B52 vừa đi qua, Đỉnh báo cáo cùng “612”: Xong rồi, xin Lê Lợi màn khói. Không có khói, thôi anh và con cái dọt đi. Tôi nghe. Đỉnh nói với hơi
thở hụt
Rừng còn nguyên độ nóng trận bom, nồng mùi lửa, khói trộn tro than bốc dày che khuất bầu trời xanh ánh trăng.. Đại úy đại đội trưởng Vinh “con” đi khi binh số 1;
Thiếu tá trưởng Ban 3, Nghiêm tiếp làm khinh binh số 2; và người thứ ba, Tiểu đoàn trưởng Đỉnh. Tiểu Đoàn 6 Dù, hậu thân của 6th B.E.P, đơn vị đầu đời của
viên sĩ quan kiệt liệt Đại Úy Đỗ Cao Trí lần đầu tiên buộc phải chấp nhận thất bại, im lìm rời khỏi chiến trường. Khởi đi từ 01 giờ 42 phút ngày 21 tháng Tư, tiểu
đoàn bị phục kích thêm hai lần nữa, bởi đi theo suối thì gặp các căn cứ cộng sản; đi trên cao độ thì bị pháo.. 5 Giờ chiều tại trãng trống để đợi trực thăng đến bốc
đi, đơn vị lại bị phục kích thêm một lần thứ ba - Lê Lợi biết rõ những điều nầy nhưng ông chấp nhận - Bởi chỉ tìm được đường sống trong ngã chết, vì hướng Đông-
Nam là an toàn khu nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của mặt trận Bình Long, nên phía cộng sản không thể nào nghĩ ra rằng: Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang lưỡng đã
chọn làm hướng lui quân cho Tiểu Đoàn 6 khi ông đã dội B52 xuống những hướng đối chiếu.

Tan hàng ngày 21 tháng Tư, nhưng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù với châm ngôn của binh chủng đã thực hiện và hoàn tất sự cố gắng qua từng người lính - Phần đông lại
là tân binh, quân phạm được ân xá cho trở về quân đội trong thời buổi nước nhà nguy biến. Với quân số 412 người vừa được bổ sung sau thiệt hại Đồi Gió mà3/4 là
tân binh.. Có cậu lính trẻ vốn là Nhân Dân Tự Vệ tập bắn XM16 cặp hông như bắn súng Thompson thời Thế chiến thứ Hai. Nhưng “tập bắn” cũng chỉ là cách nói
để tạm yên lòng vì một tháng nơi Căn Cứ Lai Khê (Bộ tư lệnh tiền phương của Quân Đoàn III), thành phần tân binh khác lạ kia của Tiểu Đoàn 6 chỉ được huấn
luyện kỹ thuật tác chiến, tác xạ bằng.. lý thuyết suông! Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Đỉnh thúc dục các đại đội trưởng..Các ông cố gắng dạy tụi nó được phút
nào hay phút đó.. Tập tháo ráp súng, tập tác xạ, nhận thủ lệnh khi giữ đội hình khi di chuyển.. Tập riết bằng miệng rồi cũng nên quen chứ bộ. Mình cố gắng dạy
đám lính mới nầy để đánh phục hận vụ Đồi Gió hôm tháng Tư. Không có gì thay đổi thì đầu tháng Sáu mình go! Trước sau gì tiểu đoàn mình cũng phải trở lại An
Lộc.
Ngày 4 tháng Sáu, 1972 như một câu chuyện thần kỳ về lần chuyển hóa những con người bình thường bỗng nhiên hóa thân nên những chiến sĩ lẫm liệt. Với đám
tân binh chưa được một lần tác xạ đạn thật, Tiểu Đoàn 6 Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đỉnh với giàn đại đội trưởng, trung đội trưởng sống sót từ trận Đồi
Gió như được thúc dục bởi một nguồn lực muốn chứng tỏ quyết tâm lập lại danh dự người lính, nên từ khi xuống bãi đáp Bàu Đồng Lô, tiểu đoàn dưới sự dẫn đầu
của Lộc, Đại Đội Trưởng Đại Đội 61 đã đi như ánh chớp qua các mục tiêu..Ấp Đức Vinh1, Đức Vinh 2, cách An Lộc đúng năm cây số đường thẳng. Để hiện
thực trong trận chiến cuối cùng ngày 6 tháng 6, 1972.. Hai Đại Đội 61, 62 rời khỏi khu đóng quân , xếp hàng hai bên ven đường. Gần hai trăm con người lẫn nhanh
vào kku rừng phía tây..Nhào vào..Nhào vào sâu hơn nữa.. Hai đại đội trưởng hét vang thúc lính tấn công theo hướng Tây-Đông. Đại đội 62 của Vinh bảo về bộ chỉ
huy tiểu đoàn bố trí qua theo mặt Bắc- Hướng An Lộc. Khi tất cả đã ở yên trên các vị trí chỉ định. Tiểu Đoàn Trưởng Đỉnh hạ lệnh lần cuối: 63 bọc xuống phía
Nam, không cho tụi nó chạy lui; 61, 62, 64 dánh từ Tây sang Đông, bao giờ đến đường rầy thì ngừng lại đợi lệnh. Dàn hàng ngang và đánh thật nhanh. Nhanh đến
mức có gã lính mới lần đầu tiên thấy lính Miền Bắc quá gầy yếu, nhỏ bé.. Hắn ta nhào vào quên cả tác xạ! Pháo địch bắn cản đổ xuống như trút. Mặc! Đỉnh thúc
tiểu đoàn ào tới theo cách bộ đội cộng sản tránh bom “bám chặt thắt lưng kẻ thù mà đánh”. Bị thương ném lui ra đằng sau để Tiểu Đoàn Phó Tùng (đã bị thương
khi xuống bãi trực thăng ngày 4) thâu nhặt, bảo vệ.. Ào tới ! Ào tới! Đánh kiểu “Blích -kiết” của tụi Đức, bảo lính vừa đi vừa bắn.. Đừng cho tuị nó ngóc đầu!!
Chiến trận chấm dứt sau năm giờ tiến quân thần tốc với kết quả, tiểu đoàn 1 chết, 63 bị thương đổi lại 90% địch chết tại hầm. Và cuối cùng ngày 8 tháng 6.. Cứ
theo chiến thau65t như ngày hôm kia..Xung phong! Xung phong! Tiếng hét, đạn nổ.. Lựu đạn M26; phóng lựu M79; hoả tiễn M72 chêm vào với đạn súng tay như
một chuỗi pháo liền bất tận.. Những cán binh cộng sản còn sống thuộc hai đại đội C7, C8 bỏ giao thông hào, từng cặp một (bị xiềng vào nhau bởi một dây xích - để
không cho phép bỏ chạy khi tac chiến) chạy tản ra đồng trống.. Bỏ ba-lô.. Bỏ ba-lô đuổi theo.. Đuổi theo đừng cho thằng nào chạy thoát!! Lính tân binh thâm niên
công vụ 16 ngày lần đầu đụng trậân không biết sợ, cặp súng vào hông đuổi theo đám cán binh thất thế.. Hai đại đội bị “dứt nọc” sau 2giờ12 phút chiến trận với một
tù binh độc nhất sống sót còn lại: Tù binh Nguyễn Văn Tiền.
Thừa thắng xông lên, Vinh trở quân đánh vào mục tiêu hướng Bắc - Mục tiêu chính nằm ở ngã tư đường vào đồn điền Xa Cam - Cửa ngỏ An Lộc. Bộ phận cộng
sản bố trí hướng về phía Bắc (hướng của Tiểu Đoàn 8 Dù) xây lưng về hướng tiến quân của đại đội của Vinh.. Tất cả để cò vào vị trí “auto”.. Bắn! Bắn! Những
tấm lưng thịt người nẩy lên bừng bực..Đạn đi qua thịt người, găm vào đất. Đất vốn màu đỏ sậm trở nên đỏ tươi. Đỏ gắt. Đỏ ướt. Đơn vị cộng sản chạy dạt về
hướng tây. Gặp Đại Đội 63 của Thái Tường. Lính Tiểu Đoàn 8 cách nơi đụng trận khoảng 800 thước, đứng dậy khỏi hố chiến đấu hoan hô lính Tiểu Đoàn 6 dứt
điểm, diệt gọn mục tiêu.
17 giờ 45 Vinh “con” bắt tay Hồng Ni (TĐ8 ) cách tấm bảng “Đồn Điền Xa Cam” 100 thước. Trước mặt hai người bạn (cùng Khóa 20 Thủ Đức) An Lộc được
buổi chiều bình yên bốc khói bếp nấu cơm.
Trên trực thăng bay đến An Lộc, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 (Chỉ huy tổng quát cuộc hành quân giải tỏa An Lộc), Nguyên Tư Lệnh Phó
Sư Đoàn Dù, cũng là Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù có câu trả lời với Lê Lợi..
- Hoàn Mỹ (Chuẩn Tướng Hậu) xem con cái tôi đánh có đẹp không?
- Không, không thể nói chúng nó đánh đẹp, mà phải nói là quá đẹp. Cũng không được nữa, phải nói lỗi lạc và phi thường. Đại Tá Lưỡng vốn quen biết Chuẩn
Tướng Hậu từ rất lâu, ngày cùng ở Tiểu Đoàn 5.. Nhưng chưa bao giờ nghe ông Hậu nói một câu với những tỉnh từ nồng nhiệt như thế.
Nhưng theo ý của người viết đoạn ký nầy, món quà “đẹp” nhất là cảnh người lính nhảy dù đem cơm khô, trái cây hộp; bác sĩ, y tá ra trực hai bên Đường 13 để
chửa bệnh, biếu phần “cơm dằn đường” cho đồng bào. “Cơm dằn đường” - Ai sinh ra loại cơm đau đớn tội nghiệp như thế hở trời?!(24)

4. Trận chiến tàn cuộc
Suốt năm 1972, Lữ Đoàn 1 trong khuôn khổ Sư Đoàn Dù là một trong những đơn vị của toàn quân lực đã có mặt trên toàn ba vùng đất lửa: Trị-Thiên; Tân Cảnh,
KonTum, và nhất là chiến công vừa kể trên trong kỳ tích giải cứu, phá vòng vây của địch tại An Lộc. Riêng về vùng Trị Thiên, kể từ tháng 5, 1972 sau khi Tướng
Ngô Quang Trưởng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I, toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù được chỉ định tăng phái hành quân dài hạn tại Vùng I, là đại đơn vị trách nhiệm
toàn vùng Tây-Bắc mặt trận Trị-Thiên với vùng hành quân bao gồm từ tây Quốc Lộ I vào Trường Sơn trấn giữ mặt núi, đối diện với những sư đoàn chính quy
cộng sản trên cao độ Động Ông Đô, đỉnh cao nhất của Trường Sơn, trấn giữ thế trận hai sườn đông- tây để những đơn vị bạn, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị dựng nên kỳ tích lịch sử: Dựng Cờ Vàng lên Cổ Thành Quảng Trị, 14 tháng 9,
1972.

Sau Hiệp Định Paris, 1973 Sư Đoàn Nhảy Dù là lực lượng chiến lược chống giữ cả hai mặt Bắc và Nam đèo Hải Vân. Vùng trách nhiệm kéo dài qua ba tỉnh
Quảng Trị-Thừa Thiên-Quảng Nam, chịu áp lực từ phía cộng sản có thể tập trung quân dứt điểm toàn vùng theo chiến thuật Đông-Tây: Cắt Thừa Thiên (Bắc Hải
Vân) theo chiều ngang của Sông Bồ (An Lỗ, Quảng Điền, Thừa Thiên); hoặc từ Quận Thường Đức đổ xuống đồng bằng Quảng Nam (Trận Mật Khu Đỗ Xá, 1964
kể bên trên là hiện thực bước đầu của ý niệm chiến lược nầy của phía cộng sản - Không phải chỉ riêng đối với giai đoạn chiến tranh 1960-1975, mà xuyên suốt
trong diễn tiến chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) để hoàn tất sự chia cắt Vùng I Chiến Thuật theo chiều ngang Nam Hải Vân. Với tình thế chống
địch cả hai đầu, sư đoàn nay đặt dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Thêm một lần Tướng Quân phải tìm cách thế để đơn vị tồn tại, chiến
đấu, và vượt thắng bằng khả năng quân sự độc đáo, bản lãnh riêng. Do hạn chế bởi các điều khoản Hiệp Định Paris: Không được tăng quân số và áp dụng biện
pháp thay thế “Một Đổi Một” (Chương II-Điều 7); cùng sự cắt giảm viện trợ Mỹ (Điển hình từ 1Tỷ47 rút xuống còn 1Tỷ, xong 700 Triệu, để kết thúc với 654Triệu
cho tài khóa 1975) (25) - Tướng Lưỡng cùng ban tham mưu sư đoàn sáng tạo nên kế hoạch: Tạo dựng những “Đại Đội Đa Năng” với quân số cơ hữu của sư
đoàn bằng cách giảm thiểu đến mức tối đa các thành phần tham mưu, yểm trợ, kể cả trung tâm huấn luyện. Thế nên, cuối năm 1973, sư đoàn đã có đến 12 Đại
Đội Đa Năng làm thành phần trừ bị cho chính mình - 12 đại đội hay là 3 tiểu đoàn - Tức là một lữ đoàn trừ bị. Với cách biên chế, tổ chức mới mẻ nầy, sư đoàn
hoàn tất được một lần hai nhiệm vụ: Bảo vệ mặt Bắc Hải Vân với Lữ Đoàn II và một Tiểu Đoàn Đa Năng; thành phần còn lại của sư đoàn chiếm đóng, bảo vệ
mặt Nam Hải Vân qua cuộc tiến công từ Đại Lộc lên Cao Điểm 1062 - Chế ngự toàn vùng Thường Đức, vùng núi cực tây Quảng Nam-Đà Nẵng. Quận Thường
Đức cách Đà Nẵng 50 cây số đường chim bay, với những cao điểm 1235 và 1062 kiểm soát được toàn vùng cận sơn và đồng bằng. Nhưng không chỉ như thế -
Nếu chiếm giữ được Thường Đức, lực lượng cộng sản sẽ mở một được một đường hành lang thông suốt chạy từ Bắc Kontum (vùng Dak To, Dak Pek, Dak Nhét
đã chiếm được từ tháng 4/1972) xuống vùng bình nguyên (khỏi phải dùng đường từ Kontum, Pleiku ở phía Nam, xa xôi, với quá nhiều trở ngại); chưa hết con
đường nầy còn nối với mặt trận Trị-Thiên (Bắc Hải Vân) mà không cần băng qua đất Lào. Vùng Cao Độ 1062 do đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội Miền Bắc
trấn giữ: Sư Đoàn 304 Điện Biên, và SĐ2CS tăng cường từ Mặt Trận B3 (Tây Nguyên). Trận chiến trên các cao điểm chung quanh 1062 bắt đầu từ ngày 8 tháng
8/ 1974 chấm dứt vào cuộc phản công cuối cùng ngày 8 tháng 11 cùng năm do bảy Tiểu Đoàn Nhảy Dù 1, 2, 3, 6, 7, 8, 9 trong số chín tiểu đoàn có mặt tại vùng
hành quân đã liên tục tác chiến, đánh ngày, đêm, cận chiến, du kích, đột kích, trận địa chiến.. Có thể nói đây là chiến trận lớn nhất sau cái gọi là “Hiệp định tái lập
hòa bình tại Việt Nam”. Người lính nhảy dù trả giá cho ngọn đồi và hòa bình với sinh mạng 500 chiến sĩ; 2000 người bị thương trận.
Cuộc huyết chiến tại cao điểm 1062 tạm kết thúc đợt giao tranh thứ nhất (cuối tháng 8/ 1974) với 200 xác bộ đội cộng sản (kiểm kê sơ khởi); 40 tù binh bị bắt tại
trận địa. Trương Công Phê, Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 304 (còn có danh hiệu “Sư Đoàn Thép”) có kết luận: “Sư Dù là một sư mạnh”. Nhưng phần thưởng lớn lao
nhất, hãnh diện là lời của đồng bào Đại Lộc: “Nhảy Dù tới bà con ơi! Nhảy Dù tới! Chúng ta không chạy nữa, quay lại làm ăn như cũ, đừng sợ gì nữa!” (26) Phải,
đồng bào đã từng nói như thế ở Huế, Mậu Thân 1968; và mới đây, năm 1972 ở An Lộc, Bình Long, và tiếp theo ở Quảng Trị chỉ trong khoảng tháng 4, tháng 5.


Ngày 1/1/1975, một lần nữa để đáp ứng tình hình chiến trường càng ngày càng trở nên khốc liệt khó khăn, dưới quyền tổ chức và quyết định của Tướng Lưỡng, Sư
Đoàn Nhảy Dù thành lập Lữ Đoàn IV Nhảy Dù, và tiếp theo sẽ là Lữ Đoàn V Nhảy Dù. Lữ Đoàn IV Nhảy Dù do Trung Tá Lê Minh Ngọc giữ chức lữ đoàn
trưởng, gồm:
- Tiểu Đoàn 12ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm.
- Tiểu Đoàn 14ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu tá Nguyễn Đức Tâm.
- Tiểu Đoàn15ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Phú.
- Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND, Tiểu Đoàn Trưởng Thiếu Tá Đặng Hữu Minh.
- Đại Đội 4 Trinh Sát do Trung Úy Trần Chí Mỹ giữ chức đại đội trưởng đang hình thành.
Riêng kế hoạch phát triển thêm Lữ Đoàn V Nhảy Dù đang được hoàn chỉnh, bởi chưa có lữ đoàn trưởng, chỉ thành lập được ba Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn gồm có
các Tiểu Đoàn 16, 17 và 18 với dự tính: Tiểu Đoàn16ø do Trung Tá Phạm Kim Bằng làm Tiểu Đoàn Trưởng. Tiểu Đoàn 17ø, Thiếu Tá Lê Hữu Chí; Tiểu Đoàn
18ø do Thiếu Tá Hồng Thu dự trù đảm nhiệm. Tiểu Đoàn 5 Pháo Binh; Đại Đội 5 Trinh Sát chưa được thành hình. (27)

Sau ngày 10, tháng 3, 1975 khi mặt trận Vùng II suy sụp trầm trọng bởi lần di tản bộ tư lệnh cùng toàn thể các đơn vị khỏi Tây Nguyên bắt đầu từ ngày 17 tháng 3,
1975. Tình hình quân sự Miền Nam trở nên cầm đầu đã mất hết khả năng kiểm soát, lãnh đạo đất nước. Riêng Bộ Tổng Tham Mưu, quyền điều hành, quyết định
nằm trong tay một viên tướng chuyên ngành tiếp vận, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân - Một trong những nhân tố chính
của tổ chức siêu tài chánh-kỹ nghệ “Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội”với đồng tiền máu của mỗi người lính góp vào trong những năm 1968-1972. Trong tình huống cực kỳ
khó khăn, nguy biến kia, Sư Đoàn Nhảy Dù lại được lệnh rời bỏ Đà Nẵng, và bị xé ra từng mảnh nhỏ, dàn mỏng trên những trận địa không chiều sâu, hở cạnh
sườn, thiếu yểm trợ không quân, thậm chí đến không có pháo binh diện địa hỏa yểm tiếp cận. Cuối cùng không thành phần trừ bị, tiếp ứng (28 ).. Tất cả để thực
hiện một sách lược gọi là “Đầu bé - Đít to” của chính đương kim Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. “Đầu bé”ù là vùng Quảng Trị, Thừa Thiên,
vùng đông dân cư Bình Định, Khánh Hòa; và “Đít to” tức là vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ. Nhưng thực tế diễn tiến
chiến sự đã cho thấy: Không có một kế hoạch nào tồn tại được, bởi đây là một kế hoạch đặt trên sự lừa dối, và bất lực trước tình thế - Cũng như không một thân
thể nào tồn tại được khi đã bị bẻ gẩy sống lưng - Thủ phủ vùng Tây Nguyên, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thị Xã Pleiku hoàn toàn bị bỏ ngỏ, rơi vào tay
cộng sản không tiếng súng kể từ ngày 17 tháng 3, 1975. Trước tình trạng cực độ vô lý: “Chưa đánh đã có lệnh tháo chạy” đã có lúc, Tướng Quân Lê Quang
Lưỡng ngỏ ý thẳng với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: Hãy để Sư Đoàn Dù về Sài Gòn (đang tăng phái hành quân tại Vùng I của Tướng Trưởng) lật đổ con
người đã không còn năng lực lãnh đạo, và càng ngày càng lộ rõ ý đồ phá vỡ sức chiến đấu của quân lực điển hình qua việc xé lẻ hai Sư Đoàn Nhảy Dù, TQLC;
Lữ Đoàn Thiết Kỵ, các Liên Đoàn Biệt Động, Biệt Kích.. Những lực lượng xung kích, tổng trừ bị quốc gia.(28Bis) Điển hình Lữ Đoàn 147/Sư Đoàn TQLC vừa bị
bức tử nơi bến phà Thuận An chưa xong việc đếm xác, đến lượt hai Lữ Đoàn 258 và 369 vô cớ rút từ Huế vào Đà Nẵng, xong từ Đà Nẵng vào Sài Gòn.. Tàu thủy
đến ngang NhaTrang lại được lệnh trở lui tái chiếm Đà Nẵng!! Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù không còn được quyền ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc, bởi tất cả
lệnh điều động (cấp tiểu đoàn) chỉ được phát xuất từ Dinh Độc Lập.
Rời Huế (cuối tháng 3) trong hoàn cảnh hỗn loạn của cuộc rút quân vô cùng phi lý, và vô kế hoạch của người nắm giữ vận mệnh quốc gia, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu; lại tiếp nhận lệnh điều động trực tiếp từ “Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nguyễn Văn Thiệu”, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Văn
Phát gồm các Tiểu Đoàn 2 (Thiếu Tá Trần Công Hạnh); Tiểu Đoàn 5 (Trung Tá Bùi Quyền): Tiểu Đoàn 6 (Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành - Khác với Nguyễn Văn
“Thành Râu”, Tiểu Đoàn Trưởng 11). Gọi là ba tiểu đoàn nhưng thực sự toàn bộ các đơn vị phải phân tán dọc trục lộ Quốc Lộ 21 thành những chốt nhỏ cấp tiểu
đội để có thể liên hoàn yểm trợ nhau trong tình huống đơn độc chiến đấu. Đối lại phía cộng sản, sau khi chiếm xong toàn bộ Ban Mê Thuộc kể từ 15 tháng 3, và
không cần phải củng cố vị trí vừa chiếm xong (rút kinh nghiệm của Mậu Thân 1968; Tổng Công Kích 1972) hai Sư Đoàn 320, và F10 đồng lần rời bỏ Ban Mê
Thuộc, bôn tập theo Quốc Lộ 21 về phía bình nguyên duyên hải. Hai Sư Đoàn F10 và 325 với một lực lượng tấn công từ Miền Bắc vào gồm: 2376 xe các loại, trong
đó có 100 xe tăng; thiết giáp; gần 185 pháo lớn từ 85 đến 155 ly; hơn 100 khẩu cao xạ.. (29) Số lượng quân trang, vũ khí nầy chỉ riêng cho mặt trận Ban Mê
Thuộc, chứ thật sự để xâm lăng Miền Nam, quân đội cộng sản Hà nội đã chuyển vào Miền Nam từ 1974 đến tháng Tư/1975 một tổng số 823,146 tấn quân dụng vũ
khí “gấp 1.6” số lượng tiếp vận trong 13 năm từ 1960 đến 1973!! Về quân số, chỉ hai năm 1973-74 đã nhập ngũ thêm 150.000 tân binh để gởi vào Nam thay thế
68,000 quân thiệt hại, với 8000 cán bộ chuyên môn các ngành (30). Tóm lại 16 sư đoàn bộ binh của miền Bắc kéo vào không thiếu một đơn vị mà đích thân
Kissinger đã phải kêu lên ngao ngán sau khi nghe báo cáo từ tướng Weyand sau lần qua lượng định tình hình Việt Nam (28/3 đến 4 tháng /4) tại buổi họp tại Phòng
Bầu Dục tòa Bạch Ốc với hầu hết quan chức cao cấp của chính phủ Mỹ: “Hiện tại, toàn thể quân lực Bắc Việt Nam đã ở Miền Nam... Chỉ cần một Lữ Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (Mỹ) là đủ chiếm đóng hết Miền Bắc. Rõ ràng Hiệp Định (tái lập) Hòa Bình Paris đã bị vi phạm trầm trọng” (31) Phải có học vị tiến sĩ
(xuất thân ở Đại Học Harvard), với chức vụ ngoại trưởng Liên Bang Bắc Mỹ mới biết được điều đơn giản nầy thì quả tình con người được tiếng là tài giỏi, thông
minh nầy cũng không “khá” hơn bao nhiêu người tầm thường khác. Ba Tiểu Đoàn 2, 5, 6 không yểm trợ, không trừ bị tiếp ứng bị lực lượng hai sư đoàn cộng sản
tràn qua như một điều tất nhiên sau ngày Nha Trang bỏ ngỏ, 31 tháng 3. Cũng là ngày Huấn Khu Dục Mỹ (gồm các Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động; Pháo
Binh, Bộ Binh) tự tan rã.

Phòng tuyến của chiến lược “Đầu bé- Đít to” kia lại thêm lần điều chỉnh, củng cố với một “cái đầu” tại Phan Rang (quê nội của Nguyễn Văn Thiệu). Vùng Phan
Rang với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân không hề là vị trí phòng thủ hữu hiệu của bất cứ hình thái chiến tranh nào. Bởi đối phương có thể hành quân tiếp
cận đến Phan Rang bằng nhiều hướng: Quốc Lộ I (Hướng Bắc từ Cam Ranh, Nha Trang đánh vào); Quốc Lộ 11 từ Đà Lạt đánh xuống từ phía Tây-Bắc; từ bờ
biển đổ bộ vào (hướng Đông); hoặc đánh vòng từ hướng Nam lên theo Quốc Lộ I. Thành phần binh lính trách nhiệm phòng thủ Phan Rang vốn là những đơn vị đã
bị thiệt hại lớn ở mặt trận Vùng I (Trung Đoàn 4, 5/SĐ2BB); các Tiểu Đoàn 31, 36, 52 Biệt Động đã mất sức do đã phải tác chiến liên tục từ mặt trận Chơn Thành
(Vùng III); Về phía nhảy dù, Lữ Đoàn 2 vừa bị thiệt hại ở mặt trận Khánh Dương, nay được thay thế bởi Lữ Đoàn 3 với Đại Tá Nguyễn Thu Lương Lữ Đoàn
Trưởng; Trung Tá Trần Văn Sơn Lữ Đoàn Phó, chỉ huy ba Tiểu Đoàn 3, 7, 11. Toàn thể đạo quân nầy phải chiến đấu tự tồn, không tiếp tế, không yểm trợ đối mặt
với đại quân của Quân Đoàn 2 Bắc Việt do Trung Tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, gồm hai đơn vị chủ lực SĐ325 và SĐ3 của Tây Nguyên (vẫn tiếp tục làm thành
phần mũi nhọn tấn công mãi cho đến mặt trận Long Khánh (cuối tháng 4) sau nầy), ngoài ra còn có Đoàn 968 vừa thành lập từ Lào bôn tập về), cùng lực lượng
chủ lực, du kích địa phương. Với tương quan lực lượng quá chênh lệch như thế, nên dù người lính cộng hòa có nỗ lực chiến đấu kiên trì bao nhiêu cũng không thể
giữ vững các vị trí chiến thuật dọc Quốc Lộ I, có thể ngăn cản đà tiến quân của phía cộng sản (chưa kể đến tình trạng suy sụp, đỗ vỡ tinh thần do lo lắng về gia
đình của những đơn vị di chuyển từ Miền Trung vào). Ngày 16/4 toàn bộ cấp chỉ huy cao cấp của mặt trận gồm Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn Tướng
Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương, và nhiều liên đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng đều bị bắt.
Trong tình hình ngặt nghèo dồn dập diễn ra, “Đích Thân Lê Lợi 612” đúng danh hiệu “Đích Thân” luôn có mặt cùng mỗi người lính trong những giờ phút gay go
nhất. Tướng Quân bay ra Phan Rang, trên chiến địa Khánh Dương đầu tháng 4 để trực tiếp chỉ huy các phi vụ “móc” con cái “Thằng Quyền (Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 5); Thằng Hạnh (TĐ2); Thằng Thành (TĐ6).. Tướng Quân tiếp nặng lòng đau đớn cùng lần lui quân bi phẫn của Lữ Đoàn 2 từ phi trường Phan Rang
với kết quả, TĐ11ND mất liên lạc toàn bộ, Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành, cùng một số chiến sĩ trung kiên đồng lọt vào tay địch! Trong trận chiến tuyệt vọng này,
Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó, và nhiều chiến hữu khác của đoàn quân nhảy dù đồng bị hy sinh với niềm uất hận không thể đền bù. Chỉ mỗi TĐ3Dù do
Trung Tá Lã Quý Trang chỉ huy còn 100 chiến sĩ được trực thăng được trực thăng bốc từ bãi bể nam Thị Xã Ninh Chữ, Phan Thiết. Riêng TĐ7ND của Trung Tá
Nguyễn Lô bảo toàn quân số do được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu rút ra khỏi Phan Rang trước khi trận đánh khai diễn.

Lữ Đoàn I ND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Lê Hồng Lữ Đoàn Phó gồm ba Tiểu Đoàn 1, 8, 9NDø, Đại Đội 1 Trinh Sát, Tiểu Đoàn
3 Pháo Binh, Đại Đội 1 Quân Y, Đại Đội 1 Công Binh tăng phái Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ huy tổng quát, trấn giữ
Quận Lỵ Xuân Lộc, chận đứng bước tiến từ hướng bắc của quân đoàn cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn. Lươc lượng diện địa phòng thủ Long Khánh LĐ1ND đã làm
tròn trách nhiệm giao phó, không để cho địch quân tiến thêm được một tấc đất, buộc đoàn quân “Sinh Bắc - Tử Nam” của dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại
Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải trả một giá đắt với 6000 xác chết; 37 chiến xa bị phá hũy. Riêng đối với một đơn vị cấp lữ đoàn, với thiệt hại nghiêm trọng
phải chịu đựng sau hơn gần hai tuần chiến đấu liên tục (10/4-21/4) chống chọi nhiều đợt tấn công của Quân Đoàn 4 CS gồm ba sư đoàn bộ binh 6, 7, 431 được hai
lữ đoàn xe tăng 203, 204 tăng cường hành quân, dưới yểm trợ của đại pháo tầm xa, có các đơn vị đặc công đánh xuyên phá, mở cửa.. Cuối cùng Lữ Đoàn 1 Dù lại
phải đảm nhận thên nhiệm vụ cuối cùng: Bảo vệ tập hậu đoàn quân rút lui gồm các thành phần của Sư Đoàn 18 Bộâ Binh, Tiểu Khu Long Khánh, các thành phần
pháo binh cơ hữu và diện địa, lại thêm hàng chục ngàn dân chúng đi theo.. Nên bất chấp ngăn cản của phủ tổng thống do đích thân Tổng Thống Thiệu ra lệnh; bộ
Tổng tham mưu với Tổng Tham Mưu Trưởng Khuyên, Đại Tá Lưỡng điều động trực tiếp, xử dụng TĐ 7 Dù và hai chi đoàn chiến xa M113/ Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi làm thành phần tiếp cứu. Lực lượng hỗn hợp nầy xuất phát từ Phước Tuy (Bà Rịa) đi ngược lên Tỉnh Lộ 2, đón thành phần
triệt thoái của Sư Đoàn 18, Tiểu Khu Long Khánh, và Lữ Đoàn I Dù về Bà Rịa an toàn. Nhưng cuối cùng, đêm 28 rạng ngày 29/4/75, quân CSBV cường tập tấn
công vào lực lượng Nhảy Dù ở Láng Cạn, Bà Rịa, lính các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 đánh trả quyết liệt, liên hoàn bảo vệ đơn vị đến Giờ Thứ 25 mới rút xuống Vũng Tàu
để lui về Gò Công, từ đây di tản ra hạm đội. Có thể nói Lữ Đoàn 1 ND là đơn vị có quân số đông đảo nhất đã di tản ra khỏi nước.
Được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, Lữ Đoàn 2 Dù sau khi rút khỏi Phan Rang về Sàigòn, đặt thuộc quyền điều động của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh
QĐIII/QKIII. Tướng Toàn đã tạm thời chỉ định Trung Tá Nguyễn Lô, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ7ND kiêm nhiệm chức vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ2ND trách nhiệm,
điều động hai Tiểu Đoàn 5 và 7, chận đứng địch trên tuyến Biên Hòa - Xa lộ Đại Hàn - Sàigòn do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ
Binh/Lực Lượng Xung Kích/QĐIII (LĐ3KB/LLXKQĐIII) chỉ huy tổng quát. Nhiệm vụ chính của LĐ2ND là tiến quân bên phải đường sắt hướng về Sàigòn; đến
ngoại ô Bắc Sàigòn, co cụm lại, bố trí dọc xa lộ Biên Hòa, chặn địch vào thủ đô. Sau 30 tháng Tư, 1975 người đi qua vùng nầy vẫn còn thấy những xác Lính Nhảy
Dù chết trong trận chiến giờ cuối cùng bảo vệ Miền Nam.

Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Trần Đăng Khôi làm Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Bùi Quyền Lữ Đoàn Phó với ba Tiểu Đoàn 2, 5, 6 Nhảy Dù từ Phan Rang
được rút về đóng ở trại Hoàng Hoa Thám, Tân Sơn Nhất. Đây là đơn vị đã đánh trận cuối, vô cùng ác liệt ngay trong lòng Thủ Đô Sài Gòn-Chợ Lớn, tiêu diệt
nhiều chiến xa T54, T59, và PT76 của địch từ Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả, Trường Đua Phú Thọ, và Chợ Lớn v.v.. Tới giờ phút chót của buổi sáng
30 tháng Tư, các chiến sĩ LĐ3ND vẫn vững tay súng giữ vị trí được giao phó, đơn vị chỉ buông vũ khí sau khi Dương Văn Minh nghe lệnh đầu hàng. Tất cả cấp chỉ
huy của lữ đoàn, và các tiểu đoàn đều cùng ở lại cùng anh em binh sĩ, chịu hoàn cảnh tù tội khắc ngiệt nơi Miền Bắc, không người nào dưới mười năm đày ãi, khổ
sai: Các Trung Tá Phạm Kim Bằng, Trần Đăng Khôi, Nguyễn Lô, Bùi Quyền.. Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Đức Tâm, Ngô Xuân Vinh..
Cấp đại úy, trung úy không thể kể đủ vì quá đông. Điều đáng hãnh diện là hầu hết sĩ quan nhảy dù đồng chứng tỏ bản lĩnh kiên cường của Người Lính Mũ Đỏ trong
hoàn cảnh khắc nghiệt của trại tù làm đối phương dẫu đang ở vị thế kẻ thắng trận cũng phải kiêng dè, kính nể. Trường hợp của các Trung Tá Phạm Kim Bằng,
Nguyễn Lô; Thiếu Tá Trần Công Hạnh là những điển hình rõ nét nhất.
Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tân lập do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng, với ba Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 Nhảy Dù, có đầy đủ quân số tác chiến và đã đưa
vào hoạt động thật sự ở Đà Nẵng, Quân Đoàn I/Quân Khu I. Được rút về Sài Gòn giữa tháng 2/75, biệt phái cho Biệt Khu Thủ Đô để ngăn chận CSBV ở cửa ngõ
Thủ Đô Sài Gòn qua cư xá Thanh Đa, xa lộ Biên Hòa, cầu Tân Cảng.
Last edited by khieulong on Mon Nov 20, 2017 3:30 am, edited 1 time in total.
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Vào thời điểm Sài Gòn bắt đầu rơi vào tình trạng hỗn loạn, chấm dứt cuộc chiến uất hận, Người Lính Nhảy Dù cùng chiến hữu Liên Đoàn 81 Biệt Kích, Lữ Đoàn
Thiết Kỵ.. vẫn chiến đấu kiêu hùng cho đến viên đạn sau cùng, lấy chính xác thân để chận chiến xa của quân thù trên Cầu Xa Lộ, trên đường phố Sài Gòn. Trong
một cao ốc đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, hai sĩ quan và sáu binh sĩ nhảy dù tử thủ cho đến khi hết đạn, họ cho nổ hai quả lựu đạn cuối cùng để tự sát trên sân
thượng. Tại Ngã Tư Hồng Thập Tự - Lê Văn Duyệt, đồng bào chứng kiến bốn chiến sĩ nhảy dù trang bị đại liên M60, phóng lựu M79; và họ đã quyết chiến đấu tới
cùng cho đến khi hết đạn, xong bình tỉnh bước ra ngoài, nắm vai nhau, thành một vòng tròn.. Họ nổ trái lựu đạn sau lời hô quyết tử.. Việt Nam Cộng Hòa Muôn
Năm! Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Nhảy Dù Cố Gắng! Nhảy Dù! Nhảy Dù!
Điển hình là những vụ tự sát tập thể hoặc cá nhân của những Lính Mũ Đỏ: Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái cùng bảy chiến sĩ tại góc đường Trần Hưng Đạo-Tổng Đốc
Phương, Chợ Lớn; Chuẩn Úy Tô Chiêu Minh Đại Đội 204/Quân Cảnh Dù chết ngay trước cổng Trường Trung Học Đắc Lộ, Tân Việt trước cổng Trại Hoàng Hoa
Thám - Ngôi nhà vĩnh cữu của Người Lính Nhảy Dù. Còn rất nhiều trường hợp lẫm liệt hy sinh với lần đất nước tiêu vong.

Cùng lúc, tiếp theo những tướng lãnh, sĩ quan cao cấp Vị Quốc Vong Thân: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Hồ
Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long.. Còn có những Người Lính khác - Những Người Lính Nhảy Dù chết khắp nơi. Những cái chết không ai hay, những người chết
không ai biết tính danh đã làm màu Mũ Đỏ thêm thắm tươi sắc máu Trung Nghĩa, và Giải Băng Tang Đen dài cùng nỗi Đau Thương của toàn Dân Tộc.

Lần Chào Kính Cuối Cùng..
Lịch sử, quân đội của nhiều dân tộc thường kết liền với danh tính của những cá nhân kiệt liệt - Những người dựng nên các triều đại, chỉ huy những chiến dịch lớn,
quyết định vận mệnh của dân tộc, quân đội ấy.. Hán Cao Tổ, Lưu Bang (202 Trước CN); Minh Thái Tổ diệt Nhà Nguyên ( 1368). Đối với Nước Việt, những chiến
thắng Vân Đồn, Vạn Kiếp (1285) của đời Nhà Trần gắn liền với danh hiệu Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Và gần đây, danh tính những danh tướng
Eisenhower, Patton (Mỹ); Montgomery (Anh), Rommel (Đức); Yamamoto (Nhật).. cùng lần được nhắc nhở với những sự kiện chính trị-quân sự quan trọng của
quốc gia họ trong tiền bán Thế Kỷ 20. Sau chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) không thể không nói đến Võ Nguyên Giáp, De Lattre..v.v. Riêng với
Miền Nam, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, kỳ diệu đáng tự hào thay, suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1954-1975), từ những xung đột giáo phái ở những
năm khởi đầu nền Đệ Nhất Cộâng Hòa thành lập ở Miền Nam (1955-1963) tiếp cho đến ngày tàn cuộc 30 tháng Tư, 1975, luôn bền bỉ đứng trong hàng quân, và
kiên cường chỉ huy chiến đấu: Người Lính Nhảy Dù - Đích Thân 612 Lê Lợi Lê Quang Lưỡng - Không một năm tháng ngơi nghỉ. Không một chiến dịch vắng mặt.
Hiện diện trong cơn pháo tập. Giữa trùng vây. Đầu tuyến xung kích. Cảm động biết bao và đáng kính phục dường nào. Đích Thân luôn hứng chịu đầu ngọn cuồng
phong bão lửa. Đích Thân luôn có mặt cùng “con cái”. Đích Thân luôn có mặt với “ mấy thằng em”.

Vĩnh Biệt Lê Lợi- Đích Thân 612!!

