Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image


Một Lầm Lỗi Ngọt Ngào.
Chú Chín Cali
Molly đã vĩnh viễn ra đi ngày hôm qua. Trong niềm cảm xúc dạt dào tôi đã viết bài nầy để tiễn biệt Molly.
Molly tròn 14 tuổi chó, tương đương với 72 tuổi người, cái lứa tuổi về chiều mà giới trẻ “kính lão đắc thọ” gọi bằng bác và nhường chổ ngồi trên xe bus. Molly già được đám chó tơ tôn là “Molly Bá Bà”, tuy lụ khụ nhưng vẫn còn giữ nét đẹp của giống chó Dachhund. Molly đang yêu đời, vui hưởng tuổi già trong bình yên và hạnh phúc. Người già râu dài tóc bạc thành tiên, Molly già, lông bạc thành người, các cháu nói đùa như vậy. Chính Molly cũng không nghĩ nó là chó!

Molly không làm phiền ai, ngược lại nó là nguồn vui cho cả gia đình tôi. Các cháu dành nhau mang Molly nhà về chơi, nhất là những khi tôi vắng nhà lâu ngày. Cả tuần nay Molly ở cùng với đứa cháu lớn. Khi tôi ghé thăm không thấy Molly ra cửa đón mừng như thường lệ. Nghe tôi gọi nó vẫn nằm yên trên giường chỉ vẩy đuôi mừng. Thấy lạ tôi đến ngồi bên nó, vuốt đầu hỏi han. Nó nhìn tôi trông có vẻ buồn. Hỏi ra mới biết Molly gần đây không khỏe, biếng ăn và hay ói vào buổi sáng. Tôi thấy không ổn nên quyết định đem Molly về nhà và cho đi khám Bác Sĩ. Kết quả thử máu không thấy điều gì đáng lo ngoại trừ triệu chứng phong thấp. Bác sĩ chích thuốc và đề nghị cho Molly đổi thức ăn mới để kích thích appetite. Sau một tuần Molly bình thường trở lại, chịu đi tập thể thao tuy còn mệt nhưng vẫn kén ăn và ốm đi nhiều. Cả nhà thấy Molly ốm lại mừng và khen Molly giỏi, trông đẹp gái ra. Vì bản chất tham ăn nên bao nổ lực giúp nó giảm cân trước đây đều bị thất bại, nó lúc nào nó cũng tròn vo như cái hot dog nặng 20 lb, bị xem là quá tải đối với giống chó Dachshund loại nhỏ con.

Một tuần sau bổng Molly trở bịnh, không chịu nằm yên trên giường của nó, thở hổn hển. Ẵm nó vào giường nó cũng lọ mọ bò ra rồi đứng nhìn vợ chồng tôi với đôi mắt ươn ướt như muốn nói điều gì. Tôi hiểu ngay là Molly muốn nói là nó không thấy khỏe. Tôi gọi bác sỉ lấy hẹn ngày hôm sau. Lúc bây giờ tuy mệt mỏi và thở nhiều nhưng Molly vẫn còn thích ăn Liverwurst, loại paté Đức mà tôi dùng để dụ dỗ cho Molly uống thuốc.

Tôi lên mạng tìm hiểu và đi đến kết luận là bịnh đau cột sống của Molly lại tái phát. Tôi cho nó uống thuốc giảm đau còn sót lại lần trước đi bác sĩ. Tôi thấy tội nghiệp nên ngồi bên Molly, vuốt ve, vỗ về trong khi chờ đợi hiệu ứng của thuốc giảm đau, sẽ giúp Molly nằm yên nghỉ ngơi. Đợi mãi vẫn không thấy có sự tiến bộ nào nên tôi bắt đầu thấy lo, mong cho đêm qua nhanh để Molly được gặp được bác sĩ ngày hôm sau.

Suốt đêm hôm ấy Molly không chịu nằm và không ngủ.
Sáng ngày hôm sau, trong khi đợi đến giờ đi Bác Sĩ, Molly có vẻ mệt lắm. Nó nằm trên cánh tay tôi nhưng cứ ngước đầu lên hết nhìn tôi rồi lại nhìn bà xã tôi không rời một phút . Chắc nó có linh tính là sẽ xa những người mà nó yêu thương nhất nên muốn ghi nhận hình ảnh của những người thân thương vào tim óc của nó. Bà xã tôi thấy vậy vuốt đầu nó hỏi:
- Molly nầy, con đau lắm không? Hay con muốn nói gì với mẹ?
Nó vẫn nhìn bà không chớp mắt. Sâu thẩm trong đôi mắt buồn thiu là cả một bầu trời bát ngát tình thương, đầy triều mến, và nuối tiếc. Nó muốn nói lời từ giã với mẹ chăng!
Bác Sĩ bảo sức khỏe của Molly không tốt, phải chụp X-ray ngay. Tôi tức tốc mang Molly đi. Đến bịnh viện khi mở cửa sau để ẵm Molly ra, tim tôi bổng như bị ngừng đập khi thấy Molly thân thể mềm nhũn, nằm nghẽo đầu, tư thế không bình thường. Tôi lay động nhưng Molly không có phản ứng gì. Một ý tưởng thoáng qua như ánh chớp, tôi bổng thấy lạnh cả người, tay chân bủn rủn, nước mắt ứa trào ra. Tôi không thể cầm giữ được lòng mình nên bật thành tiếng nấc nghẹn ngào làm bà xã tôi đang ngồi ở băng trước cũng giật mình:
- Em ơi, Molly chết rồi!
Tiếng nấc nghẹn ngào của tôi như nhát dao đâm thấu tim bà. Bà vội mở cửa xe, chưa kịp bước chân xuống đất đã òa lên khóc.
- Hả…hả…Làm sao Molly chết được?
Bà ôm lấy cánh tay tôi người lảo đảo, nhoài người vào xe, vừa khóc tức tưởi vừa nói:
- Em muốn nhìn mặt Molly lần cuối.
Tôi nâng đầu Molly, cho nó nhìn lên trong khi bà đang cuối xuống thật gần nhìn mặt nó. Mắt nó vẩn còn mở rộng, trong sáng, còn thần sắc như khi còn sống. Nó nhìn bà với đôi mắt triều mến quen thuộc. Bà vuốt đầu nó như hằng ngày bà vẫn làm rồi ngạc nhiên xoay qua tôi hỏi:
- Anh ơi, Molly đâu có chết?
Tôi phải xác nhận nhiều lần bà mới tin. Lúc ấy bà mới bảo tôi:
- Nó đã nhìn thấy em rồi, anh vuốt mắt nó đi vì em không đủ can đảm nhìn mắt nó, hãy để cho nó đi.
Tôi vuốt mắt Molly, vuốt đầu nó lần cuối, cúi sát vào tai nó rồi nói thì thào rất nhỏ, chỉ đủ cho tôi và nó nghe:
- Thôi con hãy ngủ yên cho Ba Mẹ yên tâm.
Molly nhắm mắt lại ra đi trong an bình. Molly đã vĩnh viễn ra đi!

Suốt đêm tôi ngồi viết lại chuyện Molly mà không kềm được xúc động khi nhìn những tấm hình của Molly mà tôi đã chụp trước và sau khi nó chết. Không biết sao tôi lại có ý định chụp hình Molly. Nhìn sâu vào đôi mắt của nó tôi thấy nghẹn ngào. Khi viết những giòng nầy, mấy lần tôi phải vào phòng tắm để hỉ mũi rửa mặt. Nước lạnh trấn tỉnh và kềm chế được phần nào cảm xúc của tôi. Molly đã sống với vợ chồng tôi mười bốn năm nay như một đứa con nhỏ trong nhà, một đứa con ngoan không biết vòi vỉnh, lị lợm, lúc nào cũng muốn làm vui lòng cha mẹ. Sự hiện hữu của nó đã gắn bó với các sinh hoạt hằng ngày của vợ chồng tôi đã tạo thành những thói quen không thể thiếu. Thiếu nó chẳng khác nào thiếu một phần của đời sống của mình. Chúng tôi nhớ Molly quá!
Trời chưa sáng mà bà xã tôi đã mang cho tôi ly cà phê nóng. Tuy biết suốt đêm tôi không ngủ đễ viết bài từ giả Molly nhưng bà vẫn hỏi:
-Anh có ngủ được không?
Tôi không trả lời. Bà vừa lúi cúi vừa làm giường, vừa nói tiếp:
-Em cũng không sao ngủ được. Buồn quá!

Sáng nay vừa bước xuống thang lầu bà đão mắt tìm Molly, tuy biết rằng Molly đã chết. Không thấy Molly đứng đợi dưới thang lầu, ngoắc đuôi mừng rở! Không thấy Molly nhảy lưng tưng đòi đi “pipi” để được bà mặc áo cho nó! Suốt ngày bà thấy buồn thiu khi không có Molly lẻo đẽo dưới chân đòi ăn. Molly thích ăn cơm nóng trộn với paté và xì dầu. Không có Molly để bà trò chuyện, cải vả rồi rầy rà. Mỗi lần bà thay gường giặt áo cho Molly là thế nào nó cũng bị bà đem ra xỉ vả. Nhưng Molly nào biết giận, nó chỉ cần nhìn bà với đôi mắt ươn ướt là hòa bình trở lại ngay. Mắng yêu thôi chứ bà cưng nó lắm. Mỗi lần đi mua sắm thấy đồ chơi hoặc quần áo cho chó là bà tha về cho Molly. Đi đâu xa bà cũng đòi về sớm vì không muốn bỏ Molly ở nhà một mình, hoặc đã quá giờ ăn sợ Molly đói bụng tội nghiệp.
Bác sĩ cho biết Molly chết vì bị bịnh tim mạch. Tuy đau lòng vì sự mất mát xảy ra quá đột ngột nhưng trong lòng mọi người lại thấy mừng cho Molly không đau đớn nhanh chóng ra đi.
Được tin Molly chết mấy đứa con tụ về an ủi vợ chồng tôi, rồi chúng xúm nhau kể chuyện Molly. Tội nghiệp cháu lớn thỉnh thoảng lại ngoảnh mặt đi chùi nước mắt. Cháu là người từng chăm sóc cho Molly nhiều nhất. Cháu nói một ngày nào đó, nếu có duyên cháu sẽ tìm được một “Molly Junior” để tiếp tục nuôi nấng. Bã xã tôi thì đã quyết tâm rồi, sẽ không bao giờ nuôi chó nữa. Bà sợ quá rồi cảnh “Sinh ly tử biệt”.

Bà đã tiết lộ một bí mật là trước ngày Molly chết bà có cầu nguyện cho Molly được khỏe mạnh, nếu không xin Chúa cho Molly ra đi không đau đớn. Lời cầu nguyện của bà đã được ơn trên nhận lời.
Sinh ly tử biệt, dẫu với một con chó cũng làm khổ cho bao người ở lại, nói chi đến con người!
Đời ta còn bao nhiêu lần nữa phải đổ lệ tiển đưa những người thân thương nhất ra đi?
Và một ngày rất gần ta không còn là người bàng quan chứng kiến cảnh biệt ly mà sẽ là người trong cuộc, là kẻ phải ra đi! Có ai đã trải qua hoặc có kinh về cái chết, tuy nhiên tôi có thể hình dung được cảm xúc của người sắp chết khi liên tưởng đến ánh mắt thiết tha của Molly ngày nó ra đi. Sâu thẩm trong đôi mắt thật buồn của nó là cả một bầu trời bát ngát tình thương, triều mến và nuối tiếc. Nó nuối tiếc phải bỏ lại phía sau tất cả để hoàn tất trò chơi khắc nghiệt “sinh lảo bịnh tử”của tạo hóa.

Cái duyên nào đã đưa Molly đến với chúng tôi, cái nghiệp nào đã bắt Molly phải ra đi, làm sao tôi và Molly hiểu được. Theo Phật Pháp, Tứ Diệu Đế là bốn chân lý, cốt lõi thuần túy nhất của đạo Phật. Khổ Đế là chân lý thứ nhất mà trong đó “Sinh lão bệnh tử” và sự gắn bó thái quá vào những mối liên hệ không vĩnh cữu, tương tự sự gắn bó của gia đình tôi với Molly là nguyên do chánh. Biết rằng sự gắn bó thái quá là nguồn gốc của đau khổ, là một lầm lỗi, nhưng chúng tôi chấp nhận lầm lỗi nầy, vì cái giá chúng tôi phải trả vẫn còn quá thấp so với những hạnh phúc đã nhận được. Một lầm lỗi ngọt ngào.
Cám ơn Molly đã đến và đã đi. Molly đến mang nhiều hạnh phúc cho đình tôi. Molly đi để nhắc nhở tôi tính chất phù du của đời sống. Molly đã làm xong bổn phận của nó, hảy giúp nó thanh thản ra đi. Hảy vẩy tay chào đưa tiển Molly với một nụ hôn triều mến.
Vĩnh biệt Molly.

Garden Grove 04/01/2017
Chú Chín Cali
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

MỘT THỜI ĐỂ YÊU
Võ Kỳ Điền
Năm vừa ra trường, Hưng được đổi về dạy ở trường trung học Hoàng Diệu, thuộc tỉnh Ba Xuyên. Cái vùng đất cuối cùng của đồng bằng miền Nam, lầy lội ẩm ướt vào mùa mưa, bụi cát nóng bức vào mùa nắng. Miền Hậu Giang do phù sa mới tạo thành, nền đất thịt không được vững chắc như các tỉnh miền Đông. Đường sá rất mau hư, chỉ cần trải qua một mùa mưa là phải tu bổ lại.
Trường cách chợ vài con đường nhỏ. Phía bên kia là ruộng nước đầy cóc nhái, ễnh ương, đêm đêm kêu vang đầy đồng, nghe buồn não nuột. Con đường Mạc Đĩnh Chi chạy ngang trước cổng trường được tráng nhựa từ những năm trước, bây giờ còn trơ lại mặt đường đá xanh lồi lõm với những ổ gà đầy sình nước. Trong sân trường thì tệ hơn nữa vì đất thấp hơn mặt lộ. Tuy nhà trường đã hết sức sửa sang, bồi đắp nhưng chỉ vài cơn mưa là bùn lầy phủ ngập lối đi. Cỏ ống xung quanh sân, mọc cao tới ngực. Các đường mương thoát nước ra ruộng sau hè, nhiều khi tụi học trò mò bắt được cá rô, cá lóc, cá sặc. Các giàn bông giấy lá mọc xanh rì, nhánh đâm tua tủa, chú lao công người Miên phải vất vả dùng rựa mé nhánh hoài nhưng đâu cũng vào đó.
Ngày mới đến trình diện ông Hiệu Trưởng để nhận việc, Hưng nhìn cái cái sân đầy cỏ xanh với mười sáu gốc còng to cỡ hai người ôm, tàn lá rậm rạp âm u mà buồn cho cái thân phận “Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.” Năm đó Hưng mới có hai mươi ba, đen thui, ốm nhom nên cao nhòng. Ông Hiệu Trưởng thấy vẻ thất vọng của người thấy giáo mới lớn nên vỗ về an ủi:
-Đất nầy coi vậy chớ đi dễ khó về. Ở lâu thấy nó dễ thương lắm. Nội con đường Nhị Trưng có hai cái cầu Bon với cầu Quay là đi hoài cũng không hết. Nói chi tới Phú Tâm, Bãi Xàu, Kế Sách…
Hưng tức cười trong bụng. Ông già nầy tính dụ dỗ mình đây. Ở lâu thấy nó dễ thương! Trời đất! Phải ở đây thiệt lâu thì mới thấy… Vậy thì mình phải trụ trì ở cái trường Hoàng Diệu nầy bao nhiêu năm nữa mới được đổi về quê nhà ?
Thiệt ra thì Sóc Trăng đâu có buồn như Hưng tưởng. Cái thị xã Khánh Hưng ồn ào, náo nhiệt suốt ngày đêm. Người buôn kẻ bán tấp nập, xe cộ, ghe thuyền rộn rịp lưu thông, tạo nên một sinh hoạt trù phú ở miền ruộng đất cò bay thẳng cánh. Trên lề đường quanh chợ, người ta bày bán từng giỏ cần xé to, nào nhãn, táo, ổi. Những trái nhãn hái từ vườn ở Vĩnh Châu, hột đen nhánh, cơm dầy, mùi thơm nức mũi. Những trái táo lớn cỡ bằng ngón tay màu xanh xanh vàng vàng, ăn cái vị chua chua, ngòn ngọt. Những buổi trời mây âm u, đâm nhớ nhà, Hưng buồn buồn, ngồi ăn táo chấm với muối ớt một hơi gần hết cả kí lô, vậy mà cũng chưa muốn thôi…
Rồi đến những ngày tựu trường, nhìn những gương mặt sáng sủa, yêu đời của đám học trò mà vui lây. Những giọng nói líu lo, những tiếng cười đùa không dứt. Tuổi trẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng quá. Hưng hoà mình trong niềm vui đó, quên mất tháng năm. Thành phố Sài Gòn với những công viên đầy lá me bay, lui dần vào quên lãng. Cho đến mùa mưa thứ ba Sóc Trăng thì một tình cờ chợt đến. Cái tình cờ không đợi nhưng nó vẫn xảy ra.
Buổi sáng sớm đó đã gần bảy giờ, Hưng dùng xong điểm tâm, ăn mặc chỉnh tề, sửa soạn đến lớp. Chàng ra đứng trước cửa nhà, ngó qua bên trường, để đợi tiếng kẻng. Nhà trọ ở ngay trước cổng chánh của trường, bên nầy đường. Trời đã dứt cơn mưa từ lâu, nhưng đường sá còn ướt sũng. Bất ngờ có tiếng con gái, ồn ào bên tai:
-Thưa thầy cho tụi em xin vào trong rửa chưn. Đường trơn, đứa nào cũng bị lọt xuống sình!
Hưng quay lại thì thấy không phải là học trò lớp mình. Cô nào cô nấy đều lạ, những chiếc nón lá nghiêng vành, che khuất vài ba khuôn mặt, chàng nhìn không rõ. Những tà áo dài trắng điểm lấm tấm vệt bùn xam xám. Chắc là tụi A1 của thầy Định.
Hưng để cặp sách trên ngạch cửa, dẫn cả đám vào sàn nước bên hông nhà. Sân rộng, hồ nước thật lớn. Các cô vội vã đưa chưn vào vòi nước để rửa những vết dơ lấm lem bùn đất. Cho tới cô cuối cùng, Hưng vô tình nhìn kỹ hơn. Cô ta có bàn chưn nhỏ gọn xinh xắn, các ngón tròn trịa, đều đặn. Đặc biệt là gót chưn đỏ hồng. Màu đỏ như son mịn. Trong đời Hưng đã thấy nhiều người đẹp nhưng chưa bao giờ để ý tới bàn chưn một người con gái. Lần đầu tiên chàng ngất ngây trước một bàn chưn đẹp. Chừng như cảm giác có gì kỳ lạ, cô học trò quay lại nhìn thì bắt gặp ánh mắt đăm đăm của ông thầy giáo trẻ. Cô gái cuống quít, bỏ vội lai quần xuống, xỏ đôi chưn hồng vô đôi guốc sơn, kéo chiếc nón lá che nghiêng cặp mắt tròn vo, đen bóng như sơn mài. Có tiếng thúc giục:
-Lẹ lên nhen, tới giờ rồi kìa !
Cả đám quay lại, cúi đầu chào Hưng, rồi kéo nhau, tuôn ra cửa, tiếng líu lo cười nói như chim. Đường sá còn đầy sình. Những bàn chưn vừa được rửa sạch, rón rén bước những bước cẩn thận trên những cục đá nhô cao. Hưng đi theo phía sau cô học trò có cái gót chưn đỏ hồng với làn da mịn mà nghe lòng xao xuyến như lần đầu tiên được cầm bàn tay run rẩy của người con gái lạ. Ôi! cái niềm vui mong manh, đơn giản nhưng trong sáng làm sao!
Từ đó, vào những buổi sáng, Hưng mong cho trời mưa để đường lầy lội. Dầu Hưng mong hay không, trời vẫn cứ mưa. Có những buổi trời mưa thật lớn, rồi cũng có những buổi trời mưa lất phất. Con đường Mạc Đĩnh Chi ngang cổng trường, bùn sình ngập tới mắt cá. Hồ nước của nhà trọ đầy tràn. Vậy mà không có người ghé xin nước, để rửa chưn !
Mãi cho đến mấy tháng sau, thầy Định dược đổi về Sài Gòn. Hưng được giao thêm Đệ Nhị A1. Ngày đầu tiên bước vào lớp, chàng bắt gặp ngay được cặp mắt to, đen như hột nhãn của người rửa chưn ngày nào, ngó chàng đăm đăm. Lật sổ ra điểm danh thì cô bé tên Trần Thị Hạnh. Hỏi thêm, thì biết nhà ở đường Nhị Trưng. Ông Hiệu Trưởng quả là một nhà tiên tri đại tài. Ba năm trước nói một câu bâng quơ -nội cái con đường Nhị Trưng, đi hoài cũng không hết. Bây giờ lời đó ứng nghiệm rõ ràng.
Có những đêm thức soạn bài tới khuya, Hưng không thấy mệt mỏi chút nào. Những bài giảng phong phú và lưu loát, nói chung cho cả lớp nhưng mà như cho riêng ai nghe. Có cái gì riêng tư không biết nữa, nó ràng buộc tâm tình chàng với cái hồn nhiên ngây thơ của cô học trò mới lớn. Làm sao Hưng quên được hình ảnh dễ thương của nàng mỗi lần đến thăm gia đình. Ba Hạnh tánh hăng say hoạt động, tuổi già nhưng còn rất trẻ trung. Ông giúp đỡ nhà trường rất nhiều và đã đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Phụ Huynh Học Sinh liên tiếp trong nhiều niên khoá.
Có lần đến nhà, Hạnh rót nước để mời chàng, giọng êm ái trong veo như gió thoảng. Bộ ghế ở phòng khách thì thấp, nàng phải quì xuống để đặt khay trà lên trên bàn, mái tóc ngắn ôm sát lấy khuôn mặt tròn xinh xinh. Cả người đầy nét thùy mị, dịu dàng, y như những cô gái Nhựt Bổn trong tranh.
-Ngày Chúa Nhựt mà thầy không đi chơi đâu sao ?
-Thì tôi lại thăm ông bà Hội Trưởng nè, được em cho uống nước trà ngon, cần gì phải đi đâu xa xôi chi cho mất công.
Ba Hạnh nói tiếp:
-Ông giáo sư còn trẻ mà lại học giỏi, chịu khó. Con Hạnh về thường cứ nhắc hoài những bài giảng trong lớp…
Hưng nghe khoan khoái trong bụng nhưng không biết nên trả lời ra sao:
-Dạ, tôi cũng dạy y như hồi học được ở Sư Phạm. Chắc là nhờ lớp Hạnh, học trò giỏi nhiều hơn lớp khác.
Má Hạnh xen vô:
-Ông giáo sư nói vậy chớ, chắc con Hạnh học không giỏi đâu. Tôi thấy nó về nhà đọc tiểu thuyết không hà !
Hạnh mỉm cười nhìn Hưng:
-Tại thầy biểu đó, chớ con đâu có ham tiểu thuyết. Hồi trước con thích đọc thơ… Thầy Hưng dạy văn chương mà viết văn làm thơ thì chắc hay lắm !
Hưng nghe xong, cười ngất, quơ tay:
-Nghĩ như vậy là sai rồi, cô ơi ! Thầy giáo dạy văn chương mà nói chuyện về thơ văn thì cũng như các ông thợ mộc… thợ hồ… bàn về mỹ thuật…
Hạnh tròn mắt, nhìn thầy, ngạc nhiên.
-Tôi nói thiệt mà, không phải giỡn đâu. Ở Sư Phạm hoặc Văn Khoa, tụi tôi chỉ được học cách phân tách, phê bình để giảng dạy một bài thơ hoặc một bài văn cho học trò lớp nhỏ, tàm tạm cho người chưa biết, hiểu được chút ít thôi. Nếu có cái gọi là kỹ thuật viết văn hay làm thơ mà dạy và học được, thì ai cũng thành văn sĩ hay thi sĩ hết rồi. Mà Hạnh thấy đó, người viết văn làm thơ thì nhiều mà thành danh đâu có được bao nhiêu. Đâu phải hễ in được một hay hai cuốn thơ là được người đời kêu bằng thi sĩ. Cũng vậy, đối với các giới khác, đâu phải bác sĩ là đều phát minh ra được thuốc trị bịnh, kỹ sư là chế ra được xe hơi, máy bay. Cái tài năng nghệ thuật đó, không phải do sự học… mà do thiên phú. Phải trời cho mới được !
Hạnh le lưỡi, làm ra vẻ sợ hãi.
Hưng tiếp:
-Hạnh có nghe tôi kể lần nào, câu chuyện người thợ làm bánh xe của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh chưa ?
-Dạ chưa, thầy kể cho em nghe đi !
-Lâu quá rồi, tôi quên mất tên ông vua nhưng đại khái câu chuyện như vầy. Đời xưa, có ông vua nhân lúc thanh nhàn, ngồi đọc sách, dáng điệu nghiêm trang, kính cẩn. Ở dưới thềm có người thợ làm bánh xe đương đục đẽo cồm cộp. Người thợ vừa làm việc vừa ngó ông vua. Thấy ông nầy đọc sách say mê, bèn bỏ bào, bỏ đục, bước lên thềm, vòng tay hỏi:
-Muôn tâu bệ hạ, xin cho thần được hỏi, bệ hạ đọc những gì trong đó ?
Nhà vua trả lời:
-Ta đọc những lời vàng ngọc của thánh hiền.
Ông thợ nhếch mép:
-Muôn tâu, xin bệ hạ thứ lỗi cho hạ thần. Hạ thần nghĩ là bệ hạ đọc những căn bã của thánh hiền mà thôi.
Nhà vua trợn mắt, nhìn sững ông già.
-Muôn tâu bệ hạ, thần dám liều gan nói như vậy vì có chút ít kinh nghiệm về việc nầy. Thần không dám nói đến việc kinh sách, thơ văn cao xa. Hạ thần chỉ dám nói về việc đóng bánh xe gia truyền của dòng họ nhà hạ thần thôi. Như muốn gắn cái niền sắt vô bánh xe bằng cây, thì phải cầm cây búa mà gõ từ từ. Nếu gõ nhẹ tay thì làm sao cái niền nó ôm sát được vô cái bánh. Nếu gõ mạnh tay thì bánh xe bằng cây bị nứt bể. Phải làm sao đập từng nhát búa đều đặn, nhịp nhàng khi mạnh khi yếu, khi mau khi chậm, để cái vòng sắt ôm chặt lấy cái khung bánh. Khi đã đâu vào đó rồi thì bánh xe dùng cả chục năm cũng không hư…
Đó chỉ là cái nghề nhỏ mọn, mà từ đời ông nội hạ thần muốn truyền lại cho cha hạ thần, rồi cha hạ thần muốn truyền lại cho hạ thần, cũng không thể viết ra sách được, cũng không thể nói bằng lời được. Lúc nhỏ thần muốn học, phải ngồi mà coi cái ý, theo dõi cái tình, rồi lấy cái tâm mà lãnh hội. Phải mất một thời gian lâu dài mới được như ngày nay. Nghề đóng bánh xe còn vậy, nói chi đến kinh sách, thơ văn. Làm sao mà nói được bằng lời, ghi lại bằng chữ những ý đẹp, tình cao. Cho nên hạ thần dám nói, cái mà bệ hạ đọc trong kinh sách, những cái đó chỉ là cặn bã mà thôi.
Hưng uống một hớp nước, rồi nói tiếp:
- Câu chuyện được đặt ra để chứng minh rằng, lời không nói hết được ý, ý không nói hết được tình. Mà chuyện viết văn, làm thơ là chuyện của ý với tình, làm sao cái ngôn ngữ, văn tự, của một ông thầy giáo, dầu là thầy dạy văn chương đạt tới được !
Hạnh nghe xong cười cười, nhìn chàng thật lâu, rồi nói chậm rãi:
-Thầy nói vậy thì em nghe vậy ! Để rồi em bắt chước Xuân Diệu, Huy Cận làm thơ cho thầy coi.
Hưng nhìn lại Hạnh, thương thương cái tánh bướng bỉnh:
-Cô học trò thi sĩ của tôi ơi ! Nghệ thuật là sự sáng tạo, chớ không phải bắt chước. Nếu bắt chước thì không còn là nghệ thuật nữa. Thí dụ như một ngày nào đó, có một cô bé đi học, gặp bữa trời mưa ướt át, chưn dính đầy sình bùn, đứng nghiêng mình bên hồ nước, kéo cái lai quần lên để rửa chưn. Gót chưn đỏ như son mịn, dáng vẻ thật là duyên dáng, dễ thương, ai nhìn thấy cũng yêu cũng mến. Có cô nàng nào đó, ô dề kịch cợm, thấy vậy bắt chước cũng uốn éo làm duyên, làm dáng, dậm chưn cho dính đầy bùn đất rồi dội hết cả hồ nước. Tôi nghĩ anh chàng nào mà thấy, chắc phải bỏ chạy cho thiệt xa…
Cô bé chớp mắt:
-Thầy nói thiệt hả ! Em không tin có người nào mới nhìn một cái gót chưn người lạ, mà thương liền !
Ba Hạnh ngồi im lặng nãi giờ, không hiểu nội dung câu chuyện bóng gió xa xôi của Hưng, xen vô góp lời:
-Con còn nhỏ, chưa biết hết đâu. Đời thiếu gì những điều kỳ lạ mà mình chưa biết. Như nàng Mỵ Nương, chỉ nghe tiếng sáo của Trương Chi, mà bịnh tương tư liệt giường liệt chiếu. Cái ông hoàng tử trong chuyện Tấm Cám, chỉ mới nhìn thấy có một chiếc giày mà đã chết mê chết mệt. Nói gì nhìn cả một gót chưn. Thầy Hưng nói phải đó !
Má Hạnh nhìn con gái trìu mến:
-Hồi nãy giờ cha con, thầy trò đối đáp, tôi không hiểu gì hết trơn !
Cả bốn cùng cười vang. Hạnh ôm lấy vai mẹ, nũng nịu:
-Con định làm thi sĩ mà thầy Hưng chưa gì hết, đã chê !
Khi từ giã ra về, Hưng đi sát bên Hạnh, vẻ nghiêm trang:
-Nói chơi cho vui chớ tôi vẫn mong được những bài thơ của Hạnh.
Hạnh nhìn qua chàng:
-Thầy không sợ những bài thơ của em làm dở tệ sao !
Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng:
-Thơ của em bài nào cũng hay hết.
Rồi nhìn ông bà Hội Trưởng còn ở phía sau, lấy hết can đảm, Hưng nói trong hơi thở:
-Riêng em, đã là một bài thơ…
Nói xong, Hưng thấy tự nhiên tay chưn luống cuống, mặt đỏ bùng bừng, tim đập thình thịch. Chàng đi một mạch ra cửa, không dám ngó ngoái lại. Lúc đó, Hạnh đứng tựa vào cánh cửa cây, đưa tay chận lấy ngực, mặt mày xám xanh.
Buổi đó cũng là lần cuối cùng Hưng đến nhà nàng. Vài tuần sau, vì một lý do hành chánh đặc biệt, Hưng bị đổi về Bình Dương, một tỉnh nhỏ của miền đông nhiều đồi dốc. Tuy trường mới đẹp hơn, lớn hơn trường xưa, nhưng làm sao nó có thể so sánh được với Hoàng Diệu bùn sình trơn trợt. Làm sao có được những ngày mưa ướt át, để đón đưa người mình yêu đến cổng trường có giàn bông giấy.
Một hôm đang ở phòng họp giáo sư, Hưng nhận được một bức thư gởi từ Ba Xuyên xa xôi, thơ của Hạnh. Mừng quá, chàng mở phong thơ màu xanh lợt mà run tay. Những dòng chữ tròn trịa, đầy đặn được viết trên tờ giấy xanh mỏng những lời thăm hỏi chân tình của người học trò cũ. Lật qua trang sau, Hưng thấy nguyên một bài thơ trường thiên tám chữ. Hưng đọc từng câu, cảm từng lời. Cho tới hai câu cuối, Hưng nghe choáng váng, tim như muốn ngừng đập. Hai câu đó như vầy:
Thầy vẫn dạy bài Việt Văn năm cũ,
Như ngày xưa, riêng đôi mắt em nghe.
Trời ơi ! quả thật vậy sao ? Hưng đứng lặng hàng giờ để nghe niềm cảm xúc lâng lâng, thấm từng tế bào tim phổi. Ít ra, trong đời dạy học, có được một người nghe chàng giảng dạy bằng cả một tấm lòng tin yêu, cũng là quá đủ !
°°°
Chiếc xe buýt từ từ đậu sát bên lề đường rồi ngừng hẳn. Hưng vịn tay vào thanh sắt lạnh ngắt, chưn dò dẫm từng bước để xuống. Từ nhà ra đến chợ, phải mất hơn bốn mươi lăm phút để đi xe. Trời bây giờ đang vào mùa đông nên lạnh giá. Tuyết rơi khắp nơi. Cả thành phố như bị bao phủ bằng một lớp bột thạch cao dầy, trắng xoá. Hàng cây thẳng tắp ven đường bị đông lạnh co ro, đưa lên trời những cành khô, khẳng kheo, trơ trụi. Từng cơn gió lạnh thổi tạt ngang, đưa những hạt tuyết xôm xốp như bông gòn bay rào rào, trên đầu trên mặt. Hưng nghe lạnh buốt như có con dao bén cứa vào da thịt. Bộ áo khoác và đôi giày, xin được ở nhà thờ hơi mỏng và quá cũ không đủ ấm. Tuần lương tới phải rán tiện tặn để mua bộ khác dầy hơn. Ở xứ nầy có lẽ nhịn ăn thì được nhưng nhịn mặc thì không xong rồi.
Đây là mùa đông đầu tiên Hưng phải chịu đựng ở cái thành phố đầy tuyết trắng. Gần hơn một năm trời chờ đợi mòn mỏi ở ngoài đảo, chàng được phái đoàn Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cho đi định cư đến đây. Một nơi lạ hoắc, chưa bao giờ chàng nghĩ tới. Cái thân trôi nổi, ừ thì thôi, đâu cũng là nhà. Chàng chấp nhận, không so bì, đắn đo. Đi đâu cũng được, miễn là khỏi phải sống một cuộc đời cực nhục, khổ sở, dưới bàn tay sắt máu, của bọn người vô tâm.
Đường đến tiệm rất gần. Tới nơi, Hưng cởi chiếc bao tay bằng len đỏ, đã có một lỗ lủng nhỏ ở đầu ngón, đẩy cửa kiếng để bước vào trong thương xá Việt Nam. Mỗi tuần chàng đến đây để mua một số thực phẩm cần dùng. Hưng đưa tay phủi bụi tuyềt bám trên tóc trên mặt, giũ sơ qua những hạt còn bám trên aó khoác. Tóc tai rối bù, ướt đẫm. Nhìn xuống đôi giày cao cổ, nó thê lương làm sao ! Tuyết nhão quện với bùn đất biến thành bùn sình, bám vào đế giày nhoè nhoẹt. Đôi giày quá cũ, nước thấm ướt hết cả vớ. Các ngón chưn nghe lạnh ngắt.
Hưng đi thẳng vào trong, mắt nhìn lên các kệ thực phẩm để chọn lựa các thứ cần dùng. Rải rác đây đó, người mua chừng đã khá đông. Tiếng cười, tiếng nói ồn ào, tạo thành một thứ sinh khí Việt Nam. Ở xứ lạ quê người, được nghe và nói tiếng mẹ đẻ là một điều sung sướng. Cần gì câu chuyện hay hay dở, người lạ hay quen…
-Chèng ơi, ở đây mà cũng có trầu cau nữa… Có luôn xác giấy nè.
Có giọng nói của người trẻ hơn:
-Hôm trước có bán măng cụt với chôm chôm. Để ở chỗ nầy ! Mắc quá, thấy thèm, mà không đủ tiền mua.
-Mầy lại hỏi bà chủ tiệm, coi bài tứ sắc để ở đâu, tao nghe nói tiệm nầy có bán, liệu mua năm bảy bộ để dành. Tết nầy rủ mấy bà Gò Công qua đậu chến cho vui.
Hưng đi lần ra phía ngoài. Có mùi son phấn nực mũi. Một bà vừa trạc năm mươi, đứng với một thanh niên mặt mày sáng sủa, cả hai ăn mặc sang trọng. Bà ta đứng trả tiền ở quầy hàng nói với bà chủ tiệm, giọng oang oang, từ xa, ai cũng nghe thấy:
-Ở đây, khoẻ quá hở bà chị ! Có tiền là có đủ thứ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên là có đồ ăn đem ngay tới miệng…
Giọng bà chủ tiệm, ôn tồn:
-Dạ, dạ, chỉ có điều trời lạnh quá. Tôi chịu hổng thấu. Phải chi kha khá một chút, dọn qua Mỹ ở ấm áp hơn…
-Ối ! Hơi đâu mà bà chị lo. Trời nóng thì có máy lạnh, mùa đông thì có lò sưởi. Ra đường mình có áo lông.
Rồi giọng bà kéo dài ra:
-Mấy thứ đó… đâu có bao nhiêu tiền ! Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cũng nhờ có mấy ông Việt Cộng nên mới được qua đây, sống sung sướng như vầy.
Có vài người khách đứng gần, ngước mắt lên nhìn. Người thanh niên có vẻ học thức, nắm lấy tay bà:
-Sao mẹ nói vậy, mình bỏ nước ra đi là tại mấy thằng Việt cộng. Làm sao sung sướng bằng ở bên Sài Gòn, quê hương làng nước…
Rồi như để che bớt cái sơ hở của mẹ, anh ta nói tiếp:
-Xứ Canada nầy, việc ít người nhiều. Kiếm được đồng lương cũng đổ mồ hôi…
Bà chủ tiệm ngó người thanh niên cười cười. Bà khách kia quay qua con, mắng yêu:
-Ối dào, kiếm việc vất vả là mấy người thợ thuyền làm ở hãng xưởng, chứ học cao tới kỹ sư như con thì thiếu gì mấy cái công ty lớn mời, tha hồ mà chọn.
Hưng nghe hai mẹ con đối đáp, khoái chí, bèn làm bộ lựa những món hàng gần đó, để nghe thêm cho dễ. Nào ngờ, hai người đã trả tiền xong, đi mất. Chàng đâm buồn buồn, tính trong bụng định ra về. Ngước mắt lên kệ cao, Hưng vói tay lấy một thùng mì gói. Với thùng mì nầy Hưng có thể để dành, ăn được cả tháng, khỏi mất công mua lặt vặt, vừa tiện việc khỏi phải nấu nướng lôi thôi, vừa rẻ, vừa đỡ tốn tiền. Phía sau lưng có tiếng nói ấm áp của một thanh niên cất lên:
-Hay là em mua cho ba trà Ô Long uống thử coi. Anh thấy bác Tư thích loại nhãn xanh lợt nầy lắm nè. Trà Thiết Quan Âm kiếm không ra.
-Thôi, anh chịu khó đưa em qua phố Tàu, ở bển thế nào cũng có. Tánh ba thích uống trà ngon, ăn sao thì cũng được. Hồi còn ở Sóc Trăng có tiệm Quảng Trân, bán trà nổi danh. Kế bên nhà…
Hưng đương nắm lấy góc thùng mì, nghe giọng nói êm ái của người thiếu nữ, thấy quen quen. Cái giọng nói nhẹ như gió thoảng nhưng âm thanh rõ ràng đó đã nhiều lần nghe qua, làm sao lầm lẫn được. Chàng khựng lại cho đến khi nghe được hai tiếng Sóc Trăng, thì buông hẳn thùng mì trở lại trên kệ, quay lưng lại mà nhìn. Người con gái đứng trước mặt Hưng, quả thật là Hạnh. Không thể là ai khác hơn. Hạnh ngày xưa, bằng xương bằng thịt rõ ràng.
Hạnh mở to mắt:
-Thầy.. thầy qua được đây bao lâu ? Sao em không hay biết gì hết ?
Hưng còn đang choáng váng vì cuộc hội ngộ bất ngờ, chưa kịp trả lời thì Hạnh giới thiệu người thanh niên đứng kế bên, giọng hơi ngập ngừng, luống cuống:
-Còn đây là anh Lâm…anh Lâm.
Hưng bắt tay người thanh niên, miệng mỉm cười thay câu chào hỏi. Lâm có vầng trán rộng, đôi mắt thật sáng, cái mũi đẹp, khá cao và thẳng tắp. Lâm thăm hỏi chàng qua hàm răng trắng bóng, đều đặn:
-Thầy đi chợ có thường không ? Tôi với Hạnh tháng nào cũng đến đây một vài lần, vậy mà không được gặp! Ngày xưa Hạnh có được học với thầy ?
Hưng nhớ tới hình dáng tiều tuỵ của mình. Khi nãy bắt tay, cái bàn tay của Lâm mềm mại, ấm áp làm sao. Hưng cảm thấy làn da tay mình sần sùi, thô kệch, bữa nay sao nó dầy hơn bình thường.
-Ờ, ờ, tôi mới qua tới, chưa được bao lâu.
Hưng nhìn sang Hạnh. Nàng vẫn dịu dàng, xinh xắn. Trang điểm thêm một chút phấn hồng trên má, một chút son đỏ lợt trên môi, chiếc khăn len quấn hờ lên cổ, trông nàng đẹp đẽ hơn bội phần, quí phái hơn bội phần.
Bất giác Hưng đưa tay sờ lên cằm. Sáng nay trời lạnh quá, lo sửa soạn đi gấp nên quên mất việc cạo râu, râu cằm đâm tua tủa, rờ nham nháp. Tay Hưng lần lên, đụng phải cái gò má. Cái gò má thiếu thịt, xương lưỡng quyền nhô cao, kết quả của những ngày tháng lao động vinh quang. Năm năm bị đày đọa ác nghiệt ở quê nhà. Một năm trời thiếu thốn chờ đợi héo mòn ở đảo xa, tổng cộng tất cả là sáu năm. Sáu năm lầm than, khốn khó. Thời gian quá dài đủ để choán đầy hết những mùa xuân cuộc đời. Như nụ bông chỉ cần vài giờ có nắng ấm để phô sắc hương, thời gian đó đã bị một đám mây xám, âm u giăng kín. Hưng tự hỏi không biết bây giờ mình còn chút xíu phong độ nào của một ông giáo sư trẻ ngày xưa ?
-Cuộc biến động lớn lao quá. Tôi không biết gì nhiều ở Sóc Trăng.
-Dạ, ba má với em đi từ năm bảy mươi lăm. Đọc báo, nghe tin tức, thấy đất nước tang thương, đổ nát. Ba má em cứ nhắc thầy hoài, hỏi thăm mà không ai biết.
Hưng nghe xót xa. Ông bà Hội Trưởng thường nhắc đến chàng. Hạnh ơi, có bao giờ em nhắc tới tôi, một lần không? Hưng thấy tay chưn mình đâm thừa thãi. Chàng nhìn Hạnh rồi nhìn Lâm. Cả hai đứng bên nhau, tươi mát, yêu đời. Còn chàng, từ ngày đất nước đổi thay, như con cá dật dờ ngoài sông lớn. Cá nước ngọt bị đem bỏ ra biển, gặp nước mặn đã ngất ngư, còn bị sóng dập gió dồi, chịu sao cho thấu. Cái sức sống mới vừa vươn lên sắp đâm chồi nẫy lộc, bất ngờ một cơn phong ba, bão táp đổ ập đến, khiến Hưng như người đau mới mạnh. Tuy đã vượt thoát đến phần đất tự do, chắc phải cần một thời gian khá dài để phục hồi sinh lực cũ.
Sáng nay vô tình gặp Hạnh. Hình ảnh cô bé học trò dễ thương đã trên sáu bảy năm nằm lắng im trong lớp kỷ niệm thật sâu, thật dầy, được khơi bùng dậy. Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng để tưởng rằng mình vẫn còn được trẻ trung như xưa. Cái thời mà mỗi buổi sáng đứng trước kiếng hàng giờ để chải cái đầu, lựa từng cái áo, cái quần, đôi giày, đôi vớ… Những giờ đến lớp với niềm tin trong mắt, với nụ cười trên môi. Những buổi trưa hẹn hò, bước chưn xôn xao trên hè phố. Cái thời mà dòng máu yêu đời luân lưu trong huyết quản, bàn tay tưởng có thể ôm gọn được tương lai.
Thấy Hưng nhìn mình đăm đăm, Hạnh bối rối cúi đầu, mắt nhìn xuống mũi giày, một tay ôm chặt lấy Lâm. Hồi lâu, nàng mới hỏi qua nụ cười gượng gạo:
-Hồi nãy tới giờ gặp thầy mừng quá, quên mất hỏi thăm, chắc thầy qua đây một lượt với cô? Chắc cô cũng người Bình Dương, vì ở trên đó người đẹp nhiều lắm…
Hưng khựng lại một hồi lâu rồi nhìn bao quát cả tiệm, thủng thỉnh trả lời:
-Ờ, ờ, tụi tôi quen nhau từ hồi còn nhỏ xíu, Quên mất hỏi coi người tỉnh nào. Chắc Rạch Giá, Cần Thơ, Tây Ninh hay Biên Hoà gì đó. Đợi ngày làm đám cưới thì Việt cộng vô. Hai đứa bị đày đọa khổ sở. Tôi rủ vượt biên, bả không chịu, khăng khăng ở lại.
Hạnh chớp chớp mi mắt, vẻ xót xa, an ủi:
-Thôi, lần lần thầy ổn định đời sống rồi làm giấy bảo lãnh cho cô qua..
Hưng nhăn mặt lắc đầu:
-Cô không chịu đi đâu. Tôi đã viết thơ nhiều lần thúc hối nhưng không cách gì lay chuyển được. Loay quay một mình buồn quá. Đôi lúc thấy đời sống nhàm chán vô nghĩa. Không lý suốt đời chỉ còn biết có đi làm, đi chơi, đi ăn, đi ngủ…
Rồi Hưng ngậm ngùi:
-Ở đây một năm sáu tháng giá buốt… Nhìều khi nhìn tuyết rơi ngập trời mà thèm một chút nắng ấm quê hương, nơi đó đã một thời, tôi tìm thấy được mùa xuân.

VÕ KỲ ĐIỀN
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Kỷ vật cho người ở lại
Diễm Vy

Chuyện xảy ra gần 20 năm trước, khi tôi còn làm y tá của một bệnh viện trong một thành phố nhỏ ở tiểu bang Arizona.

Tối hôm đó, bệnh viện của tôi nhận một nhóm nạn nhân của một tai nạn xe hơi thảm khốc. Trên xe là bốn em học sinh đều ở lứa tuổi 17-18, cùng đi về với nhau sau sau bữa tiệc. Người lái xe 18 tuổi, say rượu và chạy xe quá tốc độ, lạc tay lái tông vào một chiếc xe tải đang đậu bên lề đường. Nhờ có thắt dây an toàn, người lái và em ngồi cạnh tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm tính mạng. Riêng hai em ngồi sau, 1 nam 1 nữ bị thương rất nặng vì không thắt dây an toàn. Em trai bị chấn thương sọ não và chết ngay sau khi xe chở đến bệnh viện. Em gái hôn mê bất tỉnh phải mổ gấp, không biết có cứu được hay không?

Thật đáng buồn, em trai tử vong là một em Việt Nam, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang sắp rời nhà để vào một trường đại học danh tiếng. Các em còn lại đều người ngoại quốc.

Lúc đó tôi đang làm tại khu ICU (Intensive Care Unit). Bệnh nhân tôi được giao đêm đó là em gái 17 tuổi của tai nạn vừa kể trên. Một cô bé người ngoại quốc, đẹp hay không thì tôi không biết vì cả khuôn mặt lẫn cái đầu tóc vàng của em đều tím bầm, sưng to như trái dưa hấu vì những cú va chạm kinh khiếp. Em đang được mổ não khẩn cấp trong phòng mổ.

Tôi được (hay bị) kêu vào phòng họp gấp để nhận một nhiệm vụ quan trọng.
Sau khi được biết nhiệm vụ của mình là gì, tôi nhăn nhó phản đối, “Tại sao lại là tôi? Đây là nhiệm vụ của bác sĩ mà!”