Viết lần Nhất - Ngày 1 tháng 11, 2005
Ngày Các Thánh trên Trời
Và Người Lính dưới mặt Đất.
Viết lại lần Hai- Tháng 7
Ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân -Tháng 8, 2013

quehuongngaymai.com
TVQ chuyển
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Về một đại đội cũ

Kính dâng hương hồn anh Hồ văn Hòa
Riêng tặng Anh Hà Khôi (tức Hà Quế Linh) nguyên là đại đội phó 405 TK của tôi.
Trong đêm xứ người, nói gì về những người muôn năm cũ. Hai đứa chúng tôi như rưng rưng để nhớ về những đồng đội cũ của mình. Tôi hỏi anh Hòa về những gì anh biết về đại đội 405 thám kích. Bộ quân sử không nói về 405. (Nếu có, chỉ ba giòng trong trận đánh năm Mậu Thân). Quân đội miền Nam cũng chẳng bao giờ nhắc đến một 405. Nó vô danh.


Nó đánh giặc không phi pháo dọn đường, không được yểm trợ tối đa như những lực lượng tổng trừ bị. Nó là những tổ 3 người, những toán 4 người, mang trên vai những ba lô với mười mấy ngày lương khô xâm nhập trong lòng mật khu. Thế giới của nó là những cánh rừng thâm u, những ngôi làng sâu trong rừng, những con đường mòn xâm nhập của địch. Nó không cần ai biết. Nó buồn như thế đó. Lạc loài như thế đó. Nó lầm lì như thế đó. Bao nhiêu trách nhiệm nguy hiểm trong vùng địch kiểm soát, đột kích, thám kích, tiền thám hay viễn thám kể cả tăng viện và là mũi tấn công chính trong một trận đánh dữ dội, đều giao cho Đại đội Thám Kích 405. Vì vậy sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của đơn vị nầy phải là quân nhân tình nguyện hoặc được chọn lựa trong thành phần có kinh nghiệm trận mạc, gan lì và nhất là sự bền bĩ chịu đưng gian khổ ở các đơn vị tác chiến khác của Sư Đoàn. Mặc dù Đại Đội Thám Kích không có trong Bảng Cấp Số của Sư Đoàn, nhưng do tính chất cuả nhiệm vụ khi thành lập -vì nhu cầu chiến trường- nên tính mệnh của mọi cấp trong ĐĐ/TK như “chỉ mành treo chuông” mỗi một khi được sử dụng. Ai vào thám kích mà ra khỏi được, không chết, ít nhất cũng mang theo vài chiếc thẹo trên mình. (1)

Rõ ràng, chúng ta là những kẻ may mắn nhất. May mắn bởi vì thay vì nằm xuống như một số người lính thám kích, chúng ta mang trên người những vết sẹo. Những vết sẹo mà khi sờ lại, thất lạnh cả người, mà mắt nhắm lại, để cảm tạ Đấng Quyền Năng đã phò trợ trong dòng binh lửa.

Nhưng tại sao, anh và tôi lại phải giữ gìn như giữ gìn những gì trân quí nhất?

Viên cựu đại đội trưởng 405 TK nhắc lại một Y Đao như một con sóc rừng. "...Y nhanh lẹ không thể tưởng. Người y, khi mang ba lô 17 ngày lương thực, không thấy người, chỉ thấy cái ba lô. Còn hạ sĩ Nùng Lương văn Tướng, ông ta nói tiếng Việt vẫn còn lắp bắp, mặt lúc nào cũng lầm lì.

Ông ta còn có biệt danh là ông Tướng giải phóng. Tại sao là giải phóng, Thư biết không?." "Thưa đại bàng, tôi không được biết". Tôi trả lời. "Số là hôm ấy, toán ông bị phát giác. Lính Bắc hỏi: Ai đấy? Ông Tướng lính quýnh trả lời: Biệt kích Giải phóng. Trời ơi, VC làm gì có biệt kích. Còn trung sĩ Tám, trung sĩ Khoái, trung sĩ Đặng, hạ sĩ Dự, hạ sĩ Lực, còn chuẩn úy Bùi Toàn Hảo, chuẩn úy Âu Hoàng Minh, chuẩn úy Phan Thái Gia, chuẩn úy Nguyễn Thái Lâm..."

Anh kể như thuộc lòng. Đó là điều hiếm hoi cho một người đã trải qua rất nhiều đơn vị. Nó chứng tỏ đại đội 405 là một dấu ấn đậm sâu vào tâm trí của một người lính cũ. Nó chứng tỏ, anh đã có một nơi để tự hào trong đời binh nghiệp của anh.

Rồi anh Hòa nhắc lại hạ sĩ Y Brep và hạ sĩ Ba. VC trồi lên đánh cận chiến. Thằng Y Brep quạt Thompson bảo vệ anh, thằng Ba xô anh xuống hố. Và kết quả, Hạ sĩ Ba chết, và Y Brep bị mù một con mắt.

Tôi lắng nghe tiếng anh nghẹn lại. Vâng, tôi cũng vậy. Anh nói rằng, những người lính 405 anh hùng quá, dũng cảm quá, anh chưa bao giờ thấy đơn vị nào mà tất cả đều cùng một lượt xung phong lên đồi cỏ tranh, đứng thẳng mà tiến lên. Anh chưa bao giờ thấy một đại đội lại đánh tan tành một tiểu đoàn... Vâng, anh kể lại thời của anh từ 1963 đến 1964, và tôi kể lại thời của tôi từ 1967 đến 1971. Anh làm tôi nhớ lại hạ sĩ Đông mang máy truyền tin. Đông cũng cõng tôi mà chạy dưới bao lằn đạn. Và ông Y Suk đã cứu tôi thế nào trên đỉnh Kỳ Sơn.

Tôi cũng muốn nói về cái uy danh của đơn vị, khiến lúc đơn vị bị vây khỗn, ngỡ chừng như tuyệt vọng, nhưng địch vẫn không dám ùa ra cận chiến...

Đêm nay, quê người, và hơn 30 năm xa cách cho hai cánh diều hâu bỏ đàn bỏ tổ. Những giọt lệ bỗng nhiên lại thêm một lần chảy lạnh cả tâm hồn. Người sống nhớ về người đã chết. Người may mắn nhớ về người không may mắn. Nguồn cội từ một mái nhà được phanh ra, để cùng nhau tự hào và cũng để cùng nhau mà khóc thầm. Những con người, không bao giờ nhìn lên, mà chỉ nhìn xuống, cam phận. Có ai còn nghĩ đến họ. Nghĩ đến một người như hạ sĩ Ba chịu hứng đạn thù để cứu một đại đội trưởng, để anh còn sống, để anh được cơ hội nhận hai lần thăng cấp tại mặt trận chỉ trong vòng hai tháng từ một ông tướng khó nhất là tướng Đỗ Cao Trí.

"Thư à, lon mình không phải do tướng Đỗ Cao Trí gắn mà là do hạ sĩ Y Brep, hạ sĩ Ba gắn..."

Cám ơn anh Hoà đã nhắc lại thời kỳ đầu tiên của một đại đội. Khi tôi hỏi anh một câu mà tôi nghĩ là quá thừa: Anh nghĩ thế nào về đại đội mình. Bên đầu dây xa, giọng anh ấy trở nên phấn khích: Đó là một đơn vị chỉ biết chiến thắng. Anh kể lại những địa danh rừng núi. Những mật khu, đặc khu. Những đồi tranh, và những trận đánh ác liệt. Anh lại kể lần tướng Đỗ Cao Trí, tướng Linh Quang Viên, đáp xuống ngọn đồi mà đại đội vừa chiếm lại giữa ầm ầm tiếng pháo, và la liệt xác phe bên kia. Tôi cũng kể lại những nồi cơm mà Bắc quân bỏ chạy còn nấu lỡ dở, trong những đêm chúng tôi đột kích mật khu ở Bình Định. Tôi nói suốt hơn bốn năm, đại dội không cho phép bất cứ một trái pháo nào lọt vào Bộ Tư Lệnh. Vì sao? Vì địch là ma, ta cũng là ma. Chúng tôi cùng nhau cười ha hả. Anh lại nhắc đến công trạng của thiếu úy Đặng đức Thành, người khai sinh ra đơn vị Biệt kích Sư đoàn, tiền thân của đại đội 405 thám kích. Anh còn nói nhiều nữa. Chính cái cái khăn quàng đen mà tiểu đoàn 35 Biệt Động Quân mang là biểu tượng truyền thống của đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 BB:

"Thư à, mình phải kể cho Thư nghe, ngày về nhận tiểu đoàn 35 BĐQ, mình đã mang theo chiếc khăn quàng cổ của đại đội cho đơn vị mới."

oOo

Từ 405, anh Hòa đã mang chiếc khăn quàng cổ màu đen về 35 BĐQ. Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả. Con số quá đủ cho một tấm lòng đối với bạn bè đồng đội của mình. Tôi hẹn với lòng, sau Mặc Niệm Chiến tranh là bỏ viết. Tôi đã gởi gấm những gì mà tôi cần gởi gấm. Nhưng bây giờ, tôi lại ngồi trước máy. Những lời của anh Hòa chẳng khác cơn bão xoáy lốc vào tâm não. Một đằng, tôi cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi đã có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH. Khó có một ai trong bất cứ đơn vị nào được tướng Đỗ Cao Trí thăng cấp hai lần trong vòng hai tháng ngay tại mặt trận. Có người gọi tôi là điên khùng. Có kẻ cho tôi là ái quốc lãng mạn. Vâng, quả tôi điên khùng thật. Nhưng bây giờ tôi phải cám ơn về cái điên khùng này. Nhờ nó tôi mới hiểu cái tàn bạo của con người, của chiến tranh, của hận thù, và những tay chỉ biết xúi tuổi trẻ ra chiến trường để chết thế, và nhất là một khi tuổi trẻ muốn bày tỏ những ước mơ chân thật của mình thì bị gán cho những danh từ như phản chiến, hèn nhát, trong khi chính những kẻ ấy là co rúm hơn ai hết. Chính nhờ nó, tôi mới hiểu cái câm nín chịu đựng của những người lính bộ binh trong một thời chỉ con ông cháu cha mới được sống. Chính nhờ nó tôi mới cảm nhận được thế nào là tình đồng đội cũng như nỗi kiêu hãnh của những người lính tác chiến.

oOo

Phải. Không tự kiêu sao được khi đám lính khăn choàng đen huy hiệu diều hâu vồ mồi đã làm địch Bình Định kinh hồn bạt vía. Chúng tôi đã áp dụng tối đa chiến thuật dạ kích. Anh bạn, tôi xin nhắc lại, nếu địch là ma, thì ta cũng là ma, tại sao mấy ngài chỉ huy cao cấp chỉ biết cái chiến thuật nhà giàu, ngày đánh, đêm về phố nhảy đầm hay ngủ với vợ. Tại sao các ngài không thành lập những đội quân chuyên đánh đêm, hay đổi lại chiến thuật đánh ngày sang đánh đêm. Địch lợi dụng bóng tối tại sao ta lại không lợi dụng bóng tối để đột kích mật khu, phá nát hậu cần, gây cảm giác lo âu kinh sợ cho đối phương, bắt đối phương lúc nào cũng hoang mang giao động? Tại sao cứ chơi trò đóng đồn phòng thủ, chờ chuông báo tử.

Chuông báo tử. Những hồi chuông đã kéo hối hả khắp cả miền Nam, và bóng u minh đã òa chụp xuống từng người, từng thân phận. Không phải vì ta hèn. Chưa có một đội quân nào trên thế giới này, thua trận, nhưng lại tự hào cùng hàng ngũ, cùng màu cờ sắc áo như quân đội miền Nam này. Không phải một ngày, một tháng, mà cả đời. Chỉ có những kẻ trong cuộc mới hiểu và thấm thía được nỗi tự hào. Và đó là lý do cắt nghĩa tại sao tôi lại phải viết hoài, viết không mệt về màu áo cũ của mình.

oOo

Viết về một đơn vị, để mà tự hào, nhưng riêng tôi lúc này còn để hối hận. Bởi vì, ngòi viết của tôi chưa bao giờ có một nhân vật như Y Brep trên trang giấy. Và tôi cũng chưa bao giờ mời ông Tướng giải phóng, trung đội phó của tôi một cốc rượu, một lon bia. Ông ta anh hùng như thế, dẫn toán vào mật khu, hù lính Bắc quân, thế mà mỗi ngày vẫn chào tay tôi, trình diện tôi, giúp đỡ tôi, nâng bước chân tôi lên trên những bãi chiến trường sôi bỏng. Thế mà tôi không có cả một lời. Và dù có viết, thì đám kiểm duyệt ở Sài Gòn lại bôi đen chữ Tướng viện dẫn tôi chơi xỏ một ông tướng nào đó. Vâng, tôi đã vô tình quên họ, những người lính của trung đội tôi như Y Đao, Nay Lat,Y Suk, như Nha, Vọng, Tròn, Hường, Nai, Lợi, Ký, Mễ, Ưng Luông. Tôi chỉ bận tâm đến bản thân tôi. Tôi chỉ tìm mọi cơ hội để được thăng quan tiến chức, hay để được thoát khỏi địa ngục trong lúc họ vẫn tiếp tục cùng chiếc poncho, hay lon cơm gạo sấy, coi đơn vị là mái nhà vĩnh viễn của mình mà không một lời ta thán.

(1) Trích từ Định Mệnh - tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 46 của Văn Nguyên Dưỡng (bút danh của cựu trung tá Nguyễn văn Dưỡng, cựu trưởng phòng 2 SĐ 22 BB).

Trần Hoài Thư
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Những người chết sau cùng trong cuộc chiến

Góp nhặt trên Net, chuyển anh chị em đọc để tri ân những người đã chết cho chúng ta được sống, những người đã hy sinh để chúng ta được an toàn.

Xin thắp một nén hương cho người Thiếu Úy Nhảy dù tử trận giây phút cuối cùng của cuộc chiến.


Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Tác giả ghi lại những gì diễn ra trước mắt mình, ngay trước nhà mình, ngay trong khu phố mình sống, những giờ phút cuối cùng của miền Nam. Ngày ấy, tác giả vừa tròn 15 tuổi.

Viết cho ngày 30 Tháng Tư năm ấy.
Viết cho những người lính cấp bậc nhỏ, nhưng hy sinh lớn.
Viết cho những người lính vô danh,
Vị quốc vong thân lúc thành mất nước tan.
Ai cũng sống cả một đời, nhưng chết chỉ một lần.
Các anh, những người lính nhỏ,
Các anh, những người lính vô danh, nhưng hy sinh vĩ đại!

Suốt 40 năm qua, tôi đã đọc, đã nghe và cũng đã xem nhiều về những hy sinh của các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hòa khi nước mất nhà tan vào tay Cộng Sản trong ngày 30 Tháng Tư đau buồn của năm 1975.

Lúc ấy tôi được 15 tuổi, chưa trưởng thành, chưa đủ khôn và đủ hiểu biết chuyện đời, nhất là chuyện thời cuộc. Ở tuổi này, tuy chưa đủ lớn, ký ức mình cũng đủ “già dặn” để không quên điều xảy ra. Và trong ý nghĩ đó, có một câu chuyện cho đến giây phút này vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi.

Mấy mươi năm qua, tôi cho đó là “chuyện nhỏ.” Sau này, tôi chợt nhận thức, rằng chuyện nhỏ này lại có ý nghĩa vô cùng to lớn mà hôm nay tôi muốn ghi lại và chia sẻ với những ai quý tự do, yêu độc lập và chuộng hòa bình.

Lúc ấy là 09 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975!

o0o

Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười, khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi…

Thời khắc ấy cách đây đúng 40 năm, trong cảnh hỗn mang của ngày tàn cuộc chiến, trong xóm tôi ở Ngã Năm Bình Hòa-Gia Ðịnh, bỗng xuất hiện bốn năm người lính Nhảy Dù. Họ chạy lúp xúp men theo vách tường nhà Dì Sáu của tôi rồi dừng lại trước nhà tôi. Tất cả đều còn rất trẻ và người họ mang đầy súng ống đạn dược. Áo quần họ bám đầy bụi đỏ. Chỉ cần nhìn thoáng qua, ai cũng biết những người lính này mấy ngày trước đây đã từng xông pha trận mạc. Họ đứng trước khoảng đất trống, ngó dáo dác một đỗi, thì người lính có mang một bông mai trên cổ áo nói, như ra lệnh:

- Anh em đào ở đây đi.

- Tuân lệnh thiếu úy!

Một người trong họ trả lời. Thế là các anh tháo gỡ trên vai xuống mấy cái xẻng cá nhân. Với thao tác nhanh lẹ, phút chốc họ đã biến chúng thành những cái cuốc và bắt đầu đào hố cá nhân.

Trong nhà, má tôi lo lắng ra mặt. Bà đang phân vân chẳng biết có nên di tản không và nếu đi thì chưa biết phải đi đâu. Bất ngờ, bây giờ thấy lính tráng chuẩn bị hầm hố chiến đấu trước cửa nhà, bà thêm hoảng sợ.

Tuổi thiếu niên đang lớn, hiếu kỳ, tôi tò mò bước ra sân, tiến gần đến khoảng đất trống ngồi chồm hổm xem mấy người lính làm việc. Lâu lâu có tiếng đại bác vọng về, tiếng súng bắn lẻ tẻ vang lên đây đó làm cho bầu không khí chết chóc thêm ngột ngạt, hình ảnh chiến tranh thêm rõ nét.

Dân trong xóm tôi nhốn nháo chạy tới chạy lui, mặt mày ai nấy đều lấm la lấm lét khi đi ngang qua nơi mấy người lính đang làm việc. Bộ mặt của thành phố Sài Gòn lúc đó như người bệnh nặng sắp mất.

Ðộ chừng nửa tiếng sau, khi hố được đào khá sâu, một người lính đứng lên, mồ hôi nhễ nhại trên mặt. Anh đưa cánh tay lên cao, quẹt lấy mớ tóc bê bết trên trán để lộ một cái sẹo thật to nơi đuôi mắt phải, đoạn nhìn tôi:

- Em trai chạy vô nhà lấy cho anh xin miếng nước uống đi em.

Tôi đứng dậy co giò phóng vào nhà. Ít phút sau tôi mang ra cho các anh một ca nước đá bự, một cái ly và một ít kẹo đậu phọng với bánh in mà má tôi đưa thêm. Họ ăn, họ uống, họ nói cười vui vẻ, cơ hồ như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có người thiếu úy là không ăn uống gì cả.

Người thiếu úy này cũng còn trẻ và đẹp trai như Tây lai nhưng dáng dấp rất phong trần, uy dũng. Tôi đoán chừng tuổi đời anh chỉ khoảng 23, 24 gì thôi. Anh có vẻ như đang lo lắng trước tình hình chiến sự lan rộng nên nét mặt luôn phủ một lớp sương mờ căng thẳng.

Nắng lên khá cao…

Bỗng một tiếng nổ lớn từ đâu dội lại rung chuyển cả mặt đất. Tôi hoảng hốt. Mấy người lính ngưng đào, ngẩng đầu nhìn quanh. Viên thiếu úy ngó về cuối xóm một thoáng rồi nói với đồng đội:

- Anh em cứ tiếp tục đi, để tôi xuống dưới này xem sao.

Người thiếu úy xốc khẩu M-16 đang mang trên vai lên cao và bỏ đi trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bên trong, má tôi gọi tôi vào và không cho ra khỏi nhà, vì sợ đạn lạc. Xế trưa, lúc ông Dương Văn Minh ra lệnh cho binh sĩ buông vũ khí và đầu hàng vô điều kiện thì má tôi vội vã kêu tôi cầm cái radio-casette hiệu Sanyo ra cho những người lính bên ngoài nghe. Trong khi họ còn sững sờ thì viên thiếu úy từ dưới đang vội vã đi lên. Một anh lính trẻ giơ chiếc radio về viên sĩ quan, hớt hải, nghẹn ngào. Anh nói như sắp khóc:

- Thiếu úy, thiếu úy, ông Minh đầu hàng rồi. Mình thua rồi!

Viên sĩ quan khựng lại một lúc rồi chăm chú nhìn vào cái radio trong im lặng não nề. Tiếng ông Minh kêu gọi đầu hàng cứ được lập đi lập lại hoài khiến người sĩ quan trẻ nổi cáu:

- Ð.m. sao chưa đánh đấm gì đã lo đầu hàng?

Người thiếu úy giận dữ quát tháo, gương mặt đan xen nỗi đau và buồn. Sau một đỗi phân vân, cuối cùng thiếu úy hạ giọng:

- Thôi đi.

Thế là họ bỏ chiến hào đang đào dang dở và hấp tấp chạy trở ra đường. Ðộ chừng một tiếng đồng hồ sau, người ta nghe nhiều tiếng súng AK-47 nổ giòn giã rồi tiếng M-16 bắn liên thanh đáp trả. Lẫn lộn trong đó thỉnh thoảng có cả tiếng súng M-79 đệm vào. Ðứng trong sân nhà nhìn ra, tôi thấy có vài cột khói đen bốc lên cao.

Từ bên ngoài, vài người trong xóm tôi tất tả chạy về. Gặp má tôi đang đứng lấp ló nơi cửa, họ báo:

- Ðang đánh nhau ở ngoài Ngã Năm dữ lắm cô Ba.

Ngã Năm Bình Hòa là giao điểm của năm con đường từ năm hướng khác nhau. Năm Mậu Thân 1968, nhiều trận đánh đã diễn ra ở đây khi Lực Lựợng Bảo Vệ Biệt Khu Thủ Ðô của quân đội VNCH ngăn chặn các mũi tiến công của cộng quân từ bên ngoài đổ về qua mấy cửa ngỏ như Gò Vấp, Cầu Bình Lợi, Lò Vôi hay Ðồng Ông Cộ… nên nó trở thành một trọng điểm chiến lược vì là một trong những lộ chính tiến vô thủ đô Saigon.

Chiều cùng ngày, khi lịch sử đã an bài, dân chúng bắt đầu túa ra đường phố. Lớp thì đón quân “Giải Phóng,” lớp khác lại mừng đất nước “Ðộc Lập,” trong khi tôi thì tò mò theo người cậu họ ra xem tình hình ngoài ngõ. Nghe thiên hạ bàn tán xôn xao có lính chết ở chỗ Ngã Năm Bình Hòa, cậu cháu tôi lần bước tới quan sát. Một đám đông đang vây quanh trước Nhà Thuốc Tây Tiến Thành, là nhà thuốc của má thằng bạn tôi. Cố gắng chui vào đám người hiếu kỳ ấy và luồn lách một tí, tôi tới được bên trong. Giữa vòng người nọ là xác một người lính nhảy dù nằm chết cứng. Ngực thủng một lỗ lớn, chiến bào loang đầy máu và đã chuyển sang nâu sậm nhưng đôi mắt anh vẫn mở trừng trừng. Nhìn kỹ, tôi chợt giật mình: người đó chính là viên thiếu úy ban sáng!

Ðang còn ngỡ ngàng, tôi bỗng thấy có một thanh niên vẹt đám đông bước lại gần xác người thiếu úy. Anh mặc một chiếc quần tây đen ngắn củn và áo thì rộng lùng thùng như đồ của ai cho chớ không phải của anh vậy. Anh khom người xuống, giơ tay vuốt nhẹ nhàng lấy khuôn mặt lạnh vô hồn kia. Ðôi mắt từ từ nhắm lại và nơi khóe miệng một dòng máu nhỏ rỉ ra bên mép. Dường như chàng thanh niên lâm râm khấn vái điều gì đó nho nhỏ, đoạn anh đứng lên, bước ra với đôi mắt đẫm lệ. Tôi nhận ra ngay anh chính là người lính xin nước tôi lúc sáng, nhờ vết sẹo to nơi đuôi mắt.

Thiên hạ bàn tán sôi nổi khi dòng máu tươi nơi khóe miệng của thi hài đã lâu kia rỉ ra. Người miền Nam vốn duy tâm, thiên hạ tin rằng đấy là một điều linh thiêng vì vị sĩ quan này có lẽ còn có chuyện chi oan ức. Ðột nhiên, chị Bảy bán tạp hóa sau lưng tôi lên tiếng kể lể với những người xung quanh:

- Ông thiếu úy này và mấy người lính của ông ta nấp ở vách tường bên kia kìa. Ðứng trông cửa sổ nhà nhìn qua, tui thấy mấy ổng bắn xuống phía mấy ông “Việt Cộng” ở dưới Ðồng Ông Cộ quá trời. Cuối cùng chắc thấy không xong, ổng biểu mấy người lính của ổng chạy đi còn ổng thì vẫn ở lại. Rồi hình như ổng bị thương sao đó nên bò sang nấp vô Cổng Ðình Thần Bình Hòa này nè. Hai bên còn bắn nhau một lúc lâu nữa và khi không còn nghe tiếng súng thì tui dòm ra thấy ổng lết tới đây rồi chết luôn.

- Hết chiến tranh rồi mà chết, tội nghiệp quá! Không biết có gia đình vợ con gì không? Thân nhân mà hay được chắc là buồn lắm.

Ông già bên cạnh chị Bảy nói theo làm mọi người mủi lòng trước sự hy sinh oai hùng của viên thiếu úy. Chợt một bà cụ cầm tấm chăn, không biết từ đâu, tách đám đông bước vô phủ trùm lên xác người thiếu úy và mếu máo:

- Dù con không có họ hàng gì với bà nhưng bà thấy con chết thảm bà thương quá. Tội nghiệp, con cái nhà ai vậy không biết nữa. Thôi con chết rồi, con hãy thanh thản ra đi và nếu hồn con có thiêng thì phù hộ cho bà con nơi đây được nhiều an lành nha con!

Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi. Ngẩng mặt lên bắt gặp tôi đang nhìn anh trân trối, anh vụt bỏ đi. Ngó cho đến khi bóng dáng xiêu vẹo của anh khuất nơi cuối chợ, tôi thấy lòng nao nao buồn. Cảm khái trước một nỗi niềm mất mát bao la của tình đồng đội thiêng liêng cao quý lẫn tiếc nuối cuộc đời binh nghiệp nữa đường gãy đổ, tâm hồn tôi tràn ngập cả một sự chua chát to lớn.

Nhưng tôi đâu biết rằng, đó chỉ là khởi điểm của một trang sử đau thương cho dân tộc, cho hàng vạn sinh linh sau này.

Charleston, South Carolina
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »


Image

Nha Trang – thời tôi mới lớn

Phạm Tín An Ninh

Nha Trang lúc nào cũng đẹp, nhưng với tôi Nha Trang đẹp nhất ở vào cái thời tôi mới lớn. Dường như lúc ấy biển xanh hơn, bầu trời trong và bao la hơn, đã cho tôi nhiều mộng mơ hơn. Lúc ấy tôi chưa biết yêu để hiểu được cái nghĩa thất tình nó ra sao, cái cảm giác “chết trong lòng một ít” nó đau đớn đến dường nào; cũng chưa bước chân lên bến đời để thấy cuộc đời này không phải chỉ toàn màu xanh của biển và bầu trời trên đầu lại có quá nhiều những đám mây đen.

Ngày ấy, cũng đã có chiến tranh (quê hương tôi thì lúc nào lại không có chiến tranh), nhưng dường như còn ở đâu đó, xa lắm. Tôi chỉ biết người lính qua mấy anh SVSQ Hải Quân, Không Quân oai phong tuấn tú trong những bộ quân phục đẹp, mới toanh, thẳng nếp, dạo phố với tình nhân vào những ngày cuối tuần. Đâu có biết người lính gian khổ, hiểm nguy và chết chóc ra sao. Khi ấy, Trịnh Công Sơn cũng chỉ mới viết được đôi ba bài tình ca, chưa có bản nhạc phản chiến nào, Những bản nhạc viết về lính lúc ấy cũng dễ thương, hiền lành và lãng mạn lắm, chưa hề nghe Kỹ Vật Cho Em. Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, Anh Không Chết Đâu Anh, Người Ở Lại Charlie…, nên cũng chưa biết tiếng khóc não nùng của những người góa phụ.

Những chuyện xảy ra trong thành phố thời ấy hấp dẫn tôi và đám bạn bè hơn. Chuyện bà (vợ ông) bác sĩ, một mệnh phụ gốc Hà thành nhan sắc mà mỗi lần trông thấy bà ngoài phố, chúng tôi đứng lại tròn mắt trầm trồ như đang được chiêm ngưỡng một pho tượng đẹp trong viện bảo tàng. Chuyện của một bà dược sĩ, có tình nhân là một ông đại úy phi công rất bô trai. Mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao “trọc mui” duy nhất ở thành phố biển này, nhưng bọn tôi thường thấy ông phi công đèo bà sau chiếc Vespa chạy lòng vòng trên đường Duy Tân, Độc Lập. Cuộc tình lãng mạn ấy rồi cũng đi vào ngõ rẽ. Bà dược sĩ trở thành phu nhân của một ông tướng nổi danh, còn chàng phi công hào hoa thì rước về dinh một cô ca sĩ chuyên hát những bản nhạc buồn… vào hồn không tên… nào đó. Và “đình đám” nhất là chuyện tình của thầy tôi và một cô học trò. Ông thầy mà bọn tôi thường gọi là “thầy của những ông thầy khác” và rất mê nghe ông đọc những bài thơ tình lãng mạn của mấy ông Alphonse de Lamartine, Charles Beaudelaire, Jacques Préver trong giờ Văn học sử Pháp. Còn cô học trò cũng rất tài ba, từng có bài luận văn dài gần 20 trang giấy được giáo sư nổi danh Thạch Trung Giã cho điểm tối đa và đọc cho cả mấy lớp cùng nghe. Không biết có phải nhờ vòng tay ông thầy của tôi mà sau này cô trở thành nhà văn nổi tiếng với tác phẩm cũng bắt đầu bằng hai chữ Vòng Tay… Một ông thầy khác mê đến si tình cô học trò “hoa khôi” Võ Tánh, đóng vai Trưng Trắc trong buổi lễ Hai Bà Trưng. Những nữ sinh được chọn đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị thời ấy đều là những mỹ nhân “vang bóng một thời”.

Thời ấy dường như chiến tranh còn ở đâu đó, chưa tới Nha Trang, nhưng Nha Trang lại là nơi có ba quân trường nổi tiếng.

Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân đã đào tạo hầu hết những sĩ quan Hải quân ưu tú. Trong số ấy có rất nhiều đồng môn của bọn tôi ở Trường Võ Tánh, một số đàn anh trở thành những hạm trưởng: Trần Đức Cử, Phạm Đình San, Võ Quang Thủ, Phan Hữu Niệm, Võ Văn Bảy…

Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân đào tạo hầu hết những phi công tài hoa của đất nước, trong số này cũng có rất nhiều cựu học sinh Võ Tánh. Sau này có người lên đến cấp tướng.

Trường Đồng Đế, đào tạo hầu hết các hạ sĩ quan cho Quân Lực và những khóa sĩ quan hiện dịch, mà một người sĩ quan tốt nghiệp Khóa 2 đã trở thành một vị anh hùng trong lòng bao người dân Việt tha phương: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. (Xa hơn một chút là Huấn Khu Dục Mỹ, với các quân trường nổi danh không kém, được thành lập từ năm 1960. Trường Pháo Binh chuyên đào tạo cá sĩ quan có khả năng toán học, làm “đề lô” và sau này trở thành các cấp chỉ huy của binh chủng “nòng dài”, tạo sấm sét lam khiếp vía quân thù. Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân, được những người lính gọi là “Lò Luyện Thép”. Có người còn gọi đùa là “Trung Tâm Tàn Phá Sắc Đẹp.” Một nơi huấn luyện cho người lính chịu đựng gian khổ nhất, có khả năng vượt qua mọi chướng ngại, để có thể chiến đấu trong những điều kiện khó khăn nguy hiểm nhất để đánh thắng quân thù. Ngoài việc đào tạo các chiến sĩ Mũ Nâu hào hùng, còn có các Khóa Rừng Núi Sình Lấy, Viễn Thám cho tất cả các quân binh chủng thiện chiến khác.)



Về văn chương, ngoài một số nhà văn kỳ cựu như Quách Tấn, Cung Giũ Nguyên, Thạch Trung Giã, Võ Hồng, lúc ấy có nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng sớm từ đám học trò: Nguyễn Xuân Hoàng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Thanh Nhung (Tôn Nữ Nha Trang), Duy Năng (Nguyễn Hữu Trí)…Nếu tính cả những người từ các tỉnh lân cận đến học ở Nha Trang thì còn có Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Hoàng, Cao Hoành Nhân, Từ Thế Mộng, Trần Hoài Thư, Sương Biên Thùy (Lê Mai Lĩnh sau này)…

Thời đó, Nha Trang có cô ca sĩ Thúy Vân, tuổi khoảng 14, 15, có ông bố phục vụ trong Lực lượng Bảo An Đoàn, có tay trống Minh Châu số 1 của Ban Văn Nghệ Ty Thông Tin , sau này cũng gia nhập Bảo An, làm sĩ quan Tâm Lý Chiến. Bọn tôi thường được tham dự những đêm văn nghệ do Ty Thông Tin tổ chức, nghe ca sĩ Bích Sơn hát bài Cô Gái Xuân và đóng kịch “Ông Ninh Ông Nang” với anh hề Ngọc Trai. Được xem phim Chúng Tôi Muốn Sống , mê ông Lê Quỳnh đẹp trai và bà Mai Trâm với má lúm đồng tiền và hai lọn tóc thắt “con rít” thả xuống bờ vai.

Thời ấy cũng có rất nhiều cái tên “mỹ nhân” truyền tai nhau trong đám học trò: Cẩm Vân, Bạch Yến. Như Bá, Bích Tùng, Mỵ Cơ, Xuân Thùy, Hồng Nữ, Xuân Hoa, Bích Khuê, Như Ý, Hồng Huê, Lệ Son, Mỵ Hảo… Và ngay trong lớp tôi cũng có những giai nhân đã làm khuấy động trái tim của biết bao ông thầy và cả học trò, mà đến hôm nay vẫn còn được bàn cãi rất sôi nổi mỗi lần bọn tôi có dịp gặp nhau kể lại chuyện xưa: Thúy Liệu, Minh Châu, Kim Anh, Kim Thoa, Túy Ngọc, Như Bá… Đám bọn tôi cũng biết danh ông Lê Bá Chẩn, không phải vì ông là phó tỉnh mà vì ông bà có mấy cô con gái đẹp, từng đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị. Và có lẽ không ai mà không biết hiệu Đông Quang nằm bên tiệm chụp ảnh Mai Ngôn trên đường phố Phan Bội Châu, bởi mỗi lần đi qua nhìn thấy chị Thuần Hậu, sắc nước hương trời, ngồi bên một cái giá dựng đủ các thứ gươm đao thời Tam Quốc (?)

Thời đó Nha Trang có khá nhiều nhà sách, nhưng bọn tôi thường lui tới Nguyễn Lê và Vĩnh An Thành, nơi nào cũng có cô con gái đẹp. Riêng Nguyễn Lê thỉnh thoảng có mấy cô bán sách cũng làm điêu đứng đám học trò mới lớn.

Nha Trang lúc ấy có khá nhiều rạp ciné. Rạp Moderne của ông Bác Ái không hiểu vì sao đóng cửa sớm. Rạp Tân Tiến thường chiếu phim Ấn Độ. Rạp Minh Châu thì thường có những đoàn hát cải lương – Dạ Lý Hương, Kim Chung, Thanh Minh Thanh Nga. Rạp Thạnh Xương thì chuyên hát bội. Chỉ có rạp Tân Tân và Tân Quang thường chiếu những phim hay: Cuốn Theo Chiều Gió, Gió Đồng Nội, Vũ Điệu Trong Bóng Mờ, Mặt Trời Vẫn Mọc, Lưới Tình Khó Thoát, Ben- Hur, The Vikings…Thời nổi danh của các cô đào Vivien Leigh, Marylin Monroe, Brigitte Bardot, Sophia Loren, Audrey Hepburn, Elizabeth Taylor, Gina Lolobrigida…

Thỉnh thoảng có các đoàn mô tô bay trình diễn trong Sân Vận Động. Tôi không còn nhớ là trong số người đẹp biểu diễn ấy có cô Bạch Yến, sau này trở thành ca sĩ, nổi tiếng với nhạc phẩm Đêm Đông, theo chồng là ông nhạc sĩ Trần Quang Hải sang Pháp, để cho ông nhạc sĩ Lam Phương sáng tác bài Phút Cuối.

Chỉ còn gần em một giây phút thôi.
Một giây nữa thôi là xa nhau rồi.
Người theo cánh chim về vui với đời
Để lại thương nhớ cho kiếp đơn côi

Những giờ nghỉ học, bọn tôi đạp xe thơ thần trên con đường Duy Tân, con đường đẹp nhất của Nha Trang, ngồi dưới mấy lùm dương, ngắm biển xanh mà nói chuyện trên trời. Có một đồng bạc đủ để mua một trái cóc khía ngâm đường của mấy người đẩy xe bán dạo. Có khi trèo rào vào Viện Pasteur để hái trộm mấy trái tra. Nha Trang diễm phúc có ông bác sĩ Yersin từ Pháp đến lập các viện nghiên cứu y học, lập Viện Pasteur.Ông đã nằm lại với Nha Trang. Mộ ông ở Suối Dầu và tên ông được đặt cho một trong những con đường “thế giá” nhất Nha Trang.

Hồi ấy bọn con trai chúng tôi cũng thường nghe nói đến các “băng”: Băng thằng Liên Xóm Mới, Băng Thằng Điền, Băng thằng Quách Thanh, Băng Lò Heo…, nhưng không biết các “băng” này chọc trời khuấy nước ra sao, và những vị yên hùng này có giống Điền Khắc Kim, Dũng Đa Kao được nhà văn Duyên Anh đem vào truyện hay không? Nha trang cũng có những lò luyện võ của võ sư Trọng Đãi hay Huỳnh Tiền gì đó, và dưới bờ biển có Judo Club của anh Hàn Phong Cao, con ông chủ khách sạn Phụng Hoàng nằm trước ga xe lửa. Sau này anh là thiếu tá Kỵ Binh Thiết Giáp và làm quận trưởng ở Phan Thiết.

Bọn tôi thường ghé lại các tiệm chè bên cạnh Rạp Ciné Tân Tiến, một đồng một ly mà thấy mình sang lắm. Thỉnh thoảng được cha mẹ thưởng cho ít tiền mới dám đến “kéo ghế” ở phở Hợp Lợi, nem Mỹ Hạnh trên đường Trần Quý Cáp, mì Lợi Ký, sữa đậu nành và Pate Chaud trên đường Độc Lập.

Ngày ấy đám con trai bọn tôi rất mê đá banh. Nha Trang có đội Công Chánh với ông bầu Năm. Có vài lần thi đấu ngang ngửa với các đội Thương Cảng, AJS Sài gòn, gồm nhiều tuyển thủ quốc gia, có thủ môn Phạm Văn Rạng vang tiếng một thời. Trường Võ Tánh bọn tôi cũng có những cầu thủ nổi danh; các anh Lư Văn Thành, Nguyễn Văn Sự, Ngô Lam…tham gia trong đội bóng.

Những ngày cuối tháng chạp, bọn tôi rủ nhau dạo qua chợ Tết. Các gian hàng được bày ra ngay giữa lòng đường Phan Bội Châu, từ trước nhà sách Nguyễn Lê cho đến ngã tư cuối chợ Đầm. Bọn tôi thường đứng tán gẫu với cô bạn cùng lớp trông hàng cho mẹ. Ở tuổi ấy, chúng tôi không còn nô nức chờ đón Tết như thời tuổi thơ, lúc còn sống ở quê.

Nha Trang có chùa Hội Phật Học, nằm trên Mã Vòng đường lên Thành. Cách đó không xa, bên sườn đồi có chùa Hải Đức. Sau này trên đỉnh núi có xây tượng Phật khá lớn. Trước ngày khánh thành, mấy ông VC nằm vùng treo sau lưng tượng Phật lá cờ đỏ sao vàng thật to.Khi cảnh sát đến lấy xuống, bị nổ lựu đạn gài sẵn, hình như có người chết hay bị thương. Tôi nghiệp, chỉ có bọn người man rợ mới lợi dụng cả tượng Phật để giết người. Trước đó, tại rạp Tân Tiến, có lần VC ném lựu đạn làm chết và bị thương khá nhiều người, Đó là hai lần bọn tôi biết được, người CS đã đem chiến tranh và chết chóc đến trong lòng thành phố đẹp đẽ hiền hòa, khuấy động cuộc sống hồn nhiên yên ả của bọn tôi.

Nha Trang có nhà thờ đá, có người gọi là nhà thờ núi, vì nằm trên đỉnh đồi hướng ra Ngã Sáu, giữa góc đường Gia Long – Phước Hải. Những đêm Giáng Sinh, dù không phải người Công Giáo, bọn tôi cũng rủ nhau đến đây xem người ta đi lễ, mừng Chúa ra đời. Sau đó kéo nhau về nhà một thằng nào đó ăn réveillon.Về sau, trong đám bọn tôi có thằng mê một cô bé có đạo dòng, xinh như mộng, bọn tôi thường nghe nó hát “lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao…” Cuối cùng nó cũng cưới được cô bé và hai vợ chồng sống rất hạnh phúc cho đến bây giờ.