“Tôi biết, nhưng người nhà của bệnh nhân không biết tiếng Mỹ rành lắm, cô đi theo thông dịch cho bác sĩ, và ráng van xin họ giúp chúng tôi,” bà y tá trưởng năn nỉ.

Sau một hồi bàn qua tính lại, tôi lê bước đi theo ông bác sĩ đến phòng chứa xác của em trai Việt Nam mới tử nạn, với nhiệm vụ là cùng bác sĩ, năn nỉ gia đình người chết hiến tặng những bộ phận còn tốt trong cơ thể của em cho bệnh viện.

Một em trai 17 tuổi đang khỏe mạnh nhưng chết vì tai nạn, là một ứng cử viên tuyệt vời để làm người hiến tặng, vì hầu hết các bộ phận trong cơ thể em còn rất khỏe, rất trẻ, rất thích hợp để cứu sống các bệnh nhân đang chờ đợi để được thay các bộ phận trong người. Đó là lý do bệnh viện hết sức cầu xin gia đình.

Thời gian đó, đối với người Việt mình, khái niệm hiến tặng bộ phận cơ thể còn rất mới mẻ. Nếu không là cho người thân trong gia đình, hầu như rất ít ai hiến tặng cho những người không quen biết. Huống hồ gì, chuyện cha mẹ đồng ý hiến tặng các bộ phận trong cơ thể của con thì hình như chưa hề xảy ra. Có cha mẹ nào mà nỡ lòng nào làm như thế? Mất con đã đau đớn lắm rồi…

Chúng tôi gặp cha mẹ nạn nhân trong phòng đợi, trong khi người con đang được chờ quyết định để rút tất cả ống support bên trong, tôi bắt đầu trình bày lý do. Quả như tôi lường trước, cho dù có van xin, nài nỉ, giải thích cách mấy, bác sĩ và tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu quầy quậy, ánh mắt oán ghét, và những lời xua đuổi.

Tôi lắp bắp xin lỗi rồi bước nhanh như chạy ra khỏi phòng.
Phòng ICU rất vắng lặng vì ở đây toàn những ca rất nặng. Những y tá cùng trực với tôi đêm đó ai cũng bận rộn với bệnh nhân của mình nên chỉ có một mình tôi ngồi tại nurse station. Thường thì ở ICU, mỗi y tá lãnh hai bệnh nhân trong một ca. Nhưng đêm nay tôi chỉ có một, vì một bệnh nhân mới chuyển sang phòng thường. Bệnh nhân còn lại là cô gái đang trong phòng mổ, nên tôi cũng khá rảnh rỗi, cho đến khi ca mổ xong.

Bỗng nhiên tôi thấy hơi nhức đầu nên cúi gục vào lòng bàn tay một chút cho đỡ mỏi mắt. Khi tôi ngẩng đầu lên thì vụt một cái, thoáng có một bóng người mặc áo trắng lướt thật nhanh qua mặt..
Tôi đảo mắt nhìn quanh.
Không có ai cả!
Tôi vẫn thường thấy lao đao như vậy lắm, có lẽ vì tôi bị chứng bịnh thiếu máu kinh niên. Tôi dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa, lần này thì thật sự có một bóng áo trắng đang từ từ tiến lại gần tôi.

Tôi dợm đứng dậy để nhìn cho rõ thì thấy có một cậu thanh niên Á Châu rất trẻ, gương mặt xanh xao mệt mỏi đang đi lại phía tôi ngồi. Cậu đi nhẹ nhàng như lướt trên không vậy, xuất hiện trước mặt tôi mà không gây nên một tiếng động. Cậu nhìn tôi, đôi mắt nâu hiền và ngây thơ đến nao lòng. Có vẻ như cậu đang bị lạc đường. Chắc là cậu đi nuôi người nhà bệnh và lạc từ khoa khác sang.

Thấy cậu đứng yên lặng không nói gì, tôi hỏi bằng tiếng Mỹ, “Em cần gì, tôi có giúp được gì cho em không?”
Lạ thay, cậu trả lời bằng tiếng Việt, “Em đi kiếm đồ!”
Giọng của cậu nhỏ và thanh, nghe văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đó vọng về.
“Em bị mất cái gì à?”
“Em làm rớt cái ví trong xe. Trong đó có một món đồ rất quan trọng. Chị kiếm dùm em nghe chị. Nhớ nghe chị…”
Không đợi tôi trả lời, cậu quay lưng đi thật nhanh và khuất bóng sau góc quẹo.

Tự nhiên tôi cảm thấy lạnh buốt, cái lạnh từ trong xương lạnh ra. Tôi rùng mình. Lạ thật, Tháng Sáu Mùa Hè ở cái xứ sa mạc này nóng cả trăm độ. Cho dù máy lạnh có mở cũng chỉ vừa đủ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh cóng bằng cái lạnh của hiện tại.

Đầu óc tôi quay cuồng và tiếp tục nhức. Chắc mình sắp bịnh rồi, tôi tự nhủ. Sao tự nhiên lại cảm thấy lạnh và nhức đầu quá. Tôi đứng lên định đi theo cậu bé nhưng rồi lại choáng váng ngồi phịch xuống một chiếc ghế.
Vừa lúc đó, một cô bạn đồng nghiệp từ đâu đi tới. Nhìn thấy sắc mặt tôi, cô la lên, “Oh my God! Trời ơi sao cái mặt cô xanh lè xanh lét thấy ghê quá. Are you OK?”
“Tôi thấy lạnh quá, cô lấy dùm tôi một cái áo lạnh được không?”
Cô bạn nhanh chóng đi lấy cho tôi một cái áo labcoat mới được giặt ủi và hấp nóng. Tôi mặc áo vào, ngồi co ro mà thấy vẫn còn lạnh, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương.

Tôi uống thêm hai viên Tylenol. Một lúc sau, tôi thấy từ từ dễ chịu, và lại nghĩ đến cậu bé hồi nãy. Cậu ta là ai, làm sao biết cậu ở đâu, đi kiếm cái xe gì, và cái ví gì nữa chứ?

Cả khu ICU này có 6 phòng. Hiện giờ đang có năm bệnh nhân, mỗi người nằm một phòng. Tôi coi lại danh sách bệnh nhân viết trên bảng treo trên tường. Không có bệnh nhân nào người Việt. Vậy cậu từ khoa nào đi sang đây?
Tôi đi lòng vòng với hy vọng gặp lại cậu bé, nhưng hỏi thăm những nhân viên quanh đó xem có ai gặp một cậu bé người Á châu không, ai cũng lắc đầu không biết.
Thất vọng, tôi trở về khoa đúng lúc bệnh nhân của tôi đã được giải phẫu xong và chuyển về phòng ICU. Bác sĩ bảo em được cứu sống nhưng đôi mắt sẽ bị mù vĩnh viễn vì chấn thương quá nặng. Chỉ có một hy vọng duy nhất là được thay đôi mắt khác em mới có thể thấy lại ánh sáng.
Ba mẹ em ngồi bên giường trong khi em vẫn đang nằm thiêm thiếp. Ông bà yên lặng chắp tay cầu nguyện. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi xuống bên cạnh và góp lời cầu nguyện trong lòng.

Người mẹ buồn rầu nói, “Tội nghiệp chúng quá. Rồi đây Jane sẽ ra sao khi tỉnh dậy và biết là người yêu của nó đã chết?”
“Người yêu của Jane là anh Việt Nam ngồi chung xe hả bà?” tôi hỏi.
“Đúng vậy, chúng nó yêu nhau lắm. High school sweethearts mà. Hai đứa đều học giỏi và có tương lai. Thế mà, chỉ qua một đêm, một đứa ra đi vĩnh viễn, một đứa trở nên mù lòa.” Bà sụt sịt khóc.
Tôi ngập ngừng, “Bác sĩ nói con bà còn có hy vọng thấy lại ánh sáng, nếu…”
“Vâng tôi biết! Nhưng ở đâu ra có cặp mắt để thay kia chứ? Nếu đó là cặp mắt của một người còn sống cho con tôi, tôi biết chắc chắn nó sẽ không chịu nhận. Nó là cô gái rất tốt, không bao giờ muốn làm khổ ai.”
“Nhưng nếu đó là cặp mắt của một người vừa mới mất thì hoàn toàn có thể dùng được, chỉ có điều…” tôi bỏ dở câu nói vì tôi biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng bao giờ nên hỏi cha mẹ cậu bé Việt Nam thêm một lần nữa.

Như đọc được ý nghĩ của tôi, bà mẹ thở dài, “Cô y tá ạ, tôi biết nỗi đau của người mẹ mất con nó khủng khiếp như thế nào. Tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Số phận con gái tôi bị mù thì tôi sẽ hết lòng chăm sóc cho nó. Con gái tôi có nghị lực lắm, tôi tin nó sẽ vượt qua…”

Xót xa nhưng cũng rất xúc động trước những lời nói của bà, tôi nhẹ nắm lấy tay bà. Vừa lúc đó, một ông cảnh sát đang rảo bước tới, trên tay cầm một bọc giấy. Ông hỏi tôi, “Người ta chỉ cho tôi là có một cô y tá người Việt ở đây. Cô nói được tiếng Việt chứ?”
“Dạ được. Ông cần gì không?”
“Tôi muốn nhờ cô đi với tôi đến gặp gia đình người tử nạn trong tai nạn xe chiều nay. Chiếc xe bị total lost. Trước khi xe tow kéo xe đi, chúng tôi kiểm tra trong xe và tìm thấy chiếc ví này rớt trong xe. Nó thuộc về người đã chết. Tôi muốn giao lại kỷ vật này cho thân nhân của cậu.”
Ví, xe, người tử nạn… những mảnh rời rạc của chiếc hình puzzle tự nhiên ráp nối lại với nhau một cách có trật tự.. Tim tôi đập thình thịch và cổ họng tự dưng tắc nghẽn. Chân tôi bắt đầu run lập cập và tay thì nổi da gà. Sao giống y hệt những điều cậu bé kia vừa nói?
Không lẽ mình vừa gặp ma sao?
Tôi lắp bắp hỏi ông cảnh sát, “Ông có thể cho tôi xem qua chiếc ví được không?”
Ông ngần ngừ một chút rồi nói, “Cũng được, nhưng trong ví không có gì quý giá hết, chỉ có tấm bằng lái xe và một ít tiền mặt vậy thôi!”
Tôi tần ngần mở chiếc ví ra. Thật vậy, trong ví ngoài một ít tiền nhỏ chỉ có tấm bằng lái xe. Tôi tò mò nhìn vào tấm bằng lái và hoảng sợ làm rơi chiếc ví xuống đất. Trên tấm bằng là hình của cậu bé vừa đến gặp tôi ít phút trước đây. Với gương mặt gầy và cặp mắt nâu trong vắt thơ ngây như đang nhìn xoáy vào tôi, như muốn nói một điều gì.

Vậy ra cậu chính là người đã chết đó sao?
Một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng của tôi. Tôi thầm thì, nhắc lại lời của cậu bé khi nãy: “Trong ví này có một vật rất quan trọng…”
“Cô nói gì?”
Tôi lượm chiếc ví lên, mở ra xem lại và lật tới lật lui. Quả thật không có gì khác ngoài vài tờ giấy $10 và $5, cùng tấm bằng lái.
Tai tôi văng vẳng nghe tiếng của cậu bé, “chị nhớ giúp em nghe chị, nhớ nghe chị…”
Tấm bằng lái!
Tôi nhìn kỹ lại tấm bằng lái lần nữa. Đây rồi, vật quan trọng mà tôi cần tìm chính là tấm bằng lái này đây.
Trên bằng lái có tên, tuổi và hình chụp của cậu bé. Còn nữa, nằm ngay ngắn ở góc phải của tấm bằng là cái sticker nhỏ màu hồng, trên có dòng chữ “DONOR” màu đen in đậm nét.

Tim tôi đập thình thịch. Như vậy là, chính cậu đã run rủi cho sở cảnh sát tìm thấy chiếc ví rơi trong gầm xe trước khi xe bị kéo đi; chính cậu đã tìm đến tôi, và đưa đẩy cho ông cảnh sát gặp tôi để mọi người có thể biết được ý nguyện của cậu. Thì ra ngay từ khi mới có bằng lái, cậu đã quyết định là nếu có điều gì xảy ra cho mình, cậu sẽ sẵn sàng hiến tặng những bộ phận còn tốt trong người cho tất cả ai đang cần chúng nên đã tình nguyện ghi tên làm người DONOR. Có phải cậu đến tìm tôi vì biết tôi là người chăm sóc cho người bạn gái thương yêu của cậu đêm nay và muốn nhờ tôi tìm cách để trao tặng cho cô gái đôi mắt của cậu như một kỷ vật cuối cùng?

Tôi chỉ vào chữ “DONOR” và nhờ vị cảnh sát xác minh lại với DMV. Sau khi xác nhận là cậu bé Việt Nam chính thực đã ghi danh làm người “DONOR”, nhưng đồng thời vị cảnh sát cũng thông báo rằng theo luật pháp, vì cậu bé mất khi cậu chưa đủ 18 tuổi, nên quyết định cuối cùng, cho hay không, cũng vẫn là quyết định của cha mẹ.

Phái đoàn gồm các bác sĩ, cảnh sát cùng với tôi sau khi đưa chiếc ví lại cho cha mẹ cậu và thông báo về tất cả những sự việc trên cho họ. Trong khi chờ gia đình cậu bé bàn thảo với nhau, chúng tôi đều lui ra ngoài đứng chờ..
5 phút, 10 phút trôi qua. Một bầu không khí yên lặng đến nghẹt thở.

Rồi cha mẹ cậu bé cũng bước ra. Người mẹ ôm mặt khóc, trong khi người cha nghẹn ngào nói với chúng tôi: “Thôi thì con tôi nó đã muốn như vậy, chúng tôi xin nghe theo ý nguyện của cháu. Xin bệnh viện giúp cháu làm tròn tâm nguyện, hãy giúp đỡ tất cả những ai đang chờ được giúp.”

Tôi bật khóc vì quá xúc động. Tất cả những người có mặt lúc đó đều khóc và cảm ơn cha mẹ cậu bé đã làm quyết định đau đớn và khó khăn nhưng rất cao cả này. Cảm ơn ông bà, tôi thầm thì. Trên cao kia, tôi biết cậu bé đang nhìn xuống và mỉm cười.

Những ngày sau đó, có ít nhất là cả chục bệnh nhân đang chờ thay thận, gan, tim, v.v… đã được cứu sống nhờ được ghép những bộ phận trong cơ thể cậu bé. Cô bạn gái cũng đã nhận được cặp mắt của cậu. Trên gương mặt trắng bóc và mái tóc vàng hoe, đôi mắt nâu trong veo luôn tỏa những tia sáng ấm áp dịu dàng. Đôi mắt như biết nói những lời yêu thương đến mọi người. Cậu bé đã ra đi mãi mãi, nhưng tình yêu quảng đại của em vẫn tiếp tục tồn tại.
****

Ngay sau cái đêm “gặp ma” trong bệnh viện đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi về bàn với chồng, và vợ chồng tôi đã cùng đi đến quyết định là ra DMV để ghi tên tình nguyện làm người “DONOR.”

Nếu một mai có người nào phải ra đi trước, chúng tôi không muốn người thân mình ở lại phải suy nghĩ để làm những quyết định đau lòng thế cho mình.
Cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi. Thế thì tiếc làm chi các xác thân tạm bợ này! Nếu sau khi mình ra đi mà vẫn còn có ích cho người khác thì đó chính là một niềm an ủi và hạnh phúc vô biên cho mọi người chúng ta rồi. (Diễm Vy)
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

BẢN DI CHÚC
Guy de Maupassant

Thân Trọng Sơn
Tôi quen anh chàng cao cao tên là René de Bourneval đó. Anh có thái độ đối xử dễ thương, tuy hơi âu sầu, hình như ngán ngẩm mọi chuyện, khá hoài nghi, một kiểu hoài nghi chính xác và cay độc, đặc biệt khéo léo vạch trần mọi thói đạo đức giả của người đời chỉ bằng một từ thôi. Anh thường nói:" Chẳng có người lương thiện đâu, hoặc ít ra họ chỉ lương thiện tương đối so với bọn bất lương."

Anh có hai người anh mà anh chẳng mấy khi gặp, những người mang họ de Courcils. Tôi nghĩ anh là anh em khác cha vì thấy mang họ khác. Nhiều lần tôi nghe nói trong gia đình này có chuyện ly kỳ lắm, nhưng không nói rõ chi tiết.

Tôi rất thích anh chàng này và chúng tôi đã sớm kết thân. Một tối kia, trong khi chỉ hai người cùng ăn tối chung, tôi buột miệng hỏi: " Anh là con của cuộc hôn nhân đầu hay thứ hai?" Tôi thấy mặt anh hơi tái rồi đỏ bừng, anh lặng im vài giây, lộ rõ vẻ bối rối. Rồi, nở nụ cười buồn bã và hiền lành quen thuộc, anh nói: " Bạn thân mến, nếu anh không chán, tôi sẽ kể cho anh những chi tiết lạ lùng về gốc gác của tôi. Tôi biết anh là người thông minh, nên tôi không ngại chuyện kể sẽ ảnh hưởng đến tình bạn của anh, mà nếu có ảnh hưởng thì tôi cũng không thiết tha chuyện coi anh là bạn nữa".

Mẹ tôi, bà de Courlis, là một phụ nữ nhỏ bé, rụt rè, đáng thương, do có của cải mà được cưới làm vợ. Cuộc đời bà là cả một nỗi thống khổ. Với tâm hồn nhân hậu, sợ sệt, tế nhị, bà bị ngược đãi không ngừng bởi người đáng lẽ là cha tôi, là một trong những nông dân mà người ta gọi là quý tộc nhà quê. Lấy vợ được một tháng, ông sống với một người tớ gái. Ngoài ra, ông còn lấy vợ và con của các tá điền làm nhân tình, trong khi vợ vẫn sinh cho ông hai đứa con, nếu tính cả tôi nữa thì là ba. Mẹ tôi chẳng hó hé gì, trong căn nhà lúc nào cũng ồn ào này bà sống như những con chuột nhắt lén lút dưới bàn ghế. Mờ nhạt, ẩn khuất, run rẩy, bà nhìn mọi người bằng đôi mắt sáng đầy âu lo, luôn linh hoạt, đôi mắt hốt hoảng do nỗi sợ không rời. Tuy nhiên, bà đẹp, rất đẹp, mái tóc vàng, màu vàng xám, một sắc vàng nhợt nhạt, chừng như tóc bà vì sợ hãi liên miên mà phai màu đi.

Trong số những người bạn hay lui tới lâu đài của ông de Courcils, có một cựu sĩ quan kỵ binh, goá vợ, người được nể sợ, dịu dàng và mạnh mẽ, có thể đưa ra những quyết định cương quyết nhất, đó là ông de Bourneval, mà tôi đang mang họ đây. Ông ấy cao lớn, mảnh khảnh, râu mép đen rậm. Tôi giống ông lắm. Ông đọc nhiều và tư tưởng của ông không giống chút nào những người cùng tầng lớp với ông. Bà cố của ông từng là bạn của J.J.Rousseau (1), và có thể nói là ông đã thừa hưởng chút gì từ mối quan hệ này của tiền nhân. Ông thuộc lòng " Khế ước xã hội " (2) , " Héloïse mới" (3) và tất cả các sách thuyết lý chuẩn bị từ sớm sự đảo lộn sau này của các tập quán xưa cũ, các thành kiến, các luật lệ lỗi thời, nền luân lý ngu xuẩn.

Có vẻ như ông yêu mẹ tôi, và được yêu lại. Mối quan hệ này hoàn toàn bí mật đến độ không ai nghi ngờ gì. Người phụ nữ đáng thương, rầu rĩ, bị bỏ rơi, hẳn phải tuyệt vọng gắn bó với ông, mong nhờ sự giao thiệp này mà có được lối nghĩ, tư tưởng tình cảm tự do, yêu đương táo bạo, nhưng, do bản tính rụt rè, chẳng bao giờ bà dám lên tiếng, tất cả những điều kia bị dồn nén, cô đọng, ép chặt lại trong con tim không cởi mở bao giờ của bà.

Hai người anh của tôi, cũng như cha, đối đãi thô bạo với bà, chẳng lúc nào dịu ngọt, và ở trong nhà chẳng xem bà ra gì cả, phần nào chỉ xem là con ở thôi.

Tôi là con trai độc nhất yêu bà thực sự và được bà yêu.

Bà qua đời. Lúc đó tôi mười tám tuổi. Để anh hiểu chuyện tiếp theo, tôi phải nói thêm rằng chồng bà đã biết được sự tư vấn pháp lý quyết định việc phân chia tài sản có lợi cho mẹ tôi, nhờ vào sự vận dụng khôn khéo pháp luật và sự tận tuỵ thông minh của công chứng viên, bà được giữ quyền lập di chúc để lại tài sản theo ý mình.

Như vậy, chúng tôi được thông báo là bản di chúc hiện có tại văn phòng công chứng, và được mời tới nghe công bố.

Tôi còn nhớ như chuyện mới xảy ra hôm qua. Quang cảnh hôm đó thật long trọng, kịch tính, khôi hài, bất ngờ, dẫn dắt bởi sự phản kháng muộn màng của người đã khuất, bởi tiếng thét đòi tự do, bởi nguyện vọng từ đáy mồ của người phụ nữ thống khổ bị phong tục đè nén suốt cả cuộc đời, và giờ đây, từ chiếc quan tài đóng kín, cất lên tiếng gọi đầy tuyệt vọng kêu đòi độc lập.

Người lâu nay vẫn tự cho là cha tôi, to béo, đỏ lừ, gợi hình ảnh anh hàng thịt, và các ông anh tôi, hai chàng khoẻ mạnh hai mươi và hai mươi hai tuổi, ngồi yên trên ghế chờ đợi. Ông de Bourneval, được mời tới dự, bước vào ngồi sau lưng tôi. Người bó sát trong chiếc áo choàng, ông trông xanh xao, thỉnh thoảng nhay nhay bộ râu mép nay đã hơi bạc. Hẳn là ông đã biết trước chuyện gì sẽ xảy ra.

Viên công chứng khoá kín cửa, mở chiếc phong bì gắn xi đỏ mà chính ông cũng không rõ nội dung, và bắt đầu đọc.

Đột nhiên bạn tôi ngừng lại, đứng lên đến ngăn kéo tủ lấy ra một mảnh giấy cũ, mở ra, hôn tờ giấy thật lâu, rồi mới nói tiếp. Đây là bản di chúc của người mẹ yêu quý của tôi.

" Tôi, ký tên dưới đây, Anne- Catherine- Geneviève- Mathilde de Croixluce, vợ hợp pháp của Jean- Léoplod-Joseph Gontran de Courcils, thể chất khoẻ mạnh, tinh thần tỉnh táo, bày tỏ ước nguyện cuối cùng của tôi như sau:

Trước tiên tôi cầu xin Chúa, sau đó là René con trai tôi, tha thứ cho hành động tôi sắp sửa phạm phải sau đây. Tôi nghĩ là con tôi đủ bao dung để hiểu và tha thứ cho tôi. Tôi đã đau khổ suốt đời. Chồng tôi đã cưới tôi vì tính toán, sau đó không ngừng khinh miệt, lạnh nhạt, ức hiếp, lừa dối tôi.
Tôi tha thứ cho ông ta, nhưng tôi không mắc nợ gì ông ta cả.
Những đứa con trai lớn của tôi không yêu thương, chiều chuộng tôi chút nào, chỉ bất đắc dĩ xem tôi là mẹ.
Suốt đời tôi, tôi đã đối xử với chúng như bổn phận phải làm, tôi chết đi cũng chẳng nợ nần gì chúng. Những mối quan hệ huyết thống không thể có được nếu không có tình thương bền vững, thiêng liêng, biểu lộ hàng ngày. Đứa con bất hiếu còn tệ hơn người dưng, mà là tên tội phạm, bởi nó không được phép tỏ ra dửng dưng với mẹ đẻ của mình.
Tôi lúc nào cũng run sợ trước nam giới, trước những luật lệ bất công, những thói quen bất nhân, những thành kiến bất lương của họ. Trước Thượng đế, tôi không còn sợ nữa. Chết đi, tôi vứt bỏ thói đạo đức giả đáng hỗ thẹn khỏi mình, tôi dám nói lên điều mình nghĩ, bộc bạch và chịu trách nhiệm bí mật của con tim.

Bởi lẽ đó, tôi chuyển cho ông Pierre-Germer-Simon de Bourneval, người tình yêu quý của tôi, toàn bộ phần tài sản mà luật pháp cho phép tôi sử dụng, để sau đó sẽ về phần con trai René thân yêu của chúng tôi.

( Ngoài ra ước nguyện này còn được ghi nhận cụ thể hơn trong một văn bản công chứng ).

Và, trước Đấng phán xử tối cao đang lắng nghe tôi đây, tôi xin tuyên bố là lẽ ra tôi đã nguyền rủa đất trời và lẽ sống nếu tôi không nhận được tình thương sâu sắc, tận tuỵ, ngọt ngào, bền vững của người yêu của tôi, nếu trong vòng tay ông ấy tôi không hiểu được rằng đấng Sáng tạo đã tạo ra con người là để yêu thương nhau, che chở nhau, an ủi nhau, và để cùng khóc trong những giờ phút cay đắng.

Hai con trai lớn của tôi đã có cha là ông de Courcils. Chỉ René là con ông de Bourneval. Tôi cầu xin đấng Quyền uy của con người và số phận của họ hãy nâng cha và con vượt lên trên những định kiến xã hội và hãy khiến hai cha con yêu thương nhau cho đến cuối đời và yêu cả tôi trong quan tài nữa.

Đấy là ý nghĩ cuối cùng và ước nguyện cuối cùng của tôi.
MATHILDE DE CROIXLUCE".

Ông de Courcils đứng dậy la lớn: " Đây là di chúc của một người điên!". Ngay lúc đó, ông de Bourneval nhích lên một bước và tuyên bố, giọng rõ ràng, quả quyết:
" Tôi, Simon de Bourneval, tuyên bố rằng bản viết đó chứa đựng hoàn toàn sự thật. Tôi sẵn sàng bảo vệ nó trước bất cứ ai, và sẵn sàng chứng minh điều đó bằng số thư từ tôi đang giữ đây."

Ông de Courcils liền bước về phía ông. Tôi nghĩ là họ sẽ đánh nhau. Họ đứng kia, cả hai đều cao lớn, người mập, người gầy, đều giận run cả người. Chồng của mẹ tôi lắp bắp nói: " Đồ khốn nạn!". Người kia đáp trả, cũng giọng cương quyết và khô khan: " Chúng ta sẽ gặp nhau chỗ khác, thưa ông. Lẽ ra tôi đã tát vào mặt ông và thách đấu với ông từ lâu rồi nếu tôi không nghĩ đến, hơn mọi thứ, sự bình yên trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp mà ông đã gây ra quá nhiều đau khổ".

Rồi, quay sang tôi, ông nói: " Con là con của cha. Con muốn đi theo cha không? Cha không có quyền đưa con đi, nhưng cha sẽ nhận trách nhiệm đó nếu con đồng ý đi theo cha.".
Tôi bắt tay ông mà không đáp. Và chúng tôi cùng ra về. Người tôi cứ lâng lâng.

Hai ngày sau, ông de Bourneval bắn hạ ông de Courcils trong cuộc thách đấu . Mấy người anh của tôi đã nín thinh vì ngại tai tiếng xấu xa. Tôi nhường cho họ và họ đã nhận một nửa gia tài mẹ tôi để lại.
Tôi lấy lại họ của người cha thực sự của tôi, từ khước cái họ không đúng mà luật
pháp gán cho tôi.
Ông de Bourneval mất đã năm năm rồi. Tôi vẫn chưa nguôi ngoai nỗi buồn.

Bạn tôi đứng dậy, tiến vài bước tới ngồi trước mặt tôi: " Tôi cho rằng bản di chúc của mẹ tôi là một trong những thứ đẹp đẽ nhất, trung thực nhất, cao cả nhất mà một người phụ nữ có thể thực hiện. Ý anh chẳng phải vậy sao? "
Tôi chìa ra cả hai tay cho anh: " Vâng, chắc chắn là tôi cũng nghĩ thế, bạn ạ!"

THÂN TRỌNG SƠN
dịch từ nguyên bản tiếng Pháp
( Le testament - 7 novembre 1882 )

_________________________

(1) J.J. Rousseau (1712-1778),nhà tư tưởng, nhà giáo dục học, nhà văn.
(2) Khế ước xã hội, Contrat social, tiểu luận triết học chính trị của Rousseau, 1762.
(3) Julie, ou la nouvelle Héloïse, tiểu thuyết, 1762.


Nguồn:

http://www.bmlisieux.com/ litterature/maupassant/ testamen.htm
bichphuong
Posts: 617
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image


Nhạc Sĩ Chung Quân - Nguyễn Đức Tiến
Nổi Tiếng Vì Là Tác Giả Bản Nhạc ‘Làng Tôi’


Nguyên Giao
San Diego, Hoa Kỳ

Nhạc sĩ Chung Quân nổi tiếng vì là tác giả bản nhạc ‘Làng Tôi’ đã trúng giải của công ty điện ảnh kiêm tuồng cải lương Kim Chung ở Hà Nội năm 1952 để làm bản nhạc nền cho cuốn phim có tiếng nói đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam; Đó là phim ‘Kiếp Hoa’.

Khi thông báo tuyển nhạc được quảng bá, các nhạc sĩ ‘bậc thầy’ nổi tiếng thời đó đua nhau gửi những ‘đứa con tinh thần’ về công ty điện ảnh mong được trúng giải. ‘Cậu’ Nguyễn Đức Tiến – lúc đó mới 16 tuổi - cũng dự thi với bản Làng Tôi. Bản nhạc có lời như sau:

‘Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh
Eâm xuôi về Nam

Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau
Đồng quê mơ màng

Nhưng than ôi
Có một chiều thu, lá thu rơi
Có một chiều thu, lá thu rơi
Oâm súng nhìn quê, tôi thầm mơ bóng ngày về

Mơ trong bóng ngày về
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn, người bốn phương’

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến đã đánh bại các bậc đàn anh - lúc đó xuất sắc với nhiều sáng tác cho tân nhạc, và không phải là ít - với chỉ một bản nhạc có lẽ là đầu tay! Bản nhạc được chấm nhất vì có tiết điệu êm đềm, bình dị, đặc biệt là rất dễ hát, dễ thuộc, và khi hát lên là người nghe cảm thấy có một cái gì đó thiết tha, trìu mến (Tương tự như bản ‘Lòng Mẹ’ của cố nhạc sĩ Y Vân). Làng Tôi lập tức được công bố, thu thanh và làm nhạc nền cho phim Kiếp Hoa!

Vì là phim có tiếng nói đầu tiên kể từ năm 1937 khi ngành phim ảnh Việt Nam được khai sinh, Kiếp Hoa nổi tiếng khiến bản nhạc Làng Tôi và tác giả của nó cũng nổi tiếng theo, cả nước đều biết.

Hai năm sau, 1954, thanh niên Nguyễn Đức Tiến 18 tuổi, di cư vào Nam, gia đình định cư ở vùng Khánh Hội. Các trường Chu Văn An từ Hà Nội, Nguyễn Trãi ở Hải Phòng cũng lục tục di cư vào Nam.

Do danh tiếng của mình từ khi đoạt giải ở Hà Nội, cộng thêm các giấy tờ đã học sư phạm chuyên ngành về Nhạc, nhạc sĩ trẻ tuổi Chung Quân được Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi, ăn lương theo ngạch giáo sư trung học đệ nhất cấp, tương đối là cao. Trên thực tế, về bằng cấp giáo dục, thầy Tiến lúc đó chỉ mới có bằng trung học, học trường sư phạm theo ngạch hương sư.
Tôi còn nhớ khoảng năm 1955-56, vào một hôm trời mưa như trút nước, tôi được đi xem một đại nhạc hội của các học sinh trường trung học Nguyễn Trãi tổ chức tại rạp Thanh Bình. Tiết mục đáng nhớ nhất là hợp xướng ‘Sông Bến Hải’ do nhạc sĩ Chung Quân, đồng thời là giáo sư âm nhạc, sáng tác và tập cho các học sinh của trường. Đây là một trường ca có giá trị nghệ thuật cao, nói về một dòng sông chia đôi đất nước, và tâm trạng phải bỏ ‘quê cha, đất tổ’ của người di cư năm 1954. Hợp xướng này nghe thật hay, và chắc chắn không dễ tập, nhất là với mấy cậu học trò có kiến thức âm nhạc rất ‘căn bản’! Mãi đến sau này, khi được học nhạc với thầy Nguyễn Đức Tiến ở Chu Văn An, tôi mới được biết một, hai ‘bí quyết’ đọc nhạc do thầy dậy cho các học trò.

Thật là điều đáng tiếc khi không hiểu vì sao, trường ca Sông Bến Hải sau này không thấy được phổ biến, và giới yêu nhạc chỉ biết nhạc sĩ Chung Quân qua bản Làng Tôi!

Thầy Tiến dáng dong dỏng cao, hay đeo kính mát gọng vàng, và có thể nói là đẹp trai. Các giáo sư thời ấy đi dạy ăn mặc rất sang trọng. Trời nắng chang chang đổ mồ hôi nhưng cụ hiệu trưởng Trần Văn Việt vẫn luôn luôn mặc com-lê trắng, đeo cravát. Các giáo sư và các vị giám thị - tuy không bằng cụ hiệu trưởng - cũng đeo cravát, mặc áo sơ mi dài tay cài nút măng-sét. Trông các thầy thật ‘oai’! Trong các giáo-sư, người ăn mặc đẹp nhất, sang nhất, và đúng mốt nhất vẫn là thầy Tiến. Đặc biệt, khi đi dạy ở Chu Văn An, người ta đã thấy thầy lượn xe Vespa rất sớm so với các giáo sư khác.

Vì là giáo sư âm nhạc, thầy Tiến đã phải ‘biểu diễn dẫn giải’ (demo) bằng ca hát cho đám học trò non dại chúng tôi, nên nhờ vậy, chúng tôi đã nhiều lần được nghe thầy hát ‘nhạc sống’ thật … sống động! Mỗi khi thầy cất tiếng hát – chắc chắn to hơn khi thầy nói! - cả lớp chúng tôi đều lắng tai nghe và mong thầy hát thật lâu để chúng tôi được thưởng thức. Tôi còn nhớ rõ những lúc thầy trịnh trọng gõ thanh nĩa chuẩn âm (gọi là ‘Aâm thoa’) bằng kim loại trắng, trước khi say sưa đơn ca bài Hòn Vọng Phu:

‘Nơi phía nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nước non xưa đến giờ
Đường chiều mịt mù,
Cát bay tỏa bước ngựa phi đường trường
Nếp tàn y hùng cường
Vẫn còn bay trong gió
Bóng chàng xa, sắp dần qua’
(Lê Thương)

trước mặt đám học trò ngẩn người, yên lặng lắng nghe - không phải một, mà nguyên cả ba - bài hát đầy những hình ảnh lịch sử này. Không có nhạc đệm mà qua tiếng thầy hát, tôi có thể như hình dung ra các hình ảnh ngựa phi, qua sông vượt núi, và tiếng đao khiên loảng xoảng nơi chiến trường …

Cho đến giờ này tôi vẫn còn có thể lẩm bẩm được những nốt nhạc của một bài dân ca phổ thông của Ý Đại Lợi, cũng do thầy Chung Quân dạy:

‘Sòn sòn, đố đố si si
Phà phà, lá lá son son
Mì lá son son, phà phà
Pha mi rề lá son’

Mê nghe, và hát tân nhạc, nhưng tôi rất dốt, và lười về nhạc lý. Nếu không nhờ thầy Tiến chỉ dậy, không biết bao giờ tôi mới biết được sự khác nhau, cũng như cách đánh nhịp 2/4 (“Một xuống, một lên!”), ¾ (“Một, hai, ba!” theo ba cạnh của tam giác có một góc vuông), và 4/4 (tức C: “Một, hai, ba, bốn!” theo hình số 8 có 4 góc nhọn).

Vì nhạc lý là môn học khô khan, nhất là phần nhớ các bộ khóa đầu bản nhạc, và làm sao tìm ra giai âm chính của bản nhạc đó, thầy Tiến đã sáng chế ra một bài lục bát thật độc đáo và hữu dụng, vừa đủ và cho đúng 7 nốt nhạc! Đó là:

‘Nhất Sòn, Nhị Rế, Tam La,
Tứ Mi, Ngũ Sí, Lục Pha, Thất Đồ!’

Có nghĩa là nếu thấy ở đầu bản nhạc có một dấu thăng, thì bài ấy có âm giai Sol là chính; Nếu có hai dấu thăng thì là âm giai Rê, v.v. Học trò của thầy hơn người một phần là nhờ những ‘bí quyết’ này.

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến có lối tập hợp xướng rất công phu, một phần có lẽ vì thầy ngày trước có học nhạc ở Chủng viện nên đã được huấn luyện chuyên nghiệp về hòa âm, và hợp xướng. Tôi nhớ trong năm học Đệ Ngũ, chúng tôi được thầy tập cho hợp xướng bài ‘Hè Về’ của nhạc sĩ Hùng Lân để trình diễn trong buổi văn nghệ cuối niên học. Thầy tuyển được đâu 40 học sinh có giọng tốt từ trầm đến bổng để hát 4 bè. Thầy cũng tìm được ba giáo sư có giọng, hay giỏi đàn nhạc trong trường, để mỗi thầy làm trưởng một bè.

Bốn nhóm bè, lúc tập thì tập riêng, chỉ hát phần bè của mình mà không biết ba nhóm kia hát gì. Sau khi cả bốn nhóm đã nhuần nhuyễn, ‘Oâng bầu’ Chung Quân cho ráp lại bốn nhóm hát cùng một chỗ, và chung một lúc: Tất cả 40 học sinh trong đoàn hợp ca không thể nào nghĩ rằng tiếng hát bè ‘thỉnh-thoảng-xen-vào’ của mình lại có thể vừa hay, vừa ‘quan trọng’ được góp tiếng vào một ban hợp xướng bốn bè, nghe có vẻ nghệ thuật không khác gì các ban hợp xướng chuyên nghiệp của Sài Gòn Hoa Lệ.

Có mấy ai đi học miễn phí mà lại may mắn được đi nghe và được dạy các kỹ thuật của âm nhạc thuộc loại thính phòng, có tiêu chuẩn quốc tế như tụi tôi?

Thầy Tiến viết chữ trên bảng rất đẹp. Nhiều khi hết giờ của thầy, học trò chúng tôi không nỡ xóa đi lời các bản nhạc thầy đã viết trên bảng. Chưa kể thầy còn có tài ‘vung’ phấn trên bảng đen, chỉ với một nét, thầy đã tạo được cả năm dòng kẻ nhạc, và khóa Son cùng một lúc từ đầu bên kia bảng, sang bên này bảng, thẳng tắp, và đều đặn tưởng như có dùng thước hay máy vẽ! Có lần chúng tôi hỏi, thầy trả lời nho nhỏ như không có gì đáng để ý, “Làm nhiều thì quen tay; Vậy thôi!”

Tính thầy hòa nhã nhưng rất nghiêm. Chỉ nói nhỏ nhẹ khi thật cần thiết, mực thước và nghiêm. Học với thầy hai, ba năm mà chưa bao giờ tôi thấy thầy la mắng một đứa học trò nào, và ít khi thấy thầy cười thành tiếng. Tuy say sưa dạy nhạc nhưng hình như thầy không biết tên chúng tôi: Tôi chưa bao giờ thấy thầy có nhớ, và gọi tên bất cứ một học sinh nào - trừ khi có sổ điểm trước mặt! Có thể vì thày dạy quá nhiều lớp, hay trí nhớ của thầy đã đầy những dữ kiện khác cần, và đáng nhớ hơn. Giữa thầy và trò, chúng tôi vẫn cảm thấy có một bức tường ngăn cách nào đó!

Thế mà chúng tôi vẫn mến phục thầy dù rằng ở ban B (tức là Ban Toán), nhạc chỉ là môn học phụ, có hệ số điểm thấp nhất là 1, mỗi tuần chỉ học có một giờ (giống như Vẽ, Sử, Địa, Thể Dục, Hán, v.v.). Bù lại, khác với các giáo sư các môn khác, lớp của tôi được học thầy Tiến suốt 4 năm liền của Trung Học Đệ Nhất Cấp.

Một lần đọc báo của Sứ Quán Việt Nam ở Wellington, Tân Tây Lan, tôi thấy tin thầy Nguyễn Đức Tiến đã tốt nghiệp Tiến sĩ Văn chương ở Anh quốc, trong một chương trình học bổng, và đã được nhà trường giữ lại, mời làm giáo sư diễn giảng. Tôi ngồi suy nghĩ: Như vậy thầy Tiến đã phải đi học lại từ lớp Đệ Tam ở Sài Gòn; Và trước khi có thể trình luận án tiến sĩ, chắc chắn thầy cũng phải có ít nhất tương đương cao học văn chương Anh. Văn chương Anh đâu phải là môn dễ học cho một người Việt Nam, để lấy được văn bằng cao nhất như thế? Tưởng thầy chỉ có biệt tài về Nhạc, bây giờ mới biết thầy còn có nhiều khả năng khác ít người biết …

Ngoài ra, tôi cũng được nghe phong phanh, những mảnh tin tức có khi hơi mâu thuẫn nhau - và chưa phối kiểm được (có thể vì thầy chọn lối sống rất riêng tư) - về thầy Nguyễn Đức Tiến, như:

– ‘Trước năm 1975, tôi nghe nói thầy Tiến đang học Sử học ở New York!’

– ‘Tôi nghe ai nói ông Chung Quân được học bổng du học về ngành Khảo cổ ở Texas!’

– ‘Giáo sư/Tiến sĩ Nguyễn Đức Tiến từ Anh về lại Việt nam, ở cùng với mẹ già sau năm
1975; Nhà vẫn ở khu Khánh-Hội!’

– Theo một anh bạn - trước cũng là học sinh của thầy ở trường Nguyễn Trãi - thì thầy
Tiến đã qua đời.

Gửi bản thảo bài viết này cho một số thân hữu, tôi đột nhiên nhận được thư trả lời qua Liên Mạng (Internet) của một anh bạn đàn anh, thân hồi còn du học ở Tân Tây Lan, từ bên Uùc gửi qua:

“Tôi có dạy học cùng với anh Tiến ở Đại Học Huế. Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ ở ngoại quốc về, anh Tiến đã trở thành giáo sư Ban Văn Khoa ở đại học này từ năm 1971 đến 1976. Anh Tiến là một người thông thái, nhân hậu, trọng nguyên tắc, và có tư cách. Tôi đã nhiều lần cảm phục chứng kiến anh ấy can đảm công khai phê phán những sai trái, và lố bịch của các cán bộ cộng sản trong trường, nên đã bị cho bãi nhiệm khỏi ban giáo sư của Ban Văn khoa - Đại Học Huế.

Anh Tiến đã mất năm 1988 tại Sài Gòn sau khi bị đứt gân máu trên đầu - trong lúc đang đánh cờ tướng với người em rể - khiến anh bị mê man, và bất tỉnh (coma). Tôi có lại thăm anh trên giường bệnh trong bệnh viện, nhưng chỉ có nhà tôi đến đám táng của anh (vì lúc đó tôi đang vượt biên).”

Ngỡ ngàng, tôi chẳng biết làm gì, đâm ra thành ‘Giận cá, chém thớt’: Qua đời lúc (16 + (1988 - 1952) =) 52 tuổi thì không biết trong cáo phó, tang gia đã thông báo như thế nào: ‘Hưởng Dương’ hay ‘Hưởng Thọ’?

Tôi viết bài này để ghi lại những kỷ niệm đẹp chúng tôi - đám học sinh ở trường trung học Chu Văn An những năm 1960 – 1962 ở Sài Gòn - đã được may mắn có chung với thầy:

Chung Quân Nguyễn Đức Tiến,
một nhạc sĩ tài hoa, đa năng
đồng thời một vị giáo sư yêu nghề, và tận tụy với học trò.

Dù thế nào, làm sao quên đuợc thầy Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, nhất là khi tình cờ nghe tiếng ai hát bài Làng Tôi trên xứ người. Bài hát ấy tính ra đã (2005 – 1952 =) 53 tuổi, hơn cả người đã sáng tạo ra nó

@ Vietnam Review
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image


Đà Lạt Xưa và Nay… Ôi! Niềm Đau!

Tình Hoài Hương

Thật khó diễn tả hết nỗi lòng ưu tư cảm xúc lâng lâng luôn dày vò tâm trí tôi về nỗi bâng khuâng, xao xuyến... khi đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống khu vực Krong Pha: phong cảnh hữu tình ngút ngàn, bát ngát mênh mông, thơ mộng cận đường đèo quanh co uốn khúc gập ghềnh, nhấp nhô điệp trùng, cao tận lưng trời chót vót mây trắng ùn ùn bay bay dưới gót chân mình. Đèo Ngoạn Mục hùng vĩ thơ mộng nơi hạ giới xa xa... đã gieo vào lòng tôi bao tình khúc phong trần hoài cảm êm đềm, bâng khuâng suy tưởng mông lung. Tôi đang đứng trên vừng mây vờn sương muối quyện quanh gót chân “nơi bồng lai cao nguyên”, y hệt như trong tranh hồ thủy, tôi mơ màng nghĩ về bình nguyên và cánh đồng lúa lao xao bên dòng sông cạn xa xa ở lưng trời năm cũ.

Nhìn lại ngọn đèo cao ngút ngàn lúc xe đò hổn hển thở khói phì phò đi qua với sự luyến tiếc vô vàn; vì có thể đây là những khoảng lắng phiêu bồng: sau nầy tôi chẳng bao giờ còn cơ may quay trở về chốn nầy, dù là niềm kiêu hãnh vinh quang trong dĩ vãng, dù chỉ thêm một lần im lắng xót xa luyến lưu trong hồi tưởng! Bởi vì 30-4 gia đình tôi lê lết trở về lại thành phố núi, sau ngày mất Đà Lạt, là tôi bị “mất dạy” ; từ khi đổ̉i đời, không còn làm nghề “gõ đầu trẻ”. Thế nên bị thất nghiệp, buộc lòng tôi đưa gia đình đi Sài Gòn, xuống tại Thành Ông Năm, Hóc Môn, để rồi trở nên đói khát dài dài...

Đà Lạt cuốn hút tôi ngàn đời nhung nhớ hoài vọng ước ao. Nơi bỏ ngỏ trái tim tôi dại khờ ấp ủ mộng ngày xanh vui tươi nhí nhảnh mà lại đa tình. Đà Lạt xưa khoan dung dịu dàng mở rộng vòng tay trìu mến, nơi từng ôm trọn tôi vào vũng sương mù lả lướt, buông thả, dạt dào nỗi nhớ niềm yêu trong mỗi phím loan. Tôi nhớ da diết những cánh hoa muôn màu chen chân khoe sắc thắm trong nhiều ngôi nhà ấm áp xinh xinh, nhà nhà trên triền đồi hoặc dưới ven dốc chập chùng ẩn hiện nép mình bên vườn cây ăn quả trĩu trái. Có cây bưởi hoa trắng muốt toả mùi thơm ngào ngạt. Cây hồng mơn mởn. Cây chanh mọng nước. Cây quả mượt-mà ngày ấy cho tôi cảm giác vui vui, lâng lâng êm đềm, thi vị quá chừng!

Trên đường phố quê hương Đà Lạt thân yêu nầy, ngày xưa tôi vẫn đi lại tung tăng, hồn nhiên, vui vẻ nhởn nhơ như cánh bướm buổi sáng mai gặp nắng tươi. Tôi ươm nhiều mộng đẹp như thời son trẻ mới chớm lớn, lòng dạt dào nung nấu sự hoài mong tưởng nhớ: Xin cho tôi được một lần tìm về cội nguồn. Nơi đó mẹ dấu yêu đã à ơi ru con lớn khôn trong chiếc nôi đời ấm áp, đơn sơ hồng hoang mà trữ tình ngọt dịu thân thiết trìu mến dường bao! Tôi nhớ lắm thầy Cao Cự Phúc phổ bản nhạc: "Ngày nào dừng chân phiêu lãng. Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi Màu hoa in dáng trời Tình hoa lưu luyến người Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi Ngày nào đường xuân phơi phới Khách ngất ngây thấy hoa nở trên má ai Rồi yêu hoa trên má Mà ghi câu luyến nhớ thành bài thơ … Nhưng rồi mùa hoa tàn. Người hoa sao vắng mãi Bao chiều lòng mong chờ. Đường hoa sao hững hờ Để lòng lữ khách tê tái. Cất bước đi nhớ hoa đào trên má ai Màu hoa in trên má Làm khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi"!