Đi về hướng Đồng Đế, qua khỏi cầu Xóm Bóng, Tháp Bà Ponagar đứng trên đồi cao nhìn xuống dòng sông Cái chảy lững lờ. Di tích của đế chế Chiêm Thành còn lại. Giờ là nơi để nhiều người đến xin xăm, cầu nguyện một ân sủng từ bà Thiên Y Thánh Mẫu Ana hiển linh nào đó. Cũng là nơi hẹn hò, thề non hẹn biển của những cặp tình nhân vào những ngày vắng khách nhàn du.

Về hướng biển có Hòn Chồng, với dấu bàn tay in trên tảng đá đã được thêu dệt thành nhiều huyền thoại, chứng kiến lời hẹn thề của bao cặp tình nhân, và chắc chắn cũng từng thấm đẫm nhiều nước mắt của những cuộc tình không trọn.

Nhưng trong tất cả các cái tên để nhớ, bọn tôi nhớ nhất là tên của những ngôi trường; Lê Quí Đôn, Kim Yến, Tương Lai, Văn Hóa, Đăng Khoa, Bồ Đề, Bá Ninh, Võ Tánh, Nữ Trung Học, … Ở mỗi ngôi trường, tôi đều có bạn bè những năm đệ nhất cấp. Sau này hầu hết đều chuyển sang Võ Tánh. Ngôi trường công lập lớn nhất và nổi tiếng ở vùng duyên hải miền Trung. Nơi ước mơ của đám học trò, đặc biệt từ những vùng quê như bọn tôi thuở ấy.

Sau bậc trung học, đám bọn tôi tản mác khắp nơi. Một số vào Sài Gòn, ra Huế hay lên Đà Lạt tiếp tục học đại học, đa số nhập ngũ, vào các quân trường, rồi ra đi khắp bốn Vùng Chiến thuật. Chiến tranh ngày càng khốc liệt cuốn chúng tôi theo như cơn lốc xoáy. Kẻ chết, người bị thương. Những người may mắn còn sống thì miệt mài ở các chiến trường khói lửa. Năm tháng chỉ còn có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Nha Trang, thành phố đẹp đẽ với những hang động tuổi thơ một thời cũng đành bỏ lại phía sau lưng. Có còn, chỉ trong vài phút giây hồi tưởng. Rồi ước mơ trở về sống với Nha Trang sau chiến chinh, khi giã từ vũ khí, lại đến trong đớn đau tức tưởi. Cuối tháng 3/75, Cộng sản chiếm Nha Trang, phủ lên thành phố này cả một trời tóc tang buồn thảm. Nha Trang không còn đẹp, thơ mộng. Và không còn là của chúng tôi. Bọn tôi phải ra đi, đành lòng bỏ lại NhaTrang. Thành phố đẹp đẽ suốt một thời tôi mới lớn, mãi mãi chỉ còn trong ký ức.

Những người đặc biệt tôi đã nhắc tên. Một số đã mất, người còn lại thì hầu hết đang sống tha phương, nhưng có lẽ bây giờ tóc ai cũng bạc. Tôi may mắn được gặp lại vài người. Ai cũng tiếc nuối một thời đẹp đẽ, dễ thương của chính mình, của bạn bè và của cả Nha Trang, xót xa cho một quê hương bỏ lại, giờ vẫn còn khốn khổ dưới bàn tay của những người Cộng sản đang học đòi làm những tên trùm tư bản, trên máu và nước mắt của dân tôi, của những người Nha trang hiền hòa dễ thương ngày trước.

Phạm Tín An Ninh
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image


Đại Đội 3 - Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù (LLĐB)


Trương Văn Út (MũĐỏÚtBạchLan)
Đầu Xuân vẫn tay súng
Giầy nhà binh bết bùn
Nhìn én lượn không trung
Ngày Xuân ngàn mai nở
Thôn xóm pháo đì đùng

Chiếc xe Jeep láng coóng của Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt chở chúng tôi, ba tân Thiếu Uý khoá 22 Võ Bị Đà Lạt vừa đậu lại bên trước bậc tam cấp của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 91Biệt Cách Dù (BCH 91 BCND) thì đã có vị Sĩ Quan của đơn vị đứng chờ sẵn đón chúng tôi với tay bắt, mặt mừng thân thiện và tự giới thiệu:

- Tôi là Đại Úy Nguyễn Quang Vinh Tiểu Đoàn Phó, khóa 14 Đà Lạt, các Anh vào đây, Thiếu Tá đang chờ…!!!

Chúng Tôi bước vào văn phòng làm việc của vị Tiểu Đoàn Trưởng, văn phòng rất đơn sơ, phía sau bàn làm việc là cây cờ của Binh Chủng LLĐBVN và hiệu kỳ TĐ91BCND, với năm ba ghế sắt kê sát hai bên tường. Ba chúng tôi đồng loạt chào tay và đứng thẳng người, cằm gặp ba ngấn đúng quân cách… Ông đứng lên, tay xếp lại hồ sơ quân bạ của chúng tôi đang có sẵn trước mặt, đi vòng qua bàn làm việc nghiêm nghị chào lại chúng tôi và nói :


- Thôi, bỏ tay xuống đi, ngồi xuống đây... ngồi xuống. Các anh Khóa 22 hả ? Tên tôi là Lê Như Tú, Khóa 11Đà Lạt, còn đây là anh Vinh, Khóa 14 Đà Lạt. Chúng Tôi rất vui mừng khi nhận công điện của Bộ Tư Lệnh báo cho biết các anh sẽ được bổ nhiệm về đơn vị nầy, mặc dù đích thân tôi đã xin trước 6 người nhưng chỉ được có 3…! Thôi như vậy cũng mừng lắm rồi…!!! Hôm nay là ngày 22 Tết, đơn vị đang nghỉ dưỡng quân và tôi được biết chắc chắn là chúng ta sẽ được ăn Tết ở hậu cứ… Vì lệnh ngưng bắn sẽ có hiệu lực từ 12:00 giờ trưa ngày 30 Tết cho đến 12:00 trưa ngày mùng 3 Tết. Ông vẫn ngồi bên cạnh chúng tôi trên cái ghế sắt cũ kỹ rỉ sét, Ông nửa như tâm sự, nửa như trình bày một số vấn đề liên quan tới đơn vị, rồi dẫn chúng tôi qua các phòng bên cạnh giới thiệu các Ban của Bộ CHTĐ, đi một vòng doanh trại chỉ dẫn... đây là ĐĐ3, ĐĐ4, ĐĐ5, và ĐĐ6 đang thành lập, còn ĐĐ1, ĐĐ2 thì ở bên trại Nguyễn Văn Tân (trại Đằng Vân cũ) cùng với TTHLHQDelta…. Kết thúc hai chiếc xe jeep của ĐĐ1 và ĐĐ2 đưa 2 tân Thiếu Úy: Đặng Thiện Chẩn và Huỳnh Kim Tiễn về đơn vị, còn tôi được chỉ định theo Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu trình diện Trung Úy Trần Hoạt Thành (ĐĐT-ĐĐ3) ở doanh trại nằm sát bên cạnh Bộ CHTĐ đối diện cuối phi đạo phi trường Nha-Trang. Giữa tôi và anh Nguyễn Đăng Lâu (K/21 ĐL) chẳng xa lạ gì, khi còn ở trong trường Võ Bị Đà Lạt, anh là SVSQ Cán Bộ Ban 5 của LĐ và cũng là Trưởng Ban Phát Thanh của trường. Tôi cảm thấy hân hoan vui thích vì mới vừa ra trường, được về đơn vị có nhiều đàn anh “Niên Trưởng” chăm lo rồi…! Vì hơn ai hết, chúng tôi hiểu và biết thế nào là tình đồng môn xuất thân từ một trường mẹ (VBĐL). Sau khi trình diện TR/U Thành (Khoá 11TĐ), anh Lâu dẫn tôi xuống doanh trại, giới thiệu các Sĩ Quan Trung Đội Trưởng, ...Thiếu Úy Dương Thiện Ngô, La Lưu Ý, Nguyễn Anh Phong, Nguyễn Khóat Hải, Đinh Văn Tiến Hùng, Đặng Văn Nam,... rồi tới các Hạ Sĩ Quan mà anh Lâu kề tai nói nhỏ với tôi: “… đây là mấy ông thần nước mặn bán trời không mời thiên lôi…” Ba Bứng, Thạch Sương, Thạch Ri, Kim Sua, Kim Chơi,... Buổi chiều cùng ngày, Thượng Sĩ Mười (thường vụ) mời tôi ra nhà trại gia binh nằm phía sau BCH, ăn bữa cơm tối với những đồng đội tác chiến đầu tiên trong đời binh nghiệp của tôi…với những “Ông Thần” vừa kể trên “chơi” hết 2 chai Black and White và mấy dĩa lòng heo chấm mắm tôm…!!! Tôi quắc cần câu, gần như “bất tri hà sự”, Ba Bứng, Thạch Sương cõng tôi về doanh trại nửa đêm về sáng.

Ngày hôm sau, anh Lâu hỏi:

- Hôm qua có vui với tụi nó không?

- Dạ vui…!!! Nhưng suýt bỏ mạng…!

- Anh bị tụi nó thử lửa đó, nhập gia tùy tục, nhưng phải nhớ nhập giang phải tùy khúc, vì vậy cái ĐĐ nầy mang tiếng là “Quậy” nhất của TĐ và cũng mang tên là ĐĐ bị đày đó. Sáng nay Tr/U Thành và Tôi được báo cáo đầy đủ bửa tiệc lòng heo đêm hôm qua, tụi tôi vui lắm cứ cười ha hả và yên tâm với cái phong cách “giang hồ hảo hán” của anh có thể khắc phục tụi nó dễ dàng…Vì trước đây có nhiều SQ chịu không nổi phải xin thuyên chuyển đi nơi khác vì bị chê là cù lần, hách dịch mà lại nhát như thỏ, thượng đội hạ đạp…!!! À… thì ra là thế! … vô tình tôi đã có một “anhdũng bội tửu” được mấy “ông thần” lãng tử biên thuỳ khoái tỷ so cựa đàn anh “Sĩ Quan Sữa” đêm hôm qua có vẽ “ngầu” chơi được…và “tương kính như tân” nên hai “Ông” Hạ Sĩ Nhất tình nguyện đưa lưng cõng “Quan” về trại…!!!


Theo lệnh ngưng bắn, đơn vị được xả trại đón giao thừa Tết Mậu Thân, 1968. Anh Lâu rủ tôi về nhà anh ăn bữa cơm cuối năm với gia đình, Ông Bà Cụ thân sinh và cô em gái, hình như có mặt của Đinh Văn Tiến Hùng, sau bữa cơm, anh cho tôi mượn chiếc xe Vespa của anh rong chơi thành phố… Tôi chẳng có thân nhân, chẳng có bạn bè thân thích, về lại doanh trại thì chỉ loe ngoe chục binh sĩ độc thân đấu láo, tôi ghé cư xá Tổng Hành Dinh tán gẫu với mấy cô Nữ Trợ Tá Xã Hội của BTL, hầu hết họ đã được đi phép về gia đình ăn Tết vui Xuân, chỉ có Trung Sĩ Ngô Túy Lan còn ở lại đơn vị, cô yêu cầu tôi chở ra Chợ Đầm mua ít hoa quả về đón giao thừa, chợ chiều ba mươi Tết vắng tanh, nhưng lùng sục một lúc cũng kiếm được một bó hoa mẫu đơn và trái dưa hấu, vài hộp mứt cho có lệ. Hai tâm hồn cô đơn “xa quê hương nhớ Mẹ hiền”, đốt vài nén nhang, ngồi trước mái hiên chờ tiếng pháo giao thừa trong tĩnh lặng không lời…! Tôi từ giã, định trở về trại, Cô nói:


- Thiếu Úy, nghỉ ở đây đi, nằm trên giường của chị Bé Tư nè (Bé Tư là Trưởng Phòng Xã Hội-BTL), ngày mai tôi nhờ Thiếu Úy chở đi Tháp Bà xin xâm…?
Tôi ngần ngừ không trả lời, vẫn ngồi yên trên cái ghế thấp trước hiên nhà, chợt nghĩ :”…năm nay dân Nha Trang ăn Tết lớn”…!!! mãi tới 2 giờ sáng mà tiếng pháo vẫn còn đì đùng khắp nơi…!!! Ở đây tôi và Lan cảm cảnh “Xuân Nầy Con Không Về” …! Chạnh tình Lan kéo chiếc ghế xích lại gần nhè nhẹ ngã đầu vào vai Tôi, ánh mắt đen huyền nhìn lên bầu trời khuya lơ lửng ánh sáng hỏa châu chiếu rọi và rồi tiếng động cơ L19 bay lượn vòng vòng thả trái sáng với tiếng loa phóng thanh từ trên không vọng xuống :

“Tất cả các quân nhân đồn trú thuộc Quân Trấn Nha Trang, bằng mọi phương tiện phải trình diện đơn vị ngay tức khắc, và cũng ngay lúc này lệnh giới nghiêm được ban hành toàn Thị Xã Nha Trang đến khi có lệnh mới “…

-Thiếu Úy chuyện gì vậy…? . Túy Lan hỏi Tôi.

-Tôi không biết…! Lệnh phải trở về trình diện ngay tức khắc, và cũng là lệnh giới nghiêm…Mình chờ chút nữa xem sao ?

Loa phóng thanh từ chiếc L19 bay lượn quanh, vẫn lập đi lập lại nhiều lần cảnh giác… Nhưng tiếng pháo từ tứ phương đông tây nam bắc vẫn tiếp tục nổ đì đùng vang dội xen lẫn với tiếng súng Ak của VC nổ từng tràng… Thôi, như vậy là có biến rồi, từ cư xá này đến BTL chỉ khoảng chừng 500 mét...? Tôi bất chấp lệnh giới nghiêm nói với Túy Lan :

- Tôi phải đi ngay.

- Thiếu Úy chờ một chút ?

Cô vội vã thay quần áo nhà binh, nhẩy lên sau chiếc Vespa, tôi nổ máy phóng vội về BTL. Việt Cộng đã tấn công toàn thể Thị Xã Nha Trang đúng vào lúc giao thừa. Tình hình an ninh của Thị Xã đang đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp, ngay cả Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, Tư Lệnh LLĐB, kiêm Quân Trấn Trưởng cũng chưa biết chắc chắn những gì đang xảy ra trong đêm Giao Thừa loạn lạc nầy, Ông chỉ biết VC đang đột xuất tấn công Nha Trang…?! Tôi phải đợi đến 5 giờ sáng, một xe GMC đưa khoảng vài chục binh sĩ về lại TĐ91BCND, Thượng Sĩ Mười, thường vụ ĐĐ vừa nhảy xuống xe, chạy vội tới đôn đốc binh sĩ chuẩn bị tác chiến và đưa cho tôi cái áo giáp, khẩu súng Colt45 và cây Carbin M2 bá xếp với giọng nói không còn bình tĩnh như thường ngày và hốt hoảng :

-Thiếu Tá Tú TĐT, Trung Úy Tùng ĐĐT/ĐĐ4 đã tử trận, Trung Úy Thành ĐĐT của mình bị thương nặng, đã được đưa vào bệnh viện Nguyễn Huệ, Trung Úy Lâu vừa rời khỏi đây chừng nửa giờ…! Thiếu Úy lên xe cùng với mấy anh em, đường Duy Tân còn an ninh, không nguy hiểm lắm, cứ chạy thẳng đến Dinh Tỉnh Trưởng Khánh Hòa thì gặp Trung Úy Lâu ở đó… Nhớ lời Tôi dặn, tìm Ba Bứng, Thạch Sương, Kim Chơi và ở bên cạnh tụi nó… Thiếu Uý đừng nổi máu anh hùng rơm mà bỏ mạng…!

Tôi bàng hoàng và cảm động muốn rơi nước mắt ! Suy nghĩ vừa mới tốt nghiệp Võ Bị với hành trang lý tưởng nào là: Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm, Cư An – Tư Nguy , Tự Thắng để Chỉ Huy … mà hiện tại bây giờ đang đứng trước hoàn cảnh bất chợt phải “ba quân trong tay ta” xông lên tử chiến với quân thù “sinh Bắc tử Nam” với nhiều huyền thoại từ những “nhà” phóng viên, báo chí truyền thông Âu-Mỹ phản chiến, thân Cộng rêu rao thổi phồng chúng như đoàn quân thiện chiến nhất hành tinh nầy vậy …! Biết thế, nhưng tôi vẫn có nhiều bất an và hình như tôi đang quên đi hết những gì được thụ huấn trong quân trường…?! …hiện trạng tôi chỉ có vâng lời người Thượng Sĩ già lớn tuổi hơn mình, đã trải qua bao nhiêu năm chiến đấu trên khắp mặt trận, dầy dặn kinh nghiệm chiến trường … Bất chợt tôi choàng tay ôm TS Mười xiết thật chặt thân tình rồi lên xe, nhìn đồng hồ đang 6:30 giờ sáng ngày mùng một Tết, tôi dẫn quân lên đường và sau cùng cũng tìm đến được Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn, gặp anh Trung Uý Lâu ở phía sau bên cạnh bờ tường của Dinh Tỉnh Trưởng Nha Trang. Anh bảo tôi:

- Anh lách qua bên phải gặp Trung Đội 1 và 2 bên đó…hãy cẩn thận, chết và bị thương nhiều lắm rồi…! Bảo thằng HSN Bảo đưa cái máy PRC25 cho anh… Anh mang nó vào lưng và liên lạc trực tiếp với Tôi.

Tôi lom khom chạy sau bờ tường gặp ngay cái nhóm mắc dịch” lòng heo và Black and White” đang nốc rượu đế từ cái bi đông chuyền tay, Kim Chơi nhoài người đạp tôi một cái ngã nhào xuống đất, bên trái là hai chiếc thiết vận xa đang hụ máy sắp sửa ủi hàng rào tấn công vào Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận 5. Kim Chơi cười cười, Kim Sua nói :

- Cha nội, lúc này là phải bò, phải trườn, cứ tưởng đang đi dạo phố thì đi đời nhà ma đó cha nội…!!!

Hai chiếc thiết vận xa vượt hàng rào bắn phá ...Òanh, Òanh, Òanh... rồi một chiếc bị lãnh một trái B40, cài số de, ủi sập bờ tường, cán lên cả BCH/TĐ, làm cho Đại Úy Nguyễn Quang Vinh TĐP bị giập xương sống, phải tản thương khẩn cấp…! Trung Uý Lâu lòm còm bò lê, bò lết hồn phi phách tán…Oành, Oành, Oành… Tôi cảm thấy tay trái tê buốt, nhìn qua thấy máu tuôn xối xả cả cánh tay trái. Ba Bứng nóng mặt hét to: “ ĐM chơi luôn” hai tay ôm cây đại liên 30 không có càng nhào lên, “cái Bang” trại gia binh cùng nhào lên theo…. Ôi…! Nó tuyệt vời làm sao, như đang xem phim đổ bộ bờ biển Normandi: Tám chàng lính Miên, lính Nùng, lính Thượng… lom khom chạy nước rút bám được vào chân tường phía trước của Bộ Chỉ Huy TV5, Kim Chơi vói tay quăng trái lựu đạn lọt qua lỗ hổng của khung cửa sổ, trái thứ hai, trái thứ ba… Thạch Sương ngồi xuống làm điểm tựa để cho Kim Chơi nhảy đứng thẳng lên vai, Thạch Sương đứng dậy để cho Kim Chơi mượn đà nhẩy qua cửa sổ vào phòng, cứ thế 8 cảm tử quân yên hùng lao vào chiến trận cứ như “điếc không sợ súng” xem “mạng sống nhẹ tựa lông gà” khinh địch như n’est ce pas dưới quyền chỉ huy của Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Thành, trong chớp nhoáng 8 “ông thần bán trời” đã xâm nhập vào “hang ổ” VC như chỗ không người, tuyệt vời hơn phim ảnh Hollywood đang trình chiếu toán Navy Seal hay Delta Force của Mỹ đang thi hành công tác đặc nhiệm…!!! Trung Sĩ Nhất Tiên (y tá) đang băng bó vết thương ở cánh tay trái của tôi, thì Tr/U Lâu cũng vừa đang “bò” tới dưới hoả lực của cây thượng liên VC đang bắn nổ dòn dã trên những cửa sổ lầu hai. Anh ra lệnh :

- Trung Sĩ Tiên, đưa Thiếu Úy Út ra phía sau và tản thương ngay.

Hai năm trong trường VBĐL, chúng tôi chỉ thực tập tác chiến trên chiến trận giả, bắn súng thật với đạn giả, chạm địch-bạn cũng giả… Nay mới về đơn vị chỉ vỏn vẹn có 5 ngày (thâm niên) chưa có chức vụ gì dù là Tiểu Đội Trưởng, ngơ… ngơ… ngáo… ngáo như Mán về thành, loay hoay không biết phải làm gì…trong khi những tay súng thiện chiến lỳ lợm cự phách, già dặn, tinh ranh trận mạc “đánh như chơi” như game of death , giỡn mặt với tử thần chung quanh mình “oánh giặc” như đang diễn tuồng xiếc…!!! Không cần đợi lệnh, những “Kinh Kha Việt” tân thời gan dạ thành thạo xông vào màn lưới đạn pháo bắn như rãi… thái độ ung dung hỗ trợ nhau, vai sát vai lìền lạc tấn bước bám từng góc nhà, bờ tường len lỏi thanh toán xoá sổ từng tổ, từng chốt … không một tiếng hô xung phong và cũng không cần phải chờ hiệu lệnh chỉ huy, họ biết tự giải quyết những tình huống sinh tử cho chính bản thân và nếu chẳng may ngã xuống tại trận tiền ví như thua một cây “phé”, lỡ một nhịp đời chịu đựng cơn đau xé trời xanh, hồn bay bổng theo tiếng súng như cợt đùa với nhân gian phùng thời khói lửa chiến chinh. Nhưng sau chiến trận nghiệt ngã vợ con, thân nhân của Tử Sĩ là cả một trời thực tế đau thương…!!!. Vâng, chính Họ là những Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ thuộc Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù đã cùng tôi chén thù, chén tạc “nhậu” tới bến với “ông già chống gậy” Black and White chỉ mới vài ngày qua ở trại gia binh.

Thị Xã Nha Trang và các vùng lân cận đã được giải toả hoàn toàn trong khoảng thời gian hai ngày. Tôi nằm ở Bệnh Xá THD/LLĐB theo dõi tin tức hằng ngày và biết ở các Tỉnh, Thành khắp nơi cũng tình trạng tương tự như thế … và đặt đến khó hiểu là toàn bộ lực lượng Quân Đội Mỹ trong những ngày đầu Chiến Trận Mậu Thân 1968 có lệnh án binh bất động không can thiệp, không chạm súng với VC, như đã có thoả ước bí mật, nếu không nói là đã âm mưu, đồng loã hỗ trợ ngầm cho VC lợi dụng tình trạng hưu chiến để tấn kích Quân Dân miền Nam ngõ hầu chiếm đoạt và tận diệt thể chếTự Do Việt Nam Cộng Hoà…?! Tôi được xuất viện, trở về trình diện ĐĐ, Tr/U Lâu giờ là Quyền ĐĐT/ĐĐ3, Đai Úy Wòong A Si ĐĐT/ĐĐ4, Đại Úy Khánh Cao Bồi là Quyền TĐT.

Trong phòng thuyết trình hành quân, Tr/U Lâu ban lệnh:

- Bây giờ là 9 giờ, chúng ta chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa để ra phi trường, chuẩn bị 3 ngàyăn (Ration C), đi đâu và làm gì sẽ có lệnh sau, Th/u Út giữ chức vụ Trung Đội Trưởng Trung Đội súng nặng kể từ giờ phút này… Thôi các Anh về lo cho Trung Đội đi.


Vì Quân Đội Mỹ chưa có lệnh tham chiến, cho nên chúng Tôi nhẩy bằng CH34 của Phi Đoàn 215 Không Quân Việt Nam đảm trách chuyển quân thả chúng tôi thâm nhập Mật Khu Đồng Bò nằm phía Bắc thành phố Nha Trang chừng chục cây số, xa nữa là khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn… Chúng tôi bố trí hành quân thần tốc tảo thanh truy lùng cán binh Vc từng khu vực mãi cho tới 3 ngày đêm chỉ chạm súng lẻ tẻ vô sự như đi cấm trại, chẳng có gì đáng kể… Nhưng tôi có dịp chỉ huy, tiếp xúc làm thân quen biết thêm được Binh Lính của đơn vị và những biệt tài sở trường của mấy “ông thần” Black and White như : Kim Sua xử dụng súng cối bằng đầu gối, Ba Bứng, Thạch Sương xử dụng đại liên 30 không cần càng, Y Khương hai tay xử dụng Garant M1, phóng lựu một cách chính xác như thẩy lỗ (thời điểm này TĐ91BCND chưa được trang bị súng tự động M60, AR15, M16, M79)..!!!


Cuối tháng 2 (Tết Mậu Thân-1968), Trung Úy Huỳnh Văn Thanh thay thế Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu, Thiếu Tá Trần Phương Quế làm Tiểu Đoàn Trưởng. Trung Tâm Hành Quân Delta, TĐ 91BCND (chỉ có 3 ĐĐ1, ĐĐ3, ĐĐ5) được một phi đoàn trực thăng 281 không số, không cờ, không huy hiệu của Quân Đội Hoa Kỳ không vận ra Phú Bài, Huế, tham dự Hành Quân Delta 35, trong tình trạng thành phố Huế đang dần dần phục hồi sau hoang tàn đổ nát và Thành Nội, Kỳ Đài còn ghim đầy dấu đạn… Cuộc hành quân dã chiến tại Huế đã ổn định xong, 3 ĐĐ được phi đoàn 281 trực thăng vận bốc thẳng vào ngay thung lũng Ashau, A lưới thả xuống hành quân tảo thanh truy kích địch tiếp tục…Tính ra kể từ ngày ra trường cho đến hôm nay, đây mới đúng nghĩa là cuộc hành quân của TĐ91BCND/LLĐB. Ngồi trên trực thăng UH1B, truớc sau đội hình bay là một hàng dài trực thăng nối tiếp nhau với tiếng động cơ và cánh quạt phành phạch xé gió lao vào vùng hành quân, tôi nôn nao thầm đếm không biết bao nhiêu chiếc nữa, bên hông trái phải là 4 chiếc Cobra Gunship trang bị hoả lực kinh hoàng oai dũng , uy vũ như thiên thần hung tợn bay lượn tới lượn lui mở đường, hộ tống bảo vệ đội hình và sẵn sàng phóng tối đa lưới đạn, hoả tiễn vào mục tiêu đối đầu… Bỗng dưng tôi nhớ đến bài hát Biệt Kinh Kỳ “giữa đoàn hùng binh có Tôi đi hàng đầu, trở về thủ đô nắm tay ta mừng vui...” và niềm kiêu hãnh vô hình đang dâng trào lên lồng ngực, tôi vỗ vai thân thiện Ba Bứng đang ôm chặt khẩu đại liên 30 không càng. Trực thăng đổ quân trên bãi đáp là một địa điểm hình yên ngựa thoai thoải, Gunship bay lượn quanh vùng để hỗ trợ, binh lính ĐĐ3 túa ra thành thạo tự sắp xếp đội hình tác chiến, từng bước, từng bước dọ dẫm tiến lên ngọn đồi trước mặt, ĐĐ1 và ĐĐ5 được đổ xuống khoảng 15 phút sau đó. Vì là Trung Đội Trưởng súng nặng nên Tôi đi bên cạnh Tr/U ĐĐT HVThanh, ba trung đội kia, một trung quân, một tả quân, một hữu quân…Bỗng Ầm...Ầm...Ầm, Oành…Oành…Oành… cây lá cành gẫy đỗ ngã ập xuống trên đầu chúng tôi như cơn bão táp với sức cuồng phong bốc lửa…!!! Trung Úy Thanh ngã quỵ với đôi mắt trợn trừng, Y Tá Tiên nhào tới đỡ anh nằm xuống, lính quýnh mở hộp cứu thương, một viên đạn AK đã vào xé lồng ngực của anh Thanh, Kim Sua vất khẩu súng cối 60 ly nhào tới ôm tôi, cả hai ngã lăn cù trên mặt đất cùng lúc tôi nghe một tiếng nổ long trời trước mặt, tôi bị bứng văng xa, ngực trái của tôi ướt đẫm máu thấm ra ngoài cả áo giáp, Y Tá Tiên bò tới sờ ngực tôi, mắt tôi lờ đờ , anh bỗng òa khóc, tôi thiếp đi dần… dần không còn biết gì nữa…!

Thời gian qua đi không biết bao lâu…? Khi tỉnh dậy, tôi đang nằm ở Bệnh Viện 3 Dã Chiến của Hoa Kỳ Phú Bài, Huế, bác sĩ Mỹ chăm sóc cứu chữa và cho biết: Tôi lãnh trọn một trái Beta vào ngực, nhưng may nhờ cái áo giáp nên miểng không xuyên phá vào sâu được, bác sĩ đã gắp ra hết chỉ còn một mảnh nhỏ ở ngay bên ngực trái không nên mổ vì sẽ chạm hệ thống thần kinh nguy hiểm, vài ngày sau đó tôi được chuyển về bệnh viện Duy Tân, Đà Nẵng. Nhập viện, “bố khỉ” lại “hội ngộ” bạn Thiếu Úy Nguyễn Hiền nằm bên cạnh với cái chân trái treo tòn teng trên giá cuối giường…!!!

Vài ngày sau đó, phái đoàn Phòng Xã Hội BTL/LLĐB đến thăm, có Trung Sĩ Túy Lan tâm tình đêm giao thừa vừa qua đi trong phái đoàn uỷ lạo thương binh và “ngộ” cố nhân nên Cô ở lại bệnh viện hai ngày trực tiếp chăm sóc cho tôi và kể :
- Thiếu Úy biết không, khi nghe tin ĐĐT/ĐĐ3 và Thiếu Út tử trận, TĐ thiệt hại nặng, Túy Lan điếng người, gọi điện thoại lung tung, mấy ngày sau mới biết tin chính xác. Trung Úy Thanh được đưa ra Đệ Thất Hạm Đội, mổ khẩn cấp để gắp lấy viên đạn AK (vì vậy sau này mới có tên là Thanh AK) tình trạng khả quan, còn Thiếu Úy được đưa về Đà Nẵng, tổn thất của ĐĐ rất nặng với 12 chết, 27 bị thương nặng nhẹ, may là TĐ được bốc ra ngay, nếu không thì chẳng có người nào được trở về…!

Một tuần sau tôi xuất viện, được nghỉ phép 29 ngày chờ tái khám. Khi trở về đơn vị thì tân ĐĐT là Trung Úy Ngô Tùng Lam (Khóa 11TĐ), TĐ91BCD được cải danh TĐ81BCD, mấy “ông thần” Black and White đưọc bình an vô sự, chỉ có Hạ Sĩ Nhất Mang Đen còn nằm nhà thương vì câu nói bông đùa thường nhật của anh: “… cắt cổ không bằng đổ rượu” bây giờ thì anh bị đổ ruột…!

Cuối tháng 4 năm Mậu Thân, 1968, lệnh hành quân về Sài Gòn vì Việt Cộng tấn công đợt hai, chiếm vùng Cây Quéo, Cây Thị (Bình Hòa- Gia-Định), Trung Đoàn chủ lực miền Quyết Thắng của VC đã xâm nhập vào đây và bám trụ rất chặt trong từng nhà dân chúng… Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù quần thảo với chúng nó cũng đã nhừ tử rồi, nhưng chưa bứng chúng được là vì lệnh trên không cho phi pháo yểm trợ vào khu dân cư đông đảo…! Giải pháp và quyết định tối hậu sau cùng là chỉ có lực lượng Delta 81BCD với sở trường “vạc ăn đêm, mèo bắt chuột” là trừ khử con cháu “bác và đảng” giặc từ miền bắc vô đây, bàn tay vấy máu dân lành… và chỉ có Delta 81BCD đột kích từng căn nhà trong đêm mới có thể “móc” ra được loại quỉ vô thường VC ra khỏi hầm hố đào bới, bám trụ trong nhà phố cư dân… vì địch ở trong thế bối thủy sinh tử chiến: hoặc chết hết hoặc đầu hàng mà thôi …! Quả thật, các cấp chỉ huy đã có quyết định hành quân chính xác khi xử dụng Delta 81BCD trong mặt trận này. Như qui luật bất thành văn: “Biệt Kích Dù Anh Hùng Vô Danh” nên “mèo bắt chuột” thì chẳng có gì kể lể chiến công. Nhưng sau khi đã bứng và tống khứ, đưa tiễn linh hồn cán binh VC ra khỏi vùng chiếm đóng, để trả lại sự bình yên cho dân chúng sau những ngày tháng tang tóc và nỗi chết luôn chực chờ … Người chiến sĩ Delta 81BCD đã được Quân-Dân miền Nam biết đến và hâm mộ, thương yêu những “Kinh Kha Thời Đại”, với những chiến công sát cộng Bảo Quốc – An Dân từ Tết Mậu Thân Đợt I và Đợt II qua hệ thống truyền thông, truyền hình, báo chí,… Đi với tôi có phóng viên Dương Phục của Trung Tâm Điện Ảnh Quân Đội làm phóng sự, tháp tùng bên cạnh tôi là Ba Bứng với cây đại liên M60 mới toanh, Kim sua ôm khẩu phóng lựu M79 cáu cạnh vừa mới xử dụng một ngày trước đó, Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Thành, Trung Đội Phó của Tôi. Tôi nhớ lại mới mấy ngày đêm vừa qua khi tôi chỉ huy dẫn các toán Delta xâm nhập vào từng căn nhà vào lúc nửa đêm về sáng, ĐĐ2 và ĐĐ3 theo sự hướng dẫn làm mũi dùi chính chiếm mục tiêu: Kim Sua xử dụng súng phóng lựu M79 bắn chính xác rót vào mục tiêu như “thẩy lổ” Bụp...Bụp...Bụp... vừa bắn vừa nói lầm bầm : “nè…cho mày ngụp xuống hầm…rồi …trúng, tapi…cho mầy banh sàrong coi chơi…”. Địch banh xác pháo…!!! Kim Sua xử dụng cây M79 hiệu quả còn hơn súng cối 60 ly…!!! Ba Bứng vừa bắn đại liên M60 nổ dòn vừa chửi thề: “Đ…m… cho mày như con thằn lằn rớt xuống đất… dzô…dzô…dzô con…cho mầy chết nè…nè…” !!! Cho đến khi tàn “cuộc chơi” nhìn thấy những cán binh VC bị bắt với thân thể ốm đói sau nhiều ngày tử thủ, chân mang dép râu chiếc còn chiếc mất, mũ tai bèo tơi tả, mặt mày tái mét thiếu ăn, mất ngủ, ngơ ngáo, nằm bẹp xuống sàn nhà … Chẳng cần bắt trói, tôi bàn giao chúng lại cho toán sau, lại tiếp tục đột kích sang từng căn nhà khác cạnh kề và lại tiếng súng nổ, tiếng lựu đạn nổ và thây người cán binh ngã xuống, chẳng thèm thu nhặt chiến lợi phẩm súng ống, chúng tôi lại tấn kích tiếp tục sang từng căn phố, cho đến khi tất cả 167 cán binh thuộc Trung Đoàn Quyết Thắng may mắn sống xót, tháo chạy về hướng cầu Băng Ky và đầu hàng với cánh quân TQLC ở ngã năm Bình Hòa, Gia Định. Tôi được thăng cấp Trung Úy tại mặt trận và làm Đại Đội Phó từ đó. Tiếp đến Đại Đội lại được điều động qua cầu Nhị Thiên Đường, bên Phạm Thế Hiển, nơi đây xảy ra nhiều chuyện nửa khóc nửa cười: Ba Bứng say rượu vác đại liên bắn chỉ thiên, rượt Đại Úy ĐĐT Ngô Tùng Lam chạy bán sống bán chết vì bị phạt cạo đầu nhốt chuồng cọp ba ngày với cái tội nói chuyện với ĐĐT mày tao, Thạch Sương, Mang Đen hai tay với hai quả lựu đạn mở chốt tìm ĐĐT nói chuyện phải trái vì tội vô kỷ luật, Thiếu Úy La Lưu Ý với mối tình ba ngày với cô học sinh lớp đệ tam trường trung học Cần Giuộc, kết quả là cô tự vận chết, La-Lưu Ý ăn năn, cạo đầu ăn chay xin xá tội...!

ĐĐ3/81BCND của tôi đó…!!! Chỉ có bốn tháng kể từ ngày ra trường trải qua với bốn cuộc hành quân, bốn vị ĐĐT, một bị cưa chân, một bị lãnh viên AK vào ngực trái, ba vị Tiểu Đoàn Trưởng, tôi bị thương hai lần…. Một điều lạ là cái “Băng lòng heo luộc Black and White” Thượng-Miên- Nùng thuộc Đại Đội 3 TĐ81BCD bình an vô sự , không hề hấn gì. Chắc có lẽ cũng vì thế mà đúng một năm sau vào tháng 5 – 1969, tôi được bổ nhiệm làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 5 chỉ mới có 23 tuổi đời, một “ĐĐT Sữa” của Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù đơn vị ưu tú và thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà lưu danh trong dòng Chiến Sử sánh vai với tất cả Quân Binh Chủng Miền Nam Việt Nam trong suốt 21 năm Cuộc Chiến Quốc-Cộng và hiện tại ở đây, quê người bình yên đến buồn an lạc… Tôi vẫn luôn hoài niệm chiến trường xưa khi mà “Thiên Địa phong trần, du du bỉ phương” hà thời …Ôi, …nhớ sao là nhớ những binh sĩ và “Giàn” Hạ Sĩ Quan “Thần kinh Quỉ khiếp, banh sà rong coi chơi” Thượng-Miên-Nùng và những ngày xưa thân ái “Huynh Đệ Chi Binh”…Và:

Bằng Hữu ơi, mai ta về rừng lá
Chốn phiêu bồng cây cỏ cũng rong chơi
Giã từ người đêm sau cơn nguyệt hạ
Thả thơ thuyền cho trôi dạt mù khơi.

Mai đi thật xa ta đi thật xa…
Chuyến tàu đêm có đỗ bến quê nhà
Anh Em tứ tán trôi vô định
Nước mắt hay sương đêm đã nhạt nhoà!

(TGD)
Trương Văn Út (MũĐỏ ÚtBạchLan)
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »


Image

Cai Tù Việt cộng
Phạm Kim Khôi

1. Như hàng ngàn nhà tù khác, Việt cộng đã dựng lên sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, ngày cuối cùng của hạn kỳ 10 ngày do chính chúng quy định cho Sĩ Quan cấp Úy đi “học tập cải tạo” đã qua tại nhà tù Long Giao. Nỗi hoài nghi về sự lừa gạt của Việt cộng càng ngày càng trở thành chính xác khi tuần thứ 10 cũng đã qua luôn.

Cái án tù vô hạn định không hề tuyên bố đang chính thức được thi hành để hủy diệt dần mòn số phận toàn thể Sĩ Quan của một quân đội thua trận vì bị Đồng Minh phản bội.

Trước khi chuyển tù từ các nơi tập trung ở Saigon về Long Giao, cán bộ Việt cộng phụ trách công tác tuyên bố:”nhờ chính sách khoan hồng đại lượng của cách mạng hôm nay các anh được đưa đến 1 địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi để học tập cải tạo…”, tới nơi mới thấy địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi là 1 chỗ không có lấy một cái cầu tiêu, không một miếng ván lót nằm.

Thêm chuyện lạ khó tin nhưng có thật với nhân chứng gồm hàng trăm ngàn người đi ở tù, đó là ở tù phải đóng tiền cơm! Chỉ sau khi đến Long Giao tới ngày thứ hai, toàn thể tù nhân bị bọn cai tù bắt nộp tiền cơm. Chúng biết thóp ai cũng mang theo vài ngàn để phòng thân nên vét trọn được một mẻ rất khá.

Đểu cáng là tuy đóng tiền cơm, nhưng hàng ngày nhà bếp tù chỉ được phát gạo mục rỗng ruột. Thứ gạo bỏ vào nước vo nổi nhiều hơn chìm. Kết quả sau một thời gian ngắn, rất nhiều người bị mắc bệnh phù vì thiếu sinh tố B1. Chân người bệnh sưng mọng lên gấp hai ba lần khiến cho việc đi lại thật khó khăn. Dã man hơn nữa, có khi Việt cộng còn phát ra những bao gạo trộn đầy đất cát.

Thứ gạo này khi nấu thành cơm cả trại đều nhăn mặt người nghĩ cách đổ đầy nước vào nửa chén cơm rồi lấy đũa khuấy thật mạnh cho sạn cát lắng xuống nhưng cũng không thể nào lọc được. Cơm và đất cát đã dính bết vào nhau rồi. Cả ngày hôm đó cơm tù còn nguyên. Anh em đợi bọn cai tù xuống nói rõ sự việc, nhưng bọn này nghe xong thản nhiên trả lời :

- Các anh phải khắc phục.

Bệnh tật phát sinh trong trại tù mỗi ngày một tăng. Phụ trách y tế trại là một con y tá vườn. Con này mới bò từ rừng ra sau ngày 30-4-75. Hàng ngày nó ngồi vênh váo bên trong khuôn cửa sổ căn nhà dùng làm trạm y tế để làm việc.

Tù bệnh buổi sáng đến ngồi chờ bên ngoài lần lượt tới khai. Bất cứ bệnh gì, con này cũng khủng khỉnh cho toa điều trị 1 cách quái đản. Giữa năm 1975 không ai có thể ngờ y tá Việt cộng lại có cách chữa bệnh bán khai đến như vậy :

- Bệnh gì?

- Tôi bị phù, người mỏi mệt, đau nhức toàn thân.

- Xuống nhà bếp xin nước vo gạo đun lên mà uống.

- Bệnh gì?

- Tôi bị tiêu chảy.

- Tiêu chảy ra làm sao?

- Tôi bị đi cầu nhiều lần trong ngày.

- Nhịn ăn, ra chỗ hàng rào, hái lá ổi đun lên mà uống.

- Bệnh gì?

- Chân tôi bị lưỡi cuốc văng vào làm độc có mủ nhiều ngày nay rồi.

*****

Thằng Quản giáo, cai tù trực tiếp coi mỗi buồng, sau khi nghe báo cáo thiếu hai người. Mặt nó tái đi. Tuy nhiên nó cũng vào tận nơi xem xét lại chỗ nằm của 2 người. Sau đó nó chạy về Bộ chỉ huy Trại rồi trở xuống ngay với thằng cán bộ an ninh. Hai thằng chia nhau tém gọn tất cả đồ đạc của tù trốn.

Tối hôm đó cả buồng 5 phải ngồi sinh hoạt kiểm điểm, dưới sự theo dõi và chất vấn của thằng Quản giáo. Mọi người đến phiên phát biểu ý kiến đều cả quyết xác nhận không hề hay biết gì về âm mưu của hai người trốn trại.

Thằng quản giáo cố nén tức giận thông báo phịa: “Tôi cho các anh biết 2 tên phản động trốn trại bị bắt lại rồi. Hiện nay trại đang có biện pháp xử lý 2 tên này. Các anh lấy đó làm gương. Đừng bao giờ dại dột mà trốn trại. Các anh có trốn cũng không thể nào thoát được. Vì khắp nơi nhân dân ta đều là tai mắt của Đảng và nhà nước.”

Mặc dù bọn cai tù Việt cộng hết sức dọa nạt để ngăn chặn nạn trốn trại, nhưng không bao lâu một vụ trốn trại đông hơn trước lại xẩy ra. Lần này anh em ở nhiều buồng đặt kế hoạch chung nhưng họ lại thiếu may mắn hơn 2 người lần trước.

Sau vài ngày, xảy ra vụ thứ hai. Cả trại chứng kiến cảnh ba người bị dẫn giải về. Cả 3 quần áo rách tả tơi, tay bị trói quặt về phía sau bằng dây kẽm gai, mặt mày sưng húp, bầm máu. Họ đi không còn vững, lúc nào cũng chỉ chực ngã chúi về phía trước.

Sau khi được nhá cho mọi người thấy, họ bị nhốt ngay vào những cái cũi tù mà muốn ngồi dậy phải cúi đầu thật thấp. Anh em dò hỏi mới hay toán vượt ngục thất bại gồm 7 người. Bốn người đã bị bắn chết trong rừng. Ba người còn lại không bị bắn nốt vì sau khi tra tấn họ chết đi sống lại nhiều lần, bọn cai tù thấy rồi cũng chết, nên mang về trại để dằn mặt những người khác.

Lần này các đội tù không bị bắt sinh hoạt kiểm điểm về việc trốn trại nữa. Bọn cai tù sợ phản tác dụng nếu công khai hóa liên tục những tin tức loại này.

Tuy nhiên thằng quản giáo vẫn lên giọng răn đe: “Hiện nay trong trại ta vẫn còn những kẻ ngoan cố, chúng muốn coi thường luật pháp XHCN, đang âm mưu trốn trại để tiếp tục chống phá cách mạng. Nhưng không được đâu. Kẻ nào có ý đồ làm những chuyện dại dột đó sẽ bị trừng trị đích đáng như các anh đã thấy. Bốn tên cực kỳ phản động, chống đối đến cùng đã bị chính nhân dân ta bắn hạ. Ba tên còn lại nhờ vệ binh can thiệp kịp thời đưa về trại. Nếu những tên này biết ăn năn thật tâm hối cải thì sẽ được hưởng chính sách khoan hồng. Đây là lần chót để các anh suy nghĩ học tập cho tốt.”

Khoan hồng đâu không thấy, chỉ thấy vài ngày sau hai người trong cũi đã chết tại chỗ. Còn 1 người nằm mê man, bất tỉnh không ăn không uống nổi nữa, bọn cai tù nói là cho đi viện, nhưng có lẽ là viện dưới âm ty.

Lần này bọn cai tù có vẻ yên tâm vì cả 7 người trốn trại đều bị chúng bắn hạ hoặc tra tấn đánh đập rồi cũng chết luôn trong cũi. Biện pháp đó tưởng đâu đã bóp chết được phong trào trốn trại. Trái lại vẫn có những anh em tiếp tục quyết tâm tự cứu. Trước sự gan lì này, bọn cai tù chơi trò khác.

Chúng bày ra tòa án, cố tạo không khí nghiêm trọng để xử người trốn trại. Một buổi sáng cả trại nghỉ lao động. Từng đội sắp hàng cạnh nhau trước loa phóng thanh trực tiếp truyền thanh phiên xử Đại úy Thịnh tội âm mưu trốn trại. Riêng thành phần “chức sắc” gồm các lán trưởng, tổ trưởng tù được tham dự tận mắt phiên tòa tại bộ chỉ huy trại. Nhưng xử cái gì nữa, phiên tòa chưa bắt đầu, đã có 1 chiếc xe Molotova chở cỗ quan tài đưa vào trại.

Mọi người nhìn nhau : “xong rồi!” và đúng như thế. Cuối cùng bản án được một thằng Việt cộng mặt đầy sát khí ngồi bàn chánh án tuyên ra 2 chữ vắn gọn: “Tử hình!”. Đại Úy Thịnh bị mang ra bắn trước sự chứng kiến bắt buộc của đồng đội.

*****

Thấm thoát 1 năm tù trôi qua ở trại Long Giao với tất cả 3 lần tù nhân phải làm bản tự khai. Lần nào để tù nghỉ lao động làm công việc này, tên trại trưởng cũng khoác lác phủ đầu: “Hồ sơ lý lịch của các anh, cách mạng đã có đầy đủ. Bây giờ trại chỉ muốn coi xem các anh có thực thà khai báo lại hay không. Căn cứ vào lời khai của các anh, trại sẽ đánh giá chính xác thiện chí học tập cải tạo từng người”.

Sự thực thì bọn Việt cộng chẳng biết cách nào để biết rõ lý lịch từng người trong số hàng trăm ngàn tù chúng giam giữ. Thế nhưng chúng lại rất muốn biết để có yếu tố phân loại, biên chế nhằm áp dụng đúng tiêu chuẩn những biện pháp thích đáng hơn đối với mỗi thành phần.

Hòng chắc ăn, chúng bắt tù khai đi khai lại 3 lần lý lịch của từng người với cùng các câu hỏi giống nhau để khai thác mọi kẽ hở sai biệt nếu có trong lý lịch bất cứ người nào. Sau đó căn cứ vào hồ sơ lý lịch này chúng thực hiện kế hoạch chuyển trại qui mô.

Một nửa số tù đã được chuyển khỏi trại. Những người còn lại đang hoang mang lo lắng thì có lệnh tập trung lên sân Bộ chỉ huy trại để thằng trại trưởng làm việc:

- Hôm nay tôi thông báo cho các anh biết 1 việc hết sức quan trọng để chuẩn bị. Các anh sẽ được đưa tới 1 nơi khác có đầy đủ điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc đi học tập cải tạo. Bây giờ các đội trở về lán thu xếp tư trang cho thật gọn chờ quản giáo xuống hướng dẫn di chuyển.

Hàng ngàn tù nhìn nhau hỡi ôi : Lại đến một nơi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa!

Cái thuận lợi sơ khởi của lần này là tù được đi tàu thủy, con tàu có tên Sông Hương rất đẹp, nhưng đã được bọn cai tù Việt cộng biến thành 1 cái địa ngục nổi kinh hoàng.

Tù từ nhiều nơi cùng lúc được đưa tới Tân Cảng Saigon để tàu chở ra Bắc. Trên boong tàu 1 cửa cầu thang nhỏ được mở ra để tù xuống hầm. Giòng người nối đuôi nhau tụt xuống liên tục suốt từ chiều đến nửa đêm mới hết. Mới đầu người xuống trước còn duỗi chân ra được, nhưng dần dần tất cả phải co chân lại mới đủ chỗ ngồi. Phần cuối khoang chừa lại 1 khoảng nhỏ để làm nơi đại và tiểu tiện.

Chỉ sang đến ngày thứ hai là phân và nước tiểu đã bắt đầu chảy ngược lại phía người ngồi. Nắp cầu thang trổ lên boong lúc nào cũng đóng chặt. Cứ như thế hàng ngàn người đã không đủ khí trời mà thở, lại còn phải hít thêm mùi phân và nước tiểu càng lúc càng nồng nặc.

Ngày nào cũng có vài người ngất xỉu. Xỉu thì nằm đó cho đến khi tắt thở. Anh em chung quanh la hét kêu cấp cứu nhưng khoảng vài tiếng đồng hồ sau nắp thang mới mở để cho 4 người ngộp thở khiêng người hết thở lên boong tàu. Thế rồi các xác chết kia được quăng xuống biển, 1 nơi sạch sẽ mát mẻ hơn dưới hầm tàu, chỗ những cái xác sống đang chịu cực hình ngồi trên cức đái sình thối.

Cái thuận lợi kế tiếp là đi xe lửa Bắc Việt. Tàu vừa cập cảng Hải Phòng, tù được dồn thốc tháo từ địa ngục nổi sang địa ngục lăn. Mỗi toa xe địa ngục này có 2 thằng Việt cộng cầm súng kềm tù leo lên. Khi toa đã chật cứng, 2 cái lưỡi lê được dùng để bắt buộc những người ngồi gần cửa phải rướn người bật ngửa ra phía sau lòi chỗ cho người đang chờ dưới đất lên tiếp. Trong toa người nọ phải ngồi đè lên người kia mới đủ chỗ chứa hết số tù quy định cho mỗi toa. Cửa toa được kéo lại khóa chặt. Trong bóng đêm mù đặc, chuyến tàu đen đưa tù về nẻo Yên Bái. Tới ga khi cửa mỗi toa mở ra cho tù xuống, những người yếu sức quá đã chết ngộp từ bao giờ.

Cái thuận lợi sau cùng và lâu dài nhất là tù được đưa lên địa phận Hoàng Liên Sơn, 1 nơi rừng sâu nước độc vào bậc nhất miền Bắc VN. Ở đây không có người, không có nhà, không có đường đi lối lại mà chỉ có muỗi, vắt, đỉa, bọ cạp và rắn rết. Tù phải tự tay dựng lấy nhà giam chính mình. Nguyên vật liệu là gỗ, tre, giây rừng. Dụng cụ gồm vài con dao rựa với mấy cái cưa cùn. Tuyệt nhiên không hề có 1 cây đinh hay cọng kẽm nào!

Thằng trại trưởng chưa có trại luôn mồm đốc thúc : “Trách nhiệm trước mắt ta là xây dựng trại. Tất cả các anh phải phấn đấu tích cực nhanh chóng hoàn thành công tác được giao phó sớm chừng nào hay chừng nấy.”

Trong sự thiếu thốn dụng cụ vật liệu quá đáng mỗi khi tù gặp trở ngại hỏi thêm bất cứ thứ gì cũng được đáp ứng bằng mồm ngay :”Các anh phải biết lao động sáng tạo chứ. Phải biết tự tạo ra phương tiện mà dùng chứ. Phải biết khắc phục chứ”. Bài thuốc khắc phục đã được cai tù mang ra xử dụng trong mọi trường hợp cần cung ứng bất cứ thứ gì hiện đang thiếu thốn. Khắc phục không hơn không kém nghĩa là chẳng có gì ngoài sức lao động của con người, con vật lao động đúng nghĩa nhất dưới chế độ Cộng sản.

Sau khi có được những cái thuận lợi đặc biệt vừa kể, tù bắt đầu nhận bản án khổ sai biệt xứ đồng đều nhau. Ngay khi trại giam vừa hoàn tất, cai tù qui định chỉ tiêu lao động mới: “Kể từ nay hàng ngày mỗi người các anh phải mang về cho trại một cây gỗ dài ít nhất 5m, đường kính ít nhất 30 phân. Hôm nào có lệnh lấy vầu (một loại tre cực lớn), mỗi người hai cây dài 10m, đường kính ngọn không dưới 10 phân. Trại vừa nhận đủ số dao rừng để phát cho các anh đi lao động mỗi người 1 con. Buổi chiều công tác xong, anh nào trực đội, tập trung dao mang trả kho. Ai làm mất phải chịu trách nhiệm hoàn toàn và sẽ được xử lý thích đáng. Đây là công tác trại giao cho các anh để học tập cải tạo. Vậy anh nào tỏ ra chây lười lao động, cố tình không hoàn tất chỉ tiêu, trại sẽ áp dụng biện pháp cắt phần ăn mỗi ngày.”

2. Thật ra với chỉ tiêu này không ai 1 mình có thể tự hoàn tất. Muốn khỏi bị cắt phần ăn ít lắm 2 người phải cùng làm đổi công cho nhau mới nổi. Tính ra từ mờ sáng xách dao vào rừng, leo lên triền núi hạ xong 1 thân cột, mặt trời cũng vừa đứng bóng. Sau đó 2 người lần lượt khiêng từng chỉ tiêu về đến trại, trời vừa sụp tối. Công việc làm đó mỗi ngày 1 người tù chỉ được ăn vài mẫu sắn có khi thối chảy nhựa vàng khè quá nửa. Thức ăn duy nhất là muối. Cai tù bắt bếp tù hoà muối hột tan trong nước rồi mỗi phần ăn múc cho 2 thìa.

Đây là 1 trong những biện pháp ngừa trốn trại mà chúng nghĩ rằng có hiệu quả vì tù không thể tích trữ muối mang đi. Sau vài tháng liên tục đốn gỗ, nhiều người chịu không nổi đã nằm liệt dù phải nhịn ăn. Nhân tiện bọn cai tù lấy những người hết khả năng đi rừng để thành lập đội rau xanh.

Hôm thành lập đội, thằng quản giáo nói như xỉa xói vào mặt mọi người: “Các anh là những người được trại chiếu cố giao cho công tác tăng gia. Vậy các anh phải thi đua lập thành tích để chứng tỏ thiện chí học tập cải tạo. Triệt để từ bỏ ngay cái lối ăn kỹ làm dối. Nếu không đạt chỉ tiêu sẽ được cho ra lao động ngoài ngay lập tức. Các anh liệu đấy.”

Đội rau xanh gồm 25 người chia ra 3 tổ. Các tổ luân phiên làm các công việc gánh phân, cuốc đất trồng cây và tưới.Muốn có phân, toán công tác hàng ngày phải vét cho bằng hết các hầm cầu nổi của toàn trại rồi mang đổ vào hố ủ phân giữa vườn rau. Nước thì từng cặp xuống tận suối ngoài hàng rào trại khiêng lên. Riêng đất ngày nào cũng phải cuốc xới nếu không sẽ cứng lại rất nhanh. Tuy được trại “chiếu cố” cho trồng rau như một việc nhẹ, nhưng nhờ vậy mà nhiều người cũng đã mắc bệnh kiết ly. và ho ra máu rồi chết nhanh đến không ngờ.

Khoảng 2 tháng một lần, cai tù bắt thu hoạch rau trồng. Xu hào, cải củ, phần củ mang lên nộp vào kho thực phẩm nhà bếp của bọn cai tù; phần lá được phép cung cấp cho bếp tù. Đậu đũa, bắp cải là thứ chỉ riêng nhà bếp cai tù mới được xử dụng. Tuyệt đối cấm tù đụng tới.

Khoai lang khi sắp đào củ, đọt nọn hái mang lên nhà bếp cai tù; lá già cho tù xử dụng. Nói chung tất cả sản phẩm của đội rau xanh làm ra là để cung cấp cho cai tù gồm quản giáo, vệ binh và bộ chỉ huy trại. Để bù vào đó, thỉnh thoảng trại cũng cho đội rau xanh vào rừng hái vài bồ rau tày bay, thứ rau dại, ăn nhiều chừng nào mất máu chừng đó, để bếp tù có đủ rau xanh ăn. Sau vài lần thu hoạch, sản phẩm của đội rau xanh càng ngày phẩm chất càng kém đi. Thằng quản giáo trước còn tập họp đội lại kết tội phá hoại nhưng sau khi theo dõi thấy các tổ vẫn làm công việc đều đặn nó đến tận chỗ tìm hiểu được nguyên nhân chính làm giảm năng xuất là phân bón không đủ tốt.

Đội rau xanh được lệnh tập họp, cứ 2 người một đòn không và 1 thùng đựng phân để đi công tác xa. Trước khi đi thằng quản giáo kiểm điểm: “Hôm nay đội ta nghỉ làm việc ở nhà 1 buổi để đi ra ngoài mua phân bắc. Các anh đã chuẩn bị tốt đòn và thùng chưa?” Anh đội trưởng tù báo cáo đã chuẩn bị xong sẵn thắc mắc hỏi luôn :

- Sao mình không dùng phân trại mà lại phải ra ngoài mua?

- Phân của các anh không có đạm!

Khi mới ra Bắc, tù được nghỉ ngày Chủ nhật. Sau thấy để tù ở không 1 ngày như vậy uổng phí quá, thằng trưởng trại ra lệnh: “Để các anh có dịp phát huy thêm tinh thần lao động XHCN, kể từ nay mỗi sáng Chủ nhật, tất cả các anh phải đi rừng lấy cho trại mỗi người 1 bó củi năm mươi cân.”

Thế là Chủ Nhật cũng như 6 ngày thường, tù tha hồ được lao động. Lao động chẳng những đạt mức XHCN mà còn có cơ tới thẳng luôn mức Cộng sản Chủ Nghĩa nữa. Nhờ lao động như vậy nên không người nào mặt còn hột máu. Họ bây giờ bước đi trong sân trại, chân không còn để lại rõ dấu.

Những hình hài tiều tụy kia đã nhẹ đến mức gần bay lên được tới Thiên Đường đỏ rồi. Đói quá phong trào “cải thiện” (chữ Việt cộng dùng để chỉ việc kiếm thêm đồ ăn ngoài khẩu phần được cấp) ngấm ngầm hoạt động.

Số là mỗi người tù đều mang theo ít nhất một cái lon Guigoz để đựng nước uống hoặc đồ ăn từ khi bắt đầu đi tù trong Nam. Nay ra ngoài Bắc, vật tùy thân này bổng dưng trở thành cái nồi cá nhân lưu động vô cùng hữu dụng. Thôi thì cóc, nhái, rắn, chuột, quả găng, củ mài, bất cứ thứ gì kiếm được trên đường đi lao động hàng ngày đều được cho vào nồi lén nấu chín lên ăn để khỏi phải gục ngã sớm vì những điều kiện “thuận lợi”!

Chẳng bao lâu việc làm này bị bọn vệ binh dẫn đội đi rừng hàng ngày phát giác. Người không may đầu tiên dang luộc sắn bên bờ suối bị thằng vệ binh theo tới nơi bắt quả tang. Nó dí súng vào lưng người tù quát :

- Thằng này, mày đang làm cái gì đây?

Người tù chưa kịp trả lời thì 1 báng súng như trời giáng đã nện xuống lưng. Người tù gục ngã, mồm hộc máu. Thằng vệ binh cười nham hiểm, nhìn người tù quằn quại hồi lâu nó quát tiếp :

- Đứng dậy. Một tay cầm ống bơ gô, 1 tay cầm mấy củ sắn này giơ khỏi đầu đi về trại. Mà cả gan dám ăn cắp sắn của nhân dân để cải thiện hả?

Người tù ngoái cổ lại :

- Tôi không ăn cắp. Tôi đào được bụi sắn hoang này ở trong rừng.

- Mày còn ngoan cố hả?

Một cái đạp tiếp theo của thằng vệ binh làm người tù bổ nhào. Anh loạng choạng lấy lại thăng bằng, giơ cao tang vật lảo đảo bước đi về phía trại. Thằng vệ binh vẫn dí sát mũi súng vào lưng người tù. Máu ở miệng người tù tiếp tục nhểu đầy ngực áo.

Đêm hôm đó cả trại được lệnh tập họp bất ngờ giữa lúc mọi người đang co quấp trong tấm mền mỏng không bao giờ đủ để chống lại cái lạnh tê cóng khắc nghiệt của mùa Đông. Một cái bàn được kê giữa sân, hai bên có hai bó đuốc nứa.

Các đội tù tập họp vừa xong thì thằng trại trưởng, 1 tay cầm cái lon Guigoz tang vật, 1 tay cầm thanh mã tấu xuất hiện. Giữa ánh sáng chập chờn trong đêm tối, nó lù lù tiến đến sát bàn như con quỷ đội mồ. Trước mặt cả ngàn người tù đang run vì lạnh con quỷ nghiến răng, trợn mắt, gào lên:

- Kể từ giờ phút này, không một người nào còn được phép giữ ống bơ gô. Cố tình vi phạm sẽ biết tay. Cho các anh biết tôi căm thù, căm thù cái ống bơ gô này vô cùng. Mở mắt ra mà coi đây!

Vừa nói tay trái nó vừa đập mạnh cái lon Guigoz xuống mặt bàn, tay phải vung mã tấu lên chặt đứt làm hai. Dưới ánh lửa bập bùng khi mờ khi tỏ hình ảnh co quỉ đỏ ghê khiếp, quái dị giơ thanh mã tấu lên cao khỏi đầu rồi chém xuống một cách đầy căm phẫn, man rợ khiến mọi người rợn tóc gáy.

Chặt xong mối thù, thằng trại trưởng ra lệnh tịch thu toàn bộ lon Guigoz ra để trước mặt. Cũ có, mới có. Người một lon, người hai lon lần lượt đều bị vệ binh và quản giáo tước đoạt nhét đầy vào bao bố xách theo. Từ đấy để có cái đựng nước uống, mỗi người tù phải cắt lấy một ống nứa thay thế cho lon Guigoz. Ít lâu sau, bọn cai tù công khai xử dụng những lon Guigoz còn tốt của tù. Tuyệt nhiên không thấy bọn chúng bày tỏ một dấu hiệu căm thù nào đối với vật vô tri nhưng hữu dụng này.

Ở Hoàng Liên Sơn được 2 năm, bọn cai tù phát động chiến dịch đi tiền phương. Thoạt đầu qua những lời quảng cáo úp mở của chúng, mọi người còn lờ mờ về danh từ tiền phương hoặc chỉ hiểu đây là một hình thức chuyển trại. Gần tới ngày biên chế cai tù, từng đội giải thích:

- Trại đã quyết định lựa chọn những đội tiến bộ để đi công tác ở tiền phương. Các đội đi tiền phương là những đội đã có thành tích lao động rất đáng được biểu dương. Những đội không được đi là những đội quá trình lao động chưa tích cực, năng xuất kém. Ngày mai các anh sẽ biết đội mình có được chiếu cố hay không. Tuy nhiên dù đi tiền phương hay lãnh trách nhiệm mới hay ở lại tiếp tục công tác trại, các anh đều phải chứng tỏ quyết tâm phấn đấu hơn nữa để đạt và vượt mọi chỉ tiêu giao phó.

Đến đấy, mọi người đã thấy khá rõ những gì sẽ đến trong những ngày sắp tới : một số anh em lại sắp sửa có thêm nhiều “điều kiện thuận lợi” mới.

Ba phần tư số đội trong các trại bị đưa đi tiền phương. Tiền phương không gì khác hơn là những vùng miền cực Bắc Việt Nam, giáp ranh biên giới Trung Hoa.

Sau khi các đội “tốt” được chiếu cố, các đội “kém” còn lại được dồn chung vào các trại giam gần nhau. Thời gian nặng nề trôi. Kẻ đi tiền phương với người ở lại tưởng đâu không có ngày tái ngộ. Nhưng xây dựng đâu chưa thấy, năm sau khi Trung Hoa đỏ bắt đầu dạy cho Việt cộng bài học thứ nhất thì tất cả số tù bị đưa lên vùng biên giới lại lục tục kéo về nơi xuất phát. Trại nào cũng tiếp nhận một số người về từ cõi chết. Không một ai đi tiền phương về mà còn lại được vóc dáng cũ, mặc dù cái vóc dáng trước đó cũng đã thảm lắm rồi. Đoàn tù di chuyển vào cổng trại không khác nào những bóng ma chơi vơi trên mặt đất. Bộ đồ tù của họ đã trở thành quá rộng. Từ bộ đồ nhem nhuốc lùng thùng đó, người ta đang có cảm tưởng đang ló ra một cái đầu lâu biết nói.

Anh em quen biết chạy lại hỏi thăm nhau được biết khi Tàu cộng bắt đầu tấn công Việt cộng thì các trại được lệnh di chuyển ngay. Họ đi bộ ròng rã từ miền biên giới Hoa Việt trở ngược lại các trại giam cũ. Tất cả đồ đoàn mang theo từ từ rơi dần trên đường về vì không ai còn đủ sức mang nổi bất cứ thứ gì ngoài tấm thân của mình. Mớ đồ tù tối thiểu đã trở thành quá nặng đối với những kẻ đang mất sức đến rụng rời. Dù sao họ cũng còn may mắn hơn non nửa số anh em đã vùi thây trước đó chưa đầy một năm. Tù bị đưa đi tiền phương chết như ra.

Có trại tù chết nhiều và nhanh đến độ cai tù phải phát minh ra một sáng kiến chôn tù rất đúng với danh xưng “đỉnh cao trí tuệ loài người” của Việt cộng. Chúng tính toán nghĩ cách đóng ra một cỗ quan tài rời, gồm 2 phần.

Phần thứ nhất là miếng ván đáy mà xác chết nằm trên đó. Phần thứ hai là cái nắp gồm những miếng ván ba dài hai ngắn. Mỗi lần hạ huyệt xong, cái nắp lại được kéo lên mang về dùng lại cho lần chôn kế tiếp. Nhờ sáng kiến mang đầy tính Đảng này, trại đã tiết kiệm cho nhà nước hàng trăm ngàn đồng về khoản tiền đóng hòm chôn tù.

Việc chuyển tù từ tiền phương về không ngừng lại ở địa phận các trại cũ. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, những thằng cai tù muốn ra vẻ ta đây đã cho tù biết sớm : Các anh sắp được bàn giao cho bộ Nội vụ. Cẩn thận đấy. Bên đó họ không dễ dãi như bên Bộ quốc phòng này đâu.

Theo thói quen dưới chế độ cộng sản Việt Nam, bọn bộ đội rất ghét lũ Công an. Có lẽ chúng ganh tức nhau về phương vị. Bọn cối xanh một thời sinh Bắc tử Nam toi mạng mấy trăm nghìn thằng, trong khi đó bọn cối vàng chuyên môn tà tà ở hậu phương lớn là miền Bắc để chỉ có nhiệm vụ canh chừng cái địa ngục nhân dân này.

Chính vì vậy bọn bộ đội thường gọi tụi công an chuyên mặc đồng phục kaki vàng là mấy con “bò vàng”. Trước mặt tù bọn bộ đội cũng muốn rỏ ra rằng chúng tử tế nhân đạo hơn mấy thằng công an chuyên nghiệp coi tù. Sự thật bọn chúng đều là cá mè một lứa. Tất cả lũ ngợm này có cùng bản chất, thứ bản chất man rợ làm nên những thằng cai tù Việt cộng dù nó là bộ đội hay công an.

Cuối năm 1980 tất cả tù đều được giao cho Công an quản trị. Phân nửa số trại tù ở Hoàng Liên Sơn chuyển tù về Thanh Hóa. Khi tiếp nhận tù các biện pháp dằn mặt của bọn công an ở Thanh Hóa đã chứng tỏ ngay sự không khác biệt giữa cai tù cối xanh hay cối vàng.

Mỗi sáng, sau một đêm nhốt kín, các đội tù phải ra sân tập họp điểm danh. Một hôm có người tù bệnh ra không nổi cố ngóc đầu dậy nhờ anh buồng trưởng báo cáo bệnh với quản giáo rồi gục xuống thiếp đi. Nhưng thằng cai tù lại muốn ra oai. Nó vào tận chỗ nằm của người bệnh ra lệnh :

- Anh kia đứng dậy ra điểm danh. Ai cho phép anh ở lại buồng?

- Tôi bịnh quá ngồi dậy không nổi nữa, đã nhờ anh buồng trưởng xin phép cán bộ.

- Mày nhất định không ra hả?

- Tôi dậy không nổi chứ không phải…

Người bệnh chưa kịp nói hết câu, thằng quản giáo tay cầm sẵn cái khóa cửa đã đập thẳng vào mặt người tù. Máu me phun ra lênh láng. Cả đội đứng ngoài sân nhớn nhác khi nghe tiếng người tù bị hành hạ kêu rên thảm thiết. Ngay khi đó hai thằng vệ binh vác súng chĩa lưỡi lê chạy vào tăng cường.

Sau khi đập vỡ mặt người tù, thằng quản giáo chưa hả giận. Đợi lúc cả đội đã ra ngoài bãi, nó dặn hai thằng vệ binh ở lại quan sát cho kỹ để nó trở về buồng giam tính chuyện. Thằng khát máu này rũ thêm ba thằng quản giáo khác đội cùng về với nó để lôi người tù bệnh ra một chỗ khuất trong trại bề hội đồng tiếp. Khi đội trở về buồng sau giờ lao động, tất cả mọi người sững sờ, thất kinh trước tấm thân như một đống thịt mềm nhũn của người tù vừa bị bốn thằng cai ngục làm thịt.

Cứ vài ngày trong trại lại có người bị bọn cai tù kết án chống đối, phản động. Bản án được đọc cho cả trại nghe trước khi xuất trại lao tác. Sau đó người tù bị đưa đi cùm. Dĩ nhiên, trước đó là một trận đòn mềm xương. Khi bị cùm, hai chân người tù phải xỏ vào hai lỗ cùm mà phần trên được đè xuống bằng một thanh sắt tròn. Thanh sắt này xuyên ra bức tường phía sau ngục. Phần ló được uốn thành vòng tròn để người bị cùm không thể tìm cách rút vào hòng gỡ cùm, đồng thời cũng là phần để thằng gác ngục kiểm soát.
Image
Cách kiểm soát của thằng này vô cùng dã man. Thỉnh thoảng nó giơ chân đạp mạnh xuống vòng sắt rồi nghe xem người tù bị thanh sắt nghiến xuống hai cổ chân có kêu rú lên không. Trường hợp có người vì trận đòn khai vị, ngất đi từ trước không kêu nổi nữa, lập tức thằng vệ binh múc nước cống tạt qua khe hở thông hơi của buồng cùm. Bị nước cống đổ xuống đầu, nnười tù tỉnh lại kêu ú ớ. Đó là cách và dấu hiệu để thằng vệ binh xác nhận được rằng tù còn trong ngục.

Tình hình biên giới Hoa Việt càng ngày càng nặng nề. Không khí chuẩn bị học bài học do người anh em láng giềng XHCN giảng dạy đã lan tới Thanh Hóa. Trong khi lao đông chung quanh trại có lần tù đã chứng kiến cảnh những tên công an biên phòng thất tán đơn vị lẻ tẻ vào trại tù xin tá túc tại Bộ chỉ huy. Bọn cai tù cũng không cần giấu diếm. Chúng nói thẳng vào mặt tù :

- Các anh đừng mơ tưởng quân Trung quốc sẽ đến giải phóng các anh. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ giải quyết các anh trước một bước!

Giải quyết trước một bước là gì thật lòng, không người tù nào lại muốn tin rằng mình đã hiểu đúng nghĩa của thuật ngữ này. Nhưng khi các đội nhất loạt phải chuyển công tác đang làm sang việc đào ao thì mọi người bắt buộc hiểu.

Cai tù từng đội giải thích :

- Hôm nay trại ta phát động công tác đào ao nuôi cá. Các đội cho người đến kho lãnh cuốc xẻng rồi ra nhận phần đất của mình. Đây là một yêu cầu khẩn trương. Các anh cố gắng hoàn thành nhanh chừng nào tốt chừng nấy. Theo quy định, ao phải sâu 4 mét. Chỉ tiêu cho mỗi người là ba mét khối đất một ngày. Anh nào không đạt năng suất, trại sẽ cho thi hành kỷ luật ngay. Trong khi lao động cấm không được bàn tán, phao tin đồn nhảm.

Lúc bắt đầu xắn đất đội trưởng tù hỏi quản giáo về độ dốc bờ ao lấy cỡ nào thì được giải thích qua loa :

- Không cần tà ly lắm, min sao đất trên không đổ xuống là được rồi.

Chưa đầy một tuần l, chung quanh trại đã có cả chục cái ao sâu bốn thước với vách gần như thẳng đứng. Đây chính là những cái hố vĩ đại dự trù dùng vào việc chôn người tập thể. Ngày chấm dứt công tác đào ao, đoàn tù chẳng ai buồn nói với ai, nhưng những ánh mắt cùng ném vào lòng huyệt một cái nhìn lo âu. Không biết hôm nào đây chính những kẻ đào ao sẽ bị bọn cai tù bắn chết hàng loạt rồi vùi thây trong đó trước khi bọn chúng tháo chạy khỏi sự tràn ngập của quân Trung quốc. Có lẽ tình thế chiến tranh với Trung cộng đã không cho phép Việt cộng giam giữ tù quá đông tại miền Bắc. Tù được chia đợt chuyển ngược vào trong Nam. Cai tù lại tuyên truyền :

- Anh nào vào Nam chuyến này coi như được tha một nửa rồi đấy.

Trên thực tế hầu hết họ vẫn tiếp tục ở tù triền miên trong các nhà tù do Việt cộng dựng lên ở miền Nam. Trong số đó nổi tiếng nhốt đông là nhà tù vĩ đại Xuân Lộc gồm ba trại A, B, và C. A là trại chính, B và C là hai trại phụ. Bọn cai tù đặc trách việc tra tấn tập trung ở trại A, nơi có khu kiên giam, chổ giam kín vô hạn định. Khu này là chỗ giết người chung cho ba trại. Tất cả những người bị kỷ luật của hai trại kia đều được dồn vào đây.

Màn đón tiếp sơ khởi những người mới vào kỷ luật trại A là một trận đòn tứ phương đón đả. Bốn thằng cai tù đứng bốn góc sân. Người tù tay còng bị đẩy vào giữạ Một thằng khởi động ra đòn. Người tù ngã về phía nào thì thằng tù phía đó đấm đá, lên gối tiếp. Cứ thế bao giờ nạn nhân gục xuống bất động trên vũng máu đang hộc ra từ miệng giữa một khuôn mặt đã mất hẳn hình thù thì chúng lôi vào cùm lại. Người tù vẫn trong tư thế tay còng, chân cùm, mê man bất tỉnh cho tới ngày hôm sau.

Sáng ra bọn cai tù vào, nếu thấy chết chúng cho đem chôn sau trại; còn sống chúng lôi ra tra tấn tiếp. Lần này thì chỉ một thằng làm việc thôi vì người tù đã như cái xác không hồn. Hung thần giai đoạn này tại trại Xuân Lộc là thằng cai tù Tư Ca Rô. Mỗi khi sắp ra tay nó đều hỏi:

- Mày có biết ở đây ai là Tư Ca Rô không?

Người tù chưa kịp trả lời thì đã bị nó đá tới tấp vào mạng sườn cho đến khi khuỵu xuống. Sau đó nó bắt người tù quỳ gối ngước mặt lên nhìn thẳng vào mặt nó. Khuôn mặt bầm tím xưng húp không mở được mắt vừa nhướng lên là thằng Tư Ca Rô giơ thẳng chân đá liên tiếp vào miệng người tù. Khi những chiếc răng gãy văng ra cùng với bụm máu đỏ tươi tung tóe trên nền xi măng, thằng Tư Ca Rô mới ngừng lại chỉ vào ngực nó:

- Tư Ca Rô là tao đây mày biết chưa. Từ nay chắc mày không thể quên được Tư Ca Rô. Còn sống mà ra nhớ nói cho bạn bè mày biết ai là Tư Ca Rô nghe chưa.

Tới ngày hôm nay trên khắp đất nước Việt Nam, bọn Việt cộng chưa dẹp bỏ bất cứ một nhà tù nào do chúng dựng lên từ trước cũng như sau năm 1975. Những nhà tù này hiện vẫn đang được thực thi đúng mức chính sách học tập cải tạo của Đảng cộng sản Việt Nam bởi những thằng cai tù Việt cộng đại loại như Tư Ca Rô của nhà tù Xuân Lộc.

Jan 10, 2018
Phạm Kim Khôi
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Ðêm Giao Thừa Của Những Người Lính Mất Nước


Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa

Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Ði xe lửa Hà Nội - Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang" .

Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng gì ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.

Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Ðịnh, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Ðói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.

Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”

Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Ðến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô...

Ðang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nhìn, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Ðược không?” “Ðây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, thì thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như không.

Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Ðột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêt Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người nào sống sót thì đưa đi tù cải tạo, không có ngày về... Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Ðồng ra lịnh, đại ý “Không giết tên nào cả. Ðưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định).

Tôi nhớ, sau tháng tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa) phải trình diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết trình “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi...” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ý kiến gì không?”

Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia riêng biệt, có lãnh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán gì với miền Bắc, vì sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi còn bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?...”

Nghe đúng bài mình đã thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đòi nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của mình mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa, đuợc đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đình. Các anh hiểu chưa? Có ai ý kiến gì nữa không?”

Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập thì. Năm 1959 miền bắc đã mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào nam. Năm 1960 đã lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mãi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Ðà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đã nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật mìn xe đò, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế thì ai có nợ máu với nhân dân?...”

Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Ðem nó đi cùm!” Ông ta bị công an võ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng...

(Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẫn có khắc câu mà Lê Duẫn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc


Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., trình diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Trình diện thẩm quyền”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ý “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Thì ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân thòng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc nãy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như còn đang ở đơn vị”.

“Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?”

“Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài Gòn”

Tôi ngồi lên “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?”

“Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”.

Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...”

Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém”

“Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ”

“Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?”

“Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.

Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái ly nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một ly thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau còn hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Lòng biết ơn không hề phai nhạc.

Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đình nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy trò cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đã là dĩ vãng, đã là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đã dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai còn, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính thì không bao giờ quên những “thẩm quyền” đã chỉ huy mình.

Ngoài đường đã vắng bóng người. Ðường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Ðột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từø chợ Tân Ðịnh. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời còn chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà thòng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Ðích thân! Ðích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống gò má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ.

Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh. - “418, đây 314, xin tác xạ, hết”

Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.

Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.

- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng, hết”

-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”

- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.

- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”

- “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết.

- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...

Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu...

Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng

-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết”

-“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...

Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí phòng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.

Vẫn giọng bình tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết”

-“Xin 314 nhắc lại, hết”

-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết”

Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”

-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Ðó là lời cuối cùng”

-“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...

Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.