Khi tôi đã thực sự đứng ở thành phố quê hương Đà Lạt ngàn đời dấu yêu nầy, thì tôi không thể nào ngờ! Đà Lạt trong không gian bảng lảng dáng thu bàng bạc trên thành phố buốt giá bây giờ sau 75 - 93 quá lạnh lẽo. Buồn thiu. Ôi! bao năm qua, nay lần đầu tiên tôi nôn nao trông ngóng xôn xao trở về quê cũ, thì... những âm thanh đơn điệu, buồn tênh dội lại lòng mình niềm tiếc thương thác lũ. Gợi lên biết bao điều đau xót, tôi ưu phiền, chán ngán, bơ vơ bàng hoàng khôn xiết. Biển cả đã hoá thành nương dâu, nước mắt bỗng dưng chảy hoài, khiến tôi trở thành một người xa lạ, lạc lõng, cô độc với chính mình. Bước chân lao xao rộn rã tìm về lối cũ đường xưa, mà một thị dân chôn nhau cắt rốn như tôi, từng đi đi về về trong thành phố thơ mộng ấy, giờ đây cảm thấy quê tôi lạ hoắc, lạnh lùng. Tôi lạc bước trên con đường cũ thân thương xưa lòng trống rổng cô độc kinh khủng. Thành phố dấu yêu xưa sao bây giờ trở thành xa lạ với tôi đến thế? Hoài phí đi những mơ tưởng đâu đâu không sát thực tế chút nào.

Quang cảnh thành phố Đà Lạt bây giờ như thành phố chết ngoài nghĩa điạ! Không giống những bộ mặt thân quen xiết đỗi mà ngày xưa tôi thân mật vẫn đi về. Đà Lạt không còn sống động, không nên thơ, chả quyến rũ... vì không có những anh Võ Bị oai phong. Những anh Chiến Tranh Chính Trị kiêu hùng. Không thấy sinh viên Viện Đại-học lịch lãm văn nhã! Không có những nam sinh choai choai, dé dé vui vẻ hân hoan vô tư lự huýt gió lúc đến trường Trung Học. Còn đâu nữ sinh hồn nhiên xinh lịch tung tăng với những tà áo dài tha thướt lượn bay, cặp ôm ngang ngực thong thả đi trên con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo uốn lên uốn xuống ở đồi thông im mát.

Đà Lạt xưa có những công tư chức ngày xưa cao sang chuyên mặc áo da, áo len đan tay đắt tiền, hoặc mặc bộ veston đen tối tân, sơ mi trắng nõn lủng lẳng cà vạt màu, chiếc quần tây thẳng nếp li và đôi giày thời trang... Đâu rồi những anh lính Nhảy Dù mũ đỏ, những anh Hải-quân với bộ quần áo trắng cao sang. Những anh Biệt Động-quân mũ nâu, Thiết giáp, Thủy-quân Lục chiến, Pháo-binh, Bộ-binh oai dũng... trong những lần họ nghỉ phép, đã ghé tạt về thăm Đà Lạt? Những anh phi công bay bướm lả lướt phong trần ung dung bay lượn trên bầu trời Lâm Viên bãng lãng dáng chiều thênh thang. Họ đi đâu mất hết rồi trên thành phố huyền thoại ngày nào!?

Không gian Đà Thành phai dáng thu bàng bạc bây giờ lạnh tanh. Họ hàng thân quyến, những bạn thời sinh viên, hoặc bạn cùng dạy học với tôi, giờ đây họ lưu lạc phương nao xa hun hút, tôi đã mất tầm nhìn, có thể biền biệt chân trời xa thẳm, xa mất đất rồi chăng?! “Lối cũ ta về dường như nhỏ lại. Trời xanh xanh mãi một màu ấu thơ. Lối cũ ta về, vườn xưa có còn. Hoàng hôn buông xuống thoảng hương ngọc lan. Dù gió có trút lá úa xuống vườn chiều. Bước chân ai đem lang thang về cô liêu. Chốn xa xôi kia mang bao kỷ niệm cũ. Em đã quên hay là vẫn mang theo. Dù cho bên anh nay em không còn nữa. Biết chăng trong con tim anh luôn hằng nhớ. Người yêu ơi nay em đã bỏ anh đi. Sao em nỡ bỏ anh đi mãi…"

oOo

Ngày nay đàn ông Đà Thành thay bộ cánh khác đang đổ xô ra đường kiếm sống, chụp giựt bằng “lao động là vinh quang” một nghề mới toanh thoạt nghe thiệt “kêu, và lạ” : “làm người thồ”, nghề đi vá xe đạp, gánh thuê, vác mướn: Áo quần họ mặc hầu hết tơi tả, cũ mèm, ố vàng, nhàu nát. Mỗi người bạn trai đồng môn của tôi đều có một cây đòn gánh, hai chùm dây dừa cột chặt ở hai đầu gánh. Hành khách chưa kịp xuống xe đò chật như nêm, là lập tức những người đàn ông gánh thuê bu đông đen nơi thành cửa xe, họ kêu mời khách lạ. Mặc cả kỳ kèo giá tiền thuê vác xong, hành khách đi bộ về nhà, người thuê kẽo kẹt quang gánh nặng gồnh mình gánh trên vai gầy, họ im lặng chịu đựng cúi đầu rảo bước.

Toàn người đi bộ là đi bộ. Cả thành phố lác đác chỉ có một vài chiếc xe đò cọc cạch, xe chạy giới hạn từ Thị-xã Đà Lạt đi các nơi. Ở Đà Lạt là nơi nhiều đèo núi, nên ít người mua sắm xe đạp. Ai có xe đạp là chỉ có nước “làm tôi mọi” cho vật. Người ta cỡi lên xe đạp thì ít, mà vác nó lên trên lưng leo dốc cao thì nhiều. Thế nên hồi trước đa số công tư chức ai có tiền chỉ mua xe hơi, honda. Bây giờ trạm xăng không bán một giọt, thì xe với cộ, honda hôn điếc chi cũng bù trớt, nằm ù lì một đống như đống sắt vụn. Chỉ có lèo tèo mấy xe đạp làm xe thồ ọp ẹp, hoặc những “tay cua-rơ” có chiếc xe đạp loại thường thường dùng tập dượt, hầu mong tranh tài trong các chương trình thi đua thể thao toàn quốc trước kia, nay làm xe thồ.

Khu phố Hoà Bình ngày xưa nhộn nhịp, đông vui, sang trọng là thế! Nay tiệm nào cũng cửa đóng then cài im lìm. Hàng hoá đồ đạc thu dọn đâu hết. Sạch bách. Trơ lại những nhúm người ngồi trên vĩa hè, mặt mày lơ láo, họ rù rì to nhỏ, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, mắt mất thần. Họ tụm năm tụm ba ở góc nầy góc kia, dáo dác len lén bày bán những món đồ cũ, đơn sơ và khiêm nhường thấy tội. Đàn bà con “gái... theo thơ Lệ Khánh: "Gái Đà Lạt trời sinh đều đẹp cả”, nay một số qúy bà mặc quần áo lôi thôi lốc thốc, nghèo nàn, họ xuống đường tần tảo bán bưng thúng mẹc bên lề. Họ ngồi bệt trên những bậc tam cấp bán bòn những củ cà rốt, khoai lang, rau rợ bầm dập. Vài ba bà cải nhau om tỏi, chỉ vì những con cá ươn sình vương vãi ra trên vệt nức bên vệ đường. Ngẩn ngơ ngồi xuống mé đường lựa những trái hồng trong mẹt. Tôi nghe bạn hàng xầm xì:

Bà con toàn thể xã ta
Ðồng tâm phấn khởi trồng cà dái dê
Dái dê to mập dài ghê
Năm sau ta cứ dái dê ta trồng (2)

- Mèn ơi! Con tao bệnh, không có tiền mua thuốc uống. Ở đó mà mua phân, mua giống để trồng cà dái dê. Rồi nuôi heo, nuôi gà, tăng gia sản xuất cái nỗi gì! Nhà nước bắt mẹ con tao bưng máy đan của mình, dô trong hợp tác xã đan áo len gởi đi Liên Xô ráo trọi. Cái gì của mình là của “liên bang Xô Viết” mà mầy. Nếu mầy không có máy đan, thì tới đó dùng hai que tre, que gỗ mà đan. Rồi mầy coi, cái tập thể ni lọt dô túi bọn đó mất tiêu. Bọn mình chẳng còn con khỉ khô gì ráo trọi á. Chỉ còn trợn trắng con mắt, cúi đầu và hai bàn tay cầm que đan đan, đâm đâm, thọt thọt... Nghe.
- Thỉnh thoảng trên hợp tác xã đan móc may mặc có phân phối chút thịt heo bụng, ba chỉ, hoặc cẵng chân, đầu cánh gà mà?
- Xời. Đi gánh phân heo để tưới rau ăn, thì có. Bởi vậy nên người ta thèm thịt, nhỏ từng cục nước miếng, thì phải đi ăn trộm, ăn cắp biết nhiêu mà kể xiết, mất cắp ở trong mấy cửa hàng bách hoá như rươi. Của chung mà mầy. Ở nhà dân cũng bị cắp, trộm.
- Mầy hổng thấy sao ke! Con chó nhà tao năm nào ú nù, ú nần, tướng mập mạp đi hổng nỗi. Nay nó ốm tong ốm teo, lông lá rụng xơ xác, đầy ghẻ chóc, rụng hết răng, cũng bị bọn trộm rinh dìa làm thịt mất toi rồi. Mất chó giữ nhà, riết rồi cả xóm không còn chó sủa. Thế nên ai có chút của cải, cũng bay mất toi theo thằng ăn trộm hết. Đảng có mù, đảng cũng thấy chớ.
- Coi chừng nghe mầy. Nói tào lao, tai vách mạch rừng á.
- Bởi dậy... mới có chiện cán bộ lùng bắt người và chó. Người trộm cắp thì cho dô tù. Chó thì cho dô nồi bự. Trời quơi! Nước non chi lạ, dưới dân mất chó, mất heo gà. Trên nhiễu sinh ra đủ thứ chiện cướp cạn tham nhũng, hổng biết sao ta?
- Đừng chọc quê, tao không phải là đứa “cần câu nhân dân”. Mầy đừng lo.
- Ha ha! Tao không có tội mà trở thành có tội, vì cái miệng bép xép. Đời nay có nhiều loại công an nhân dân làm cần câu, đó nghe.
- Trời! Nói cái gì tầm bậy tầm bạ dị hợm vậy. Mầy! Dân cũng nghèo rớt mồng tơi như công an công yết. Chắc có lẽ ai làm “công an nhân dân” thì có đặc biệt nhiều tiền hơn hỉ?!
- Mẹ ui! Nếu được nhiều tiền thì công an nhân dân đâu mặc quần áo có mấy miếng ti vi to tổ chảng đắp trên đầu gối hỉ!
- "Kiểu tân thời" á mầy.

Tôi nhóm chân len lén nhìn qua khu vườn cũ. Hồi ấy tôi đã trồng nhiều hàng hoa hồng rực rỡ màu sắc thành hàng lối thẳng tưng. Những vòm cây ăn quả thắm đẵm sương đêm mọng hạt nước lung linh trên ngọn lá rung rinh. Ngôi nhà thân yêu nầy do tự sức cần lao của ba mẹ làm lụng vất vã. Và, của chính tôi khi chưa lập gia đình đã bán phổi dạy học, dành dụm mà có ngôi biệt thự Mimosa tươm tất. Qua hàng rào gạch thưa, cổng sắt đóng kín cửa có tấm bảng đề “coi chừng chó dữ”.

Đang ngơ ngáo len lén nhìn quanh, thì tôi giật nẩy người khi con chó Bìm Bìm tru hú từng tiếng rít từng cơn trong cổ. Nó mừng như điên cong đuôi chạy lui chạy tới ngoắt lia lịa. Nó chạy mấy vòng trong sân, bỗng chốc chồm hẳn hai chân trước lên ngực tôi, nó quay quắt mừng rỡ, cuống quít khi gặp lại chủ cũ. Nó thò mỏ qua khe rào gạch, cố tìm cách liếm liếm bàn tay tôi. Ngày di tản, tôi không thể mang con chó theo, nên tôi đã cho bác Tân hàng xóm nuôi, (nhà tôi sát vách tường nhà bác, chung một hàng rào xây bằng gạch song thưa). Tôi lòn tay qua song cửa cổng sắt xoa đầu nó hoài. Lúc đó, nó mới chịu đứng yên giây lát, nó rên ư ử đuôi vẫn ngoắt lia lịa. Bác Tân nghe tiếng chó sủa vang đã đi ra sân. Bác càng mừng rỡ chạy tới mở cửa cổng, bác đon đả rối rít chào hỏi tôi. Con Bìm Bìm lanh lẹ chui qua khe hở giữa hai nhà, nó cuộn tròn dưới thềm gạch, mỏ gác lên chân tôi. Mắt nó liếc qua liếc lại, hai tai vểnh lên nghe ngóng. Con chó mà thật có tình nghĩa! Ngoài những đau đớn, hụt hẫng, ngậm ngùi đáng hổ thẹn, nay tôi không còn gì! Thật chẳng còn gì để cho con vật, dù chỉ là một củ khoai tẻo teo!

Có gì đâu. Còn gì đâu nữa! Từ trên đỉnh bình yên an vui ngày hai buổi đi dạy học, nay tôi đã hụp xuống vực thẳm giữa cơn xoáy đục ngầu đen bạc. Hy vọng vỡ tan trong mối thất vọng chua cay, tổn thất dập dồn do thương tổn tình đời để lại. Tôi lặng lẽ ưu phiền ngồi điếng lặng hằng giờ trong góc tối cô đơn, suy nghĩ hết cách mong tìm kế sinh nhai. Tôi giống con chó hoang trốn vào hang hốc, mòn mỏi liếm vết thương mình. Kể từ ngày “đổi đời”, sự sống của gia đình tôi kể như "vong gia thất thổ nổi trôi theo dòng đời chảy xiết". Cuộc cách mạng 75 đã đẩy bật chúng tôi ra khỏi thành phố Đà Lạt. Xa những núi đồi thân yêu, vắng những thác nước suối nguồn mộng mơ. Tôi không còn thấy những hàng hoa anh đào thắm sắc ôm bóng dưới mặt hồ loáng bạc như tráng men.

Nhất là chẳng thể lặng yên vui vẻ nhìn những cụm mây ngà, hồng thắm bồng bềnh bay bay. Mỗi độ hoàng hôn mây óng vàng mịn mượt e ấp rủ nhau về quỳ gối bên ao hồ soi bóng. Chao! Gia đình tôi lâm vào ngỏ cụt không lối thoát, mà số phận tàn nhẫn nghiệt ngã vẫn bám riết lấy chúng tôi. Dù bằng sự can đảm phi thường mẹ trẻ con thơ dắt díu nhau chạy về Sài Gòn, cố gắng "tái thiết" cuộc đời sống lây lất thấp hèn đến độ thê lương trong trại gia binh bỏ hoang. Danh dự vẫn còn, tôi sống thanh liêm và dùng hai bàn tay không cầm ngòi viết, mà dùng làm “cây chĩa ngũ đoản thập toàn”, để tự bới móc tìm cái ăn ngoài xó xỉnh ruộng đồng!

Tôi nâng mình lên cao hơn mặt đất xí xi, hầu hòa đồng cùng những người cùng khổ không manh áo cơ hàn khác. Chúng tôi rất nghèo, đói rách tả tơi thấy thảm thiết lắm. Chính những tháng ngày âm thầm đi trong vũng tối, từ những con đường đất đen đen lên nông trường Lê Minh Xuân không đèn soi, không trăng tỏ, tôi mới có đủ thời gian suy tư kiểm nghiệm những thăng trầm chồng chất muôn vàn đắng cay đời mình dâng cao ngút. Chồng bị “đi tù cải tạo”. Các con lây lất lang thang tả tơi áo quần ngắn củn sờn rách, co ro trên vĩa hè phố Sài Gòn.

Những đứa con của tôi và tuổi thơ vô tội tự bươn bả moi móc mọi thứ để kiếm sống, con đói khát ngủ chập chờn bên hóc tối (để cho bầy con kẻ khác mặc nhiên tới chiếm ngự ngôi nhà đồ sộ của mình, họ thô thiển vui đùa dưới hàng hiên ở ngay nhà của chúng tôi đây). Tôi không hận, không nghe thấy gì, chẳng còn chút sinh khí nào ngoài nỗi điếng lặng lo sợ cồn cào đói khát, đau ốm đang dày vò ruột gan tôi và các con. Nỗi lo sợ bà nội, mẹ con bị bệnh đau, ghẻ chóc, truyền nhiễm dâng đầy ắp, mà không có tiền thuốc men- Hơn là tôi sợ hãi bất cứ thứ mất mác vật chất gì.

Lòng tôi chao đảo vì chiến tranh tương tàn, đùng đùng nổi giận vì những mất mác vô cớ, mà các con thơ mẹ già vợ yếu bỗng dưng vô tình cúi đầu gánh chịu, như tai ách mạch đời ở đâu trút ào ào xuống đầu mình. Trách nhiệm từ ai? Tại sao? Bởi vì đâu? Vì những “dày vò” của ông bà cố tổ mẹ cha chú bác? của những người có trọng trách giữ nước, giữ quê? hay là do trầm thống điêu linh tổ quốc suy tàn, chẳng còn, nên con cháu họ đã ra nông nỗi, làm bàng hoàng sụp đổ cả một chính phủ trong tích tắc thời gian!?

oOo

Tôi cúi đầu uất nghẹn! Đà Lạt diễm kiều quyến rũ một thuở nên thơ tràn lan thi vị, nay không còn là thành phố duyên dáng, hữu tình nữa rồi. Đâu rồi tiếng thông reo vi vu thì thầm cùng gió, sương rung rinh nhè nhẹ thở hơi mát, phả vào không gian bảng lảng dáng thu bàng bạc trên thành phố lạnh lẽo! Tôi đi giữa hai hàng cây anh đào trơ trụi, vài chiếc lá úa lững lờ chao lượn dưới làn sương mỏng là là bay, cuốn theo những hạt mưa bóng mây ẩm lạnh trong không gian ngút ngàn buốt tê. Dường như tôi cảm thấy ngu ngơ, lơ láo nhìn ngó, băn khoăn, thổn thức đớn đau dày vò và cảm thấy thất vọng kỳ lạ. Không tài nào nhấc bước chân lên khỏi mặt đường lồi lõm, tôi cứ đứng lì ở một góc phố như trời trồng, mà mất hồn mất vía. Tôi cảm thấy mình bị lún dần, lún dần vào cõi lạ. Dường như có ai ở dưới vũng bùn sình nặng nề đang giơ tay kéo lôi giật, tôi trì trệ hụp xuống cùng.

Đôi mắt tôi có hai ngấn nước lặng lờ hơi sương, mờ nhoà, mờ hẳn... giọt sương lăn tăn li ti hòa quyện cùng giọt nước mắt xót xa đã chảy xuống hai gò má. Thành phố của tôi ngày xưa ôi là xinh lịch vui tươi, truyền cảm, quyến rũ, thơ mộng là thế. Giờ đây sao quá ngao ngán buồn!? Trước mắt tôi, hiện tại với khoảng trống băng giá, cùng gánh nặng gia đình quầng siết lấy đôi vai gầy đang còng xuống những cố gắng vĩ đại, ngỏ hầu chới với quơ bàn tay gầy cố vươn lên, thấp thỏm giành lại cho mình một tí, dù một tí thôi những gì đã mất. Tôi ngồi bên lề phố Hoà Bình ngửa mặt lên trời mà khóc, mà cười, cười khẩy, vì không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn nứt đau xót khôn tả xiết, xếp lớp lăn tăn bềnh bồng lâng lâng giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê theo sóng đời cơ cực. Gia đình tôi đã lầm than khốn cùng tụt xuống dưới tận đáy xã hội phù phiếm mất rồi.

Đà Lạt xa xưa tự thuở hồng hoang xinh lịch thơ mộng êm mơ là thế, rồi... có một “thời gian điêu đứng vật vã” nên quê tôi đã nghèo nàn và ê chề cũng kinh khiếp đến thế. Nhưng rồi… càng bàng hoàng thảng thốt thay khi Đà Lạt của tôi hôm nay (2016) đã biến mất các rừng thông xanh thẳm, những con suối uốn lượn quanh co dọc triền núi và thác nguồn ngày xưa hoang dã, tự nhiên và thơ mộng êm đềm, thì nay “sinh chứng dị hình xây dựng” những kiểu cách “gán ghép bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Những nhà cao ốc chen chúc, chi chít chen lấn cùng những nhà bần nông lụp xụp (vì các "dịch vụ, nhu cầu sinh kế khẩn thiết" cần "triệt để khai thác" cho ngành du lịch phồn thịnh!!!); nên đâu đâu cũng "tự chế" ra phòng trọ, "mô teo, hô teo..." nườm nượp mọc lên, "lâu đài nguy nga" trên đồi trọc không còn tiếng thông reo vi vu… triền miên (vì chẳng còn cây cối nào có thể sống) không theo quy trình kiến thiết đô thị, thì Đà Lạt bây giờ vụng về và nóng ơi là nóng! Đà Lạt lộn xộn trơ trẽn như bộ mặt của con mèo vá.

Ôi Đà Lạt của tôi… không còn sinh khí hồn nhiên của mạch rừng hoang dại, dường như Đà Lạt nghẹt thở do những nét chấm phá từ bao ngôi nhà nhấp nhô to nhỏ giống "nấm men, nấm hương, nấm mốc, nấm rơm, nấm chó nấm mèo” trên bức tranh thiên nhiên đã loang lổ. Đã thế, số người tôi vừa gặp : thanh niên thiếu nữ trai trẻ, cụ già em bé ngày nay ra đường đều ồn ào, náo nhiệt chen lấn và nói năng cười đùa tự do như chỗ không người, "vui vẻ thái mái; tự nhiên như... người Hà Nội!". Thì quê tôi chìm mất nét hấp dẫn trữ tình và trìu mến trong tim mình! Thế nên tôi đành bùi ngùi, xót xa tiếc ngẩn... và nghẹn ngào ngoảnh mặt quay bước không thể trở về lối cũ đường xưa…

Tình Hoài Hương
MatVit
Posts: 1308
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image

Giáng Sinh Vẫn Vui Vẻ
Nguyễn Thị Thanh Dương

Mỗi khi mùa Giáng Sinh về gia đình chị Bông đều đón mừng vui vẻ nhưng năm nay chị Bông vui nhiều hơn, nao nức nhiều hơn vì hai con sẽ trở về nhà..

Thằng lớn Chester tốt nghiệp đại học mới rời khỏi nhà vì nhận việc làm ở thành phố khác và thằng nhỏ Ben cũng vừa mới giã từ mái nhà cha mẹ vào ở dorm khi bắt đầu đại học ở Austin.

Căn nhà rộng hơn 3,000 Sqf.. bỗng trở nên trống trải khi chỉ còn hai vợ chồng mà hai vợ chồng lại làm hai ca khác nhau, anh Bông làm bưu điện đi làm từ sáng sớm còn chị Bông làm hãng xưởng ca hai khuya chị về thì anh đã đi ngủ, chỉ có cuối tuần hai vợ chồng mới ?xum họp? đầy đủ.

Trẻ con mỗi đứa một tính đôi khi cha mẹ cũng phải chiều theo ý con một khi nó không đi theo ý mình,.Ben tốt nghiệp trung học loại giỏi được học bổng trường UTA gần nhà chỉ mười phút lái xe nhưng nó thích đại học ở Austin dù học bổng cho ít hơn, tiền ở dorm và ăn uống lại là một món tiền chi phí lớn, hết khoảng 26,000 đồng một năm chưa kể công bố mẹ sẽ lại rong ruỗi từ thành phố Arlington đến Austin thăm con trong suốt 4 năm đại học như thằng anh nó hồi học ở thành phố Houston.