PHẠM THÀNH CHÂU
bichphuong
Posts: 617
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Hồi ký của Y SĨ TRƯỞNG TIỂU ĐOÀN 2 NHẨY DÙ

50 năm, một nửa thế kỷ của cuộc đời đã trôi qua từ khi tôi về đảm nhận chức vụ Y sĩ Trưởng TĐ2ND. Trí nhớ cũng phôi pha theo thời gian. Thế nhưng một chặng đường gần 6 năm đội chiếc mũ đỏ vẫn là một dấu ấn khó quên, vì đó là một giai đoạn của tuổi thanh niên đầy nhựa sống, tích cực hăng hái đóng góp bàn tay bảo vệ Tự do cho Quê hương, vừa gian lao vừa hãnh diện.
Chiến tranh Quốc gia – Cộng sản từ năm 1965 bắt đầu sôi động dữ dội. Rối loạn chính trị miền Nam tạo cơ hội thuận tiện cho quân chính qui Bắc Việt dễ dàng xâm nhập khắp thôn ấp và các vùng ven đô thị.
Sau 7 năm dùi mài kinh sử, chúng tôi là Sinh viên Quân y hay Dân y trưng tập đều được phân phối về các đơn vị chiến đấu hay các Bệnh viện dã chiến để băng bó các vết thương của bom đạn.
Làm sao tránh khỏi lo âu và xúc động khi chỉ nội trong năm 1964 – 65 mà đã có 7 Y sĩ hy sinh tại chiến trường. BS Đoàn Mạnh Hoạch ngã gục trước lằn đạn địch ở Quãng Ngãi 1964. BS Trương Bá Hân/TQLC tử trận ở Bình Giả 1964.
Image
Các đàn anh chỉ hơn tôi có một lớp, mới ngày nào cùng nhau thực tập trong Bệnh viện Chợ Rẫy, Bình Dân, v.v.. có anh là nội trú xuất sắc, xứng đáng là bậc thầy trong Y nghiệp, hứa hẹn một tương lai sáng lạn, thế mà cũng bị hy sinh tại trận địa mấy tháng sau khi đáo nhận đơn vị.
Sinh viên Quân y vào năm cuối được liên tục luân phiên gác xác các đàn anh tử trận trong năm 1965 :
– BS Phạm Bá Lương ngã gục ở Bầu Bàng.
– BS Nguyễn Văn Nhứt tử thương khi đoàn xe di chuyển bị phục kích ở rừng cao su Dầu Tiếng.
– BS Trần Thái hy sinh tại Bà Rịa.
– BS Trần Ngọc Minh, Y sĩ Trưởng TĐ5/TQLC bị đâm vào ngực trong một trận xáp lá cà với Việt cộng tại Thăng Bình.
– BS Đỗ Vinh, Y sĩ Trưởng TĐ5ND bị mảnh pháo trúng ngay vào đầu khi đang săn sóc thương binh. Ngày đưa tang, Thiếu tá TĐT/TĐ5ND Ngô Quang Trưởng và Quân nhân các cấp, các đơn vị bạn ngậm ngùi thương tiếc tiễn anh ra mộ huyệt. Tôi vẫy tay chào anh, từ bỏ anh em quá sớm. Chiếc áo Hoa rừng và Mũ đỏ của binh chủng hào hùng thiện chiến vẫn có một mãnh lực hấp dẫn máu giang hồ, điếc không sợ súng của chúng tôi, ba thằng bạn xuất thân từ xứ Huế, học cùng lớp, ăn cùng mâm, ở cùng phòng trong trường Quân y Chợ Lớn. Lê Văn Châu, con của Tướng Lê Văn Nghiêm, tức là nhà văn Trang Châu, còn có biệt danh là “Châu cá ngựa” vì anh có mặt tại trường đua Phú Thọ hằng tuần – Đoàn Văn Bá, tục gọi là “Bá điên” còn được gọi là “I‘homme des situations difficiles”vì anh bạo ăn bạo nói, chỗ nào gặp khó khăn với cấp trên là có anh. Anh bị kẹt lại trận Mậu Thân ở Huế trong chuyến nghỉ phép về thăm nhà, được quân đội Mỹ giải cứu trong gang tấc, đưa anh về căn cứ MAC-V, giúp giải phẫu cứu mạng rất nhiều Quân nhân Mỹ bị trọng thương và được tuyên dương tưởng thưởng huy chương Bronze Star Hoa Kỳ. Còn tôi, được các bạn gán cho biệt danh “Đoàn cái bướm” vì tôi viết bài “Thằng Cu hay Cái Bướm” đăng nhiều kỳ trong Đặc san Tình Thương của Sinh viên Y Khoa thời ấy.

Bảng hiệu “BỆNH XÁ ĐỖ VINH” nền trắng chữ đỏ mới toanh, còn ướt màu sơn treo trên khu nhà bằng gạch hai tầng của Bệnh xá Nhảy dù 50 giường không làm chúng tôi sợ sệt mà còn cảm thấy một cái gì vinh quang khi trình diện thụ huấn khóa 68 Nhảy dù vào tháng 8/1965. Ba thằng bạn thân, không ai dám rủ ai vào nơi nguy hiểm, đều có mặt.

Cổng trại Hoàng Hoa Thám thẳng tắp con đường tráng nhựa rợp bóng mát của hai hàng cây đưa đến các dãy doanh trại xây bằng gạch vững chắc sơn màu vàng, ngay ngắn sạch sẽ là con đường quen thuộc, thân thương của chúng tôi từ dạo ấy.
Bóng dáng các đàn anh đeo bằng “nhảy dù điều khiển” như BS Văn Văn Của, BS Trần Tấn Phát… kích thích lòng tự ái liều lĩnh của chúng tôi trong niềm cảm phục kính nể. Chiếc Mũ Đỏ được đội lên đầu sau 3 tuần huấn luyện ướt đẫm mồ hôi, bò lết, hít đất, nhảy chuồng cu và 6 sauts nhảy dù ở Hóc Môn-Củ Chi. Cánh hoa dù T10 xẹt mở rộng lộng gió tung bay mát rượi trong bầu trời trong xanh ôm trọn một phần của vũ trụ bao la là những giây phút thần tiên ngắn ngủi của người lính Mũ Đỏ. Sau đó thì nguy hiểm bắt đầu rình rập. Saut đêm bị hủy bỏ vào phút chót vì tình hình an ninh bãi nhảy không cho phép, có người lính nhảy xuống bị mất tích không tìm ra dấu vết.. “NHẢY DÙ – CỐ GẮNG” là một khẩu hiệu có mãnh lực xô chúng tôi ra phóng ra cửa máy bay sau tiếng hét “Go” của Huấn luyện viên, và là châm ngôn giúp chúng tôi vượt qua chặng đường hành quân vất vả, cực nhọc. “Nhảy Dù – Cố Gắng” gắn bó theo giúp chúng tôi suốt cả cuộc đời, nào là khi bị hành hạ xài xể trong trại tù cộng sản, nào là khi gặp sóng gió, bão tố, ói mửa trong chiếc ghe nhỏ trên đường vượt biển tìm tự do, khi lao động chân tay để có tiền mua sách học lấy lại mảnh bằng hành nghề, khi đau ốm bệnh hoạn và cả khi tu tập chuyển hóa tâm linh.

BS Lê Trọng Tín biệt phái về làm Y sĩ Trưởng TĐ1ND – Lê Văn Châu TĐ6ND – Đoàn Văn Bá về TĐ7ND – Trần Trọng Nghị về TĐ9ND và tôi về TĐ2ND.
TĐ2ND là 1 Tiểu đoàn tân lập đóng ở Bà Quẹo, sát nách phi trường Tân Sơn Nhất, không xa cổng trại Hoàng Hoa Thám. Thế là tôi may mắn được ở ngay Sàigòn, sớm tối được về chăm sóc vợ đang mang bầu. Vợ tôi còn là sinh viên trường Dược. Lương Y sĩ Nhảy dù phải gói gém lắm mới đủ sống.

Lần xuất quân thử thách đầu tiên của tôi vào cuối năm 1965 lại là với chúc vụ Y sĩ Trưởng/TĐ3ND thay thế BS Nguyễn Đức Liên đi phép về hậu cứ. Trời Sàigòn 4 giờ sáng còn mờ sương, chiếc C123 rù máy xé tan bầu không khí tĩnh lặng, lạnh lùng cất cánh rồi đáp xuống phi trường Qui Nhơn sau hơn một giờ bay. Phi cơ há miệng đằng đuôi nhả ra hơn trăm binh sĩ súng đạn đầy mình sẵn sàng ra bổ sung cho chiến trường Tam Quan, Bồng Sơn. Phi đội Trực thăng tiếp tới gắp chúng tôi đưa thẳng vào chiến địa còn hôi tanh mùi máu và thuốc súng, bay sà sát rừng dừa xơ xác ngả nghiêng cháy xám.
Y sĩ Trưởng Thiếu tá Hoàng Cơ Lân dẫn tôi vào chào Tướng Tư Lệnh Dư Quốc Đống trong một căn lều. Ông đang ở trần, mặc quần xà lỏn, đen đui đủi, vây quanh bởi các sĩ quan của Bộ chỉ Huy, mồ hôi nhễ nhại. BS Liên đón tôi về trạm cứu thương TĐ3ND tạm trú dưới một mái nhà tôn đầy dấu đạn. Các Y tá còn bận rộn thu dọn y cụ vì công việc tản thương vừa mới được hoàn tất tối hôm qua. Thiếu tá Hưng TĐT, nước da rạm nắng có vẻ âu lo. Đại úy TĐP Trần Quốc Lịch người cao to, đầu trọc lóc trông rất “ngầu”, sau này ông lên đến cấp Tướng chỉ huy Sư đoàn. Hằng ngày tôi làm dân sự vụ, khám bệnh, phát thuốc, chăm sóc ngay cả các bà đang có bầu mà tác giả không ai khác là những du kích địa phương. Lòng nhân đạo của người Y sĩ không phân biệt bạn hay thù. Tôi thương người dân, tôi thương những trẻ em lớn lên ở vùng đất mất an ninh này, không biết đâu mà lựa chọn. Tôi thông cảm nỗi khổ của họ khi sinh sống trong vùng xôi đậu.

Đồi 10, một ngọn đồi nổi tiếng khó tiến chiếm vì Cộng quân đào hầm địa đạo từ chân đồi lên đến đỉnh đồi và đặt thượng liên nhắm bắn vào trực thăng bao vùng xạ kích yểm trợ – Một ngọn đồi đẫm máu đã được ghi vào chiến sử.
Chuẩn úy Lê Hồng, xuất thân từ Hạ sĩ quan, là Sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn sau khi thụ huấn xong khóa sĩ quan đặc biệt về. Người anh nhỏ con nhưng giọng nói Quảng Bình rõ ràng chắc nịch qua máy truyền tin vang to suốt cả ngày đêm để điều động các Đại đội đang lục soát quanh vùng. Là người lính chăm chỉ, gan dạ và khuôn phép, anh leo dần lên đến chức vụ TĐT/TĐ1ND rồi Trung tá Lữ đoàn phó khi tàn cuộc chiến. Tôi cảm phục sự nhẫn nhục của anh khi thấy anh bất chấp nặng nhọc lao động khuân vác trong một tiệm tạp hóa vùng Arlington, VA để sinh sống và nuôi ý chí cương quyết về giải phóng quê hương thoát khỏi gông cùm cộng sản. Ước nguyện không thành, anh bỏ xác tại vùng biên giới Thái-Lào trong niềm thương tiếc khôn cùng.

Trạm Y tế TĐ2ND nằm trong một gian nhà tiền chế của doanh trại, mái tôn nền đất. Y tá Trưởng, thượng sĩ “Hưng mù”, đeo kính cận dầy cộm, có nhiều kinh nghiệm từ hồi còn là Y tá trong quân đội Pháp, tháo vát và khéo xã giao, giúp tôi và đội Y tá trên dưới 20 người dọn dẹp phòng ốc, sắp đặt dụng cụ thuốc men. Vài ba anh lính trẻ khai bệnh lậu đái ra mủ vì không được hướng dẫn dùng bao cao su khi giao hợp với “chị em ta” phân trần: “Đời lính xa nhà mà bác sĩ”. Tôi làm quen dần với các sĩ quan bộ chỉ huy và các đại đội. Chuẩn úy Võ Văn Thu, nguyên là Y tá TĐ5ND vừa thụ huấn khóa sĩ quan Thủ Đức trở về nắm giữ chức vụ sĩ quan Hậu cứ, thường lui tới thăm hỏi và giúp đỡ trạm Y tế. Anh được ông TĐT, cũng xuất thân từ TĐ5ND, tin cậy thương mến và nâng đỡ vì tinh thần phục vụ đắc lực của anh. Chức vụ cuối cùng của anh là TĐT/TĐYT/SĐND với cấp bậc Trung tá. Nghe nói ngày di tản qua Mỹ, sống ở Washington State, giữa xứ lạ quê người, tinh thần anh bị suy giảm. Anh cạo gió cho con anh khi nó bị ho cảm. Mấy lằn vết đỏ sau lưng và trước ngực làm cho cô giáo nghi anh đánh đập ngược đãi trẻ con. Anh phản kháng khi cảnh sát đến còng tay anh. Vì quá uất ức, anh treo cổ tự tử trong tù.

Đại úy Lê Quang Lưỡng, vừa mới được thăng chức Thiếu tá mấy tháng trước, nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND. Ông là người chiến binh mang nhiều thương tích và chiến tích, vào sinh ra tử biết bao nhiên lần với những chiến công như An Lộc, Mậu Thân, Hạ Lào, v.v. oanh liệt vẻ vang. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn cấp bậc Chuẩn tướng và bổ nhiệm ông nắm chức vụ Tư Lệnh/SĐND vào năm 1973 (?).

Ngày đoàn quân xa trên 30 chiếc chở Tiểu đoàn tân lập về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp Bà Rịa để thụ huấn, chưa kịp ra tới đầu xa lộ Biên Hòa thì xui xẻo gặp lúc cộng sản pháo kích vào thành phố Sàigòn. Vài ba quả nổ tung toé rớt ngay trên đường Phan Thanh Giản giữa lúc dân chúng tấp nập đi làm buổi sáng. Cảnh tượng hỗn độn và hoảng hốt vì mọi người hối hả chạy tìm chỗ ẩn núp sau mấy gốc cây. Đoản xe bị khựng lại, mãi hơn giờ sau mới tiếp tục lộ trình về đến nơi đến chốn an toàn.

Sau 3 tháng huấn luyện, Tiểu đoàn được chuyển về đóng quân ở vòng đai Sài Gòn, vùng Tân Quý, Hóc Môn, Bà Điểm.
Tiểu Đoàn phó, Đại úy Trần Kim Thạch, nhỏ con, bị thương ở háng nên khó khăn khi ngồi vệ sinh. Ông xuất thân từ Hạ sĩ quan của Nhảy dù Pháp, vui tính, lanh lẹ và can đảm. Một buổi chiều, trời chạng vạng tối, tôi thấy ông hối hả cười vang chạy bộ thình thịch về bộ chỉ huy với hai người lính cận vệ, trên vai mỗi người còn mang thêm một khẩu AK. Tiểu đoàn phó mà chịu chơi nằm lại phục kích bên bờ lau sậy sau khi cả Tiểu đoàn tảo thanh lùng địch đã rút trở về. Hai năm sau ông nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND ghi thêm nhiều chiến công oanh liệt cho Tiểu đoàn. TĐ2ND đã đủ lớn mạnh để chuyển vận ra vùng địa đầu giới tuyến.

Ngày quân xa chở Tiểu đoàn từ Huế ra Quảng Trị, một đoạn đường dài hơn cả cây số khi gần đến làng Mỹ Chánh, bị cày nát và còn nóng hổi vết tích bom đạn đầy mảnh vụn của xe bị cháy đen hòa với máu đỏ. Ruộng lúa hai bên xơ xác tơi bời ngả nghiêng, dấu vết của TĐ2TQLC bị phục kích mới ngày hôm qua. Thiếu tá TĐT/TĐ2 Trâu Điên Lê Hằng Minh hy sinh ngay từ phút đầu. Đoàn quân xa dè dặt, thận trọng chậm rãi di chuyển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Không khí ngột ngạt. Đến thành phố Quảng Trị, tôi bị choáng váng, ngộp thở vì ngọn gió Lào độc địa thổi về. Hôm sau, trực thăng vận thả Tiểu đoàn xuống các ngọn đồi trống vùng Cùa, những ngọn đồi mọc đầy những bụi hoa sim tím. Những cánh hoa còn ướt sương mai long lanh trong nắng sớm. Tôi ngắt hoa ép vào quyển nhật ký hành quân và thầm đọc bài thơ “Những đồi hoa sim tím” của Thi sĩ Hữu Loan, mong rằng ngày tôi về vẫn còn gặp nàng…

Toán Tiền sát báo cáo bắt được một cán binh Việt cộng đang ngơ ngác cầm bản đồ và ống nhòm quan sát trận địa. Khai thác cho biết Tiểu đoàn Cộng sản đang trên đường xâm nhập. Chiều về, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi làng và đóng quân trên dãy đồi cao thấp nối tiếp thoai thoải. Chập tối, Ban 3 Tiểu đoàn báo cáo mất liên lạc với Tiểu đội nằm lại phục kích trong làng. Tôi duỗi chân nằm thẳng trên cỏ, đếm sao lấp lánh trên trời và thiếp đi, rã rời chân tay. Thình lình nửa khuya, địch nổ súng ồ ạt la hét: “Hàng sống, chống chết” bò lên tấn công. Giao tranh cận chiến ác liệt. May thay cây thượng liên của chúng đặt trên đồi cao hướng về bộ chỉ huy và toán quân y kế cận chưa kịp khai hỏa thì bị binh sĩ Nhảy dù tiêu diệt. Phi cơ phản lực liên tiếp thả bom Napalm vào khu rừng dưới đồi. Xác địch banh thây cách chỗ tôi nằm không quá 50 thước. Băng bó, tản thương không ngừng tay. Ngay tối hôm đó, đài cộng sản oang oang nêu thành tích là đã giết được 15 lính ngụy Dù, một con số chính xác mà Ban 3 Tiểu đoàn vừa mới báo cáo thiệt hại về Sư Đoàn buổi sáng sớm. Phải chăng có nội tuyến nằm ngay trong trong BTL/SĐND?, tôi đắn đo suy nghĩ.
Image
Về trạm dưỡng quân ở Đông Hà, tôi gặp BS Vũ khắc Niệm, Y sĩ trưởng TĐ8ND. Hai anh em rủ nhau đi uống bia cho đỡ thèm khát dưới cái nắng nóng gay gắt của miền Trung. Một chai bia cao hiệu con cọp ướp lạnh giá 50 đồng. Tôi lục lọi mãi hết trong các túi bộ đồ trận lôi ra đếm được 49 đồng. BS Niệm cho tôi thêm 1 đồng.
Tiếng nổ của cây súng AK nghe có phần chát chúa và khiếp đảm hơn cây súng Carbine M1, M2 cổ lỗ sĩ hay bị kẹt đạn. Trung cộng và Liên sô âm thầm trang bị cho Bắc Việt vũ khí ngày càng tối tân hơn. Đến cuối năm 1966, khi đóng quân ở làng An Hòa ngoài thành phố Huế, TĐ2ND mới được Ngũ Giác Đài phê chuẩn viện trợ súng AR-15, AR-16 thay thế.

Hạnh phúc của người lính trận lội bộ dài ngày khi được về dưỡng quân vùng khá an ninh rất đơn giản là tháo được đôi giày trận và đôi vớ hâm hẩm hôi thối, chùi được các ngón chân mốc meo, rửa được bộ sinh dục bầy nhầy và lắm khi là móc được cục phân cứng như đá ra khỏi hậu môn vì ăn thiếu rau, uống thiếu nước, không có thì giờ đi đại tiện. Lính Nhảy dù bị bệnh trĩ nhiều là vì nguyên do như thế. Bộ đồ trận tanh tanh mồ hôi và dơ bẩn giặt phơi chưa kịp ráo thì có lệnh di chuyển.

Một tuần phát lương khô gạo sấy chất vào ba-lô. Tình báo cho biết địch vượt sông Bến Hải xâm nhập vào phía nam vùng phi quân sự.. Tiểu đoàn lại được trực thăng vận đổ quân xuống sát hàng rào McNamara. Xa xa về phía Tây, bụi khói bay ngút trời do B52 rải bom ầm ầm nghe ghê rợn. Cả tiểu đoàn di chuyển đội hình hàng một xuyên rừng rậm đầy gai góc theo bước chân của khinh binh đi trước phát quang. Chim chóc và côn trùng vắng tiếng hót. Cái im lặng khá rùng rợn khi dừng chân ngủ đêm.
Thằng Y tá tên Dân thân cận của tôi sửa soạn đào hầm cá nhân cho “ông thầy”. Một nhát xẻn nhấn xuống là một ánh lửa tóe lên vì chạm vào đất đầy sỏi đá. Tôi không đành thấy nó hì hục cực nhọc nên ngăn nó dừng tay, chấp nhận số mạng rủi ro. Chiếc võng treo thấp đu đưa ru tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị chết chóc. Vào khoảng 2 giờ sáng, địch pháo kích hàng loạt súng cối, tung tóe sấm sét vào vùng đóng quân. Một quả 60ly chớp nổ cách chiếc võng khoảng 10 thước, hất tôi lăn ngã xuống đất. Tôi cảm thấy đau rát nơi hai mông, đưa tay sờ vào thì đỏ ướt máu. Tôi đã bị thương nhưng biết mình còn sống. Giọng ông TĐT vang lớn giữa những tiếng pháo kỉch còn nổ vang:
– “Bác sĩ, bác sĩ, tôi bị thương”.
Tôi do dự định chạy đến nhưng thằng Y tá cận vệ thấy nguy hiểm níu tôi lại và trả lời lớn :
– Thưa Thiếu tá, “BS cũng bị thương”.

Đại đội Trưởng Thạch Văn Thịnh xui xẻo bị một quả rơi đúng chỗ ông nằm. Doanh trại từ đó mang tên của người Đại đội Trưởng đầu tiên của TĐ2ND bị tử trận. Trung đội trưởng Trần Công Hạnh dẫn Trung đội ngang bộ chỉ huy và tiến về phía địch, nơi đặt pháo. Chiến đoàn Trưởng Đào Trọng Hùng la hét điều quân. Ông nổi tiếng là người chỉ huy can đảm không bao giờ khom lưng tránh né đạn khi lâm trận mà đạn biết tránh né ông. Chiếc khăn đỏ quấn quanh cổ được xem như là bùa hộ mạng. Một bên lưng đeo khẩu súng lục chỉ huy, một bên kia đeo một bi đông rượu đế, đường đường một đấng. Bác sĩ Hà tục gọi là “Hà chảy”, người ông dong dỏng cao, Y sĩ trưởng TĐ8ND vừa đi vừa ôm bàn tay bị thương vừa chửi thề: “Địt mẹ, tao có muốn về Nhảy dù đâu mà bị thương như thế này”. BS “Hà chảy” là dân y trưng tập, học cùng lớp với tôi, chưa kịp bổ đi đơn vị nào khi ra trường thì lại miễn cưỡng bị trưng dụng tạm thời vì Nhảy dù thiếu Y sĩ. Y tá xuôi ngược chăm sóc thương binh, trực thăng liên tiếp đáp xuống tản thương.

Mỗi lần hành quân 2-3 tháng về hậu cứ là quân số Tiểu đoàn hao hụt hơn phân nữa. Tiểu đoàn Vương Mộng Hồng – Khối Bổ Sung phân phối về Tiểu đoàn nhiều tân binh chưa kịp hoàn tất xong khóa nhảy dù.
Vùng I, vùng giới tuyến sùng sục dầu sôi lửa bỏng. Hành quân bấy giờ không còn là cấp Tiểu đoàn lẻ tẻ mà là Chiến đoàn gồm 2-3 Tiểu đoàn che chở yểm trợ cho nhau. Hành quân với thiết vận xa của Việt Nam Cộng Hòa hay với chiến xa lội nước của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tăng cường thường dễ dàng hơn khi tiến chiếm mục tiêu và ít bị thiệt hại.

Cuộc hành quân “nhảy dù trận” của TĐ2ND xuống đồng bằng sông Cửu Long vào giữa năm 1966 có lẽ là saut nhảy xuống trận địa cuối cùng của binh chủng Nhảy dù vì sau đó trực thăng là phương tiện đổ quân nhanh chóng và ít nguy hiểm. Cả một rừng chiếc “nấm” úp xuống khoảng ruộng nước bao la. Tôi xếp dù an toàn gom vào một chỗ với Đại đội 20 rồi tiếp tục bì bõm tiến theo đoàn quân. Vì bất ngờ nên địch quân không kịp bắn lên trong lúc chúng tôi còn lơ lửng trên trời trong buổi sáng sớm như trong phim “The Longest Day” khi quân đồng minh nhảy dù xuống Normandie. Chạm súng lẻ tẻ với du kích, địch tránh né rút vào rừng tràm. Vũng nước nào cũng có tôm có cá giúp cho chúng tôi có thêm thực phẩm tươi phụ trội.

Tổ chức SĐ Nhảy Dù từ năm 1966 đã nâng cấp số từ Liên đoàn thành Sư đoàn. Đại đội Quân y Nhảy dù thành Tiểu đoàn Quân y Nhảy dù. Bệnh xá Đỗ Vinh 50 giường thành Bệnh viện Đỗ Vinh 100 giường. Pháo binh, Truyền tin… nâng quân số từ Đại đội lên Tiểu đoàn. Chiến đoàn đổi thành Lữ Đoàn gồm 3 tiểu đoàn khi hành quân cho kịp với chiến tranh leo thang ngày càng khốc liệt.

Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam đóng gần bộ chỉ huy TĐ2ND ở vùng Tân Quý. Các Đại đội phân chia đóng ở các thôn ấp chung quanh. Tình báo cho hay Tiểu đoàn đặc công cộng sản mò về sát vòng đai Sài Gòn, thuộc xã Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc. Lệnh hành quân lục soát ban ra. Trung đội tiền phong do Trung đội Trưởng Trần Công Thọ vừa ra trường khóa 20 Võ Bị Đà Lạt chạm súng. Cả Tiểu đoàn tiến lên tốc chiến tốc thắng đẩy địch bỏ chạy rút vào vùng kinh lạch Đức Hòa, Đức Huệ để lại gần 100 xác và súng ống đủ loại. Thiếu úy Trần Công Thọ bị ngay một viên đạn giữa đỉnh trán, chết ngọt lịm không kịp trăn trối, nằm cách chỗ tôi không quá 20 thước. Tôi đưa tay vuốt mắt anh, không thấy chảy máu, mặt anh còn tươi tắn như thiên thần ngủ quên. Nhạc phẩm “Tạ từ trong đêm” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết lên để riêng tặng anh. BS Bùi Thế Cầu, nguyên Thiếu tá Y sĩ trưởng TĐ5ND đang nắm giữ chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Gia Định cùng giới chức hành chánh dân sự cao cấp và báo chí tháp tùng thực thăng xuống ngay trận địa để chứng kiến tận mắt và tán dương. Danh tiếng TĐ2ND nổi như cồn trên trang đầu các tờ báo Sàigòn. Đại đội 23 tập hợp nhiều Trung đội trưởng họ “TRẦN” trẻ trung, gan dạ, thương mến nhau như anh em ruột thịt. Một Trần Công Thọ đã rơi rụng. Một Trần Duy Phước cũng rụng rơi năm sau đó, còn lại Trần Công Hạnh leo dần đến chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND. Đại đội trưởng Trần Công Danh rời Tiểu đoàn chuyển hoán về đơn vị khác – Đại đội trưởng Phạm Kim Bằng bị thương hư một mắt – Đại đội trưởng Trần Như Tăng bị thương gãy chân – Đại đội trưởng Nguyễn Văn Được giã từ vũ khí ở vòng đai Sàigòn. Ngày tiễn anh ra mộ huyệt có 3 bà mặc áo quần đen dài chít khăn tang trắng sụt sùi sau quan tài – Đại đội trưởng Lê Văn Mạnh Đại đội 20 lên cầm chỉ huy TĐ2ND một thời gian. Toán Y tá của tôi gần 2 năm trời không ai bị hy sinh trừ một vài bị thương nhẹ. Tôi khâm phục tinh thần gan dạ của Y tá Nhảy dù, luôn luôn xông vào tuyến đầu ngay dưới lằn đạn địch để băng bó vết thương cho đồng đội. Y tá trưởng Thượng sĩ Hưng “Mù” được Y tá trưởng Trung sĩ nhất Be về thay thế. Anh Y tá trưởng mới này cũng thuộc loại“chì” không kém.

Hành quân vùng Củ Chi – Hậu Nghĩa thường bị mìn bẫy nguy hiểm. Một chiếc Chinook chở gần cả đại đội bay sà sà sát mặt đất để tránh khỏi bị bắn tỉa khi đổ quân. Thế mà xui thay, viên Đại úy Cố vấn Mỹ mới về Tiểu đoàn, ngồi cạnh ông Tiểu đoàn trưởng là người duy nhất bị trúng một viên đạn bắn lên xuyên qua, chết ngay tại chỗ.
Vùng I chiến thuật lại khẩn điện về Bộ Tổng Tham Mưu cầu viện các binh chủng tổng trừ bị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến. Dân chúng vùng Huế, Quảng Trị, Đông Hà an tâm khi có sự hiện diện của các binh chủng này. Tổng trừ bị gì mà ăn dầm ở dề tháng này qua tháng nọ giống như là Địa Phương Quân.

TĐ2ND trở lại Huế, hành quân lần này có Trung đội Thiết giáp M113 yểm trợ. Những “con cua khổng lồ” dàn hàng ngang dậm chân trước một địa thế nghi ngờ. Trung đội khinh binh tiến sát vào hàng rào tre cao vút dày đặc của làng Đông Xuyên – Mỹ Xá, quận Quảng Điền. Im lặng đến ngộp thở. Chưa thấy động tĩnh thế nào cả. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn dè dặt từng bước. Đợi đến khi thấy các cần câu của máy truyền tin PRC25 của bộ chỉ huy gần kề thì địch khai hỏa. Thiết giáp đã dàn hàng ngang rồi ầm ầm nhào tới khạc đạn đại liên xối xả vào mục tiêu. Lính Nhảy dù xung phong như sóng vỡ bờ. Lựu đạn thi nhau ném vào các hầm hố mới thanh toán được các ổ thượng liên mà xạ thủ bị còng chân tử thủ với nhau. Lựa đến khi trời tối địch nương theo kinh rạch để mà chém vè, rút sâu vào làng. Nhiều xác địch và vết máu để lại trên đường tháo chạy. Các binh sĩ mang máy theo bộ chỉ huy bị thiệt hại tính mạng khá nặng. Ông Tiểu đoàn trưởng vẫn bình tĩnh điều quân. Thiết giáp không bị hư hại chiếc nào cả. Trực thăng rọi đèn tải thương trong đêm tối. Mồ mả quanh bờ làng là nơi che chở cho chúng tôi gối đầu qua đêm.

BS Trần Lâm Cao tháp tùng các Sĩ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 theo trực thăng tản thương từ Quân Y viện Nguyễn Tri Phương đáp xuống trận địa khi chiến trường đã thu dọn xong buổi sáng. Một chiến thắng quân địch sát nách thành phố Huế làm chấn động người dân thị thành. Chiến thắng nào mà không đổi lại bằng xương máu.

Viết đến đây lòng tôi bỗng chùng vì xúc động. Những khuôn mặt người lính thân thương đó hiện rõ trong ký ức của tôi. Họ nằm xuống vì vết đạn vào đầu, vào tim, vào phổi nằm la liệt trước mặt tôi. Người Y sĩ Tiểu đoàn hoàn toàn bất lực trước những vết thương không có phương tiện cứu chữa. Tôi xin cầu nguyện cho các anh an giấc ngàn thu và không hận thù. Chúng ta đều chia sẻ một đau thương chung của vận nước nổi trôi.

Tôi bàn giao toán Y tá cho BS Trần Lâm Cao làm tân Y sĩ trưởng TĐ2ND vì đáo hạn nhiệm kỳ 2 năm phục vụ Tiểu đoàn.
Tôi được thăng cấp Đại úy và nhận nhiệm vụ mới là Y sĩ trưởng Đại đội 3/QYND, thường đóng chung với bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam khi đi hành quân. Sau này ông là Tướng Tư lệnh vùng 4 và tuẫn tiết không chịu đầu hàng địch. Danh thơm của ông ấy còn vang mãi trong hậu thế.

Tin dữ từ mặt trận đưa về. BS Nghiêm Sĩ Tuấn học cùng lớp, là BS dân y trưng tập, tình nguyện về TĐ6ND, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn nhiệm kỳ phục vụ cấp Tiểu đoàn bị tử trận tại Khe Sanh khi đang săn sóc thương binh. Anh đã 2 lần bị thương, một ở Dakto, một ở Cao Lãnh. BS Lê Hữu Sanh, bạn cùng khóa, người thường được chọn cầm cờ đi hàng đầu trong các cuộc diễn hành của trường Quân y vì dáng anh cao lớn, tử trận khi anh đang làm Y sĩ trưởng một Tiểu đoàn TQLC.
Cuối năm 1970, tôi giữ chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh viện Đỗ Vinh/SĐND và được thăng cấp Thiếu tá.

Khoảng tháng 3/1971, tôi đang thụ huấn tại Bệnh viện Brooks Hospital, thành phố San Antonio, Texas thì nhận được tin nhiều Y tá/TĐ2ND hy sinh tại mặt trận Hạ Lào. Lòng tôi quặn thắt.
Tôi rời binh chủng Nhảy dù về phục vụ tại Quân Y viện Nha Trang để được gần gia đình. Chiếc Mũ đỏ và bộ hoa dù vẫn còn quyến luyến cho đến khi tôi giải ngũ vì đắc cử Nghị viên Thành phố Nha Trang năm 1974.
Viết những dòng kỷ niệm của nửa thế kỷ trước không sao tránh khỏi thiếu sót và nhầm lẫn, rất mong các bạn đọc đính chính và thông cảm.
Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những Quân nhân Binh chủng Nhảy dù đã nằm xuống, những người lính chỉ biết tiến không lùi dù trước hỏa lực mạnh của địch quân.

Tôi xin cảm phục và tưởng niệm người lính chiến sĩ vô danh của Nhảy dù bắn súng vào họng tự sát khi miệng còn nhai cơm sáng 30 tháng 4 tại hẻm tôi ở 147/8 Trần Quốc Toản, một hình ảnh hào hùng không thể quên.
Tiếp nối làm Y sĩ trưởng TĐ2ND là BS Vương Bình Dzương, BS Bùi Văn Đạt, BS Tôn Thất Sơn, BS Lê Minh Tâm, BS Nguyễn Đức Mạnh, BS Nguyễn Kiêm, các anh hứng pháo Cộng sản sau này còn dữ dội hơn tôi nhiều.
Trước tôi, BS Võ Đạm là một trong 3 Sĩ quan thuộc bộ chỉ huy TĐ7ND còn sống sót trong trận Đồng Xoài.

Sau tôi, BS Tô Phạm Liệu, ông BS cầm súng như dân tác chiến, cũng là 1 trong 3 Sĩ quan thuộc bộ chỉ huy còn sống sót ở ngọn đồi Charlie, ngọn đôì đẫm máu chôn xác TĐT/TĐ11ND Nguyễn Đình Bảo.
BS Đường Thiện Đồng sống sót trận Hạ Lào, hốc hác lội bộ về thấu tiền trạm.
BS Vũ Văn Quynh, BS Nguyễn Văn Thường, v.v… trốn tù cải tạo bị xử bắn, và còn, còn rất nhiều nữa mà người Y sĩ nhảy dù đã chia sẻ.
Tôi xin thán phục tinh thần Nhảy dù bền bỉ của các BS Mũ đỏ Trần Văn Tính, Phạm Gia Cổn, Lê Quang Tiến… nắm giữ chức vụ Chủ tịch BCH/TƯ/GĐMĐVN Hải Ngoại để nối vòng tay lớn, tương thân, tương trợ.
Tôi không thấy ngượng ngùng khi BS Mũ xanh Trần Xuân Dũng ca tụng các Y sĩ Nhảy Dù, Y sĩ TQLC là “những Hiệp sĩ của thời đại, những Đường Sơn Đại Huynh trên tiền tuyến lửa.”

Tôi không quên cám ơn các Chi Hội trưởng GĐMĐ vùng Hoa Thịnh Đốn như anh Nguyễn Văn Mùi, Lý Thanh Phi… thường nhắc tôi tham dự buổi cơm cuối năm của Gia Đình Mũ đỏ tổ chức để góp chút tình gửi về cho Thương Phế Binh Nhảy dù còn ở quê nhà.
Tôi cũng không thể nào quên nhắc đến tên các đàn anh như Y sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, người anh cả nghiêm minh và vui tươi, Y sĩ Đại tá Bùi Thiều, con người tài hoa và là người điều hành xây dựng Bệnh viện địa đạo ngay trong căn cứ Khe Sanh mà báo chí Mỹ khen phục.

Bốn chữ “Giữ Đời Cho Nhau” của BS Lê Quang Tiến nhắn trong Đặc San 70 để thực hiện số báo đặc biệt về QYND/SĐND làm sống dậy trong tôi những năm tháng đùa với tử thần.

Có nếm mùi cực khổ, tù đày rồi mới thấy Độc lập – Tự Do là quý. Có lâm vào cảnh đói rách, nguy hiểm rồi mới thấy tình Huynh Đệ Chi binh là quý.
Xin nói thêm vài lời nữa là nếu không đọc quyển “Y sĩ Tiền Tuyến” của Trang Châu, không đọc bài viết của Phan Nhật Nam, của Trương Đăng Sỹ trong Đặc San Mũ Đỏ #70 thì e cũng khó ngồi mài miệt cả tuần để viết nên những trang giấy này.

Mũ Đỏ Trần Đoàn

Y sĩ Trưởng TĐ2ND
bichphuong
Posts: 617
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Màu áo Hoa Rừng

Bạch Hổ – Trình bày: Ngô Nhật Tùng

Thân tặng các Thiên Thần Mũ Đỏ, Mũ Nâu, Mũ Xanh nói chung

Phải Anh là áo rằn ri
Ra đi nào biết mấy trăng mới về

Image

Sau trận tấn công “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972 của quân Cộng sản Bắc Việt, chính quyền VNCH ban hành lệnh tổng động viên. Năm đó tất cả các trường đại học trên khắp miền Nam điều đóng cửa cho đến khi có lệnh mới, nhiều phân khoa mở kỳ thi cuối năm gấp để một số sinh viên khỏi phải nhập ngũ. Tôi được đưa vào trường Bộ binh Thủ Đức, theo học khóa 6/72, một số đông bạn bè đi trước đã theo học các khóa 3, 4, 5/72. Kể từ khi các sinh viên trình diện nhập ngũ, trường Bộ binh nhận vào liên tục, cứ hai tuần vào một khóa, cho đến khóa tôi là khóa chót chỉ có hơn 400 sinh viên sĩ quan, tông đó có một số kỷ sư và giáo chức.

Lúc đó tôi chưa có gia đình, mới có người yêu nên thường viết thư và… rất mong thư. Chuyện bí mật từ từ đổ bể ra, mới đầu mấy thằng bạn thân còn tìm cách “phá thối” , chọc quê. Sau đó mỗi lần tôi viết thư cả bọn xúm lại “gà” cho tôi, có đứa làm “thầy dùi” cho ý kiến… “Sao mày không gửi cho nàng một tấm ảnh?… Tao thấy mày có nét huynh trưởng lắm!” Nghe cũng êm tai, bạn bè bảo sao tôi làm vậy… thế mới chết! Nhận được thư hồi âm tôi vội vàng lẻn vào phòng vệ sinh làm thủ tục đọc thư… phải đọc trong ngày mới thấm, thư tình của nàng chắc phải thơm! Lời lẽ trong thư có vẻ vui, nàng đã nhận được ảnh… mắt tôi mở to ra nơi hàng chữ “Sao mà trông anh giống Babylac quá vậy! Hồi đó anh uống Guigoz có nhiều không?” Đọc đến lần thứ ba cho chắc ăn, khỏi quên, tôi tức tốc quay trở lại phòng nghĩ thầm trong bụng… cũng tại mấy thằng bạn cho ý kiến tai hại! Thật là bậy bạ! Lúc ra trường tôi phải làm một chuyện gì ghê gớm… để cho nàng biết tay, không dám coi thường thôi nữa.

– Khi gần ra trường, mấy thằng bạn thân Hải, Hùng, Thạnh tình nguyện về Nhảy Dù, rủ tôi đi theo. Ê Hiếu! Đi Nhảy Dù với tụi tao… Đội beret đỏ cho nó oai.
– Tao chọn Biệt Động Quân!

Mấy đứa còn làm bộ thương hại:

– BĐQ phải học khóa Sình Lầy cực lắm!

Tôi chưa biết trả lời sao thi thằng Hưng đã chen vào.

– Thằng Hiếu định làm Cọp…! Tụi bay cứ rủ nhau đi Nhảy Dù, thế nào cũng có ngày ngã vỡ mặt hết cả đám.

Bọn tôi bốn mươi người được Phòng 3 BCH/BĐQ gửi ra TTHL/BĐQ Dục Mỹ học khóa 58 “Hành Quân Biệt Động Rừng Núi Sình Lầy” thường gọi là Rừng Núi Sình Lầy hay Sình Lầy vì trong thời gian huấn luyện, cực nhất là lúc đi học ở căn cứ đồng lầy. Trong ngày khai giảng, huấn luyện viên hù khóa sinh “Khi nào các bạn đen bằng bức tượng đồng đen người lính BĐQ trước cổng, khi đó là lúc sắp mãn khóa. Trong khóa này không có ngày Thư Bẩy, Chủ Nhật, các bạn phải học tối thiểu 12 giờ mỗi ngày, và đặc biệt về kỹ thuật tác chiến ban đêm…”

Thực vậy, mỗi ngày thức từ lúc 5 giờ sáng tập thể dục, trong lúc trời vẫn còn tối, TTHL/BĐQ vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Các khóa sinh thuộc hai khóa Viễn Thám và Sình Lầy đã ba lô, súng đạn trong hàng ngũ chạy rầm rầm qua phố Dục Mỹ ra đến TTHL Lam Sơn, vừa chạy vừa hô to “Ta là Biệt Động… Biệt Động diệt cộng. Sát!” Chẳng biết bà con, những người buôn bán nơi phố Dục Mỹ có ngủ được hay không? Có điều tôi dám chắc là họ không cần phải có đồng hồ báo thức ở trong nhà.
Image
Thêm một điêu nữa là các khóa sinh thường có tật đếm lui… còn lại 41 ngày… còn lại 40 ngày v.v… Khóa huấn luyện chia làm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một, 21 ngày phần “Căn bản Biệt Động Quân”, học từ sáng cho đến 10 giờ đêm trở về TTHL. Giai đoạn hai là phần “Đi căn cứ”, các khóa sinh sẽ được huấn luyện về kỹ thuật tác chiến qua ba căn cứ Rừng, Núi và cuối cùng là căn cứ Đồng Lầy.


Ngày thứ 21, trong ngày cuối của giai đoạn căn bản, khóa sinh được huấn luyện về “Mưu sinh, Thoát hiểm và Đào tẩu”. Để thêm phần quan trọng, sĩ quan huấn luyện “nồ” tụi tôi “Các anh mặc bộ đồ rằn ri, bị Việt cộng bắt được… có quỳ xuống lậy… tụi nó cũng để cho một viên vào đầu!” Xui hôm đó trời mưa to, cả khóa bị mưa ướt như chuột, chiếc ba lô dường như có bỏ thêm đồng vào chứ không phải chỉ có đạn (khóa Sình Lầy, Viễn Thám đem theo đạn thật vì phải lội rất xa, ra khỏi vòng đai an ninh của huấn khu Dục Mỹ… biết đâu gặp mấy anh du kích bất tử). Đến 6 giờ chiều cả bọn kéo nhau ra dưới chân núi Đeo, chia toán 4 người và được lệnh vượt núi trở về điêm tập trung ở phía bên kia. Bốn người trong tổ vừa chạy lên núi vừa đếm số để khỏi lạc nhau (toán nào cũng chạy, chạy thực sự vì nếu để trời tối sẽ không thấy đường leo núi). Lên được lưng chừng thì trời tối, bọn tôi phải dò dẫm tìm đường mòn dẫn lên đỉnh núi. Phải mất một tiếng đồng hồ nữa mới lên tới đỉnh, cả toán đồng ý ngồi nghỉ chút rồi tìm đường đi xuống. Trời tối đen như mực sau trận mưa hồi chiều, tôi cởi chiếc ba lô ra cho nhẹ tấm thân, thầm nghĩ… Trường Bộ binh Thủ Đức quả là thiên đường so với TTHL/BĐQ này, bây giờ cho phép tôi chạy bộ về lại trường Thủ Đức chắc tôi cũng làm ngay. Mà không phải chỉ riêng tôi mơ ước, có lẽ cả đám… những cựu SVSQ mà tối nào cũng đi câu lạc bộ uống cà phê, tán dóc.

Căn cứ Đồng Lầy, ra đến đây tôi làm đúng theo lời dặn của các bậc tiền bối học khóa trước, lôi trong ba lô ra một bộ quần áo mới mặc vào, còn bộ cũ giờ đã tả tơi, tìm một bụi cây nào đó ven rừng gởi lại làm kỷ niệm. Giầy MAP, ba lô cũng rách, rán lết cho tới ngày mãn khóa. Thực vậy, 21 ngày qua, tụi tôi không có thì giờ tắm rửa, đánh răng, rửa mặt. Mỗi khi di chuyển qua một dòng suối, ai cũng lội xuống rửa mặt, kỳ cọ vội vàng rồi đi tiếp. Hèn chi mấy em ngoài phố Dục Mỹ nói rằng quen với mấy ông BĐQ chẳng khác chi giây với hủi (cùi), lấy BĐQ có khác nào trao duyên lầm tướng cướp. Câu này, hồi mới lâop gia đình, bà xã thỉnh thoảng có lập lại cho tôi nghe, bây giờ thì… chán quá rồi, mà cũng đã hết thuốc chửa.
Image
Tại căn cứ Đồng Lầy, ngoài những môn học như ở căn cứ Rừng, Núi về kỹ thuật xâm nhập căn cứ vùng hành quân, phục kích, phản phục kích, đột kích lúc rạng đông, đi phương giác đêm, tấn công đêm. Khóa sinh còn được huấn luyện thêm về cách sử dụng xuồng cao su, chiếc xuồng này coi vậy chứ nặng… ngàn cân, đâu phải giỡn. Hôm thực tập đi phương giác đêm, khi toán của tôi ra đến quốc lộ 21 (từ Ninh Hòa đi Ban Mê Thuộc), quần áo ướt sũng, lúc đó đã quá 12 giờ đêm, không cần phải cho phép, cả toán nằm ngã lưng lên ba lô ngủ một giấc cho đến khi tiếng còi tập hợp réo lên. Ở căn cứ Sình, tụi tôi được ngủ nhiều lắm là 5 tiếng đồng hồ mỗi đêm. Sau khi về đến căn cứ phải chùi súng, canh gác… một người phạm lỗi, cả trung đội khóa sinh bị đem đi nhúng nước có lúc 2, 3 giờ sáng (căn cứ Sình Lầy gọi là “hít nước” chớ không phải là “hít đất”).

Ngày mãn khóa học tụi tôi đứa nào cũng đen ra, người nào trông cũng gió sương, gầy hơn nhưng bên trong là một khối thép đã rèn luyện xong. Về đến Sài Gòn trong bộ đồ “hoa rừng” mới, beret nâu mới, giầy mới, vào đến trong nhà, người nhà mới nhận ra. TTHL/BĐQ Dục Mỹ đã lột xác thư sinh của tôi để trở thành một người chiến binh thực sự. Tụi tôi sau khi trở về trình diện BCH/BĐQ được 48 giờ phép, sau đó được đưa ra các tiểu đoàn BĐQ đang hành quân trên bốn quân khu để thực tập. Phải đi qua hai tiểu đoàn trước khi nhận đơn vị mới để trở thành một trung đội trưởng. Thời gian nhung lụa đã qua, 48 giờ phép sẽ trôi qua nhanh, chiều hôm đó tôi đến thăm nàng. Trên đường về tôi ngẫm nghĩ… bây giờ nhìn thấy tôi trong bộ quân phục tác chiến “ác liệt” thì thế nào nàng cũng “rét”! Quả nhiên…

– Ủa! Anh về hồi nào vậy? Sao không viết thư cho em biết trước?

– Anh mới về tới. (BĐQ chuyên môn đánh đêm… ngu gì báo tin trước!)

– Sao anh mặc đồ gì… ghê vậy! Bộ anh định…. dọa ai đây? Eo ơi! Ai mà dám ngồi gần anh!

* * *

Đó là chuyện Mầu Áo Hoa Rừng năm xưa. Bây giờ thì tôi đã… thấm đòn. Thỉnh thoảng kiếm được cớ để đi uống cà phê, tán dóc với mấy ông bạn, bà con tưởng tôi ngon lành, vẫn còn phong độ.

– Chà BĐQ đi đâu một mình thế ? Bảnh ghê!

– Bảnh mẹ gì! Thỉnh thoảng mới được vợ dúi cho một ít tiền…!

Sợ bàn bè, anh em chê cười tôi vẫn phải dấu là chút nữa đây, khi về nhà tôi phải đưa vợ đi chợ, dọn dẹp nhà cửa, hút bụi, đổ rác, giặt hai giỏ quần áo to tướng…
Image
Thỉnh thoảng lỡ trớn đi nhậu với bạn bè về khuya. Vừa vào tới nhà tôi đã bị lãnh chưởng tới tấp… toàn là những câu mà tôi đã phải nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần. “Tôi vô phúc mới vớ phải anh! Đàn ông gì mà cuối tuần nào cũng tụ họp, nhậu nhẹt…” Có lẽ nàng coi chuyện lấy tôi là làm việc phúc đức, công quả, từ thiện… và còn tai hại hơn nữa là còn học lại với mấy người bạn của nàng, với phía bên gia đình tôi. Điêu tốt về tôi nàng hay quên hay cố tình quên rằng mặc dầu đi lính nhưng tôi đã lên trên đại học trước nàng hai niên… chứ đâu phải dốt, mà bây giờ sang đây tôi đã chịu khó đi học lại và đã có bằng cấp cao hơn nàng.

Người ta thường nói “Đẹp trai không bằng nói dai… Nói dai không bằng mặt chi!” Tuy nhiên tất cả vẫn thua thằng “liều mạng”. Binh chủng BĐQ đã tập cho tôi tình liều mạng… Sẵn có dăm ba chai bia ở trong người, tôi cũng… hết ngán nàng. Cứ tỉnh bơ như người Hà Nội, giả câm, giả điếc lên sa lông nằm, từ từ tụt đôi giầy ra… ngả người làm một giấc cho đến sáng.

“… Ta Biệt Động Quân danh lừng bốn phương… Biệt Động Quân SÁT!”

Bạch Hổ
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »

Nhớ lại “Tháng Ba gãy súng”
Bùi Văn Phú
Tựa bài viết này cũng là tên một tác phẩm của Cao Xuân Huy, một sĩ quan Thuỷ quân Lục chiến, viết về những ngày cuối cùng của cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam, nơi ông chiến đấu cho đến khi cùng nhiều đồng đội bị bắt làm tù binh vào cuối tháng 3 năm 1975.

Với nhiều người Việt, nhất là những người lính Việt Nam Cộng hòa thì tháng 3 năm 1975 đánh dấu sự bắt đầu một khúc quanh lịch sử, với Ban Mê Thuột rơi vào tay bộ đội cộng sản ngày 10 tháng Ba, từ đó lãnh đạo miền Nam có những quyết định di tản chiến thuật sai lầm đầy máu và nước mắt, từ cao nguyên về Nha Trang, từ Đà Nẵng vào Sài Gòn để rồi dẫn đến một ngày cuối tháng Tư đau buồn.

Tác phẩm “Tháng Ba gãy súng” được xuất bản năm 1985, sau khi tác giả vượt biển và được định cư tại Mỹ năm 1983.
Image
Cao Xuân Huy và tác phẩm của ông viết về cuộc di tản khỏi Huế cuối tháng 3/1975
Cao Xuân Huy nhập ngũ năm 1968, khi vừa tròn 21 tuổi, theo lệnh tổng động viên được ban hành ở miền Nam sau các đợt tấn công của cộng sản vào Tết Mậu Thân.

Đây là cái nhìn về những ngày cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam qua con mắt của một sĩ quan trẻ thuộc một đơn vị được coi là tinh nhuệ nhất của quân đội cộng hòa, của cựu trung úy Đại đội phó Đại đội 4, Tiểu đoàn 4 Thuỷ quân Lục chiến.

Trong lời mở đầu của tác phẩm, tác giả viết: “Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”

Câu chuyện được ông ghi lại là khoảng thời gian từ 15 tháng Ba, lúc tác giả đang nghỉ phép ở Sài Gòn và tìm cách trở về đơn vị hiện đóng quân ở cây số 23 phía bắc Huế, cho đến ngày 27 tháng Ba, khi ông theo đoàn tù binh gồm những người lính Việt Nam Cộng hòa vừa bị bắt sau một cuộc rút lui vô cùng ngỡ ngàng theo lệnh cấp trên.

25 tháng Ba, 1975 Huế rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Những người lính không được lệnh bảo vệ mà phải rút lui, trong đó có đơn vị của trung úy Cao Xuân Huy đang nằm chờ ở bờ biển để được di tản vào Đà Nẵng. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng Ba, ông và những người lính còn lại của đơn vị bị bắt làm tù binh.

Được dẫn đi dọc Quốc lộ 1 từ Huế về hướng bắc và trên đoạn đường đó nhiều tù binh đã bị bộ đội xử bắn tại chỗ. Cao Xuân Huy thoát chết là nhờ số mệnh, nhờ ông ngoại phù hộ như tác giả đã kêu cầu nhiều lần khi đối diện với tử thần.

Ông đã sống để kể lại những gì mình chứng kiến trong 12 ngày đêm ở tuyến đầu miền Nam Việt Nam qua cách viết chân thực, trong đó rổn rang những tiếng chửi thề, ngập hơi rượu, tình đồng đội và những cái chết nhẹ tựa lông hồng là điều rất thực về người chiến binh trong đơn vị của ông.

Những kinh hoàng của cuộc triệt thoái – hay rút lui, di tản chiến thuật – được kể lại bằng ngôn ngữ thật nhất. Máu, thịt vương vãi. Đầu chẻ làm hai. Người chết dưới xích xe tăng, chết giữa thành sắt của những con tàu. Những người lính bất tuân lệnh bị xử bắn ngay tại chỗ. Những người lính Thuỷ quân Lục chiến can trường không muốn để bị địch bắt làm tù binh, trên đường rút lui không còn hi vọng, vì biết đã bị bỏ rơi, nên cứ ba bốn người ôm nhau rồi cho nổ lựu đạn để cùng chết.

Khi chờ di tản đơn vị có những chuyện khó ai hiểu được. Một cô sinh viên văn khoa Huế với đầy đủ giấy tờ chứng minh, bồ của một người lính, cứ nhất định đòi đi theo người tình và thỉnh thoảng khóc lóc lớn tiếng, vái lạy tứ phương khiến có người nghi ngờ cô là cán bộ cộng sản được gài vào đi theo đơn vị. Hay hình ảnh một nhà tu đầu trọc, mặc áo cà sa đeo súng đi bắt tù binh Việt Nam Cộng hòa.

Câu chuyện lịch sử quân đội mà Cao Xuân Huy muốn ghi lại là một lữ đoàn Thuỷ quân Lục chiến, binh chủng thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bị một đại đội Việt Cộng bắt làm tù binh. Sự thất bại nhục nhã đó là một dấu hỏi lớn mà lãnh đạo miền Nam phải trả lời cho những thế hệ mai sau.

Sau “Tháng Ba gãy súng” xuất bản lần đầu năm 1985, Cao Xuân Huy chỉ viết thêm một tác phẩm nữa là “Vài mẩu chuyện” phát hành trong năm 2010, vài tháng trước khi ông qua đời ngày 12/11/2010.

Cũng với lối viết giản dị nhưng rất thực về chiến tranh, về mơ ước hoà bình, về đời sống tù cải tạo mà ông đã trải qua 4 năm rưỡi trong đó. Đọc truyện “Người muôn năm cũ” để thấy ảnh hưởng của chiến tranh tâm lí mà đài Mẹ Việt Nam đã có sức mạnh làm lung lay tinh thần chiến đấu của bộ đội miền Bắc với giọng cô Hiền thường xuyên nhắc đến chuyện “sinh Bắc tử Nam”.

Câu chuyện gặp gỡ giữa tác giả và một anh bộ đội miền Bắc sau giờ ngưng bắn, vào ngày 28/01/1973, cho thấy người Việt hai miền ai cũng mơ ước đất nước hòa bình. Nhưng anh bộ đội đã phải thay đổi thái độ ngay khi một đồng chí khác tiến đến gần chỗ hai người đang đứng nói chuyện với nhau. Để rồi chỉ chốc lát lại bắn giết mà anh bộ đội gốc Hà Nội chắc đã tử trận sau đó. Bi thảm của chiến tranh tưởng như chấm dứt với Hiệp định Ba-Lê 1973, nhưng nỗi oan nghiệt của hòa bình lại ùa tới.

Hệ quả của cuộc chiến với bao oan hồn của người dân, người lính còn ám ảnh tác giả qua câu chuyện “Chiếc lưỡi câu” ma quái.

Cao Xuân Huy chưa bao giờ viết văn khi còn ở trong nước, ông chỉ viết khi ra đến hải ngoại. Trước ông, trong cuộc chiến đã có những bút ký chiến tranh của Phan Nhật Nam là “Mùa hè đỏ lửa”, “Dựa lưng nỗi chết”, “Tù binh và hoà bình”; của Trang Châu với “Y sĩ tiền tuyến” hay của Nguyên Vũ với “Đời pháo thủ”, “Sau bảy năm ở lính” là những tác phẩm đem đến cho người đọc hình ảnh chiến đấu can trường, cùng tình đồng đội, tình cảm gia đình, thương yêu và mơ ước hoà bình đến trên quê hương của người lính cộng hòa.

Nhưng vì sao những người lính đã chiến đấu trong 20 năm để bảo vệ miền Nam bị buộc phải buông súng. Đến nay vẫn chưa có được những lí giải.

Những ngày cuối tháng Tư 1975, Sài Gòn tràn ngập người di tản từ Đà Nẵng, từ Huế, Nha Trang. Họ như mất thần, khóc lóc kể lại những cảnh chết chóc tang thương trên đường di tản bằng tàu, bằng đường bộ. Những câu chuyện chưa đánh giặc đã phải bỏ chạy làm ngạc nhiên nhiều người. Nhưng dân và cả lính không ai hiểu nổi.

Rồi chiến tranh chấm dứt ở đó vào ngày 30 tháng Tư, 1975. Những người lính ở lại chấp nhận cuộc đổi đời với tù tội trong các trại học tập cải tạo. Bên ngoài xã hội đời sống khó khăn với khoai sắn, bo bo, mì sợi. Văn nghệ sĩ, trí thức bị đàn áp, bắt giam.

Việt Nam dưới ánh sáng xã hội chủ nghĩa trong hơn bốn thập niên qua đã khiến hàng triệu người bỏ quê hương ra đi vì không chấp nhận ý thức hệ cộng sản. Điều nghịch lý là nhiều người từng đứng về phía kẻ thù của Mỹ nay cũng đang rời bỏ thiên đường để mưu tìm cuộc sống nơi đất Mỹ.

Và tầu chiến Mỹ nay đã trở lại Đà Nẵng, như lính Mỹ đã từng đổ bộ lên đây hơn nửa thế kỷ trước, giữa lúc chiến tranh đang gia tăng cường độ để be bờ, ngăn chặn Trung Quốc bành trướng.

Trong chuyến ghé Đà Nẵng của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson hôm đầu tháng 3/2018, thủy thủ Mỹ đã xuống phố hát “Nối vòng tay lớn” và mời gọi dân chúng cùng đồng ca. Đây là bài ca đã được chính tác giả là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát trên đài Sài Gòn trưa ngày 30/4/75 để chào đón bộ đội cộng sản vào thủ đô Sài Gòn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Xem cảnh này trên trang Facebook của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink, tôi thầm cám ơn những người lính cộng hòa đã bảo vệ miền Nam và tự hỏi những người bộ đội cộng sản có bao giờ nghĩ đến hệ lụy mà họ đã để lại cho đất nước từ ngày 30/4/1975 đến nay.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Chuyện xứ Mỹ của tôi
Friday, January 12, 2018

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài Gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh ... Bài viết là tự sự về chuyện chọn vùng an cư trên đất Mỹ.
***

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1993 đến nay 2016 đã được 23 năm, vì hoàn cảnh sinh sống chúng tôi phải di chuyển qua nhiều nơi chốn, thế nên biết thêm được nhiều điều về nước Mỹ.

Thoạt đầu đến Mỹ chúng tôi cư ngụ tại thành phố Hawthorne - nam Cali vì do bà chị giúp đỡ sponsor cho. Ở đây chúng tôi share phòng với nhà chị, vợ chồng con cái dồn vào một phòng nhỏ tí thật bất tiện rồi dần dà cũng quen. Ở Hawthorne, vợ chồng tôi đi đến trường chuyên dạy nghề nail để học lấy cái bằng. Rồi kể từ năm 1995 chúng tôi sinh sống bằng nghề này, một nghề duy nhất cho đến bây giờ.

Cali là nơi sinh sống lý tưởng cho người Việt Nam khí hậu mát mẻ quanh năm như Đà Lạt. Ở VN có món ngon gì thì Cali cũng có đủ, có khi còn ngon tuyệt hơn nữa vả lại thực phẩm được kiểm tra rất nghiêm ngặt nên không sợ độc hại như bên nhà. Ra đường gặp toàn người Việt đi đâu cũng nói tiếng Việt thoải mái, sống trên đất Mỹ mà hoàn cảnh sống gần như VN.

Chỉ kẹt một điều nghề Nail ở Cali bị cạnh tranh rất dữ, nên giá "bèo" hơn các Tiểu bang khác nhiều lắm nhất là so với các Tiểu bang miền Bắc. Thứ hai nhà cửa Cali lại rất mắc mỏ, có người ví von bán một căn nhà ở Cali đem tiền qua Tiểu bang khác mua được hai căn nhà. Vợ chồng tôi lúc đó đã trung niên e rằng khó lòng mua nổi một căn nhà cho dù trả góp.

Sau 4 năm ở Cali vợ chồng con cái lại đùm túm qua Tiểu bang khác, về thành phồ Joliet thuộc TB Illinois, một thành phố nhỏ gần Chicago cách đó khoảng 1 giờ lái xe.
Chúng tôi đến Joliet vào mùa đông thấy tuyết bay đầy trời mà lòng kinh hãi. Tất cả cảnh vật đều phủ một màu trắng toát và lạnh kinh hồn. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về Joliet đây là nơi chốn không thể sống lâu dài được, chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền rồi chuồn thẳng.

Có lẽ hầu hết người VN đều rất sợ lạnh đồng thời lại rất sợ cái khung cảnh u buồn của mùa đông, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, bầu trời âm u màu chì kéo dài suốt 6 tháng khiến người ta cảm thấy chán chường, không còn cảm thấy muốn sống háo hức nữa cho dù nơi đây chúng tôi kiếm rất nhiều tiền. Sau 5 năm, chờ cho con gái học xong lớp 12 chúng tôi quyết định đi về miền nắng ấm tiểu bang Florida.

Ngày đi, bao nhiều đồ đạc sắm sửa tạm bợ vất đi hết chỉ mang theo quần áo và đồ dùng cần thiết. Xong xuôi, chúng tôi lên xe bấm 3 hồi còi dài để giã từ Joliet, giã từ vùng tuyết trắng lạnh lùng. Sau đó giong ruổi qua một quãng đường dài 1200 miles để đến Jacksonville – Florida.

Tôi chọn Jacksonville vì muốn trốn cái lạnh cái buồn nơi miền Bắc và xuôi nam để hưởng nắng ấm mặt trời quanh năm. Ngoài ra, ở đây tôi còn có một người bạn rất thân từ hồi Trung học, muốn gần gủi bạn bè cho vui. Té ra không phải vậy chúng tội bận rộn tíu tít với công việc, đâu có thời gian mà gặp gỡ nhau nhiều. Lâu lâu tiệc tùng họp mặt uống vài chai bia và tán gẫu dăm ba câu chuyện, rồi chia tay ai về nhà nấy.

Chúng tôi ở Jacksonville thấm thoát được 13 năm một thời gian khá dài cho một nơi chốn. Trước nay chưa khi nào chúng tôi ở một chổ lâu đến như vậy. Hàng năm vào ngày Labor Day chúng tôi thường hay kéo xuống Tampa, thăm gia đình người em trai của tôi cách đó 4 giờ lái xe.


Có một lần không biết nghĩ sao, em tôi nói:" Khi nào anh chị về hưu, xuống đây mua một ngôi nhà, có mảnh vườn bao quanh, tha hồ mà trồng trọt vui với tuổi già. Tampa khí hậu nóng ẩm quanh năm, trồng cây gì cũng được." Nghe nói như thế, giống như mọt tia chớp lóe lên trong đầu tôi:" nếu có thú vui này, sao không về Tampa sinh sống, càng sớm càng tốt !" Ở Jacksonville, mùa đông đôi khi lạnh dưới không độ C, trồng cây gì cũng chết, ngoại trừ cam bưởi.

Thế rồi một lần nữa và có lẽ lần cuối cùng, chúng tôi quyết định dời về Tampa. Sau đó, chúng tôi tiến hành hai công việc, mua ngay một căn nhà tại Tampa và sau đó bán căn nhà tại Jacksonville. Công việc mua bán không đơn giản, cũng may em dâu tôi làm nghề địa ốc, nên mọi chuyện rồi cũng suôn sẻ. Đồng thời đóng cửa tiêm Nail gọi người đến cho hết đồ đạc.

Rồi ngày dọn nhà cũng đã đến, công việc dọn nhà lần này nhọc nhằn hơn hai lần trước. Bởi lẽ các lần trước, chúng tôi chủ trương sống tạm bợ nên không sắm sửa gì nhiều bây giờ ngổn ngang trăm thứ. Suốt một tuần lễ, cả nhà tập trung cao độ đóng gói đồ đạc vào các thùng giấy, rồi bưng bê ra gara chất đống chờ người đến bốc dỡ. Có chuyện khôi hài khi dọn nhà, ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, ông muốn vất hết những đồ không dùng đến, còn bà thì cứ ôm theo hết, nhất quyết không buông bỏ. Có người ví von rằng, một lần cháy nhà bằng hai lần dọn nhà, để nhằm nói lên nỗi nhọc nhằn khiếp đảm của việc dọn nhà. Cho đến nỗi, có người dọn nhà chỉ một vài lần là đủ tởn, thề không bao giờ dọn nữa, trong đó có tôi.

Tampa nằm ở khoảng giữa và thuộc bên bờ Tây của Florida, nó nằm trên một vịnh nhỏ có tên là Tampa Bay, vịnh này thông ra vịnh Mexico khổng lồ. Tampa có dân số trên 1 triệu người, đứng hàng thứ 3 tại Florida, sau Miami và Orlando. Tuy có dân số cao nhưng diện tích lại nhỏ hơn các thành phố khác cho nên dân cư cảm thấy đông đúc hơn, luôn luôn lúc nào cũng thấy xe cộ chạy dày đặc trên đường. Thời tiết Tampa có bốn mùa rõ rệt, mùa Thu cũng quét lá mệt nghỉ, mùa Đông cũng hơi hơi lạnh khoảng 50 độ F (khoảng 10 độ C) mùa Hè nóng hừng hực trên 90 độ F (32 độC).

Căn nhà ở Tampa của chúng tôi đã trên 30 tuổi, nhà nhỏ chỉ có 1,100 sqf (khoảng 100 mét vuông), cũng có 3 phòng ngủ và 2 phòng tắm, giá mua là 129K. Căn nhà sơn 2 màu xanh trắng, mặt ngó thẳng ra hướng Đông, đúng cái hướng mà các Thầy Tử vi khuyên tôi nên chọn cho hạp tuổi, không biết có đúng như vậy không, thôi thì có kiêng thì có lành. Trước và sau nhà có 2 cây sồi (oak) cổ thụ tỏa bóng mát trông thật đẹp, nhưng ngặt một điều là không trồng trọt gì được dưới tàn cây của chúng. Cây sồi được coi là tài sản cảu Florida, tỉa nhánh mé cành thì không sao, còn muốn đốn bỏ phải xin phép.

Khi dọn nhà đi thì chứa đồ đạc ở trong thùng, khi đến chỗ mới thì dỡ đồ đạc ra để xếp vào các nơi, cả nhà xúm lại làm suốt ngày, khoảng 2 tuần sau thì tạm ổn. Đến cuối tháng, nghe điện thoại reo, tôi nhấc lên thì được biết có người chủ tiệm Nail được bạn bè giới thiệu bèn gọi đến mời vợ chồng tôi đi làm. Thế là yên phận sống trong căn nhà mới.
Bước ra mảnh vườn, chủ trước họ trồng cây kiểng um tùm trông phát ớn. Tôi kêu một anh Mể tới dọn dẹp, anh chàng này ngơ ngác không biết nói tiếng Anh, muốn bàn công việc phải nói qua điện thoại với vợ hắn.
Anh Mễ ra giá tiền công là 500 đô, tôi chẳng biết gì nên cứ gật đầu bừa cho xong. Trước nay tôi có nghe nói đàn ông Mễ có sức khỏe kinh người, bây giờ khi tận mắt chứng kiến cái cảnh anh Mễ này làm việc mà kinh sợ, sợ anh ta ngã lăn ra chết bất tử. Anh ta làm việc dưới trời nắng như đổ lửa và ghê gớm ở chổ, suốt từ sáng tới chiều anh ta chớ hề nghỉ tay. Tới trưa tôi chạy đi mua cho anh một cái bánh hamburger, anh ta nhai nhồm nhàm xong nốc cạn lon Coca, rồi hì hục làm tiếp. Anh ta cứ làm như thế suốt 3 ngày trời, khuôn mặt bình thản, không than vắn thở dài gì hết, mọi chuyện đều bình thường đối với anh ta. Thiệt đáng nể.
Dọn dẹp mảnh vườn xong, tôi chưa biết chỗ nào bán cây ăn trái để mua về nhà trồng.
Thời may con gái có người bạn giới thiệu cho Khu Chợ Trời bên thành phố St Petersburg. Nằm kề cận Tampa có 2 thành phố vệ tinh là St. Petersburg và Clearwater. Cả ba tạo thành một hình tam giác, từ nhà đi qua hai nơi này khoảng nửa tiếng.

Theo sự hiểu biết của tôi, thành phố St. Petersburg gọi tắt là St. Pete. (phe ta kêu là Săn Pí) tuy nhỏ hơn Tampa, nhưng không hiểu sao người Việt lại quần tụ đông hơn, chợ búa và nhà hàng Việt Nam đông hơn bên Tampa. Chợ tuy nhỏ cũng có bán đủ thứ hàng, cũng có quày thịt cá tươi sống, cũng có đủ các loại to go như bún mì phở... còn các loại ăn chơi thì ê hề. Nhà hàng VN cũng nho nhỏ, có nhiều nơi cũng có thức ăn ngon nổi tiếng. Tóm lại sinh hoạt của người Việt nơi St. Pete khá nhộn nhịp.

Từ Tampa qua St. Pete phải chạy qua cây cầu Howard dài 6 dặm, cây cầu rất đẹp, đẹp ở chỗ cầu chạy sát mặt biển, khiến ta có cảm giác sóng biển đang vờn bên má mình, đến giữa thì cầu nhô lên cao cho tàu thuyền qua lại. Sáng sớm chúng tôi chạy qua cây cầu này, rồi nhìn qua hai bên, mặt biển lặng im xanh ngắt và trải rộng mênh mông tới chân trời, có những chiếc thuyền rẽ sóng ở xa xa, đã tạo nên một khung cảnh kỳ thú tuyệt đẹp. Từ đó mỗi sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi đi qua cây cầu để đến Chợ Trời, chưa bỏ qua một lần nào hết.

Khu Chợ Trời (Flea Market) St. Pete, nằm trên một khu đất rộng, khung cảnh nhộn nhịp bát nháo như bất cứ Khu Chợ Trời nào khác, tuy nhiên mọi nơi đều sạch sẽ, không hề thấy ai xả rác. Những người bán hàng, họ dựng lều hoặc che dù san sát nhau, người người đi lại tấp nập. Vợ chồng tôi khi lần đầu tiên đến đây, chỉ đi dạo một vòng là trong lòng bỗng nhiên cảm thấy vui thích lắm.

Theo tôi, Chợ Trời St. Pete là một nét văn hóa đặc sắc của vùng vịnh Tampa. Sau này khi có bạn bè đến thăm viếng, chúng tôi đều đưa đi thăm Chợ Trời và mọi người đều rất thích thú, kể cả người từ VN qua. Tôi thấy người mua kẻ bán ở đây rất đông người Việt và kỳ lạ một điều, những người Việt hiện diện tại đây đều có gốc gác từ miệt Đồng bằng sông Cửu Long, không hề thấy ai nói giọng Bắc giọng Trung ( hay là có nói mà tôi chưa gặp) Phần lớn những người này lại xuất thân từ vùng đồng quê chứ không ai xuất thân từ thành phố, cho nên giọng nói của họ nghe quê rặc và rất thiệt thà chơn chất, nói sao bán vậy, chứ không hề nói thách một tiếng nào.

Tôi hỏi cô bán hàng trái cây: "Nhãn này giá bao nhiêu tiền một pound vậy cô?" Cô cười đáp: "Dạ, 3 đồng "gửi" một pound". Tôi nói giỡn: "Sao mắc vậy?" Cô ta cười lỏn lẻn: "Em bán "ghẻ ghề" mà anh chê mắc !"
Tôi cười lớn: "Cha! cái giọng này sao nghe giống dân Rạch giá quá vậy ta?" Cô ta cũng cười theo: " Dạ đúng vậy, em quê Giồng Riềng- Rạch Giá đây anh".
Có một số người Việt lớn tuổi ở St. Pete không xin đi làm hãng được, bèn ở nhà trồng rau, nuôi gà vịt rồi mang ra chợ trời bán. Nhà cửa ở vùng này rất cũ kỹ và nhỏ xíu, nhưng được cái là có đất khá rộng chung quanh nhà, cho nên thoải mái trồng trọt.

Ngoài những thứ thường thấy như rau cải, bầu bí, khổ qua... người ta còn thấy bày bán ở đây những thứ khó tìm như: rau càng cua, bông so đủa, bông điên điển, cọng bồn bồn, rau nhút, rau muống nước (loại rau này tôi chưa từng thấy ở những nơi khác)... Có nhà nuôi gà vịt "đi bộ", hay ấp trứng vịt lộn cũng mang ra chợ bán. Trái cây thì tràn ngập các loại trái cây VN, vùng đất này trồng mãng cầu, nhãn, thanh long rất tốt, ngoài ra còn có ổi xá lị, trái li ki ma, mít, xoài...

Xoài ở St. Pete có loại trái mập ú, trông ô dề xấu xí, nhưng khi ăn thì có mùi vị thơm ngon, hột lại nhỏ xíu, rất đặc sắc. Vú sữa cũng có, nhưng trái nhỏ tí như trái chanh, ai cũng chê chẳng thấy ai mua. Hầu hết các loại cây trái VN đều trồng được ở vùng này, ngoại trừ sầu riêng, chôm chôm và măng cụt.

Chúng tôi đi dạo qua khu bán cây ăn trái. Anh chủ khu này tên Sang, khoảng 40 tuổi người quê Bạc Liêu, hiện làm chủ một nông trại khoảng 20 acres (acre - mẫu Anh, cở 4000 mét vuông). Anh Sang chuyên nghề ghép cây ăn trái. Mấy cây nhãn, bưởi, cam, quít... cây thấp lè tè mà trái treo lúc lỉu trông thật "đã" mắt. Anh chàng này bán cây nổi tiếng khắp vùng Tampa. Những cây ăn trái của Sang thuộc loại hàng "độc". Anh ta có những loại xoài mà không chỗ nào có được, như một loại xoài lạ, khi trái còn xanh thì chua tê lưỡi, nhưng khi chín thì thơm ngon không thể tả, và lạ lùng không biết làm sao anh ta cũng có xoài cát Hòa Lộc của Mỹ Tho.

Có loài mận VN, khi còn non trái có màu xanh, khi chín tới có màu hồng đào, cắn vào miệng nghe dòn tan ngọt lịm. Anh ta có đủ thứ cây ăn trái khác như hồng dòn, hồng mềm, cây bơ quả nhỏ mà béo ngậy, quít đường Cần thơ, bưởi Biên Hòa... tất cả đã được anh ta tuyển chọn công phu nên mua cây của anh ta chúng tôi đều rất yên tâm về chất lượng.


Đi dọc dài, người đi lại nhộn nhịp vui chưa từng thấy. Ngoài người Việt, còn có một sắc dân đặc biệt khác cũng chiếm số đông ở đây, đó là người H'mong, xuất phát từ vùng núi non của nước Lào ( lạ nhỉ ! không hiểu sao họ lại ở đây) Trong khi người Việt nói chuyện với nhau huyên thuyên bằng tiếng Việt, thì người H'mong cũng không kém ồn ào bằng tiếng nước họ.

Chỗ kia, có một anh người Việt chở nguyên một xe truck dừa xiêm đổ xuống một đống lớn, ai thích trái nào anh ta sẽ chặt dừa, xong cắm ống hút vào đưa cho khách, khách vừa đi vừa uống trông rất vui. Nơi khác người ta xúm xít quanh một cái bàn, chờ mua gỏi Thái Lan của hai vợ chồng người Thái, gỏi làm bằng đu đủ bào, cà pháo tươi, đậu phọng rang, trộn với nước chanh và mắm ba khía, mùi vị ngon khá lạ. Có người Việt kia đi chày tôm ngoài sông rồi đem ra chợ bán, tôm chứa trong thùng cooler, nghe anh ta rao hàng, tôm nhỏ giá 2 đô rưởi, tôm lớn 7 đô một pound. Có chỗ bán cá, bán hoa lan, bán nước mía tươi ép tại chỗ... Tất cả đã tạo nên một bức tranh hết sức sinh động và hấp dẫn của Chợ Trời St. Pete.

Lần hồi, tôi khuân về nhà lũ khủ các loại cây ăn trái, mỗi thứ một cây: xoài, nhãn, bơ, trái vải, quít đường, bưởi... rồi chạy ra chợ mua mấy bao phân bón vào gốc. Hàng ngày tôi ra vườn tưới tắm cho cây, cây lớn lên như thổi, đâm chồi ra lá xum xuê, một thời gian ngắn sau cây ra hoa kết trái, trái nhỏ tí trông dễ thương làm sao.

Trồng cây là một thú vui thanh tao, bởi vì không phải là mong tới ngày ăn quả, mà vì một niềm vui khác, khi trong lòng cảm thấy có một sợi dây tương thông thân ái với cây trái trong vườn nhà. "Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui từ mỗi lẻ loi". (Tô Thùy Yên)

Thành phố vệ tinh thứ hai của Tampa là Clearwater, một thành phố du lịch, nhà cửa mắc mỏ nên dân Việt ít người dám sống ở đây. Con đường dẫn vào thành phố tuyệt đẹp cũng có một cây cầu dài khác chạy sát mặt biển băng qua vịnh Tampa, trên đường có những lối rẽ cho ai muốn câu cá thì ghé vào. Hai bên đường có trồng hai hàng cây cọ trông rất thơ mộng, con đường chạy thẳng ra vịnh Mexico. Ngày cuối tuần, người ta ở các nơi kéo đến tắm biển đông nghịt như ở Nha trang bên quê nhà. Lúc đầu chúng tôi cũng ngại ngần chuyện tắm biển, nhưng sau đó thấy người người thản nhiên xuống tắm, đủ sắc dân, đủ dạng người, đủ lứa tuổi... nên chúng tôi cũng kéo xuống tắm cho vui. Té ra biển ở đây rất tuyệt, nước biển trong xanh và phẳng lì chứ không hề có sóng dữ, nước biển lại ấm áp, chứ không lạnh cóng như biển Cali. Khi đã tắm được một lần là coi như vượt qua rào cản ngại ngùng, từ đó cứ dăm ba tuần chúng tôi lại kéo đi tắm biển, rất khoan khoái và thư giản.