Thăm con bao nhiêu dặm đường xa cả lượt đi lẫn lượt về thì chiếc xe mới sẽ lên miles đủ tiêu chuẩn của Mỹ để liệt vào hàng đồ cũ

Cha mẹ nào cũng đầu tư cả tiền bạc lẫn tình yêu thương cho các con ăn học vậy mà khi con học xong đi làm có biếu cha mẹ chút tiền chút qùa cha mẹ cảm động và hãnh diện làm như con vừa cho mình món qùa lớn lao lắm từ trong túi tiền của nó.

Giáng Sinh năm nay nhất định sẽ là một Giáng Sinh vui vẻ khi lần đầu tiên các con xa nhà và trở về vào dịp lễ lạc này.

Cây Giáng Sinh màu xanh tươi đặt nơi phòng khách gần lò sưởi đã được treo đèn đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng, lấp lánh những sợi dây kim tuyến như những hoa tuyết mùa đông bên cạnh dòng chữ ?Merry Christmas? cũng đủ thấy niềm vui rạo rực tràn ngập trong nhà.

Chị Bông đã chuẩn bị một tiệc Christmas Eve thật lộng lẫy, đặc biệt chị sẽ làm món ham với cam với dứa bỏ vào lò nướng theo lời chỉ dẫn của một cô bạn Mỹ làm chung hãng, miếng thịt ham sẽ thêm thơm phức ngọt ngào vì hai hương vị trái cây ấy.

Chị cũng không quên mua món caramel bắp rang và fruitcake, là những món Ben và Chester ưa thích từ thuở ấu thơ đến giờ nên mỗi cuối năm khi thấy ngoài chợ bày 2 món này ra là lòng chị Bông lại nao nao thương nhớ các con, chỉ muốn mua ngay về cho các con vui thích.

Ben đã nghỉ mùa Ðông và về nhà từ ngày16 tháng mười hai cho tới ngày 19 tháng một mới trở lại trường, để gần gũi con trong những ngày này chị Bông đã lấy vacation kết hợp với những ngày nghỉ lễ ở nhà với con.

Chị Bông đang loay hoay treo lại những tấm thiệp treo trên cành cây giáng sinh thì có tiếng chuông cửa reo, Ben hình như đang chờ đợi sẵn nó từ trong phòng computer chạy bay ra:

- Mẹ để con mở cửa, người này của con.

Không lẽ thằng Ben18 tuổi của chị đã có?bồ? chị Bông ngạc nhiện:

- Con nhỏ nào vậy?

- Con không biết.

- Nhưng con biết họ đến đây mà

- Phải, họ đến trao cho con học bổng?

- Con nói gì vậy? mẹ không hiểủ

Ben không kịp giải thích gì thêm, từ ngữ của hai mẹ con đều giới hạn khi nói chuyện với nhau, chị Bông không thể nói nhiều tiếng Anh, Ben không biết nói rành rẽ tiếng Việt, nhưng nó nghe và hiểu tiếng Việt..

Ben vui vẻ chào đón hai người khách lạ vào nhà trong khi chị Bông bàng hoàng lo ngại. Họ là hai thanh niên trẻ, chẳng biết quốc tịch gì mà cả hai đều đen thui, anh chàng cao lớn thì tóc xoăn xòe tròn như cái ổ chim trên đầu, đã thế anh ta còn để bộ râu quai nón ai trông mà không khiếp, anh chàng thấp hơn tuy đeo kính cận nhưng vẫn không làm anh ta trình độ lịch lãm tí nào, hình nhửvẫn có nét gian ác?..

Chị Bông đoán họ không phải là dân mỹ đen ở Mỹ từ đời ông cố ông sơ mà là dân Châu Phi mới định cư sau này. Thật sự họ là ai? đến gặp Ben với mục đích gì?

Nhìn kỹ hai thanh niên da đen chị Bông càng thêm lo sợ, thằng Ben nhà chị học giỏi, nó từng xin được vài học bổng lớn nhỏ, tất cả đều liên lạc giấy tờ thư từ qua bưu điện hay email làm gì có món học bổng nào mà cá nhân đến tận nhà trao tận tay thế này?

Chị xực nhớ đến những tin tức trên ti vi báo chí Việt Nam khuyên hãy cảnh giác với bao trò gian lận lừa đảo trong dịp lễ tết này.

Hai thằng kia đang mang cái ?học bổng mả đến để lừa thằng Ben nhà chị mục đích là chúng vừa trò chuyện vừa ngắm nghía cửa nẻo trong nhà để ra tay uy hiếp khống chế chủ nhà cướp bóc tiền bạc chăng ??. Xưa nay bọn xấu đều biết gia đình Việt Nam nào cũng có sẵn nhiều tiền mặt hay nữ trang trong nhà.

Càng nghĩ chị Bông càng lo sợ, anh Bông thì đã đi làm, chị không thể ngồi yên trước tình hình này nên vội bốc phone gọi cho bà chị chồng ở gần đây để cầu cứu, giọng chị Bông nói không ra hơi:

- Chị ơi, đến nhà em gấp?..gấp?

Bà chị chồng chuyện gì cũng muốn có đầu có đuôi:

- Nhưng em hãy kể chị vấn đề gì chứ?

Chị Bông bối rối diễn tả:

- Chị ôi, hình như nhà em?sắp có cướp ! nhà em đang có hai người lạ, họ là Mỹ đen, chắc có ý đồ?đen tối gì đó?em đang?canh chừng họ, chị đến ngay với em. Có nhiều người chúng sẽ không dám ra tay.

Nói xong chị Bông cúp phone không cho bà chị chồng hỏi thêm nữa. Bà ấy tỉ mỉ hỏi chưa xong chuyện thì tại họa đã đến rồi.

Thế là chỉ vài phút sau bà chị chồng đã sồng sộc đến bấm chuông cửa, vừa thấy chị Bông mở cửa chị chồng đã than:

- Chị vội đi đến nỗi không kịp khoác cái áo lạnh lên người. Chúng nó đâu rồi?

- Suỵt, chị đừng là ầm ĩ kẻo chúng phản ứng ngay mình trở tay không kịp?

Chị chồng hạ giọng nói nhỏ:

- Ừ, chị biết rồi, phen này hai chị em mình sẽ làm chủ tình hình với bọn gian kẻ xấu..

Chị chồng nói thế cho oai, khi vào nhà liếc nhìn hai người khách lạ đang rôm rã nói chuyện với thằng Ben chị chồng cũng thấỷhoảng vía, líu ríu bước vào trong, chị Bông kéo chị chồng đi ra phía cửa bếp thì thầm dù chắc gì hai người khách kia biết tiếng Việt Nam:

- Chúng ta đứng đây nói chuyện và canh chừng họ có bề gì dễ tẩu thoát, em có sẵn cell phone đây, nó mà có hành động gì khác thường thì em sẽ mở cửa chạy bay ra vườn và gọi 911 ngay lập tức.

- Chị cũng có cell phone đây, nếu em ?có bị nó khống chế thì còn chị, chị cũng?chạy bay ra vườn gọi 911 luôn.?

- Bởi vậy có chị em yên tâm hơn dù gì phe ta 3 người phe nó chỉ có 2 người.

Chị chồng thắc mắc:

- Bây giờ em hãy kể chị nghe vì sao thằng Ben biết tụi nó?..

- Thằng Ben lúc nãy chỉ kịp nói với em đây là hai người đến trao cho nó học bổng. Em cứ thắc mắc nãy giờ học bổng gì? sao lại có chuyện đến nhà trao học bổng chứ?

Bà chị chồng hùa theo:

- Chuyện gì cũng phải có giấy tờ văn thư đàng hoàng..Ðúng là phường lừa đảo, năm hết tết đến chúng lợi dụng lúc thiên hạ vui đón ngày lễ mà ra tay đây

Hai chị em nói chuyện mà mắt vẫn không ngớt liếc về phía phòng khách. Chợt anh chàng tóc quăn đứng dậy, chị Bông tim đập thình thịch định tông cửa sau ra ngoài để móc phone gọi 911 nếu thằng Ben không cùng đứng dậy với khách, nó nói với mẹ:

- Anh ấy muốn vào restroom

Ben dẫn anh ta vào một restroom và tiếp tục câu chuyện với người còn lại, vài phút sau anh tóc quăn ra ngoài. Họ vẫn nói chuyện bình thường vui vẻ mặc cho hai người phụ nữ đang sôi sục đề cao cảnh giác với họ?

Vài phút sau thì hai người khách đứng dậy ra về, chị Bông và bà chị chồng cùng chạy đến vờ tiễn khách để nhận dạng họ kỹ hơn có gì còn khai báo với cảnh sát.

Thằng Ben không hiểu nỗi lo sợ của mẹ và bác, khi khách về rồi nó chìa tờ check ra khoe:

- Họ đến trao con học bổng này, là 750 đồng cho năm nay.

Chị Bông cầm tờ cashier check mệnh gía 750 đồng từ nhà băng Chase, nhưng chị dửng dưng:

- Chắc gì có tiền.!

Bà chị chồng cũng cầm tờ check lên ngắm nghía và lạnh lùng nghi ngờ:

- Check gỉa đấy. Bọn lừa đảo còn làm được tiền dollar gỉa nữa kìa. Chắc chúng thấy nhà mình 3 người nên không dám hành động..

Ben ngạc nhiên trước thái độ của mẹ và bác nó:

- Mẹ và bác đang nói gì?

- Mẹ nói cái check này không là thật?bác nói chúng ta đang bị lừa đảo.

Ben bất bình ra mặt:

- Không, không?mẹ và bác không được nghĩ xấu cho họ, đây là real cashier check, không tin chúng ta ra nhà băng ngay bây giờ...

Bác nó phán:

- Ra nhà băng làm gì cho tốn công, tốn xăng.

Chị Bông than:

- Lại còn bị quê nữa chứ.

Ben chạy vào phòng computer lấy ra cái laptop, nó mở ngay ra một trang web và đưa đến gần hai người phụ nữ:

- Con sẽ chứng minh cho mẹ và bác mà không cần ra nhà băng, mẹ và bác đều đọc được tiếng Anh mà?

- Dĩ nhiên, bác còn nhận xét được trang web này giả hay thật nữa đấy..

- Ừ, đọc thì đọc, mẹ và bác sẽ vạch trần sự thật đen tối ra, con khờ lắm, không biết được trò đời đâu.

Hai người phụ nữ cùng tò mò xúm đầu vào đọc trang web theo tay Ben chỉ cố tìm ra bất cứ điều gì sai trái.

Thì ra đây là một foundation nhỏ do hai cá nhân lập ra, foundation của hai người mang tên họ Ấn Ðộ, họ là cựu học sinh của trường trung học Sam tại thành phố Arlington nơi Ben đã học.

Họ đã tốt nghiệp đại học và đi làm, mỗi năm họ đóng góp tiền để thưởng cho một em học sinh giỏi môn toán của trường khích lệ đàn em..

Những năm trước món tiền thưởng là 500 đồng, năm nay họ tăng lên 750 đồng,

Ben lấy tờ check ra và chỉ vào dòng chữ trên trang web:

- Bác và mẹ xem, người ký tên dưới tờ check chính là tên người sáng lập ra foundation này.

Hai người phụ nữ cùng thở phào nhẹ nhỏm và vui mừng. Chị Bông trách con:

- Sao con không kể cho mẹ nghe trước khi họ đến đây làm mẹ sợ qúa trời luôn, mẹ phải gọi bác sang hỗ trợ?..

- Con xin lỗi đã quên chưa kể với mẹ, trước khi họ đến con cũng không biết màu da của họ. Nếu họ không là màu da đen tối thì chắc mẹ không sợ hãi đến thế, phải không?. Họ là người Ấn Ðộ, một anh có bằng PH. D và một anh là kỹ sư, họ đều thành công trong nghề nghiệp. Ông thày dạy môn toán trường trung học của con năm vừa qua đã đề cử con với foundation này.

- Nhưng sao họ lại tử tế mang check đến tận nhà cho con, bởi thế mẹ mớỉhoang mang lo lắng..

- Vì họ liên lạc với con qúa trễ, không thể để qua năm mới nên họ đến nhà.khi biết con đang có mặt ở nhà, ở thành phố Arlington này, nơi họ cũng đang sinh sống và làm việc..

Chị Bông ân hận :

- Vậy mà mẹ đã nghĩ lầm cho người ta. Không biết lúc nãy mẹ mang nước ra mời khách, vẻ mặt lạnh và nặng nề như đá tảng của mẹ họ có nhận thấy không?

Ben kể:

- Hi vọng là họ không để ý. Họ hỏi thăm con về bố mẹ, họ khen cha mẹ người Việt Nam chăm sóc con cái giỏi lắm?

Chị Bông cảm động và ngượng ngùng không biết nói gì với con, lúc nãy lòng chị lo sợ và ghét khách bao nhiêu bây giờ lòng chị ân hận và thương khách bấy nhiêu. Bà chị chồng chắc cũng cùng tâm trạng:

- Chúng ta thật nông cạn và xớn xác, hai anh chàng này gốc Ấn Ðộ thuần chủng nên đen thủi đen thui. Chúng ta chỉ qua màu da mà thành kiến với họ, chúng ta chê người khác kỳ thị trong khi chính chúng ta kỳ thị . Tóm lại không nên đánh gía người khác qua bề ngoàỉ

Chị Bông ví von thực tế :

- Trái mít trái sầu riêng sù sì và gai nhọn mà múi bên trong thì thơm ngon đó?

Bà chị chồng khen ngợi:

-. Hai anh chàng trẻ tuổi này có tấm lòng, dù món tiền nhỏ nhoi nhưng ý nghĩa lớn lao. Thật đáng mến.

Chị Bông trách:

- Phải chi lúc nãy chị hiểu ra điều này, nói ra điều này thì em yên tâm biết bao, em lo sợ một, chị đến làm em lo sợ ?gấp mười lần vì chị còn bi quan và giàu tưởng tượng hơn em nữạlàm em nghĩ ra ngay một mùa Giáng Sinh?hoạn nạn, tiêu điều và thậm chí?đổ máu..

Bà chị chồng bào chữa:.

- Tạỉ bây giờ chị mới suy luận ra.. May qúa ngày Giáng Sinh vẫn vui vẻ với chúng ta

Chị Bông tươi vui nét mặt:

- Ðúng thế, một Giáng Sinh vui vẻ vì thằng Ben học giỏi từ trung học, nay lên đại học những tháng vừa qua nó đều đạt điểm cao..

- Chẳng mấy chốc mà 4 năm đại học sẽ qua đi thằng Ben sẽ ra trường và có việc làm như anh nó.

Chị Bông vui lắm nhưng cũng khiêm nhường:

- Chị chỉ khen các cháu chị chẳng khác nào mèo khen mèo dài đuôi

Chị Bông quay ra nói với Ben:

- Con ơi, con mời hai anh hồi nãy đến nhà mình được không?

Ben ngây thơ:

- Mẹ và bác vẫn chưa tin những gì con đã nói sao? Mẹ muốn kiểm tra họ lần nữa sao?

Chị Bông vui vẻ:

- Ý mẹ muốn mời hai anh ấy vài ngày nữa đến nhà mình dự tiệc Christmas Eve, mẹ rất mong được tiếp họ tại nhà, lần này mặt mẹ sẽ tươi như hoa để gỡ gạc lại hình ảnh mẹ lạnh lùng hôm nay . Có họ ngày Giáng Sinh của chúng ta sẽ càng thêm vui vẻ, chưa có năm nào Giáng sinh vui vẻ như năm này

Ben lại ngây thơ:

- Vì nhà mình có món qùa 750 đồng hả mẹ? vậy lát nữa con sẽ đi ra băng cash tiền đưa cho mẹ nhé.

- Con ơi, vì mẹ đã học được bài học trong cuộc sống, không nên đánh giá ai qua hình dáng bên ngoài và vì con ngoan và học giỏi. Ðó mới thật sự là món quà đặc biệt và niềm vui cho mẹ trong mùa Giáng Sinh này.


( Kỷ niệm với Ben. một mùa Giáng Sinh vui)
Nguyễn Thị Thanh Dương
MatVit
Posts: 1308
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image

Cái mặt

Tiểu Tử
Con người có cái mặt là quan trọng nhứt.

Thật vậy, nếu lấy cái mặt bỏ đi, tất cả những gì còn lại trên thân thể sẽ không dùng vào đâu được hết và cũng không còn tồn tại được nữa. Không có mũi để thở, không có miệng để ăn… Con người không có cái mặt là kể như “tiêu tùng”!

Trước khi “đào sâu” cái mặt, xin mở dấu ngoặc ở đây để “vinh danh” tiếng Việt : phần lớn những gì nằm trên cái mặt đều bắt đầu bằng chữ “m”, trên thế giới chưa có thứ tiếng nào như vậy hết ! Đây, nhìn coi: trên mặt có mắt, mũi, miệng (mồm), má.

Ở “mắt” có mày, có mi, có mí mắt, rồi mắt mụp, mắt mọng nước, mắt mơ màng, mắt mơ mộng, mắt mờ, mắt mù… Qua tới “mũi”, ngoài “mùi ” ra không thấy chữ “m” nào khác dính vào. Có lẽ tại vì cái mũi nó… cứng khư, không… linh hoạt.

Ấy vậy mà nó – cái mũi – và “chân mày” (cũng kém linh hoạt như cái mũi !) lại được đi kèm với cái mặt để… hỗ trợ cho tiếng “mặt”, trong từ ngữ thông thường: “mặt mũi”, “mặt mày”, làm như nếu nói “mặt” không, phát âm nghe… trơn lùi, nhẹ hều không lọt lỗ tai! Cho nên người ta nói “mặt mũi bơ phờ” , “mặt mày hốc hác”, chớ ít nghe “mặt bơ phờ, mặt hốc hác”.

Bây giờ tới “miệng”, thì có môi, có mép, rồi mồm mép, môi miếng, miệng méo, miệng móm, mím môi, mếu máo, mấp máy, bú mớm, mút mấp…

Đến “má” thì ngoài “mụt mụn” chỉ có “mi một cái” là còn thấy chữ “m” nhè nhẹ phất phơ… Tiếng Việt hay quá!

Trở về với cái mặt. Ông Trời, khi tạo ra con người, ban cho cái mặt là một ân huệ lớn. Nhờ có cái mặt mà con người nhận ra nhau, chồng nhận ra vợ, con nhận ra cha, biết ai là bạn ai là thù v.v… Thử tưởng tượng một ngày nào đó bỗng nhiên không ai còn cái mặt nữa. Nếu có sống được nhờ một sự nhiệm mầu nào đó, thử hỏi con người lấy gì để nhận diện nhau?

Chồng vợ, cha con, bạn thù gì đều… xà ngầu. Vậy là loạn đứt!
Cho nên xưa nay, người ta coi trọng cái mặt lắm. Có người còn nói: “Thà chịu mất mạng chớ không bao giờ để cho mất mặt”!
Vì vậy, rủi có ai lỡ lời chạm tự ái một người nào thì người đó thấy bị… mất mặt, liền đưa một nắm tay lên hăm he: “Thằng đó, bộ nó giỡn mặt tao hả? Tao phải dằn mặt nó một lần cho nó biết mặt tao”.

Rồi, bởi vì cái mặt nó… nặng ký như vậy cho nên khi nói về một người nào, người ta chỉ nhắm ngay vào cái mặt của người đó để mà nói. Nếu ghét thì gọi “cái bản mặt” (Cái mặt mà như tấm bảng thì thiệt tình thấy chán quá! Thường nghe nói : “Cái bản mặt thằng đó tao coi hổng vô!”. Nếu hơi khinh miệt thì gọi “cái bộ mặt” ( “Thằng này có bộ mặt ăn cướp !” ).
Còn khi thương thì cái mặt trở thành “cái gương mặt”
( “Em có gương mặt đẹp như trăng rằm !” ).

Chưa hết ! Khi nổi giận muốn… hộc máu, người ta cũng chỉ nhắm vào cái mặt của đối thủ chớ không chỗ nào khác để “dộng một đạp” hay “cho một dao” hay “phơ một phát” hay…“tạt một lon ác-xít”! Bởi vậy, xưa nay những người có “nợ máu” lúc nào cũng sợ bị “nhìn mặt trả thù”, và hồi thời chống Pháp, những điềm chỉ viên đi nhìn mặt “quân phản loạn” đều lấy bao bố trùm đầu để giấu mặt!

Con người, khi nhìn người khác, lúc nào cũng bắt đầu ở cái mặt (Chỉ có người không… bình thường mới nhìn người khác
bắt đầu ở cái chân hay cái bụng hay cái lưng!) Ở đó - ở cái mặt – ngoài cái đẹp cái xấu ra, còn hiện lên “cái mặt bên trong” của con người. Các nhà văn gọi là “nét mặt”, nghe … trừu tượng nhưng suy cho kỹ nó rất đúng.

Bởi vì chỉ có cái mặt là... vẽ được cái nội tâm của con người thật đầy đủ. Cho nên mới có câu: “Xem mặt mà bắt hình dong” (hình dong ở đây là cái hình dong giấu kín bên trong con người). Cho nên, trên sòng bài, các con bạc thường “bắt gân mặt” nhau để đoán nước bài của đối thủ.

Cho nên mấy “giáo sư chiêm tinh gia” lúc nào cũng liếc sơ cái mặt của thân chủ trước khi nâng bàn tay lên xem chỉ tay, để... định mức coi “thằng cha này nó sẽ tin mấy phần trăm những gì mình nói ”! Thì ra, đời người không nằm trong lòng bàn tay như mấy “thầy” đó nói, mà nó nằm ngay trên nét mặt!

Cũng bởi vì cái mặt nó… phản động như vậy cho nên các “đỉnh cao trí tuệ của ta” đã nâng cao cảnh giác, ẩn mặt một cách... an toàn suốt giai đoạn đấu tranh “chìm” và chỉ “xuất đầu lộ diện” khi toàn dân đã vùng lên nổi dậy.Và các“đồng chí vĩ đại của ta”... thay tên đổi mặt lia chia để đánh lạc hướng kẻ địch, nay để râu mai thay tóc mốt cạo đầu v v …

Họ ôm khư khư cái mặt để... quản lý nó từng giây từng phút, chỉ sợ nó để lòi ra cái mặt thật nhét giấu ở bên trong, riết rồi nó xơ cứng như mặt bằng đất. Đến nỗi vào bàn hội nghị quốc tế, các đối tượng không làm sao “bắt gân mặt” để “đi” một nước bài cho ngoạn mục!

Ở đây, phải nói thêm cho rõ là cho dù trong nội bộ với nhau – nghĩa là giữa “ta” và “ta” - cái mặt vẫn bị quản lý y chang như vậy, bởi vì hành động đó đã biến thành “bản năng” từ khuya.

Vì vậy, đừng ngạc nhiên khi thấy, sau hội nghị, mới “ôm hôn nhau thắm thiết tình đồng chí” mà trên đường về lại khu bộ có cán bộ đã bị “bùm” hay bị “cho xe rơi xuống hố” một cách rất… bài bản, để lại niềm “vô cùng thương tiếc” nằm trên vòng hoa phúng điếu của người đã ra lịnh hạ thủ!

Có khi, chính “đồng chí” này là người thay mặt tập thể, đứng ra… rớt nước mắt đọc điếu văn! Ở đây, ông bà mình nói:“Phải muối mặt mới làm được như vậy”.Thật là chí lý! Cái mặt đã muối rồi thì đâu còn sợ… bị thúi hay bị sình! Ta cứ tỉnh bơ thôi!

Bởi cái mặt nó phản ảnh con người nên hát bội mới “dặm mặt” sao cho đúng với cái “vai”. Để khi bước ra sân khấu, khán giả nhận ra ngay “thằng trung, thằng nịnh, thằng hiền, thằng dữ”… v v. Ngoài đời không có ai dặm mặt, nhưng vẫn được người khác “nhận diện” là: thằng mặt gà mái, thằng mặt có cô hồn, thằng mặt… mẹt, mặt mâm, mặt thớt, mặt hãm tài, mặt đưa đám, mặt trù cha hại mẹ, mặt… mo … v v.

Sau tháng tư 1975, người dân miền Nam đã được Nhà Nước “vẽ lọ bôi hề” thành những khuôn mặt... không giống ai, để đóng vai “nhân dân làm chủ” trên sân khấu cách mạng, trong vở trường kịch “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”…

Trên sân khấu chánh trị Việt Nam bây giờ, trong cũng như ngoài nước, “đào kép” tuy không dặm mặt như nghệ sĩ hát bội nhưng mỗi người đều có “lận lưng” vài cái mặt nạ, để tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng mà đeo lên cho người ta “thấy mình là ai” (dĩ nhiên không phải là cái mặt thật của mình.

Rồi cũng “phùng mang trợn mắt hát hò inh ỏi” một cách rất… tròn vai, làm “bà con đồng bào, đồng chí, đồng hương” cứ thấy như thiệt ! Điểm đặc biệt là ông nào bà nào cũng muốn thiên hạ chỉ nhìn thấy có “cái mặt của mình” trong đám bộ mặt đang múa may quay cuồng trên sân khấu.

Vì vậy, họ phải rán bơm cho cái mặt của mình to bằng... cái nia, để thấy họ mới đúng là...“đại diện”! Chẳng qua là họ muốn tạo thời cơ để kiếm cho cái… đít của họ một cái… ghế! Đến đây thì vở tuồng trên sân khấu đang chuyển sang lớp “gà nhà bôi mặt đá nhau” ... Cái mặt đã trở thành “một vấn đề”!

Để chấm dứt bài này, và để được yên thân, xin phép độc giả cho tôi “vác cái mặt của tôi đi chỗ khác”!

Tiểu Tử
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image


Những Ông Chồng Tội Lỗi

Tram Ca Mau
Hơn một chục bà sồn sồn họp mặt, tranh nhau xôn xao cười nói ồn ào như chim vỡ tổ, ăn uống liên miên không dứt, tâm sự dông dài. Nói qua đủ các đề tài trên trời dưới đất. Rồi chuyển qua chuyện chồng con.
Chị Xuân “khai hỏa”:
– Ông chồng em lười như hủi mấy chị ơi. Không biết tại sao ông trời lại sinh ra được một kẻ lười đến như vậy. Không làm được việc gì nên thân. Nhờ đi mua mấy bó rau răm thì đem về rau húng. Mua trái cây, không khi nào chịu lựa, thò tay bốc đại, đem về toàn cả đồ hư thối. Ngay cả việc đổ rác cũng không xong.

Chị Hạ phụ họa lời chị Xuân:
– Đàn ông, theo em định nghĩa, là một giống vật lười. Chị đừng than thở chi cho mất công. Cứ thử hỏi các chị quanh đây, có ông chồng nào không lười? Thôi, trách móc kết án chỉ là thừa. Tôi hỏi thật chị nhé, ông xã chị lười, nhưng có lười trong chuyện… chuyện phòng the hay không? Đó mới là điều quan trọng nhất.
Các bà ngồi quanh cười hi hi.

Chị Xuân đỏ mặt. Nói lí nhí:
– Lười thì mọi việc đều lười.
– Hừ, lười chuyện phòng the… mà quần nhau có đến sáu đứa con? Nếu không lười e có hai chục đứa hay sao?”
Chị Hạ nói tiếp: “Ông chồng chị đâu có lười bằng chồng chị Hương? Nghe nói ông này lười đến độ những khi nào vợ chồng “vui vẻ” cũng vẫn còn để nguyên cả áo quần. Thế mà chị Hương có bao giờ than ông ấy lười đâu? Này chị Xuân ơi, chị nói chồng chị lười, mà có lười việc sở không? Có lần nào bị đuổi việc vì tội lười biếng chưa?”
Chị Xuân cao giọng:
– Việc sở, ông ấy đâu có dám lười? Lười để bể nồi cơm sao? Lười để cả nhà dắt nhau đi ăn mày? Ở sở, ông ấy chăm chỉ, đi sớm về muộn, đôi khi làm việc sở quên cả giờ ăn trưa đó! Thỉnh thoảng lại còn mang công việc sở về nhà nữa!
Chị Hạ hỏi dồn:
– Về nhà, ông ấy có dạy và kiểm soát việc học của các con hàng ngày không? Có cắt cỏ, tưới cây không? Có sửa chữa nhà cửa điện nước không?
Chị Xuân hừ một tiếng dài:
– Các việc đó mà lười nữa, thì ai lo cho!

Chị Thu lớn tiếng xen vào:
– Tôi thì chỉ mong có ông chồng lười cho đỡ mệt. Ông chồng tôi ham làm vườn quên ăn quên ngủ, quên giải trí, quên hết. Ai đời đi làm việc về, vội vã thay áo quần, chạy mau ra vườn, xới đất trồng cây cho đến khi trời tối mịt thì thắp đèn lên làm tiếp. Mãi cho đến chín mười giờ mới chịu vào ăn tối. Cơm canh nguội lạnh. Thứ Bảy Chủ Nhật, cũng loay hoay ngoài vườn từ sáng sớm cho đến khuya. Vợ con không nhờ được việc gì cả. Quanh năm bốn mùa lăn lóc trong khu vườn. Những khi mưa đổ như trút, gió thét ầm ầm, thì co ro che dù, mang áo mưa, tưởng như bị trời hành. Tôi kêu gào rát cả cổ, cũng không suy suyển, chán quá, tôi cũng không thèm nói năng chi nữa!
– Vườn có rộng không? Ông ấy trồng gì mà quanh năm không hết việc? Một bà tò mò hỏi.
– Khá rộng. Ông ấy cứ bứng cây này, trồng cây kia. Làm non bộ, đắp núi giả, gầy uốn cây bonsai, bắt ống nước, chạy dây điện. Cứ thế mà từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia, không bao giờ xong. Những khi đau yếu chưa lành bệnh hẳn, còn ho hen, xịt mũi, cũng ra vườn không kể chi đến nắng gió. Ông ấy còn bảo, nếu không ra làm vườn, bệnh càng khó thuyên giảm, lâu bình phục.
Bà bạn cười cười:
– Chị có biết không, làm vườn cũng là một lối thiền cao độ. Hầu như tất cả các đại thiền sư Nhật Bản, đều say mê việc tạo cảnh. Thiền là đó, chứ không phải đâu cả. Hay là, hay là… chị cằn nhằn quá, nói nhiều quá, nên ông ấy lấy cớ ra vườn lánh nạn. Cho đỡ khổ cái lỗ tai, đỡ phiền muộn chăng?
– Vô duyên chưa? – Chị Thu gắt – Chị cứ suy bụng ta ra bụng người. E rằng, ông chồng của chị cũng không khỏi khổ vì cái miệng hay chót chét của chị đó! Chị Thu thở dài chán nản tiếp: – Ông ấy mê cái vườn còn hơn mê vợ con, mê công việc. Tôi thù ghét cái vườn. Không thèm nhìn đến, có khi cả tháng không bước chân ra vườn, Cái vườn dành mất tình yêu của vợ chồng tôi.

Người bạn vỗ vai chị Thu, dịu dàng nói:
– Có được ông chồng không ham chơi, chẳng rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn địch, chỉ ham làm vườn, lành mạnh như thế, mà vẫn chưa bằng lòng, thì đòi gì nữa? Chị muốn có gì hơn? Chị Thu đáp: – Hạnh phúc. Chị bạn cười mũi: – Hạnh phúc? Hạnh phúc thì phải do chị tự tạo lấy. Cứ ngồi không mà chờ, thì khó có, rồi trách móc người này, kẻ kia. Sao chị không ra vườn, tiếp tay với ông ấy, cùng cuốc xới, trồng trọt, tưới nước, chăm sóc cây trái. Rồi tâm sự, chuyện trò, thì hạnh phúc tự nhiên tới. Chị cứ thử trong vài ba tháng xem sao? Có mất gì đâu. Không chừng rồi chị cũng say mê làm vườn như ông ấy, và từ đó, thuận vợ thuận chồng thì tát biển đông cũng cạn.
Chị Hạ lắc đầu nói ngang:
– Kế sách đó cũng hay. Nhưng tôi có một mưu chước khác, làm ông chồng chị không dám ra vườn nữa. Nếu chị chịu, tôi bày cho. Nhưng sau này xong việc, phải trả công cho tôi hậu hĩ đấy! Này nhé, chị cứ giả vờ yêu mến cây cỏ, thiên nhiên, ra vườn cùng ông chồng, cứ đứng chống nạnh chỉ tay. Đòi cây này phải bứng qua góc vườn, cây kia phải phải chuyển lại gần hàng rào, vồng hoa nọ không thích hợp với vị trí đó, nhổ hết trồng loại hoa khác, cái vòi phun nước phải để qua góc bên trái mới mỹ thuật, cứ thế mà đòi hỏi phê bình đủ thứ chuyện, lải nhải mãi. Tôi đoán, ban đầu ông ấy cũng sẽ làm vài việc theo lời yêu cầu cho vợ vui lòng. Nhưng rồi càng ngày càng mệt, và cứ bị đòi hỏi mãi, ông ấy cũng sẽ chán nản, bực mình và không dám ra vườn nữa. Mấy chị nghe kế sách này có cao không?

Một chị la lớn:
– Không đựợc đâu! Lải nhải và yêu sách mãi, lỡ ông ấy nổi nóng, phang cho một cán cuốc vào đầu thì uổng đời. Đừng có dại. Mấy bà cùng cười vang.
Chị Hạ cười nói tiếp:
– Ông ấy có ăn học đàng hoàng, đứng đắn, đâu phải bọn ba trợn vũ phu mà làm càn! Trong đám chị em chúng ta ở đây, coi bộ chỉ có ông chồng chị Hạ là không có vấn đề. Gia đình vui vẻ hạnh phúc nhất.
Chị Hạ phản đối liền:
– A! Phải “nằm trong chăn, mới biết chăn có rận”. Trông như không có vấn đề gì cả, mà sự thực lại trầm trọng. Ông chồng tôi là một nhà giáo nghiêm nghị, nghiêm nghị trong lớp học, tại trường, nghiêm nghị ngoài xã hội và nghiêm nghị cả với gia đình, vợ con. Lấy nhau mấy chục năm mà chưa bao giờ thấy ông ấy cười. Nụ cười hiếm hoi còn hơn nàng Bao Tự* đời xưa trong truyện Tàu, mà U-Vương phải đốt phong hoả đài, gạt chư hầu về cứu giá, mới có được nụ cười của người đẹp. Ông chồng tôi, chẳng có đẹp gì cho cam. Mẹ tôi nói đùa rằng, hôm nào cả nhà đè ông ra mà thọc lét, để xem ông có biết cười hay không! Người ta bảo, một nụ cười bằng mười thang thuốc Nụ cười quý lắm. Mấy chục năm chưa lần thấy nụ cười trên môi ông chồng. Tôi cũng biết vui, biết buồn, chứ phải gỗ đá đâu mà cứ trơ trơ.”

Chị Đông nãy giờ chưa nói, bây giờ hứng chí cũng góp chuyện:
– Không biết cười còn đỡ. Ông chồng tôi thì mít ướt, thấy chuyện gì cũng cảm động mà khóc được. Những khi xem phim bộ Đại Hàn, cứ khóc thút thít mãi như con nít bị đánh đòn, lau hết cả hộp khăn giấy. Đọc truyện cũng thế, khi đọc đến những đoạn lâm ly, thì khóc oà, bỏ sách xuống, không đọc tiếp được nữa. Đi đám ma bạn bè, gia đình người chết thì tỉnh khô, mà mắt ông thì ướt nhẹp, đỏ lòm, xụt xịt mũi nước. Tưởng như đóng kịch. Có lần trong bữa cơm, ông kể chuyện hai vợ chồng bên Tàu thời Cách Mạng Văn Hoá, đói quá, bà vợ đồng ý để chồng gả bà cho người khác, để có cơm ăn, cho bà vợ khỏi chết đói. Mới kể nửa chuyện, ông khóc oà ra, để chén cơm xuống. Khóc như cha mẹ chết. Đứa con gái nói: “Ơ kìa Ba, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” Mỗi lần nghe chuyện gia đình nào tan vỡ, mắt ông cũng đỏ hoe. Lòng ông ấy mềm nhũn, yếu xìu, nên chẳng bao giờ nói “không” với người khác được. Bởi thế cho nên các cô thư ký trong sở tranh nhau, đánh ghen nhau tơi bời. Ông chẳng dám binh ai, bỏ ai. Tôi cũng khổ vì cái tình cảm yếu mềm sướt mướt của ông. Tôi cũng biết sôi máu ghen lên chứ! Đàn bà mà! Chồng của mình, chứ đâu phải là của chung thiên hạ, dù biết ông chẳng bao giờ đủ can đảm để bỏ bê gia đình.

Một bà nói:
– Tôi cứ tưởng ông ấy hiền lành, chứ đâu ngờ đào hoa đến thế!
Chị Đông đáp lại:
– Đúng, ông hiền lành! Nhưng nếu có ai thương, thì ông không nỡ từ chối. Không nỡ làm mất lòng ai. Khi nào tôi cũng cứ dặn lòng, cứ bình tâm mà hưởng hạnh phúc dành riêng cho mình. Không thể nào thay đổi cái mềm yếu của ông chồng, thì cứ chấp nhận. Vì ông rất trân quý gia đình, chăm sóc con cái hết lòng, hy sinh mọi thứ cho vợ, con, và cả người ngoài nữa.

Câu nói của chị Đông như gãi đúng chỗ ngứa của chị Hoa. Chị bắt đầu nở máy thở than:

– Tôi khổ và giận nhất là chuyện ông chồng bao đồng lo việc bên ngoài. Ăn cơm nhà, vác ngà voi. Bất cứ chuyện gì, có ai kêu, vội nhảy nhổm lên mà chạy đến cho kịp. Ai giao việc gì cũng ôm vào làm “chùa” không công, ngày đêm. Rồi tụ họp nhau ăn uống, cà phê, cà pháo liên miên. Lấy tiền nhà chi tiêu cho việc chung thiên hạ. Không có tiền thì cà thẻ tín dụng. Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Mấy cái bóng đèn ở nhà đứt dây tối thui, kêu gào rát cả cổ mới chịu thay. Cái vòi nước cứ ri rỉ long tong hoài, nghe bực đến nhức đầu, không bao giờ chịu sửa. Những người như ông này, có lẽ đừng bao giờ lập gia đình, để sức lực, thời gian mà lo cho việc thiên hạ.”
– Thế thì sao chị lại chịu lấy ông, để rồi bây giờ than van?
– Tôi đâu có biết. Ngày xưa mới quen nhau, đến nhà chơi, ông làm đủ thứ việc, nào là sửa điện, đóng lại cái bàn long chân, bắt ống khóa, mở cái đồng hồ chết ra mà vô dầu, quét vôi tường ngày tết, cưa cây, trồng hoa, chỉ dạy bài học cho các em tôi, đến cả nấu cơm, kho cá, làm đủ việc hằm bà lằng. Chịu khó giống như các cụ ngày xưa đi ở rể. Tôi cảm động lắm, nhưng không ngờ, ở đâu ông ấy cũng hăng hái nồng nhiệt làm việc như vậy cả. Ông ấy sống cho thiên hạ, chứ không sống cho gia đình. Tôi xét đoán sai, chọn lầm người. Đáng ra ông phải dành mọi sự ưu tiên cho gia đình, vợ con đã, rồi nếu dư năng lực, thì giờ, mới lo cho việc chung của thiên hạ.
Một chị la lớn:
– Nghĩ cho cùng, ông ấy là người tốt, có tấm lòng. Đáng khen, không đáng trách. Nếu ai cũng lơ là việc chung, thì xã hội này đi đến đâu? Làm chi có những sinh hoạt xã hội?

Chị Nguyệt có chồng thi sĩ tiếp lời:
– Ông chồng chị Đông, làm việc còn ích lợi thiết thực cho thiên hạ. Chứ như ông chồng em, suốt ngày mơ mơ màng màng, tỉnh không ra tỉnh, say không ra say. Cứ suy nghĩ vẫn vơ tìm vần dệt thơ, quên trước, quên sau. Không nhờ được việc gì. Ban đêm đang ngủ, nằm mơ hay chợt tìm ra một câu thơ lạ, thì vội vàng bật dậy chép liền. Có khi ngồi bóp đầu, bóp trán từ nữa khuya đến sáng, làm được mấy câu thơ. Buổi sáng mặt mũi bơ phờ như người bệnh. Đem ra khoe. Không cần biết hay hay dở, em chê liền. Rồi có trách móc, dằn vặt, thì ông ấy nói rằng ngày xưa, có ông Giả Đào nào đó viết: “Ba năm mới làm được hai câu thơ, ngâm lên một tiếng, hai giòng lệ rơi không cầm được, người tri âm nếu không cùng hưởng, mùa thu sang ta về núi nằm.” (**) Chưa hết đâu nghe các chị. Lại véo vào ngân quỹ tiết kiệm của gia đình mà in thơ, chất đống trong nhà. Rồi ra mắt sách, tốn thêm tiền thuê hội trường, mua nước ngọt, thức ăn, phải có gì cho người ta ăn uống mới chịu khó ngồi lại nghe. Còn phải gởi thơ mời, tốn thêm tiền in thiệp, tiền bưu phí. Cũng phải chi chút chút cho ban nhạc phụ giúp vui, năn nỉ ca sĩ hát “chùa”. Đáng ra em phải tránh xa các nơi ra sách này cho đỡ buồn, tủi, nhưng thấy ông chồng hăm hở tội nghiệp quá, em đi theo ủng hộ. Lại càng buồn hơn. Khách tham dự thì lèo tèo mấy chục người nói chuyện riêng ồn ào, không thèm để ý đến diễn giả đang nói gì, ca sĩ đang hát hò gì. Chỉ bán được mười mấy cuốn thơ cho đám bạn bè thương tình mua ủng hộ. Buổi ra mắt chưa xong, mà khách đã về gần hết.

Đáng ra, họ đã đến, thì ráng chịu khó thêm một chút, ở lại cho đến khi kết thúc, nó lịch sự hơn. Cũng tốn bộn tiền đấy chứ! Cái giống thi sĩ, xem tiền như rơm, như rác, nhẹ bấc. Nhưng mình là con vợ, thì phải xem tiền là cơm, là gạo, là điện, nước. Tiền là mồ hôi nước mắt. Chưa xong, đi đâu cũng lè kè mấy tập thơ, gặp ai cũng hí hửng ký tặng. Ông ấy đâu có biết người ta đem về nhà, vất lăn lóc đâu đó, không đọc, hoặc thương tình lắm, thì đọc phớt một hai bài. Thời buổi này ai rỗi mà đọc thơ?

Chị Hạ khoa tay nói lớn:
– Đáng ra chị Nguyệt phải hãnh diện có ông chồng thi sĩ chứ! Ngày xưa, tôi cứ mơ có được một chàng thi sĩ đem tôi vào thơ, để ngàn năm sau, hình bóng mình cứ thấp thoáng mãi trong văn chương. Chị Nguyệt ơi, ông chồng chị làm văn hoá, đóng góp, thêu gấm dệt hoa cho đời, còn quý gấp trăm, gấp ngàn lần làm ra tiền bạc. Tiền bạc chỉ có mình tiêu xài, và tiêu đi là hết. Văn hóa còn đó, còn mãi mãi, phục vụ cho bây giờ và cho cả ngàn sau. Chị nghĩ sao?

Chị Nguyệt lắc đầu:
– Không, tôi thực tế, tôi chỉ muốn có cơm gạo. Còn mai sau, có xui mà được lưu truyền tán tụng, tôi đã ra ma rồi, đâu biết chi nữa! Ông chồng nhiều lần làm tôi sượng mặt, ông nghe thiên hạ xúi dại, trong các bữa tiệc, ngâm thơ. Đã già rồi mà lời thơ cứ anh anh, em em, khổ đau thất tình, lửa yêu cháy bỏng, quằn quại, trái tim máu me, thân xác vật vã. Toàn cả những hình ảnh ướt át thương đau. Anh em, khổ đau, da diết, với ai đó, chứ đâu phải với tôi! Thử hỏi, bây giờ chúng ta cứ làm thơ thương tiếc người tình xưa, công khai phô diễn cái đớn đau, xót xa cho mối tình cũ, thì các ông có chịu hay không?
– Thôi thôi, đủ rồi. Lý do nào cũng đúng. Một chị lớn tuổi cắt ngang. Rồi chị tiếp lời: “Khổ đau của các chị là chuyện nhỏ, như đi đường đạp gai. Đáng ra phải nhổ cái gai ra, các chị không chịu, để thế mà đi, gai cứ làm nhức nhối mãi. Tôi còn nghe chị Hồng, chị Lê, chị Huệ than thở các ông chồng cứ ôm chặt lấy cái computer suốt ngày suốt đêm, bỏ bê việc nhà. Chồng chị Phương, chị Dung thì say mê thể thao, cá độ, mất hết tiền bạc, nợ nần. Chồng chị Thành tối ngày say sưa bí tỉ, nhậu nhẹt tì tì từ khi mở mắt cho đến khi đi ngủ. Lái xe trong khi say rượu, bị bắt còng tay. Còn chồng chị An, chị Bích, chị Chi thì đóng đinh ở quán cà phê, đánh cờ tướng, nói chuyện chính trị suốt ngày quên ăn trưa, ăn tối. Nào chị Giang, kể cho các bà nghe về nỗi khổ vì chồng con của chị đi nào!”

Chị Giang trẻ nhất trong đám các bà. Mặt mày thanh tú. Nét đẹp kiêu sa của thời con gái chưa phai tàn. Chị bình tĩnh vuốt tóc và thong thả kể:
– Ông chồng em sáu mươi chín tuổi rồi, gặp lại một bà bạn học chung lớp ngày xưa. Bà này là cô giáo cũ của em thời trung học. Khi đi học, chồng em và bà cũng chẳng có tình ý chi với nhau. Có lẽ học cùng lứa, thì các cô xem bọn con trai như em út, và các anh nhỏ cũng không dám chơi leo tơ tưởng tới các đàn chị. Năm trước họ vô tình gặp nhau, cả hai tuổi đều đã xấp xỉ bảy mươi. Thế mà họ lại yêu nhau mê mệt. Em có thể hiểu được ông chồng mình, thứ đàn ông mà trẻ không tha, già không kiêng, vốn tính trăng hoa xưa nay. Em cũng đã chán, hết cả ghen tương từ lâu. Nhưng không hiểu được bà kia, tuổi tác đó, chồng con đề huề, cháu nội cháu ngoại cả chục đứa. Thế mà hai người chơi ngông, mết nhau, say sưa điên cuồng quên hết mọi sự. Ngày nào cũng điện thoại cho nhau vài ba giờ, không biết chuyện đâu ra mà nói nhiều đến thế. Mỗi tuần họ gặp nhau ba lần tại khách sạn, hú hí đú đởn. Em cứ vô tình, không hay biết. Cho đến một hôm, trong lúc say rượu, ông ủi xe vào hàng cây bên đường, bị thương ngất đi. Cảnh sát chở vào bệnh viện. Em kêu hãng bảo hiểm nhờ kéo xe về nhà. Lục thùng xe tìm giấy tờ, thấy nguyên một bao thư mấy trăm trang, in điện thư thư trao đổi qua lại của hai người này. Đọc thư họ, em không khóc, mà chỉ cười, vì họ viết cho nhau lời lẽ tình tứ như còn ở tuổi mười sáu, hai mươi. Già tuổi đó, mà viết được cái tình cảm yêu đương mê muội của bọn con nít, thì họ cũng tài tình đáng phục. Bà ấy liều mạng, nhiều lần viết rằng: “Em sẵn sàng chịu bị cạo đầu bôi vôi, bị lột trần truồng dẫn đi rong bêu rếu và bị ném đá cho đến chết để có được tình yêu của anh”. Ghê khiếp chưa, một cô giáo có trình độ đại học mà rồ dại đến thế. Em hẹn gặp bà, ban đầu bà định chối, nói là bạn cũ gặp nhau nhắc chuyện thời đi học xa xưa. Em đưa cả xấp thư cho bà ấy xem. Bà hết hồn, mặt xanh như tàu lá và run rẩy gần ngất xỉu. Thấy thái độ của bà, em cũng thương hại. Em lên mặt dạy đời cô giáo cũ rằng: “Thưa cô, ngày xưa em kính trọng cái tư cách và phong thái đứng đắn của cô. Có những điều cô dạy, đến nay em còn nhớ. Cô thử nghĩ xem, nếu ông chồng cô, con trai con gái cô, dâu rể và cháu nội ngoại đọc được một phần trong những lá thư này, họ sẽ nghĩ gì, và đối xử ra sao với cô?” Cô ngồi run cầm cập, mặt trắng bệch như xác chết, im lặng, điếng người, có lẽ vì quá xấu hổ, quá sợ, thở dốc từng hồi. Em nói tiếp: “Thưa cô, em ước mong rằng, đừng ai gọt đầu bôi vôi, đừng lột trần truồng dẫn cô đi bêu rếu, và đừng ai ném đá cô đến chết. Đây, cô giữ lấy tập điện thư trao đổi này. Đây là bản duy nhất, em không muốn giữ làm gì. Em thương em, và thương cả cô, vì chúng ta đều là nạn nhân khốn khổ của một ông chồng mất nết. Xin cô hãy thương thầy, ông chồng già đáng kính của cô, đã chia vui xẻ buồn cùng cô, hy sinh cho cô suốt trong gần nữa thế kỷ dài. Cũng đã đi gần hết đời người rồi. Không còn bao lâu nữa.” Em đứng dậy và bước đi, không quay lại nhìn bà ấy.”