Tôi về Tampa đến nay đã được gần hai năm. Không biết có phải vì đất trời phong thủy vận hợp với mình hay sao, mà từ khi về đây tôi thấy trong người sảng khoái lắm. Đêm về, lên giường là ngủ một mạch đến sáng, điều này trước kia chưa hề có nơi tôi. Trong thời gian ở Jacksonville vì nặng nợ cơm áo gạo tiền, đêm đến tôi trằn trọc mãi thuốc ngủ lúc nào cũng thủ trên đầu giường, cho nên có thời gian dài tôi mang bệnh anxiety (bịnh lo sợ). Tôi cũng có đọc nhiều bài viết khuyên người ta nên biết buông sả khi lớn tuổi, phải tu đạo này hay theo đạo nọ, theo vị Thầy này hay theo vị thiền sư kia. Nhưng theo tôi tất cả chỉ là vô ích, khi người ta chưa tìm được một hoàn cảnh sống thích hợp thì khó mà tìm được sự an lạc trong đời thường. Đêm về tôi lắng nghe toàn thân, nghe nỗi sung sướng khoan khoái lan tỏa khắp người mình, hình như Thiên đường ở ngay trong lòng mình chứ không phải đâu xa xôi. Cám ơn Nước Mỹ, đã tạo cho tôi điều kiện tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong đời thường.

Tôi lại nghĩ lan man sang chuyện khác. Trên cõi đời này có hàng triệu triệu người mong ước được đến sinh sống trên đất Mỹ. Đồng thời cũng có triệu triệu người căm ghét nước Mỹ. Tôi còn nhớ biến cố 911 khủng bố tấn công nước Mỹ, phần lớn loài người đều sững sờ kinh ngạc và biểu lộ lòng thương xót đến nước Mỹ. Nhưng không phải là tất cả, trong những giờ phút đầu tiên của biến cố, người Palestine đã đổ ra đường hò reo mừng rỡ cho thắng lợi của những người tử vì đạo. Có một phái đoàn báo chí một nước Á Châu lúc đó được mời đến thăm viếng Mỹ.

Khi biến cố xảy ra họ đang đứng trong Trung tâm Báo chí, và đã có thái độ hân hoan vui mừng trong khi đất nước này đang chìm trong đau khổ. Ngay lập tức họ đã bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ và vĩnh viễn những con người này không bao giờ được phép đặt chân đến Mỹ. Vui mừng trước nỗi đau của đồng loại là hành vi man rợ, cho nên họ rất xứng đáng nhận lãnh hình phạt này. Nước Mỹ không hề đụng chạm đến đất nước họ, chỉ vì nước Mỹ giàu mạnh hơn, và dân Mỹ sống sung sướng hơn dân nước họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Nhà văn NNN đã viết một câu rất hay:"... Có những người không chịu nổi sự thành công của người khác. Bởi vì họ cứ coi sự thành công của người khác là sự thất bại của chính mình."

Người Việt cũng vậy, có rất nhiều người mê Mỹ và cũng có rất nhiều người ghét Mỹ. Từ sau biến cố 1975 người Việt đã tìm mọi cách để đến Mỹ. Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt người ta tiếp tục ra đi bằng nhiều cách, hợp pháp hay bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo con đường bảo lãnh thân nhân, cha mẹ, vợ con, hôn thê, hôn phu và sau này thêm diện đầu tư. Bất hợp pháp bằng cách du học du lịch rồi ở lại luôn, hay tìm cách kết hôn giả với người có quốc tịch. Giả thử có người mất vài chục ngàn đô cho công việc bất hợp pháp này, thì suy cho cùng họ còn quá lời. Cái lời trước mắt là con cái được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú nhất thế giới, nếu còn ở trong nước mà muốn cho con đến Mỹ du học hàng năm phải tốn khoảng 20 ngàn đô. Còn nữa, món lời lớn nhất không thể tính bằng tiền bởi vì nó vô giá, đó là được sống trong môi trường xã hội quá lý tưởng, mà người Mỹ đã cố công gầy dựng từ hồi mới lập quốc cho đến bây giờ.

Một xã hội nề nếp, tất cả mọi đường lối chính sách đều rất minh bạch. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có giai cấp nào, một thế lực hay đảng phái nào được đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Mọi người sinh ra đời đều được tôn trọng như nhau, đều có cùng một cơ hội tiến thân như nhau. Cho nên nếu anh nghèo, anh thất bại, anh học hành ngu dốt, là do anh chứ không phải do lỗi của xã hội, không hề có cảnh con quan thì được làm quan, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Một xã hội có tính ưu việt vượt trội quá xa những xã hội khác, tôi không dám kể ra đây nhiều nữa sợ nhiều người chạnh lòng.

Có người Việt chưa hề đặt chân đến nước Mỹ ngày nào, nhưng cũng ghét nước Mỹ thậm tệ. Hàng ngày họ xem phim ảnh, thời sự tin tức, họ thấy những cảnh bạo lực ghê rợn cướp của giết người hay sexy khêu gợi, hay mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen... xem riết rồi họ đâm ra ghê tởm nước Mỹ, và còn cho rằng những người Việt qua tới Mỹ rồi đi làm những chuyện xấu xa, là do:" Quít trồng ở Giang Nam thì ngọt, mang trồng ở Giang Bắc thì chua..." đúng là dạng người ếch ngồi đáy giếng.

Có người cứ mở miệng ra là chửi Mỹ như tạo ra cho mình một style lạ, hay chứng tỏ ta đây cũng có một thời "chống Mỹ cứu nước" nhưng thật ra không phải vậy, họ nói một đằng làm một nẻo. Đây là một trường hợp điển hình, hãy nghe nghệ sĩ Kim Tuyến nhận xét về nghệ sĩ Bạch Tuyết: "BT thù ghét nước Mỹ nhưng tại sao lại thích đi Mỹ. Cho con học ở Mỹ rồi lại lấy vợ Mỹ. Phải chăng BT muốn tìm một bãi đáp an toàn sau này ở Mỹ..."
Bạch Tuyết & con trai bà tên Quốc (đang sống ở Mỹ), trong ngày 8-3- 2016 tại Việt Nam.

Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ có một hạng người không giống ai. Nếu họ là người homeless, hay cuộc đời gặp toàn thất bại thì không có gì đáng nói. Đàng này họ sống trên đất Mỹ đã vài chục năm, làm ăn sinh sống khá thành đạt cũng có của ăn của để, con cái học hành thành tài. Vậy mà hễ cứ có dịp là họ chửi Mỹ, nào là làm ra bao nhiêu tiền, bảo hiểm và sở thuế ăn hết, chủ tư bản bóc lột đến tận xương tủy (câu này sao nghe quen quen!) Có người thấy vậy chướng mắt bèn nói móc họng: "Nếu ông thấy sống ở Mỹ có quá nhiều điều không ưng ý, thì ông nên về Việt Nam sinh sống để khỏi vướng mắc đến những điều này." Lặng thinh! không nghe câu trả lời, những người này rất xứng đáng mang cái tên là "ăn cháo đá bát".

Suy cho cùng, để cảm nhận thật sự nước Mỹ phải có thời gian để cho cái "chất Mỹ" nó ngấm vào người. Chứ còn chỉ đi du lịch hay thăm thân nhân vài ba tháng, hay được bảo lãnh qua Mỹ sống vài năm, thì thật tình chưa biết gì nhiều về nước Mỹ. Những người đó cảm thấy nước Mỹ sao chán ngắt, vừa buồn hiu vừa lạnh lùng. Đi đâu cảnh vật cũng từa tựa như nhau, giống y như câu thơ của Nguyên Sa:" Trời trên đất khách buồn vô hạn. Trăng rất quen mà vẫn chẳng quen." Thời giờ lúc nào cũng eo hẹp, cặp mắt cứ láo liên ngó đồng hồ. Không hề có cảnh sáng cà phê cà pháo cả tiếng đồng hồ, chiều lai rai bia bọt, kiếm người tán gẫu không phải dễ. Cái xứ gì mà người ta phải ôm đồm đủ thứ nợ: nợ nhà, nợ xe, nợ thuế, nợ bảo hiểm, nợ thẻ tín dụng... Cho nên có rất nhiều người Việt qua Mỹ một thời gian rồi lại quay về cố quốc.
Muốn cái "chất Mỹ" nó ngấm vào người theo tôi nghĩ cũng phải mất cỡ 5 năm. Khi nào người ta thấy nỗi nhớ nhà nó dịu lại, nhìn cảnh vật chung quanh không còn thấy buồn như trước. Vào mùa Đông trời chớm lạnh ra đường thản nhiên vận áo T shirt, điều đó có nghĩa là không còn sợ lạnh như những năm tháng đầu đến Mỹ. Ra đường gặp ai bất kể lạ hay quen đều gật đầu chào:" Hello! How are you doing". Nói chuyện với người Mỹ không còn dùng body language nữa. Ăn uống không còn thuần túy: bún bò Huế, hủ tíu, mì phở... mà còn thích hamburger, hog dog, pizza, sushi, pasta...

Khi nào cảm thấy vui với cái vui của nước Mỹ và buồn với cái buồn của người Mỹ, là coi như không còn có thái độ bàng quang như trước kia, là biết con người mình đã đổi khác. Cuối cùng một điều quan trọng nhất, là khi ta quay về cố quốc, lòng chợt bàng hoàng thảng thốt, đất nước không còn giống như trong tâm tưởng nữa rồi, mọi chuyện đời đều đã thay đổi... và một ý nghĩa buồn rầu nẩy ra là mong sao sớm trở về nước Mỹ. Như ai đó đã nói một câu như là chân lý: "Nước Mỹ không phải là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này".

Ngô Đình Châu
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

BỘ QUÂN PHỤC CŨ

Phạm Tín An Ninh

Tôi gặp và quen anh trong một trường hợp khá bất ngờ, có thể nói là hơi kỳ cục. Vợ chồng tôi đến thăm và ở lại nhà cô con gái út hai tuần. Cháu vừa mua được căn condo trong một khu nhà mới xây ở thành phố Anaheim, cách Khu Disneyland chỉ một con đường. Đêm nào, bọn tôi cũng ra balcon ngắm pháo hoa được liên tục bắn lên từ khu giải trí nổi danh này. Căn nhà nhỏ khá xinh và ở trong một khu an toàn, cô con gái út rất thích. Nhưng chỉ sau vài hôm, cứ đến một hai giờ khuya thì cả nhà phải thức giấc, bởi tiếng lục đục ở căn nhà tầng trên. Âm thanh của một vật cứng nào đó gõ xuống nền nhà. Không đều đặn, năm ba phút một lần, dù nhẹ nhưng cũng đủ làm buốt trong đầu.

Sáng hôm sau, cô con gái nhờ tôi lên nói chuyện với chủ nhà, yêu cầu chấm dứt các tiếng gõ khó chịu vào giữa khuya ấy, để chúng tôi không bị mất ngủ, đặc biệt cô con gái phải đi làm khá sớm.


Sau hai lần bấm chuông, một người đàn ông mở hé cửa, gật đầu chào. Rất may, lại là một đồng hương. Chưa nói chuyện với chủ nhà, nhưng tôi đã thoáng hiểu được nguyên nhân gây ra tiếng động. Ông ta chống hai cây nạng gỗ. Mọi bực tức trong tôi bỗng dưng biến mất, những lời “cảnh cáo” tôi dự định sẽ nghiêm mặt nói với ông cũng tan biến theo. Tôi lễ phép chào ông, bảo là tôi ở tầng dưới, muốn đến thăm và làm quen với người đồng hương láng giềng. Ông nở nụ cười, làm rạng rỡ phần nào khuôn mặt khắc khổ, đã có nhiều vết nhăn, một phần được che phủ bới mái tóc dài bạc trắng. Ông mở rộng cửa mời tôi vào nhà. Tôi hơi khó chịu với mùi khói thuốc lá và cả mùi rượu.

- Anh ở đây một mình? Câu đầu tiên tôi hỏi.

- Vâng, thỉnh thoảng có cô con gái đến thăm. Cháu ở trên Riverside, cách đây khoảng gần một giờ lái xe.

Căn nhà nhỏ một phòng ngủ, phòng khách chưng bày đơn giản. Điều làm tôi chú ý là hai tấm ảnh treo trên vách, phía sau bàn ăn. Một tấm là chân dung của một người lính, tấm kia là ảnh gia đình. Thấy tôi chăm chú nhìn, anh cười, bảo là ảnh của anh và vợ con anh lúc xưa. Anh chống nạng đứng lên, như có ý mời tôi đến xem.

Tôi tròn mắt ngạc nhiên, tấm ảnh chân dung là một sĩ quan trẻ, mang cấp bậc thiếu tá, trông khá đẹp trai, phảng phất nét hào hùng. Trên ngực mang khá nhiều huy chương. Tấm ảnh kia anh chụp với người vợ xinh đẹp và hai đứa con kháu khỉnh. Lòng tôi bỗng chùng xuống, như vừa chạm vào một vết thương cũ. Tôi bất giác quay người lại, đứng nghiêm đưa tay chào:

- Xin chào niên trưởng

Anh tròn mắt bất ngờ, rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Sau này, tôi được biết tấm ảnh chân dung này anh chụp sau khi được thăng cấp thiếu tá tại măt trận Quảng Trị tháng 10 năm 1971, khi anh đang là tiểu đoàn phó, thay vị tiểu đoàn trưởng bị trọng thương, chỉ huy đơn vị phá vòng vây địch, tạo một chiến thắng lẫy lừng.

Chúng tôi trở nên đôi bạn thân thiết kể từ hôm ấy. Hình như giữa chúng tôi có điều gì đó cùng “tần số” với nhau. Trước đây anh sống rất âm thầm, khép kín, không muốn gặp gỡ tiếp xúc một ai, kể cả những người quen biết cũ. Sau này, cứ mỗi lần đến nhà cô con gái tôi đều ghé thăm anh, mang theo cho anh một ít nem chua Ninh Hòa mà anh rất thích. Anh say sưa kể cho tôi nghe một thời hào hùng trong binh nghiệp. Anh nức nở khi nhắc tới những vị đàn anh, những đồng đội hào hùng đã phải hy sinh oan khiên tức tưởi, đặc biệt trong trận chiến Hạ Lào- Lam Sơn 719. Người được anh nhắc đến nhiều nhất, ngưỡng phục và thương tiếc nhất là Cố Đại Tá Lê Huấn, một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi nổi danh, tốt nghiệp Khóa 18 VBĐL mà có một thời anh được phục vụ dưới quyền.

Anh bảo tôi vào phòng ngủ để anh cho xem một kỷ vật. Anh bật đèn lên tôi ngạc nhiên khi thấy một bộ quân phục. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đây là một bộ quân phục tác chiến đã cũ, có những vết sờn rách, được giặt ủi cẩn thận và treo trong một cái tủ kính nhỏ. Loại tủ để chưng bày. Anh mở cửa tủ và cẩn thận lấy bộ quân phục, ôm vào người một cách trang trọng. Đôi mắt mơ màng như đang tìm về một quá khứ xa xăm nào đó. Anh thốt ra môt giọng trầm buồn. Dường như là để nói với chính anh hơn là với tôi, người đang đứng ngay trước mặt anh:

- Đây là bộ đồ trận của anh ấy, anh Lê Huấn.

Sau chiến thắng lẫy lừng tại Căn Cứ O’Relly, khi tiểu đoàn anh dưới tài chỉ huy tài ba của Trung Tá Lê Huấn đã đánh tan một lực lượng địch cấp trung đoàn của Sư Đoàn 304 BV, tháng 8/1970 tiểu đoàn lại đánh một trận khốc liệt với một đại đơn vị khác cũng của Sư Đoàn 304 BV này tại Hải Lăng, Quảng Trị. Khi ấy anh đang là đại đội trưởng thâm niên nhất của tiểu đoàn. Cả hơn một trung đoàn địch, sau nhiều đợt tiền pháo kinh hoàng đã đồng loạt xung phong nhằm tràn ngập vị trí đóng quân của tiểu đoàn 4/1. Trung Tá Lê Huấn rời khỏi hầm chỉ huy, đích thân điều động đơn vị quyết chiến trước một cuộc thư hùng sinh tử. Từng đợt địch quân bị đốn ngã ngay trước giao thông hào, nhưng bọn chúng như là những con thiêu thân lao vào lửa, lớp này ngã lớp khác lại xông tới. Nhờ sự chiến đấu kiên cường của đơn vị anh, và đặc biệt dưới sự chỉ huy tài tình và gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng lừng danh, đã ngăn chặn, tiêu hao và cầm chân địch trước khi được những phi vụ không yểm, đánh trên đầu địch. Những trận không kích gây thiệt hại nặng nề cho địch nhưng cũng làm bị thương một số binh sĩ của đơn vị, vì khoảng cách giữa ta và địch quá gần. Anh là một trong những người bị trọng thương hôm ấy. Trời tối và mưa lớn, lưới phòng không dày đặc, không tản thương được, Anh Lê Huấn ra lệnh ban quân y mang anh vào nằm trong hầm chiến đấu của anh Huấn để được tương đối an toàn và băng bó chữa trị cấp thời. Thấy máu và bụi bặm thắm đầy bộ chiến y ướt đẫm nước mưa của anh, vị tiểu đoàn trưởng bảo người lính cận vệ lấy bộ áo quần trong ba-lô của mình mang đến thay cho anh. Khi tản thương về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, nhiều bác sĩ cứ tưởng anh là Trung tá Lê Huấn, bởi bảng tên và cả cái lon trung tá còn nguyên trên ngực và cổ áo.

Vết thương chưa lành, nằm trong Quân Y Viện mà lòng anh rất nôn nao khi biết tin đơn vị tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Một kế hoạch qui mô với sự tham chiến của hầu hết các đơn vị chiến đấu thuộc Vùng I: Sư Đoàn 1BB, các đơn vị Thiết Giáp, Biệt Động Quân, cùng với các Lữ Đoàn Nhảy Dù và TQLC. Anh khao khát được có mặt cùng đơn vị trong trận chiến đặc biệt này, nhưng vết thương ở chân phải là trở ngại chính để bắt anh phải nằm lại ở đây.

Anh theo dõi từng ngày từ khi cuộc hành quân bắt đầu. Các tin tức không vui từ chiến trường, những tổn thất nặng nề của quân ta sau khi các căn cứ 31, 30 lần lượt thất thủ. Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù cùng nhiều cấp chỉ huy của ta bị lọt vào tay giặc. Một số đã tự sát để giữ tròn khí tiết.Từ các kế hoạch hành quân tồi tệ mà địch quân gần như biết trước để chuẩn bị trận địa đến việc thiếu thống nhất ở các cấp chỉ huy đã góp phần cho sự thảm bại. Điều đau đớn nhất đã làm tim anh thắt lại khi nghe tin Tiểu Đoàn 4/1 của anh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, làm lực lượng chặn hậu để cho Trung Đoàn rút lui khỏi căn cứ Lolo trong tình trạng bị bao vây nguy khốn. Anh bật khóc khi nghe tin Trung Tá Lê Huấn, vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi tài năng đã lẫm liệt hy sinh, và cả tiểu đoàn chỉ còn 32 binh sĩ sống sót trở về! Anh nghĩ từ nay sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại người chỉ huy mà anh ngưỡng phục và hằng mong được tiếp tục phục vụ dưới quyền. Anh nhớ tới bộ quân phục mà Trung Tá Lê Huấn đã đưa cho anh thay khi anh bị trọng thương cách đây vài tháng, anh còn chưa kịp trả lại, và bây giờ thì không còn có cơ hội để trở về khổ chủ. Anh quyết định giữ lấy bộ quân phục này như một kỷ vật thiêng liêng trong cuộc đời mình. Và sau đó dù phải trải qua bao nhiêu thăng trầm, khốn khổ, nhất là sau ngày nước mất nhà tan, anh vẫn luôn trân trọng bộ quân phục mà anh nghĩ có mang hồn thiêng của anh Lê Huấn và của cả những đồng đội đã hy sinh.

Sau khi xuất viện, anh được bổ sung đến một trung đoàn khác giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Tháng 10/ 1971 anh thăng cấp Thiếu tá tại mặt trận. Cuối năm anh lên nắm tiểu đoàn thay thế vị tiểu đoàn trưởng bị thương, sau đó được theo học khóa quân chánh. Một thời gian sau, vết thương cũ ở chân phải tái phát. Sau khi chữa trị anh đi khập khiễng. Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp anh vào loại 2, không chiến đấu được. Được đề nghị bổ sung về Phòng 3 Quân Đoàn, nhưng anh xin đi làm chi khu phó cho anh tiểu đoàn trưởng cũ, bây giờ là quận trưởng của một quận miền núi. Quận lỵ là một tiền đồn chiến lược, nằm tại một vị trí trọng yếu khống chế cả con đường tiếp liệu của Cộng quân, nên bọn chúng tìm mọi cách để san bằng. Gần cuối năm 1974, Cộng quân mở nhiều đợt tấn công biển người nhằm chiếm quận lỵ, vị quận trưởng bị thương nặng. Anh đã phối hợp với các đơn vị bạn tăng cường, trực tiếp chỉ huy điều động cuộc phản công rất oanh liệt giữ vững được phòng tuyến qua nhiều cuộc tấn công qui mô của địch. Nhưng tổn thất của ta khá nặng và đạn dược dần dà cạn kiệt, trong lúc Cộng quân luôn được tăng cường, cuối cùng anh phải mở đường máu, rút lui trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Anh bị thương nặng ở chân, điều kỳ lạ là ngay tại vết thương cũ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường và hai người lính nghĩa quân rất trung thành và khôn ngoan giúp đỡ, thay phiên cõng anh thoát khỏi vòng vây truy lùng của địch. Anh được đề nghị thăng cấp đặc cách lên trung tá, nhưng sau đó bị cưa mất chân phải. Nỗi đau đớn vì phải mất đi một phần thân thể chưa nguôi, thì cái đau đớn tột cùng cũng vừa ập đến: Tháng 3/75, cả Vùng I bỗng chốc lọt vào tay Cộng sản, Sư Đoàn 1BB, đơn vị nổi danh mà anh luôn hãnh diện phục vụ trong gần cả một đời binh nghiệp cũng tan tành, rồi cả miền Nam mất vào tay giặc. Những đồng đội từng chiến đấu, một thời sống chết cùng anh bỗng dưng tan tác như chỉ sau một cơn ác mộng.

Mất một cái chân, nhưng anh vẫn bị tù đày nghiệt ngã trên bảy năm trong nhiều trại tù của bọn Cộng sản man rợ. Ra khỏi tù anh lại mất cả gia đình. Người vợ xinh đẹp ngày nào đã gởi đứa con gái lớn, năm tuổi, cho bà nội già, bồng theo đứa con trai ba tuổi, lẳng lặng sang sông về một nơi nào đó. Gia tài một đời binh nghiệp của anh giờ chỉ còn mỗi một bộ đồ trận, chiến y của người chỉ huy mà anh từng kính yêu đã hy sinh. Trước khi vào tù, anh căn dặn mẹ anh phải giữ kỹ bộ quân phục này cho anh với bất cứ giá nào, bởi đó là một kỷ vật quý giá nhất còn lại của đời anh. Theo đề nghị của mẹ, anh đồng ý cho bà tháo ra và đốt đi cái bảng tên và cấp bậc may trên áo.

Có lẽ từ lâu lắm mới có người chăm chú ngồi nghe, nên anh say sưa kể cuộc đời mình. Đôi lúc sụt sùi, nước mắt tưởng đã khô cằn, bỗng ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ già nua, và từng giọt rơi xuống bộ quân phục anh đang ôm ấp trong lòng mình.

- Sau này anh có dịp nào gặp lại chị nhà và đứa con trai? Tôi hỏi.

- Bà đã có chồng khác từ lâu rồi, đang sống ở Âu Châu. Tôi buồn nhưng không trách. Ngại đụng chạm tới hạnh phúc riêng của bà, và cả vết đau trong lòng mình nên không muốn liên lạc. Còn đứa con trai có sang thăm tôi hai lần, nhưng cháu vẫn nhìn tôi xa lạ lắm. Cũng phải thôi, vì khi tôi vào tù thì cháu chỉ mới lên ba, trong ký ức của cháu có lưu lại một chút hình ảnh gì của tôi đâu. Riêng con gái tôi có sang thăm mẹ và em cháu vài lần.

Nói dứt câu, anh cúi xuống như muốn giấu riêng nỗi xúc động.

- Anh có thường cảm thấy cô đơn và tiếc nuối những ngày xưa?

- Cũng có chứ, nhưng lâu rồi thành quen và gần như không còn muốn nhớ tới nhiều chuyện cũ.

Tôi đưa tay nắm chặt bàn tay anh thay cho một lời an ủi khó nói thành lời. Bỗng anh ngước lên, mở to đôi mắt:

- Điều buồn của tôi bây giờ là thấy một số trong đám anh em mình mất đi khá nhiều sĩ khí, có thằng còn khốn kiếp đã vì chút lợi lộc nhỏ nhen mà chạy hùa theo giặc, nịnh bợ thô bỉ, quên mình từng hãnh diện là sĩ quan của những binh chủng hào hùng. Nhìn bọn chúng múa may khóc lóc làm trò trước mặt bọn cộng sản mà tôi muốn buồn nôn!

Tôi cười:

- Anh bận tâm tới những kẻ ấy làm gì. Trong tập thể nào lại không có những con sâu, tồi tệ, bán rẻ linh hồn. Cũng có thể là những thăng điên. Nhưng đó cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt. Cũng như nước Mỹ vừa có tên phản quốc Edward Snowden, đang trốn ở Nga-Sô. Theo tôi, đại đa số anh em mình vẫn còn giữ được tấm lòng, tình huynh đệ và trách nhiệm với quê hương đất nước chứ!

Bỗng đôi mắt anh sáng lên:

- Điều vui và an ủi tôi nhiều nhất là các tổ chức gây quỹ giúp anh em thương phế binh sống khốn khổ ở quê nhà. Đặc biệt là các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh thành công tốt đẹp. Thấy anh em nhà binh mình cùng bà con tham gia hưởng ứng nhiệt tình, tôi mừng và cảm động lắm. Ở bên nhà các cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn cũng đã can đảm, hết lòng an ủi và làm sống dậy niềm tự hào của những anh em thương binh bất hạnh, tôi cảm phục vô cùng. Có bao nhiêu tiền dành dụm tôi đều nhờ cô con gái gởi về phụ với các cha.

Tôi cười, biểu lộ sự đồng tình. Định nói thêm đôi điều để khoe về những đóng góp phần mình, bỗng nghe anh hỏi:

- Bạn ở Âu Châu, sang Mỹ một thời gian, chắc đã thấy trong đám anh em mình bây giờ cũng nhiều người bon chen danh lợi. Mà tội nghiệp thay toàn chỉ là danh hão! Thấy mà phát ngượng! Nhiều ông tướng ông tá có danh thời trước, sang đây lại đầu quân làm tướng phường tuồng cho mấy cái chính phủ tự xưng tự diễn. Trong đó có cả những ông ngày xưa từng là cấp chỉ huy của mình. Ngán ngẫm thật. Giấy rách mà cũng chẳng còn cái lề nào để mà giữ nữa!

Tôi cười. Chưa kịp nói một lời an ủi, bỗng thấy anh sa sầm nét mặt:

- Điều buồn nhất là thiên hạ lạm dụng bộ quân phục một cách đến lố bịch.Đám cưới, sinh nhật, tiệc tùng nhảy nhót mà cũng có người mặc quân phục. Có lần tôi thấy có ông mặc quân phục, mang cả lon lá và đầy huy chương lên truyền hình để quảng cáo thuốc cho một ông thầy thuốc Nam tự nhận mình là bác sĩ! Tôi xấu hổ và giận đến tím cả mặt. Tối hôm ấy, tôi ôm bộ quân phục này của anh Lê Huấn mà thấy lòng xót xa vô hạn.

Nhớ lại một câu chuyện liên quan tới bộ quân phục đã xảy ra tại đất nước Na-Uy, nơi gia đình tôi đang định cư, tôi kể cho anh nghe:

- Tháng 11 năm 2004, bà Kristin Krohn Devold, Bộ Trưởng Quốc Phòng Na-Uy, đến viếng thăm binh sĩ thuộc các đơn vị quân đội Na-Uy tham chiến tại Afghanistan trong lực lượng NATO. Bà được ca ngợi là một nữ bộ trưởng can đảm đã đến thăm binh sĩ khi chiến trường đang ác liệt nhất. Nhưng sau khi tin tức và hình ảnh về chuyến viếng thăm này được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Na- Uy (NRK), bà bị nhiều sĩ quan và binh sĩ Na-Uy phàn nàn, phản đối khi thấy bà mặc quân phục từ một chiếc trực thăng bước xuống thăm một đơn vị tác chiến Na- Uy, và cả khi được Thủ Tướng Afghanistan, Hamid Kazai tiếp đón tại thủ phủ Kabul. Báo chí cũng góp phần tranh luận và tỏ ra bất bình về sự kiện này. Hầu hết cho rằng bà chưa hề ở trong quân đội, nên không được phép sử dụng quân phục, dù trong bất cứ chức vụ hay hoàn cảnh nào. Những quân nhân cho rằng bộ quân phục còn có tính thiêng liêng, bởi nhiều chiến binh đã hy sinh trong bộ quân phục này. Mặc dù bà và một số cơ quan chính phủ lên tiếng biện minh, viện lý do vì sự an toàn cho bà trong một hoàn cảnh đặc biệt, nhưng vẫn không được chấp nhận. Cuối cùng bà phải bắt buộc lên tiếng chính thức xin lỗi quân đội và cả dân chúng Na-Uy về điều này.

Nghe tôi kể xong, anh đưa bộ quân phục đang cầm trong tay lên như để khẳng định một điều gì.

- Đúng như thế, bộ quân phục đối với tôi luôn là một kỷ niệm thiêng liêng. Có biết bao đồng đội của tôi hy sinh đã được liệm với bộ quân phục thấm đẫm máu đào của họ. Xin đừng lạm dụng và làm đau lòng họ.

Sau lần gặp gỡ đầu tiên này, tôi còn đến thăm anh một vài lần nữa, và bảo cô con gái, “bác ấy là người tốt, một sĩ quan đáng kính, con nên thường thăm nom và giúp đỡ bác những điều cần thiết”. Hôm đến chào từ giã anh để trở về lại Na-Uy, tôi mang biếu anh hai chai rượu đỏ loại tốt. Tôi khuyên anh, khi nào buồn thì uống vài cốc cho nguôi ngoai, không nên uống nhiều rượu mạnh và hút thuốc lá, có hại cho sức khỏe. Anh nở nụ cười, nhưng bỗng trở nên buồn bã:

- Anh đi rồi, tôi lại cô đơn, chẳng còn ai tâm sự.

Hôm đó, tôi ở lại với anh tới hơn một giờ khuya. Chống nạng tiễn tôi ra cửa, anh bắt tay từ giã nhưng giữ khá lâu, không muốn tôi đi. Tôi cười, bảo nhỏ:

- Anh cố dỗ giấc ngủ, đừng thức dậy nửa đêm, uống rượu chống nạn đi quanh nhà. Bọn tôi ở tầng dưới cũng mất ngủ với anh luôn.

Anh gật đầu, cười thông cảm.

Sáu tháng sau, khi trở lại Mỹ, tôi liền đến thăm anh. Bấm chuông mấy lần không ai mở. Tôi không còn nghe tiếng động của đôi nạng gỗ gõ xuống nền nhà như mọi khi. Buổi chiều, cô con gái đi làm về, cho tôi biết là anh ấy bị ung thư gan ở thời kỳ cuối. Con gái của anh đã đưa anh vào bệnh viện Fountain Valley từ tuần trước. Tôi lái xe xuống ngay bệnh viện. Anh nằm bất động. Khi tay tôi chạm vào anh, anh mở hé mắt nhìn tôi và miệng cố nở nụ cười, méo mó. Thấy anh cười mà tôi muốn khóc. Trông anh tiều tụy và hốc hác quá. Nhưng anh rất bình tĩnh, như ngày xưa khi đối diện trước quân thù. Anh muốn ngồi dậy, nhưng không còn đủ sức. Tôi ngồi bên cạnh, đưa tay xoa trên ngực anh, bảo anh cứ nằm nghỉ.

- Bác sĩ bảo tôi không còn nhiều thời gian nữa, ngày mai phải xuất viện về nhà để gia đình lo hậu sự – Anh nói bằng một giọng thì thào, yếu ớt.

Khi nhắc đến hai chữ gia đình, anh lại cười, chua chát:

- Lại gia đình…!

Hiểu ý anh, tôi nói đùa cho anh vui:

- Phải nói là đại gia đình, vì ngoài cô con gái ra, anh còn có chúng tôi nữa. Cứ yên tâm mà đi. Nhớ dọn sẵn một bãi đáp cho ngon lành, chờ tôi đáp xuống sau anh nghe.

Chiều hôm sau anh được xe bệnh viện đưa về nhà. Cô con gái túc trực bên anh. Tôi cũng luôn có mặt. Anh ngỏ ý muốn uống với tôi một ly rượu đỏ. Cô con gái ngần ngừ, nhưng thấy tôi ra dấu gật đầu, cô rót hai ly rượu, một ly mời tôi và một ly cô cầm đưa vào miệng cha cô. Cuối cùng chúng tôi cũng cạn ly. Không ngờ đó là ly rượu từ biệt. Tôi bỗng nhớ tới lời của một bài ca cũ : “bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã… đã đi xa rồi…”

Khuya hôm đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo: “Nhớ liệm ba bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe con”.

Đám tang thật đơn giản theo ý muốn của anh. Mấy lần anh dặn dò cô con gái không được đăng cáo phó hay báo tin cho ai biết. Tại nhà quàn, ngoài cô con gái của anh và cậu bạn trai người Mỹ, chỉ có vợ chồng tôi cùng cô con gái út. Một nhà sư già tụng một thời kinh trước khi đậy nắp quan tài. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào anh. Anh nằm uy nghiêm trong bộ quân phục, khuôn mặt ánh lên nét hào hùng. Tôi có cảm giác như anh vừa chết tại chiến trường. Không có bất cứ một nghi lễ nào, nhưng tai tôi như đang văng vẳng tiếng kèn truy điệu và khúc nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ.
Đứng nghiêm chào anh một lần nữa, khi quan tài đưa vào lò thiêu. Mọi thứ đều trở về với cát bụi. Lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui bất chợt, khi nghĩ anh sắp được gặp lại anh Lê Huấn và những đồng đội cũ, những chiến sĩ đích thực đã rất xứng đáng với bộ quân phục oai phong của QLVNCH. Họ đã tạo cho bộ chiến y một điều gì đó rất thiêng liêng.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Thiếu Úy HUỲNH VĂN THÁI Và BẢY CHIẾN BINH NHẢY DÙ
30041975Thiếu úy Huỳnh Văn Thái và bảy người lính Nhảy Dù dưới quyền đã chọn cái chết để đền nợ nước ngày 30/4/75

Tốt nghiệp từ trường Bộ Binh Thủ đức (khóa 5/69), Huỳnh Văn Thái đã chọn binh chủng Nhảy Dù. Ai không sợ chết, nhưng nếu phải hy sinh tính mạng mình cho tổ quốc thì đó lại là một vinh dự không phải người nào cũng làm được như Thiếu Uý Huỳnh Văn Thái và bảy chiến binh Nhảy Dù thuộc quyền anh đã chứng minh

Tôi không biết nhiều về các anh nhưng sự lựa chọn của các anh đã tạo nên một thiên anh hùng ca bất tử bởi vì dứt khoát không dễ dàng chấp nhận đi vào cái chết một cách bình thản. Vậy mà các anh đã làm được điều đó. Tôi buồn rầu thú nhận rằng tôi đã không có được dũng khí như các anh để rồi giờ đây ngày qua ngày sống trong hổ thẹn tầm thường.

Tất cả nhân vật trong câu chuyện của tôi chỉ là hư cấu. Ngoại trừ Thiếu Úy Thái, những anh hùng còn lại không lưu một dấu tích nào .Các anh tên gì, bao nhiêu tuổi, sinh quán ở đâu ,cha mẹ vợ còn anh em ra sao ?

Đội chiếc nón với hàng chữ Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm , các anh đã thực thi đúng từng nét và hành động của các anh đã chứng minh quân đội VNCH là một Quân Đội Anh Hùng.

Phúc cho đất nước đã nuôi dưỡng các anh, phúc cho cha mẹ đã sinh ra các anh, phúc cho quân đội, trường học đã tôi luyện các anh, phúc cho anh chị em cùng máu mủ với các anh, và trên hết phúc cho dân tộc Việt Nam đã có những người con như các anh

Tôi viết những giòng chữ này để bài tỏ lòng ngưỡng mộ đối với hành động anh hùng của các anh Th/U HVThai và bảy người lính Nhảy Dù anh hùng và biết bao Tử Sĩ đã chọn sự tuẫn tiết “ Thà Chết Không Đầu Hàng Giặc “ ngày 30/4/1975

image015

Thái ngồi xuống vệ đường. Anh bâng khuâng nhìn chung quanh những người đồng đội. Họ đã theo anh tới tận giờ phút này. Những người lính Dù mặt mày hốc hác, nhưng chưa nghe ai mở miệng thở than.

Thằng Tăng Thiện Minh, chín tháng làm Nhảy Dù mà mắt vẫn còn ngơ ngáo non choẹt. Học hết lớp chín tình nguyện ghi danh đi lính chỉ để được “đội Bê Rê Đỏ”. Nó xin làm đệ tử anh bởi vì “em khoái cái mặt ngầu của thiếu úy”. Thằng nhỏ mới mười chín tuổi, người Hoa, còn có bà mẹ ở Chợ Lớn và mấy anh chị em làm ăn khấm khá, sẵn sàng chi tiền để nó được ở hậu phương làm lính kiểng. Má nó khóc hết nước mắt khi nó cứ nhất định đăng lính.” Má à, tui đi lính rồi chừng nào hết diệc cộng tui dề đới má mà. Má khóc goài dậy?” Nó nhăn mặt, cố dấu mấy giọt nước mắt khi nói .

Thái đốt một điếu thuốc. Anh lắc đầu từ chối chén cơm thằng Minh mới nấu. Thằng nhỏ cứ năn nỉ “thiếu úy ăn chút gì đi, từ sáng giờ…” Thật ra cả hai thầy trò chưa có gì trong bụng, nhưng Thái không thấy đói. Anh chỉ mệt.

Thượng Sĩ Nguyễn Năm ngồi bệt xuống bên cạnh Thái. Ba mươi hai tuổi, là người già nhất trong trung đội. Quê anh ở tận ngoài Trung, Phú Yên . Mười hai năm đội mũ đỏ, trải qua biết bao chiến trường đẫm máu vẫn sống sót. Một vợ ba con giờ không biết lưu lạc nơi đâu từ lúc cuộc di tản mở màn. Năm hỏi nhỏ “ Tính sao thiếu úy?”.Thái trả lời “ Từ từ ông ơi, biểu tụi nó nghỉ ngơi chút đi” . Anh kính trọng người thượng sĩ mà lính trong trung đội thường gọi đùa danh xưng Bố Già. Kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm chiến trường , mấy lần đó máu.

Thái đứng dậy, anh bước tới chỗ một người lính đang nằm ngủ thoải mái ngay dưới một tàng cây. Anh đá vào đùi người lính:

-Ê Hưng, đưa tao điếu thuốc mày.

Người lính ú ớ :

-DM để ngủ chút coi!

-Ngủ chàng hảng như mày việt cộng nó thiến dái.

Hưng dụi mắt, nó ngồi nhỏm dậy khi nhận ra Thái:

-Xin lỗi ông thầy, tại mệt quá!

– Lỗi phải gì mày ơi, cho tao điếu thuốc coi.