Tất cả các bà nghe đến đó, đều nhao nhao lên phản đối:
– Tại sao ngu vậy? Tại sao không chụp ra vài bản, gởi cho ông chồng và các dâu rể của bà để trừng phạt?
Chị Giang bình tĩnh:
– Để làm chi? Nếu không kéo ai lên được, thì cũng đừng nên xô họ xuống hố sâu thêm. Người ta đau khổ, xấu hổ, mà mình cũng chẳng được gì?

Các bà đồng thanh nói:

– Để trả thù, để trừng phạt. Thế thì bây giờ ông chồng của chị ra sao?
Chị Giang thở ra:
– Em không thù, thì trả thù làm chi? Bây giờ ông chồng em vẫn bình thường, vào ra trong nhà như con chó cúp đuôi biết lỗi. Con người đó, trăng hoa phóng đãng khó chừa, nhưng ông cũng còn khá nhiều cái tốt khác mà ít người có được. Em phải biết tự cứu mình, và cứu gia đình. Chắc các chị mới thấy cái bề mặt cư xử nhân từ của em đối với bà ấy mà thôi, chứ chưa thấy cái thâm độc nham hiểm còn hơn cả Hoạn Thư. Nếu em hùng hổ xỉ vả chửi mắng thô tục, thì bà đó ít đau, ít thấm thiá hơn là những lời nói nhẹ nhàng nhân hậu đó.

Bà chị lớn tuổi nhất đám đua hai tay lên trời mà than:
– Ôi sao kiếp đàn bà chúng ta chịu lắm khổ đau như thế này. Tất cả cũng đều do bọn đàn ông gây ra cả. Thế nhưng, thiếu đàn ông, thì đâu có sống bình thường được, đàn bà sẽ khô héo như đem cây trồng vào sa mạc. Nhưng có phải khổ đau trong đời sống vợ chồng, một phần lớn cũng do chúng ta tự tạo ra chăng? Bởi thế, tôi nhớ có gã triết gia cà chớn nào đó viết đại ý rằng: “Nguyện vọng thiết tha nhất của đàn bà con gái là kiếm cho ra một tấm chống, nhưng khi có một tấm chồng rồi, thì họ muốn có tất cả”. Cũng không phải hoàn toàn sai đâu.

Tràm Cà Mau
Ghi chú
*Bao Tự: một người đàn bà đẹp thời Xuân Thu bên Tàu
** Nhị cú tam niên đắc. Nhất ngâm song lệ lưu. Tri âm như bất thưởng. Quy ngọa cố sơn thu.
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »

Image

ĐỨA CON DÂU

Bà Năm rất hãnh diện vì Tâm, đứa con trai học hành chăm chỉ. Tâm tốt nghiệp bằng bác sĩ y khoa, thực tâp tại bệnh viện sắp xong, và chuẩn bị đi làm việc.
Tâm thường ôm đàn, búng tưng tưng và hát nghêu ngao.Tâm thường lập đi lập lại những câu hát ca ngợi “người em gái” nào đó. Lời rất dịu dàng, êm ái. Bà Năm nghe Tâm hát mãi, nói rằng:
– Em gái của anh, thì anh la mắng, nạt nộ, sai làm chuyện nầy, bảo làm chuyện kia, còn bắt phạt, bắt quỳ. Còn em gái người ta, thì bốc lên thấu tận trời xanh.
Tâm trả lời yếu đuối:
– Bài hát mà má. Thì rồi em Hương nhà mình, cũng sẽ được mấy anh con trai dại dột khác, bốc lên thấu trời xanh thôi.
– Sao anh không bốc em của anh lên một chút, cho nó vui, sung sướng. Có hơn là đi bốc thiên hạ không?
Bà Năm thường làm hết mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Anh con trai chưa bao giờ mó tay vào làm bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào trong gia đình nầy, từ rửa chén bát, hút bụi nhà, sửa cái bóng đèn đứt dây, cắt cỏ, quét lá trong vườn. Anh như một người khách thuê khách sạn, trong ngoài, mọi sự đã có người khác lo.
Một buổi sáng Chủ Nhật, bà thấy Tâm đem máy ra, cắt cỏ sân trước nhà. Bà ngạc nhiên, há hốc miệng đứng nhìn đứa con trai đang hì hục, vụng về đẩy chiếc xe cắt cỏ. Xưa nay, anh chưa hề đụng đến việc nhà. Anh đã quen thói. Có nhờ được anh cũng khó khăn, và chưa chắc đã làm. Anh cứ lần khân mãi, rồi quên việc người khác nhờ.. Hôm nay bà thấy Tâm cắt cỏ cẩn thận, cắt đi cắt lại, nghiêng đầu nhìn ngắm mãi, cho đến khi vừa lòng mới thôi. Bà Năm đứng chống nạnh, âu yếm nhìn con:
– Sao hôm nay con giỏi thế? Cắt cỏ giúp cho bố mẹ. Lại cắt cẩn thận, cắt đẹp nữa!
Tâm nhìn mẹ cười, và nói tỉnh bơ:
– Tuần trước, Lam ghé đây chơi, thấy cỏ cao, bảo con sao không cắt cho đẹp vườn.
– Lam là ai?
– Là bạn gái của con.
Bà Năm hừ một tiếng nhỏ tức tối. Con của Bà sinh ra, nuôi nấng, thương yêu, bà nhờ không được, bà nói không nghe, thế mà cái con Lam nào đó, mới mở miệng một tiếng, thì nó lại răm rắp làm. Trong lòng bà, bỗng thấy không ưa cái con Lam kia. Bà cảm thấy hơi buồn
2.
Sáng chủ nhật, bà pha cà phê cho chồng, và pha luôn cho Tâm một ly. Bà biết hai bố con đều ghiền, buổi sáng không có ly cà phê thì xem như mở mắt không ra. Thấy anh con trai không buồn động đến ly cà phê thơm, bà hỏi:
– Sao con không uống liền đi, để nguội mất ngon, hương cà phê bay đi hết.
– Thôi, con không uống cà phê nữa má à. Con đang tập bỏ cà phê.
– Sao vậy?
– Lam bảo con bỏ cà phê! Uống cà phê không tốt.
Nghe con nói mà bà điên tiết, muốn lộn máu lên. Lam là đứa nào, có quyền lực gì, mà làm cho thằng con trai cưng, thương yêu của bà răm rắp tuân lời? Bà thương con, muốn cho con vui, bà ra lệnh:
– Uống đi. Mẹ đã pha ra rồi. Ðừng uống quá nhiều thì thôi, chứ vừa phải, cà phê cũng tốt cho sức khỏe.
Anh con trai cưng của bà, đánh trống lảng, rồi bỏ lên lầu, không đụng đến ly cà phê bà đã pha. Bà Năm bực bội, quậy ly cà phê và uống từng ngụm nhỏ. Bà nói với chồng:
– Thằng Tâm nhà mình thế mà dại gái. Cha mẹ nói cho rát họng, thì không nghe, cái con nhỏ vất vơ nào đó, nói ra cái gì, thì nó răm rắp nghe theo như kinh điển. Thiệt là bực. Con mình sinh ra, dạy dỗ, nuôi nấng, mà nó không xem mình bằng …
Ông chồng bà cắt ngang:
– Thôi bà ơi. Nó cũng đã lớn rồi, khi mới yêu, thì ai cũng vậy, mai mốt sẽ khác. Bà có nhớ không, hồi xưa khi tôi mới yêu bà, tôi cũng nghe theo bà răm rắp …
– Bây giờ thì ông không thèm nghe theo tôi bất cứ chuyện gì nữa. Lại còn nạt nộ, gầm gừ.
– Có chứ, khi nào bà nói đúng thì tôi nghe theo, chứ bà sai, bắt tôi theo sao được? Ngay cả bà nội tôi, nếu nói sai, thì tôi cũng phải thưa lại cho đúng, chứ huống chi là vợ?
– Ừ, bây giờ anh có tôi rồi, thì xem thường nhé!
– Vẫn quý vợ như thường. Nhưng đúng sai, phải làm cho ra lẽ.
Mỗi lần bà thấy Tâm không hớt tóc theo kiểu cũ, lối tóc xửng ra như rễ tre, mà hớt lối mới trông gọn gàng, lịch sự hơn. Bà khen Tâm. Tâm nói rằng Lam không thích kiểu tóc cũ. Nghe mà bà giận, bực mình. Nhưng bà công nhận kiểu tóc mới, con bà trông đàng hoàng hơn.
Mấy tuần sau, khi Hương đi chơi về, báo cho bà Năm biết:
– Mẹ ơi, Con gặp anh Tâm đang bưng thức ăn cho khách tại tiệm Hương Bình. Anh còn cắt rau, nhặt tôm, phụ bếp nữa.
– Mẹ không hiểu con nói gì.
– Tiệm của bố mẹ chị Lam ấy mà! Anh ấy đến đó làm việc, lấy điểm với ông bà già chị Lam.
Bà Năm mặt mày nhăn nhó, thở dài, thất vọng nói:
– Tiền bạc nó đâu có thiếu.. Ở nhà thì chưa bao giờ rửa cái bát. Chưa bao giờ nấu nồi nước sôi giúp mẹ. Chắc cũng làm không công. Thế mà, thế mà …
Ngay tức thì, bà kêu Hương lái xe cho bà đi xem mặt mũi cái con Lam kia ra thế nào, mà sai khiến được ông con cưng của bà như vậy.
3.
Bà Năm hầm hầm đi theo con gái, miệng mím lại. Hương dặn bà đừng vào tiệm, đi ngang qua bên ngoài dòm vô thôi. Hai mẹ con đi qua tiệm nhiều lần. Khi được nhìn thấy mặt đứa con gái tên Lam, bà càng giận hơn. Trở về nhà, bà bứt rứt, đi lui đi tới, chờ anh con trai cưng về; bà sẽ cho một trận tơi bời cho đã giận. Khi Tâm về nhà, chưa kịp thay áo, đã bị bà Năm gào to:
– Khôn nhà dại chợ, việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Việc nhà không đụng móng tay vào, ra ngoài thì làm mọi không công cho thiên hạ. Học hành cho giỏi, đỗ đạt bằng cấp nầy nọ, mà vẫn cứ ngu dại như thường.
– Thưa mẹ, mẹ nói gì?
– Thằng ngu! Cái con Lam đó, xấu xí, da ngăm, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, ngực lép, mông teo. Ðã ăn phải bùa mê thuốc lú của nó chưa, mà đi làm mọi cho gia đình nó? Nếu nó đẹp đẽ, nghiêng nước nghiêng thành, mà mê nó, thì không nói làm chi. Xấu xí như vậy, mà cũng mê muội, mới tức chứ. Cha mẹ nói thì không nghe, lại nghe lời đứa con gái vất vơ đó. Tưởng cành vàng, lá ngọc, con vua, cháu chúa chi cho cam, con nhà tiệm ăn …
– Mẹ đừng kỳ thị. Mẹ từng nói với con, nghề nào cũng quý.. Sao bây giờ mẹ chê nghề tiệm ăn? Mẹ thấy Lam xấu, mà con thấy đẹp thì sao? Tùy theo khiếu thẩm mỹ của mỗi người.
Bà Năm cười chán nản, và chế nhạo. Lặp lại một lần nữa, cái nhận xét của bà về cô Lam:
– Ừ, cái khiếu thẩm mỹ của anh lạ lắm, đen điu, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, người lép kẹp, là đẹp, đẹp lắm. Ha ha ha …
– Nhưng tổng hợp tất cả lại, thì nhìn rất có duyên mẹ à. Con gái, có duyên thì thu hút và hấp dẫn hơn đẹp. Con không cần vợ đẹp. Mấy cô đẹp, thì kênh kiệu, vác cái mặt lên, đòi hỏi đủ điều, và tham vọng không bao giờ ngừng. Họ khó khăn, họ tưởng đâu có cái đẹp là có quyền hành như bà hoàng. Lấy mấy cô nầy làm vợ, mệt lắm, và chưa chắc đã được lâu bền.
Bà Năm há miệng ra vì ngạc nhiên, nhìn ông con trai của bà chòng chọc. Bà nói:
– Khiếp, ăn nói như cụ già tám mươi. Ai dạy cho anh những điều đó? Thôi, anh đã khôn đến vậy, thì mẹ chịu thua.
– Thì ba mẹ vẫn thường nói vậy, và kinh nghiệm riêng của con cũng thấy thế.
Thương và cưng con, bà không muốn con bà thương ai hơn, nghe lời ai hơn là nghe lời bà. Cái ác cảm với cô Lam không làm sao vơi được trong lòng bà.
4.
Những khi Tâm mời Lam về nhà chơi, bà Năm cố tình làm mặt lạnh nhạt, và để lộ ra rằng, bà không ưa cô. Bà còn nói bóng gió xa gần rằng, đàn bà không có ngực, sau nầy khó nuôi con. Ðàn bà vòng mông nhỏ, sinh con khó, hiếm muộn. Lam vẫn vui vẻ, bình thường, làm như không biết bà Năm đang ám chỉ cô. Thấy thái độ của mẹ, Tâm không dám đem Lam về thăm nhà thường xuyên. Ông Năm khuyên vợ rằng:
– Bà càng tỏ ra chống đối, thì chúng nó càng khắng khít. Tình yêu là một thứ kỳ cục, càng có nhiều trắc trở, thì càng nhiều nồng nàn, cháy bỏng. Tình yêu xuôi chèo thuận mái quá, thì cũng không bền. Bà cứ để cho chúng nó tự do tìm hiểu nhau, đừng gây trắc trở, khó khăn, mà sau nầy có hậu quả không tốt, con dâu nó xa lánh gia đình chồng, và mình cũng mất con luôn.
Bà Năm cũng hiểu thế. Nhưng cái ghét bỏ cô Lam vẫn tiềm tàng trong lòng bà. Có lẽ tại vì Tâm nghe lời cô nầy răm rắp, mà không nghe lời bà, là người mẹ đã dành hết yêu thương cho con. Nó coi người khác quan trọng hơn bà. Ông Năm nói rằng, việc chi mà ganh tị tình thương? Khi còn trẻ, thì ganh với bà mẹ chồng, bây giờ thành bà mẹ chồng, thì lại ganh với con dâu.
Cứ cái vòng luẩn quẩn quay đi quay lại mãi, không được gì, mà chỉ gây thêm sứt mẻ, lộn xộn. Dân Á đông, thì mẹ chồng nàng dâu lục đục. Dân Âu Mỹ, thì mẹ vợ và con rễ không ưa nhau. Có cả ngàn câu chuyện chế giễu bà mẹ vợ do các ông viết ra. Như chuyện diễu về ông Adam, thủy tổ loài người, bảo rằng ông nầy là người đàn ông sung sướng nhất, vì ông không có một bà mẹ vợ.
Dù cho bà Năm có bóng gió, nói xấu cô Lam đến mấy, anh con trai cưng của bà vẫn không suy suyển cái tình si dành cho cô nầy. Bà mẹ có dàn cảnh, giới thiệu cho anh bao nhiêu cô gái khác, đẹp hơn, anh cũng không màng liếc mắt đến.
Bà Năm cắn răng chấp nhận cho Tâm cưới cô Lam. Bà tiếc rằng, từ nay những bà bạn có con gái đến tuổi cặp kê, hết o bế bà, bớt nồng nàn, tử tế như xưa.
5.
Sau đám cưới, bà Năm xuống nước năn nỉ Tâm khoan dọn ra riêng. Anh con trai không trả lời dứt khoát, và cho biết tùy theo ý kiến của vợ. Bà Năm phải nói thẳng với cô con dâu rằng, nếu các con khoan dọn ra riêng, thì sẽ tiết kiệm được một số tiền, mua nhà sớm hơn, và tốt hơn.
Cô con dâu vui vẻ trả lời rằng, nếu ba mẹ cho chúng con ở chung trong thời gian đầu, thì chúng con mừng lắm, được ba mẹ cho ở, cho ăn, và gia đình sum vầy, thì vui hơn là tách biệt ra. Câu nói của đứa con dâu làm bà mát ruột. Sau thời gian đầu bỡ ngỡ, đứa con dâu dần dần thích nghi với sinh hoạt của gia đình. Ban đầu, bà Năm nghĩ rằng, lại phải hầu hạ thêm một cô nương nữa. Bà không ngại, miễn sao giữ anh con trai cưng của bà lại trong gia đình là được. Mỗi khi cô con dâu tự ý làm giúp cho ông bà việc gì, bà Năm nói nhỏ với chồng:
– Cô dâu nầy, ưa làm màu lắm.
Ông chồng bà trả lời:
– Thà có đứa con dâu làm màu, còn hơn là đứa ngang ngạnh, không coi ai ra gì.
Nhiều buổi sáng rất sớm, bà Năm nghe tiếng thở phì phò, tiếng huỳnh huỵch ngoài phòng khách, bà tưởng hai vợ chồng anh con trai đang làm trò khỉ. Một lần bà hé cửa nhìn xuống lầu, thấy Tâm và Lam đang múa tay, múa chân tập thể dục. Bà lắc đầu. Con trai bà, chưa thấy tập thể dục bao giờ, nay vì vợ mà tập. Bà cho rằng, con trai mà nghe lời vợ quá, cũng không tốt. Bà thử múa tay, uốn éo thân mình theo các cử động của hai người, bà nghe khoái cảm trong bắp thịt, xương cốt, và tiêu tan bớt rất nhiều mỏi mệt. Không lâu sau đó, nhiều buổi sáng, bà tập thể dục theo con, và cả ông Năm cũng tham gia. Trong phòng khách buổi sáng, theo tiếng hô của Lam, bốn người nhịp nhàng múa tay chân, hít thở trong vòng hai mươi phút trước khi ăn điểm tâm và đi làm việc. Mỗi sáng thứ bảy, chủ nhật, Tâm lái xe ra công viên rất sớm, cùng cha mẹ và vợ, chạy bộ vòng quanh sân cỏ, hít thở không khí trong lành, tập những động tác uyển chuyển.
Sau đó, cùng đi ăn sáng. Bà Năm cảm thấy, nhờ có đứa con dâu mà tình mẹ con của bà gần gũi hơn, sau bao nhiêu năm gần như gián đoạn, kể từ ngày anh bước vào tuổi mười tám, hai mươi.
Hai ông bà Năm trở nên mê cái món cháo gạo lức, nấu đặc rền, ăn với cá nục kho khô, mặn, có tiêu ớt. Ăn vào buổi sáng, do cô con dâu nấu. Ban đầu bà Năm cười cái món ăn nầy của người nhà quê. Nhưng cô dâu nói rằng, đây là món ăn vua chúa, chứ không phải món nhà quê. Sử sách có chép rõ, các ông vua triều Nguyễn rất khoái ăn cháo trắng buổi sáng. Ông bà Năm cũng phải công nhận ăn cháo vừa ngon, vừa tốt cho sức khỏe, bớt được chất béo, chất đường.
6.
Mỗi buổi chiều, bà Năm về nhà trước con dâu chừng nửa giờ. Bà vào bếp chuẩn bị, cắt rau, cắt thịt. Cô con dâu vất xong cái cặp vào phòng, chạy vội xuống bếp, phụ mẹ chồng sửa soạn cơm tối. Thời gian đầu, cô phụ làm các việt lặt vặt, chỉ làm những chuyện mẹ chồng sai bảo. Cô con dâu phụ bếp, dù không phụ được gì nhiều, nhưng bà Năm thấy vui, tự ái của bà không bị tổn thương.. Bà có thể hầu chồng, hầu con, chứ không muốn mang tiếng làm mọi cho cả con dâu. Nhìn thấy cô con dâu vui vẻ, hát hò trong khi làm bếp, bà cũng vui lây.. Thì ra, cô làm với tấm lòng, với sự chia xẻ, chứ không phải miễn cưỡng. Cô con dâu múa dao lia lịa, cắt hành, cắt rau, ớt, nhanh như các anh đầu bếp Tàu chiếu trên truyền hình. Thỉnh thoảng, cô con dâu đề nghị bà Năm nấu món ngon cho cả nhà, ăn chơi cho vui, ăn chơi ngon hơn ăn thật, cô lảnh trách nhiệm nấu các món nầy. Cô nấu phở, bún bò, cháo lòng, hủ tiếu, bánh canh, bún riêu, mỗi chiều ăn một món thay cơm. Cả nhà vui vẻ hơn, ông Năm nói rằng, nấu ở nhà ngon như thế nầy, thì đi tiệm làm gì. Bà Năm học thêm được những bí quyết nấu ăn của cô dâu, và cộng thêm kinh nghiệm cũ, bà nấu càng ngon hơn. Bà mời bạn bè chồng đến, trổ tài nấu nướng. Nhiều người khen và khuyến khích bà ra mở tiệm ăn. Bà con, bạn bè đòi hùn vốn mở tiệm. Bà Năm sung sướng và quyết định thôi việc, ra làm kinh doanh.. Trong một bữa ăn, cô con dâu nói với ông bà:
– Dì Chính bảo rằng, nếu mình ghét ai thậm tệ, muốn trả thù, thì cứ đem tiền cho mượn, xúi họ mở tiệm ăn, cho họ khổ, bỏ ghét. Làm tiệm ăn, khách ít thì lo, khách đông thì khổ, làm một ngày mười sáu, mười tám giờ cũng không hết việc. Nắng cũng lo, mưa cũng lo. Cực lắm, đầu bếp cũng cực, phụ bếp cũng cực, chủ tiệm còn cực hơn. Dì Thu bạn của mẹ con mở tiệm phở, bị ông đầu bếp bóp cổ, phải kêu cảnh sát can thiệp. Ông đầu bếp mệt và cực quá, mà Dì thì quá lo lắng, thúc hối, hỏi han. Ông nổi khùng, bóp cổ Dì. Bố mẹ con, lỡ mở tiệm, không lui được nữa, cực lắm lắm, ông bà mệt quá, gây gỗ nhau hoài. Nếu mẹ muốn mở tiệm ăn, thì hãy suy nghĩ cho kỹ lại. Ít nhất cũng giả vờ đi làm công cho thiên hạ, phụ bếp hoặc làm đầu bếp vài ba tháng cho biết đá biết vàng. Rồi quyết định.
Nghe con dâu nói bà hoảng hồn. Không dám ra làm kinh doanh nữa.
7.
Nhiều hôm, cô con dâu hớt hải chạy về kêu bà Năm thay áo quần ra xe đi gấp, ra phố mua hàng với cô. Vì hàng hạ giá, chỉ còn một hôm nữa là hết hạn. Cô ríu rít khoe rằng có người mách cho biết, hàng hạ xuống trên bảy mươi lăm phần trăm, không mua uổng lắm.
Bà vui vẻ ngồi bên đứa con dâu, cô vừa lái xe vun vút trên xa lộ, vừa nói chuyện vui vẻ. Khi vào tiệm, cô ép bà thử áo nầy, thử váy kia, tíu tít. Rồi cô con dâu dành trả tiền mua áo quần cho mẹ chồng. Để bà khỏi thắc mắc, cô nói:
– Tiền nầy do anh Tâm làm ra, mẹ có quyến xài. Anh Tâm sẽ rất vui, khi biết mẹ dùng tiền nầy.
Sau đó, hai mẹ con rủ nhau đi ăn, ngồi nói chuyện trong quán, và mua thức ăn về cho cả nhà. Có lần bà Năm giận ông chồng, ngồi khóc. Cô con