Thằng nhỏ nhoẻn cười, móc gói Quân Tiếp Vụ nhàu nát trao cho Thái. Cũng như Tăng Thiện Minh, Trần Ngọc Hưng chỉ mới vừa mười chín tuổi . Quê Hưng ở đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Bạc liêu . Không nhậu nhẹt, nhưng khi có độ thì nốc rượu đế như uống nước lã. Hưng học đến lớp mười một, thi rớt Tú tài nhưng từ chối đi học Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Thằng Minh vẫn thường chọc “DM mày ngu, mang lon Trung Sĩ không đã hơn làm lính trơn sao?” Hưng chỉ cười hềnh hệch “ Tao khoái đội mũ đỏ hơn đeo cánh gà Bộ Binh”

Thằng Cậy xốc lại dây ba chạc, túm lấy cục đá nhỏ chọi về phía Hưng. Tụi nó vẫn còn rất con nít, dù đứa nào đụng với việt cộng ít nhất cũng một lần. Nguyễn Cậy, Bắc Kỳ di cư năm mươi tư, con ông Nguyễn An và bà Trần thị Mùi. Cậy nhỏ người, nhưng rất chắc thịt. Nó đã từng vác một thằng bạn bị thương chạy mấy cây số đường rừng để trở về đơn vị. Công Giáo chính tông, hễ ở hậu cứ thì nó chẳng bỏ ngày lễ Chúa Nhật nào. Có lần Thái thấy nó lần chuỗi bằng ngón tay, miệng thì lâm râm đọc kinh. Đợi cho nó cầu nguyện xong, Thái hỏi đùa “ Mày bắn việt cộng mà đọc kinh cái gì?” Cậy bẽn lẽn “Thầy mạ em bảo thế, mà em không bắn chúng thì chúng cũng chẳng để em sống” . Hai mươi hai tuổi đời, chưa từng một lần yêu, lính Nhảy Dù mà cứ gặp em gái hậu phương thì mặt đỏ như gấc. Chưa bao giờ Thái thấy Cậy đánh lộn trong đơn vị, trong khi hễ về thành phố thằng Minh và thằng Hưng lại đi kiếm chuyện với tụi sắc lính khác hoặc Cảnh Sát Dã Chiến. Cậy luôn sẵn sàng bênh bạn, cứ nghe rủ là đi. Mà nó đánh lộn ra gì, một mình nó có lần đã nện hai thằng CSDC nhừ tử. Bị Quân Cảnh Nhảy Dù bắt nhốt, Thái đã đi lãnh nó ra. Lúc gặp Thái nó lí nhí “Xin lỗi Thiếu úy“ . Thái chửi “ DM mày, tao đá mày chết mẹ mày cho chừa thói ba gai” ( anh muốn chính anh “dạy” lính của mình hơn là để người khác làm nhục tụi nó.) Một lần Cây xách hai trái lựu đạn đi tìm bọn du đảng chỉ vì nghe thằng Hưng nói bị tụi nó chặn đường chém bằng mã tấu . Nó tâm sự suýt chút nữa thì nó đã nghe lời mẹ đi tu, cái thằng Bắc Kỳ Nguyễn Cậy hai mươi hai tuổi đời , ba tuổi lính tới giờ phút đó vẫn chưa biết đi chơi đĩ như thế nào. Tội nghiệp nó và những thằng như nó, chưa biết yêu đã biết cách giết người.

Thạch Sơn đang lúi húi gây lò lửa nấu cà phê.Thái nhìn những người lính chung quanh mình. Họ đã chia với anh từng điếu thuốc, từng ngụm nước. Họ là máu, là mủ của anh. Thái biết họ sẵn sàng nhảy lên đỡ đạn cho anh từ phát súng bắn tỉa của địch. Anh thương họ, và họ cũng thương anh. Anh nhớ mẹ, nhớ thằng em mười bốn tuổi ở nhà, chỉ hăm hở cho mau lớn để được đi lính Nhảy Dù. Anh nhớ lần anh đã nói với nó “linh Nhảy Dù khổ lắm mày ơi, lúc nào cũng chỉ Cố Gắng ‘ mà thôi. Nhảy Dù Cố Gắng, tâm niệm của binh chủng đè nặng trên vai người lính VNCH bốn mươi chín kí-lô-gam thịt cộng thêm gần ba chục kí-lô-gam trang bị. Anh có hối tiếc khi chọn binh chủng này chăng? Không! Thái biết rõ điều đó.

Thạch Sơn mang ly cà phê bốc khói tới trước mặt anh “ Ông thầy húp một chút cho tỉnh” “Mày điệu nghệ quá Thạch Sơn” Thái mỉm cười thầm cảm ơn người lính. Thạch Sơn, Miên thứ thiệt, đeo sợi thẻ bài có kèm cái răng nanh heo rừng bự chảng. Quê Châu Đốc, Thạch Sơn không được đi học ngày nào, không biết chữ, mỗi lần lãnh lương phải điểm chỉ. Sơn là người ít nói nhất trong trung đội. Lầm lì, gan dạ, đánh nhau chỉ thích xung phong tuyến đầu. Cha bị việt cộng chặt đầu vì có chân trong hội đồng người Việt gốc Miên lúc Sơn chỉ mới mười ba tuổi. Mẹ Việt Nam bán cá khô ở chợ quận, mỗi lần lãnh lương lại nhờ Thái gởi tiền về cho mẹ. Chưa bao giờ nghe Sơn nói căm thù việt cộng, nhưng hề có đánh nhau mới thấy sự căm thù căng tràn trên đôi mắt Sơn. Nó như một con trâu cui nổi điên chẳng biết sợ chết là gì. Nhiều khi xung phong nó chạy trước, bỏ xa trung đội gần cả trăm thước. Nó chẳng bao giờ tâm sự bạn bè chỉ trừ có Thái . Nó nói“Tui coi ông thầy như anh tui” ”Vậy mày đưa tiền lương của mày cho tao xài đi “ ,Sơn bẽn lẽn “Tui không gởi tiền cho bà già thì tui đưa hết cho ông thấy rồi.” Người nó lực lưỡng, mình xâm đầy bùa chú chữ Miên. Vậy mà có lần Thái thấy nó khóc “Tui nhớ má tui quá ông thấy ơi…”

Thằng Cường la lên :

– Ê Sơn, pha nhiều nhiều cà phê cho tao ké với

– Con C. mày muốn uống thì pha lấy mà uống, thằng làm biếng!” thằng Hưng lên tiếng.

– Ông nội mẹ mày nghe Hưng, Việt cộng nó xả AK vô đầu mày nghe Hưng

Hưng trả lời.:

– Nó có tới được đây thì tao cũng bắn chết mẹ nó rồi

Mấy thằng nhỏ như chó với mèo, chửi nhau hàng ngày. Chửi đó, nhưng đứa nầy sẵn sàng sống chết cho đứa kia, giữa chúng nó như có một sợi giây vô hình buộc chặt lại với nhau. Cường người SaiGon, quận Tư, tính tình hệch hạc, cười nhiều nói nhiều, nó thường chọc thằng Cậy “Dm mấy thằng Bắc kỳ rau muống ăn cá rô cây “. Rồi nó ngân nga “Bắc Kỳ ăn cá rô cây, Ăn nhằm cứt chuột chết cha Bắc kỳ “ .Thằng Cậy trả đũa “Địt Mẹ mày thằng Nam Kỳ giá sống, sẽ có ngày ông đổ mắm tôm vào cái mồm thối của mày.“

Trước đây Cường ra bùng binh Saigon đăng TQLC. Ở quân trường vài tuần rồi trốn về nhà. Lần sau nó lại mò ra bùng binh Saigon lần nữa. Lần này nó chấm Thiên Thần Mũ đỏ. Lý do nó bỏ TQLC vì nó sợ nước, sợ phải học bơi lội.

Nguyễn Văn Cường, cái tên rất bình thường, có thể trùng hợp hàng triệu người Việt Nam trẻ khác. Nhưng Cường không bình thường –theo cái nghĩa bình thường- nó thích chiến trận, thích đánh nhau. Chỉ vì nó ham sôi động chứ không phải nó thích giết người. Nó có hàng trăm biệt tài mà một trong số đó là gài mìn bẫy. Mỗi lần đóng quân trong rừng thế nào cũng có vài con ”nhạn là đà” vướng vào bẫy của nó. Cùng tuổi với thằng Cậy, nhưng Cây nghiêm trang báo nhiêu thì Cường lại chọc phá đùa giỡn bấy nhiêu .Cường có người yêu tên Nguyễn Thị Đoan Trang, nữ sinh Gia Long, lớp mười một. Mỗi lần nhận được thư nàng nó khoe với cả trung đội. Trắng, nhỏ nhắn ,có mái tóc dài và đôi mắt đẹp. Nó tâm sự với Thái “Kỳ này chắc em lấy nó quá thiếu úy, dự đám cưới của em nghe thiếu uý “. Binh nhất Nguyễn Văn Cường cũng có những giây phút không đùa giỡn chút nào.

Y Kron, đen như khúc than Nông Sơn. Để nó đứng cạnh Thạch Sơn không biết thằng nào chiếm giải nhất về màu da lọ nghẹ. Xạ thủ M60 của trung đội, sức nặng khẩu súng và mấy dây đạn đeo chung quanh người, chẳng thấm tháp gì với tướng tá dềnh dàng, cao lớn . Y Kron không hút Quân Tiếp Vụ, nó có loại thuốc lá riêng , mùi ngay ngáy như cỏ khô. Dân tộc Thượng Ra Đê, nhưng nói tiếng Việt rành rọt, dù vẫn còn âm điệu của người miền núi. Hai mươi bảy tuổi, một vợ hai con, đứa lớn nhất vừa tròn năm tuổi.

Y Kron thường ngồi một mình, hút thuốc nhìn về phía xa vời nào. Đôi lúc Y kron cất lên vài câu hát của người dân tộc buồn tha thiết. Thằng Hùng vẫn thường chọc “Dm Y kron mày hát cái đách gì vậy, ông nội tao cũng không hiểu nổi “ , hắn chỉ cười vu vơ. Có lần Thái hỏi dò:

– Mày có muốn đào ngũ về nhà với vợ con không Y Kron?”

Hắn nhìn thẳng vào mặt Thái :

– Ớ ông thây, tui thương cái lính nầy a, tui ghét cái viet công a, tui thương mấy thăng nầy, tui thương ông thây. Cái vơ cái con tụi tui cũng thương mà tui không đao ngu đâu..

Thái biết Y Kron nói thật. Anh cố gắng hết sức để xin cho Y Kron được về phép. Nhưng tình hình chiến sự kiểu này chắc cũng còn lâu. Lần cuối cùng Y Kron cầm giấy phép về thăm gia đình vợ con chính hắn không nhớ nổi.

Có tiếng súng xa xa vọng lại . Thái nhổm dậy, bảy người lính trong trung đội cũng hành động như anh. Họ chụp lấy súng vào thế tác chiến. Huỳnh Văn Thái, hai mươi bốn tuổi, thiếu úy Nhảy Dù Quân Lục Việt Nam Cộng Hòa. Sĩ quan trung đội trưởng tốt nghiệp khóa 5/69 trường Bộ Binh Thủ Đức với thứ hạng trung bình. Tình nguyện về Nhảy Dù sau khi ra trường. Má đã không dấu được nỗi lo âu khi thấy con mặc đồ rằn ri, đội bê rê đỏ về thăm má. Trước đây khi Thái chưa vào quân trường, bà vẫn tụng kinh gõ mỏ trước bàn thờ Phật ngày ba lần. Số lần tụng niệm tăng lên khi Thái chính thức gia nhập quân đội. Bây giờ, nhìn con trong bộ quân phục thì bà chẳng còn thì giờ để làm gì nữa ngoài việc ngồi suốt trước bàn thờ khấn xin cho con được bình an. Thái thương mẹ, nhưng biết làm sao? Anh yêu điều anh đã lựa chọn. Ba anh,bình tĩnh hơn, chỉ khuyên anh nên cẩn thận.“Thưa ba, con biết, nhưng đạn tránh mình chứ mình làm sao tránh được đạn?” Thái nhớ má, nhớ những lần về phép nhìn thấy mặt má vui lên, má cứ tíu tít quanh anh hỏi han dồn dập “Có mệt không con, có đói không con, con về bao lâu?” Má không muốn anh trả lời, má chỉ muốn anh cảm nhận tình mẹ thương trào ra từ trái tim của má .

Thế nào rồi má cũng nấu cho anh nồi canh chua thật nhiều ớt như anh vẫn thích. Má ơi, con nhớ má quá.

Thái không thể quên được gương mặt buồn rầu lo âu của má ngày anh phải trở về đơn vị. Anh ôm má thật chặt, anh không muốn nhìn thấy má khóc, bởi vì anh biết mình cũng sẽ khóc theo. Thiếu úy Nhảy Dù không thể mềm như con gái. Thằng em anh cứ quấn lấy anh, nó không nói gì hết, nhưng anh nhìn thấy ánh mắt đầy ngưỡng mộ của nó. Nó thích đội bê rê đỏ trên đầu. Rồi đây nếu chiến tranh còn kéo dài, mà sẽ còn phải khóc để đưa thêm một đứa con vào trận chiến.

Cả trung đội căng mắt nhìn trước mặt. Bảy người lính Nhảy Dù cùng với trung đội trưởng của họ sẽ giữ vững phòng tuyến cho tới viên đạn cuối cùng. Nhảy dù cố gắng, họ đã cố gắng tới tận cùng từ ngày đội lên đầu chiếc mũ đỏ. Cố gắng nằm chịu dưới mưa đạn pháo kích của việt cộng, cố gắng lấy một chống mười trên những trận tuyến máu tràn mặt đất. Cố gắng cõng bạn bị thương chạy về đơn vị khi bị tràn ngập. Còn một hơi thở lính Nhảy Dù còn phải cố gắng. Việt cộng biết điều này, họ vẫn cố tránh nếu có thể để khỏi đụng với Nhảy Dù. Đường xâm nhập từ Bắc vào Nam có ba điều làm họ sợ hãi: B52, Biệt Cách Nhảy Dù và Nhảy Dù. Sinh Bắc Tử Nam là điều chắc chắn nếu lính Cộng Sản gặp một trong những hung thần trên.

Một gương mặt thoáng hiện lên trong đầu óc Thái. Hồ thị Cẩm Vân, sinh viên Chính Trị Kinh Doanh năm thứ hai Viện Đaị Học Đà lạt. Họ gặp nhau tình cờ, yêu nhau tình cờ và nay thì xa nhau cũng rất tình cờ.Thái không biết bây giờ Vân và gia đình đang ở đâu kể từ ngay cả miền Nam phải di tản chiến thuật. Lúc trước phương tiện liên lạc giữa họ là thư từ, nầy thì không còn nữa. Vân mảnh mai như một dải lụa, giong nói miền Trung xứ Huế ngọt ngào. Có lần Thái hỏi đùa : ”Anh Nam Kỳ giá sống, em Trung Kỳ mắm ruốc, vậy mai mốt con mình nó sẽ là cái gì .. kỳ? chắc nó sẽ kỳ cục quá!!” “Ơi anh nầy, ốt dột quá“ Vân dẫy nẫy.

– Coi lại cây M72 của mày đi Thạch Sơn, tụi nó có tăng đó.

Thạch Sơn cười, tay lắc lắc chiếc nanh heo :

– Ông thầy khỏi lo, tui nhắm không có trật mà

– Dm thằng nào ngon dô đây!- tiếng thằng Hưng phụ họa.

Cả trung đội mấy chục người nay chỉ còn có tám thầy trò với nhau. Thái nhớ thằng Hòa, tình nguyện ở lại cản đường , chỉ kịp quẳng hai trái lựu đạn nổ được một băng M16 thì chết. AK cày nát ngực nó. Hòa chết, mặt nhăn nhó thảm hại, nằm chàng hảng giữa đường. Bạn bè cố gắng đào một lỗ cạn chôn tạm. Trung đội mất liên lạc, tự tìm lấy cho mình phương thể ứng xử. Giờ thì chỉ có một con đường – Mầy ngon mầy dô đây – Thái nghiến răng. Anh kiểm tra lại vũ khí. Mỗi người lính Dù còn lại bốn băng , hơn chục trái lựu đạn, hai M72, một M60 với hai dây đàn. Vậy là có đủ vốn để chơi rồi. Kỳ này thế nào anh cũng có lời.

” Mở liên lạc coi, …” Thái hy vọng sẽ còn một cấp trên nào, một đơn vị nào có thể liên lạc được. Ít nhất lúc đó anh sẽ dễ tính toán hơn. Tiếng se sẻ từ máy PRC25 của thằng Minh vẳng ra khi nó đang cố dò tần số.

Bỗng nhiên từ máy phát ra tiếng nói “ Tôi Dương Văn Minh .Yêu cầu anh em bỏ súng chờ bàn giao…” Cái gi?..Thái la lên ” Vặn lớn lên coi Minh …Chờ bàn giao….” Thằng Cậy mếu máo :

– Mình thua rồi thiếu úy ơi ,

Thằng Hưng hét lên :

– Thua cái con C. – nước mắt nó chạy dài trên gò má.

Thạch Sơn quăng ca cà-phê mặt tái mét. Thái cảm thấy lùng bùng lỗ tai. Cái gi? Thua à? thua việt cộng à? đã đánh đâu mà thua? anh nhớ tới những người lính trong trung đội đã chết, anh nhớ tới Hoa ,tới Bằng, tới Tốt. Máu anh căng tràn trong cơ thể. Anh ước anh có thể nổ một phát súng vào đầu Dương Văn Minh

Thái hit một hơi dài cố lấy lại bình tĩnh. Tính mạng của bảy người lính còn lại ở trong tay anh. Thượng sĩ Năm lo lắng hỏi “Tính sao thiếu úy?” “ Còn tính sao nữa, buông súng đầu hàng thôi “ Thái gắt gỏng. Thật ra anh đã có một lối thoát cho chính mình. Anh thở dài, nhìn mấy người lính “ Tụi bay lại đây “. Họ quây quần chung quanh anh. Thái bình tỉnh nói :

– Tụi bây nghe rồi đó, mình là lính, lệnh trên sao thì mình phải theo. Giờ phút này mình thua rồi, tụi bây bỏ súng xuống, rồi thằng nào muốn về nhà thì cứ đi. Không ai chỉ huy ai nữa.Tụi bây hiểu chưa?

– Ơ tui không biết cái đầu hàng a, tui ghét việt cộng, tui đánh chết việt cộng, tui không đầu hàng , Ykron lên tiếng.

– Giờ phút này tao hết trách nhiệm, tụi bây cứ về nhà

– Vậy còn thiếu úy tính sao? Thằng Minh mếu máo

– Tao ở lại. Dm bắn hết đạn tao tự xử tao

– Em theo ông thầy, – thằng Minh la lên.

Thằng Hưng cười toe toét :

– Ông thầy, cho em bắt tay cái, mình Nhảy Dù mà ông thầy.

Thằng Cường rút trái lựu đạn ngắm nghía :

– Thua việt cộng nhục lắm ông thầy, còn mày, mày tính sao Sơn?”

Thạch Sơn lẩm bẩm :

– Ai sao tui vậy

– Rồi ai làm bậy mày cũng làm theo hả Sơn? Cường cười toe toét. Đến nước này mà nó vẫn còn giởn đuoc.

Thái nghiêm nghị :

– Anh em hãy suy nghĩ cho kỹ, phần tôi thì xong rồi, nhưng anh em còn có gia đình để lo. Tôi không muốn vì tôi mà anh em suy nghĩ ẩu tả. Lần đầu tiên Thái gọi họ là anh em và xưng tôi.

– Tôi chọn màu áo này để chiến đấu, tôi cũng sẽ chết với màu áo này. Tôi không thể đầu hàng, không chịu thua

– Lính Nhảy Dù đâu có chịu đầu hàng , ông thầy. Thằng Minh nói.

Thái quay sang thượng sĩ Năm :

– Còn phần anh , về với vợ con anh đi anh Năm, và bỏ qua cho những gì mà tôi đã làm anh buồn

— Thiếu úy, thật sự tôi khuyên thiếu úy và anh em suy nghĩ cho kỹ. Còn đánh đấm gì được khi lãnh tụ tối cao đã đầu hàng. Nhưng thật tình mà nói, tôi không thể bỏ anh em. Cả trung đội như huyết nhục của tôi, nay chỉ còn lại mấy mạng, làm sao tôi bỏ đi được. Tùy thiếu úy, nếu ông ở lại, tôi cũng ở lại.

Cả đám nhao nhao sau lời nói của Nguyễn Năm, Thượng Sĩ Nhảy Dù bị thương tích, nhưng vẫn sống sót qua bao trận đánh “ Chơi tới luôn đi thiếu uý “.

Thái đưa mắt nhìn, giọng anh đầy xúc động:

– Cảm ơn anh em, Nhảy Dù Cố Gắng

– Nhảy Dù Cố Gắng ,cả nhóm hét lên.

Thái vạch kế hoạch :

– Sức mình có thể chơi dài dài được, mình nằm đây chờ nó. Hễ xe tăng nó vô thổi cho hai trái M72. Cứ dùng lựu đạn khử mấy thằng tùng thiết. Tập trung hỏa lực M60 với M16, nhưng đừng phí đạn dược. Làm được không tụi bây?

– Nhảy Dù Cố Gắng mà ông thầy.

Thái căng mắt nhìn về phía trước. Anh đã quyết định và tự nhiên anh cảm thấy thanh thản. Anh chưa từng tâm sự với ai về lý do anh đã chọn Nhảy Dù. Anh đã nhìn thấy những người lính Mũ Đỏ chiến đấu như thế nào trong trận Tết Mậu Thân. Anh cũng đã nhìn thấy hình ảnh những người lính Dù miền Nam, binh chủng mà bọn Việt cộng vẫn tuyên truyền thích ăn gan uống máu tù binh, đút từng miếng bánh cho VC bị bắt, đốt cho họ từng điếu thuốc. Tính chiến đấu dũng mãnh làm địch khiếp sợ nhưng lại rất nhân đạo khi đối phương đầu hàng đã làm Thái cảm phục và ngưỡng mộ. Anh chọn chiếc nón đội trên đầu, anh phải bảo về danh dự cho chiếc nón đó

Tám người lính chờ đợi. Họ không nhìn thấy quân thù tiền về hướng họ. Anh không thể chờ đợi mãi, anh cũng không thể buông súng. Anh chỉ còn một cách:

– Anh em sẵn sáng chưa?

– Sẵn sàng rồi thiếu úy

– Lời cuối tôi muốn nói với anh em: Tôi cảm ơn anh em đã theo tôi đến tận giờ phút này. Nước mình đã mất, tôi đã không làm tròn bổn phận với Tổ Quốc Dân Tộc. Tính khí tôi cũng không cho phép tôi đầu hàng chịu nhục với kẻ thù. Nay tôi chọn cho riêng tôi cái chết để đền nợ nước. Thái ngắt lời, giọng anh run run vì xúc động “ Tôi biết anh cũng có cùng ý nghĩ, nhưng giờ phút chót anh em vẫn có quyền quyết định ,và bất cứ quyết định nào của anh em tôi cũng tôn trọng. Tôi không oán trách anh em gì hết.

– Em theo ông thầy ,Thằng Hưng mếu máo

– Em cũng vậy ,

Thằng Cậy, thằng Cường tiếp lời.

– Còn tao ,t ụi bây bỏ đi đâu?

Tới phiên Tăng Thien Minh, người Việt gốc Hoa, nhà có của ăn của để, nhung khoái làm “Nhảy Dù” hơn lính kiểng

– Ơ, tui thương cái ông thầy ,cái ông thầy đi đâu tui theo đó,

Y Kron quả quyết.

– Chết thì thôi, sợ gì ,

Thạch Sơn mân mê chiếc nanh

– Đây là lần đầu tiên tôi thua mấy thằng việt cộng ,thiếu úy . Thượng Sĩ Nhảy Dù Nguyễn Năm uể oải.

– Được rồi, vậy anh em quây quần lại đây ,Thái nói, giọng anh tỉnh táo đến đáng sợ:

– Tôi sẽ đếm một hai ba rồi tôi sẽ rút chốt hai trái lựu đạn. Đó là cách cuối cùng anh em mình sẽ đi với nhau. Anh em đồng ý không?

Bảy người lính gật gù, họ tự động làm thành một vòng tròn, người nầy sát với người kia. Đến phút cuối họ vẫn còn muốn ôm được nhau trong vòng tay.

Thái nhớ đến má, nhớ đến ba, nhớ đến đứa em trai. Hết rồi nhóc ơi, hết còn cơ hội đăng lính Nhảy Dù, hết còn cơ hội đội nón bê-rê đỏ. Chăm sóc ba má dùm anh nha nhóc. Ba ơi má ơi, con sẽ về thăm ba má trong mơ. Vân ơi, anh yêu em.

Thượng Sĩ Nguyễn Năm chợt nhớ kỳ lương tháng này ông đã kịp gởi về cho bà xã. Vậy là mẹ con nó cũng ấm cúng. Ông không buồn, ông chỉ hận vì bao nhiêu năm đánh nhau đây là lần đầu tiên ông thua trận.

Binh nhất Tăng Thiên Minh mỉm cười. Ít nhất cũng được chết trong quân phục Nhảy Dù. Minh nói thầm với má “ Má à, con dề dồi nè, má đừng khóc nữa”

Binh nhất Trần Ngọc Hưng cười toe toét ” Giởn chơi sao em , anh đâu có đào ngũ, bỏ bạn bè với ông thầy của anh được. Không sao, anh sẽ về thăm em luôn, nhớ chăm sóc ba má dùm anh”

Hạ sĩ Nguyễn Cậy đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh để Vinh Danh Thiên Chúa “ Lạy Chúa con ,con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Xin Chúa gìn giữ thầy mẹ con. Ave Maria con yêu kính mẹ.”

Binh nhì Nguyễn Văn Cường. chợt nhớ mình còn thiếu tiền hai ly cà phê đá chưa trả lần dưỡng quân kỳ trước. Bé Ba ạ, thông cảm cho lính đi em.

Hạ sĩ nhất Ykron mắt bâng quơ nhìn xa xa, miệng thì thầm lời hát quê hương rừng núi . Trong đầu người lính Thượng chất phác chỉ hiện lên ý nghĩ “ Ơ tui ghet viet cong”

Trung Sĩ Thạch Sơn mân mê chiếc nanh heo rừng “ Tao sẽ đầu thai trở lại để chơi tiếp với tụi bay”

Tiếng đếm của Thiếu úy Nhảy dù Huỳnh Van Thái, hai mươi bốn tuổi đời , ba tuổi lính hãnh diện dã chiến đấu tới cùng cho Tổ Quốc bang Danh Dự và Trách Nhiệm nghe rõ mồn một “ Một, hai, ba…”. Và đến tiếng thứ ba, anh rút chốt luu đạn…

nguoiviettudo
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Hãy cùng nhau hãnh diện mình là công dân Việt Nam Cộng Hòa!

Nguyễn Trọng Dân

(Danlambao) - Ngày kỷ niệm 43 năm Quốc hận 30 tháng Tư năm nay mở ra một bước tiến mới cho tinh thần Việt Nam Cộng Hòa.

Lần đầu tiên tại Dinh Độc Lập, vào năm nay, người ta thấy có triển lãm di tích của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng với nhiều bài viết bàn về sự thăng trầm của dinh Độc Lập. Cuộc triển lãm này đem đến nhiều chi tiết, sự thật về Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực ngăn cản thảm họa Cộng Sản. Khác với cuộc triển lãm “Cải Cách Ruộng Đất” vào bốn năm trước tại Hà Nội, do bị nông dân khiếu kiện đất đai ồ ạt tràn về biểu tình khiến phải đóng cửa sớm, cuộc triển lãm về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Dinh Độc Lập có thể kéo dài đến thêm hai năm nữa.

Những di ảnh về gia đình cụ Diệm thể hiện một niềm hãnh diện về bản sắc dân tộc, về ý chí tự cường và ước vọng tự do hòa bình phú cường của dân tộc Việt trước mắt mọi người. Từ cuộc triển lãm này, giới trẻ ngày nay tự nhiên lại hỏi, "tại sao Hồ Chí Minh chưa bao giờ bận đồ quốc phục mà chỉ bận đồ cán Tàu? Đứng đầu một nước mà sao kỳ vậy?"

Di ảnh về gia đình cụ Diệm trong Dinh Độc Lập còn mở ra ánh sáng cho mọi người thấy về nỗ lực của cụ Diệm khi tìm cách an cư lạc nghiệp hàng vạn người dân miền Bắc di cư vào Nam tỵ nạn Cộng Sản sau năm 1954.

Ước tính có khoảng hơn 800 ngàn người miền Bắc đã di cư vào Nam sau năm 1954.

Một miền Nam nông nghiệp đã quá thành công trong việc khai điền lập ấp cho hàng vạn người dân miền Bắc tị nạn Cộng Sản, di cư vào Nam sau Hiệp Định Geneve 1954. Hơn 43 năm, người ta thấy các vùng kinh tế mới XHCN vắng bóng, đổ vỡ và nghèo sơ xác nhưng các làng mạc của người Bắc di cư năm 1954 vẫn sầm uất ở miền Nam Việt Nam cho đến bây giờ.

Dinh điền Cái Sắn được cụ Diệm thiết lập cho hơn 45 ngàn người, hầu hết nghề nông với nhiều chợ búa được dựng lên, ngay ở các đầu kinh như kinh A, kinh B, kinh Tân Hiệp, kinh Cái Sắn. Nam Bắc sống chung một nhà, hơn 60 năm qua, trong đó có 43 năm trầm mình trong Quốc Hận, vùng dinh điền này vẫn trù phú, người dân vẫn một lòng chờ đợi ngày CNXH bị xóa sổ.

Còn Hố Nai thì sao?

Từ một vùng đất nóng, không người ở, nhờ nổ lực giúp đỡ của chính phủ Ngô Đình Diệm đối với người di cư an cư, đã trở thành một vùng đất sinh sống trù phú cho đến giờ này; góp phần không nhỏ trong việc đánh gục nền kinh tế bao cấp XHCN Mác Lê mà CSVN áp đặt lên đầu lên cổ người dân Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1978 đến hết năm 1990.

Hố Nai được thành lập vào khoảng năm 1957 bởi chính phủ Ngô Đình Diệm, đến nay là đã 61 năm. Người dân sống ở Hố Nai hiếu khách, cần cù chịu khó, cương quyết giữ vững truyền thống dân Việt.

Vào giai đoạn mà CSVN gọi là “Quá Độ,” chiếc áo dài quốc phục Việt Nam bị vắng bóng, bị dẹp hẵn ở mọi công sở, trường học, đường phố, chợ búa nhưng ở Hố Nai thì không! Người ta vẫn thấy hàng trăm giáo dân trong tà áo dài đi lễ mỗi sáng hoặc cuối tuần ở Hố Nai, bất chấp CSVN đang đẩy đời sống người dân Việt Nam Cộng Hòa đi vào cùng cực nghèo khó đến mức nào.

Hố Nai nổi tiếng với đủ mặt hàng tiểu thủ công nghệ và nông nghiệp như các loại thùng thiếc, bánh đa, bánh phở, mì sợi khô, bán rộng khắp các tỉnh thành miền Nam, nhất là ở Sài Gòn. Đó là chưa kể chợ búa, mua bán giao thương vô cùng nhộn nhịp. Việt Cộng không thể nào dẹp được Hố Nai mà phải nương theo sức sống kinh tế và danh tiếng của Hố Nai để lấy thuế mà nuôi cán bộ đảng viên.

Nếu đem so sánh Hố Nai với các khu kinh tế mới của CSVN đặt lên miền Nam sau năm 1975, thì rõ ràng, Hố Nai là một chiến thắng vinh quang không cần tiếng súng của Việt Nam Cộng Hòa trước chủ nghĩa CS trong con mắt người dân.

Ngã Ba ông Tạ, Tân Bình, Long Khánh, và còn bao nhiêu địa danh định cư khác được hình thành dưới thời cụ Diệm, suốt bao nhiêu năm qua, những nơi này vẫn vươn lên trù phú, đời sống kinh tế sinh động bất chấp khó khăn trù dập cướp bóc của CSVN.

Bốn mươi ba năm qua, các vùng "kinh tế mới" của CSVN đã chết!

Bốn mươi ba năm qua, nền kinh tế Quá Độ XHCN cũng đã chết!

Bốn mươi ba năm qua, nền kinh tế "định huớng XHCN" đang giãy chết!

Đến sau cùng, chỉ có nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa, một nền kinh tế theo định hướng dân tộc: tự do, công bằng và phú cường cho mỗi người dân thì vẫn sống. Sống trong thực tế khó khăn, sống ở tương lai đầy triển vọng!

Bốn chữ "Việt Nam Cộng Hòa" cũng đã thay thế dần ngôn từ xảo trá "Mỹ ngụy" mà CSVN cố nhồi sọ giới trẻ, giới trí thức trong nước bấy lâu nay qua mọi hệ thống báo đài, sách vở. Giới trí thức XHCN đành lòng bẽ bàng mà buộc phải "nhìn vào sự thật."

Khi tiếng súng lặng yên, dối trá và chính nghĩa không thể nào nhầm lẫn được nữa! Chiếc xe tăng T 54 đã thúc thủ trước sự thật, sự thật về một Việt Nam Cộng Hòa can trường đương đầu với hỏa lực của toàn khối XHCN để cưu mang duy trì vẻ đẹp của làng quê, tình tự yêu thương dân tộc trước thảm họa Cộng Sản.

Cũng sau đúng 43 năm, sự trở lại của HKMH Carl Vinson tại Đà Nẵng, với hình ảnh các quân nhân Hoa Kỳ hát hò kêu gọi "nối vòng tay lớn" đầy thân thiện càng làm cho cả một hệ thống lý luận tuyên truyền về tội ác "đế Quốc Mỹ" bị đổ vỡ. Giới trẻ Việt Nam đã bắt đầu nêu lên câu hỏi về bản chất của sự "giải phóng", nhất là hiện trạng thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975 kéo dài với cả triệu người Việt bỏ xứ. Ai thật sự là tay sai của ngoại bang đây khi đảng ta đã hy sinh bao nhiêu thế hệ trẻ để đánh Mỹ cho Chủ Nghĩa Xã Hội, cho Liên Xô và Trung Cộng?

Cũng trong năm nay, Tổng thống Trump đã tuyên bố lấy ngày 7 tháng 11 chính thức làm ngày tưởng niệm các nạn nhân của Cộng Sản. Lời tuyên bố này của một vị tổng thống Hoa Kỳ là sự thừa nhận một cách gián tiếp giá trị cống hiến và hy sinh của dân tộc Việt Nam Cộng Hòa cho hòa bình của thế giới tự do không Cộng Sản. Sự phản bội lầm lẫn của Hoa Kỳ trong quá khứ đối với Việt Nam Cộng Hòa không còn có thể giấu nhẹm hay lấp liếm được nữa! Sự phản bội này sẽ đi vào sử như là một bài học quý giá cho hậu thế, mà ý nghĩa lớn nhất của bài học này là họng súng và mưu mô không thể chôn lấp được khát vọng chính nghĩa của tự do và quyền tự quyết dân tộc của bất cứ dân tộc nào. Chỉ khi Việt Nam Cộng Hòa được phục hồi lại, thì các giá trị căn bản của nhân bản, danh dự của Hoa Kỳ mới thực sự được khôi phục.

Tranh chấp tại biển Đông đang gia tăng, tranh chấp mậu dịch Mỹ -Trung đang gia tăng, kỹ thuật kỹ nghệ của Hoa Kỳ đang bị Trung Cộng trộm cắp từng ngày. Các nguyên tắc mậu dịch căn bản đang bị Trung Cộng lừa đảo thay đổi. Hoa Kỳ nay đã chính thức coi Trung Cộng là kẻ thù nguy hiểm nhất của mình. Nhiều hậu quả tai hại nghiêm trọng khác về an ninh quốc phòng do Trung Cộng gây ra cho Hoa Kỳ ngày hôm nay khiến Hoa Kỳ phải trả giá rất đắt. Những hậu quả này là hệ lụy của sự phản bội Việt Nam Cộng Hòa gây ra! Bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa lương thiện chí tâm chống đỡ Cộng Sản để dung dưỡng Trung Cộng. Nay quả báo đã hiện rõ! Cũng vì vậy, lời tuyên bố của tổng thống Trump chính là một sự nhìn nhận sai lầm của nước Mỹ trong quá khứ! Phe phản chiến đã biến mất, giới truyền thông giối trá đã im lặng. Ác nghiệp của quá khứ nay thành quả báo. Hơn bao giờ hết, giá trị chính nghĩa và hợp pháp hợp hiến của Việt Nam Cộng Hòa trước công pháp thế giới đang mặc nhiên hiện rõ, không còn là những dự đoán bàn luận mơ hồ nữa. Cái gì của Việt Nam Cộng Hòa thì phải trả lại cho Việt Nam Cộng Hòa!

Suốt bốn mươi ba năm, nhạc của Việt Nam Cộng Hòa lan khắp các hang cùng ngõ hẻm của Việt Nam. Giới nghèo khó hát rong trên khắp các nẻo đường Việt Nam ngày nay hát toàn nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa hay nhạc Vàng Việt Nam Cộng Hòa kiếm tiền mưu sinh qua ngày. Không có một bài nhạc tuyên truyền nào của CSVN được đem ra hát giữa chợ đời xin chút từ tâm bố thí cả! Nếu hát loại nhạc này thì không ai cho tiền cả! Phải chăng nền văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đã và vẫn còn tiếp tục cưư mang những thân phận nghèo khó trong tình tự của dân tộc.

Có đôi khi chúng ta phải tự hỏi, phải chăng những người nghèo khó hát dạo này là Bồ tát hóa thân, đứng khắp đường phố ở Việt Nam, từ Nam chí Bắc, giữa trời trưa nắng gắt, hát nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa không mệt mõi cho mọi người nghe đề hồn nước được mãi còn, đề tình người được mãi gìn giữ, để văn hóa nước nhà không bị phôi phai? Những người đi ngang cho tiền, ai cũng có bộ mặt ngậm ngùi trắc ẩn, trắc ẩn vì cái nghèo của người hát dạo hay trắc ẩn cho chính mình chưa nhìn thấy hồn nước sống dậy, chưa nhìn thấy tình tự và chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa sống dậy?

Bốn mươi ba năm trôi qua, những ai nằm xuống thì đã nằm xuống, những ai còn thì vẫn tiếp tục đấu tranh bảo vệ tình thần Việt Nam Cộng Hòa, thế hệ sau tiếp thế hệ trước, một quyết tâm đấu tranh mà nhà tù hay hệ thống tuyên truyền CNXH không thể nào lay chuyển được. Nước chảy đá mòn, trong khi chủ nghĩa CS cứ mỗi ngày bị bêu rếu, tàn lụng dần trong xã hội, thì ánh sáng trong tâm thức về Việt Nam Cộng Hòa cứ mỗi ngày mỗi nhân rộng. Nhân rộng từ giới nghèo đến giới giàu, từ dân đến đảng viên, từ Nam ra Bắc.

Chồng chất với nhiều căng thẳng thanh trừng đấu đá nội bộ vì tiền tài, quyền lực, đảng CS đã làm mất dần niềm tin ở quân đội, ở CA. Những người lính tại ngũ sẽ tự hỏi tại sao họ phải chiến đấu để bảo vệ đảng thay vì bảo vệ dân tộc. Một khi cả dân tộc đã quen dần với việc đặt câu hỏi, thì sự vô tri bắt đầu bị đổ vỡ. Toàn bộ đảng Cộng Sản VN ngày nay như con rắn già nằm bất động chờ bị toàn dân vùng lên tiêu diệt.

Hàng loạt các vụ bắt bớ những ai đấu tranh đơn độc không làm giảm đi ảnh hưởng ngày một lớn mạnh Việt Nam Cộng Hòa. Việc anh Dũng ra tòa bận đồ có biểu tượng cờ Vàng với hàng chữ " it's in my DNA" càng cho thấy CS đã không còn hy vọng gì để có thể chôn sống Việt Nam Cộng Hòa trong nhận thức của người dân Việt được nữa.

CSVN lầm tưởng nghĩ rằng sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa là nhờ vào họng súng.

Không! Sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa nằm ở nhận thức, nằm ở khát vọng nhìn thấy Việt Nam tự do, tự cường và công bằng cho mỗi người dân!

Sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa nằm ở tình thương dân tộc và văn hóa!

Với năm tháng, chiếc xe tăng T54 ủi sập dinh Độc lập vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 sẽ nằm bất động như mộtđống sắt vụn vì dân tộc Việt Nam không cần chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê, mà ngược lại dân tộc này đang cần thấy ngày quật khởi thật sự của Việt Nam Cộng Hòa, một sự quật khởi từ cõi vô tri để tìm về nhận thức, một sự quật khởi từ hung ác để tìm về tình thương dân tộc đầy thánh thiện, một sự quật khởi của những người con Việt Nam từ gông xiềng độc tài để lấy lại tư do dân chủ và công bằng.

Bốn mươi ba năm, CSVN đang hấp hối và lần đầu tiên, ngày Quốc Hận năm nay cho chúng ta thấy sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa không còn là một hy vọng, một giấc mơ mà là điều đang đến, sẽ đến và không còn có thể cản lại được nữa!

Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!

“In front of the Yellow flag, we believe!”

Hãy cùng nhau hãnh diện mình là Công dân Việt Nam Cộng Hòa!

01.05.2018

Nguyễn Trọng Dân
danlambaovn.blogspot.com
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests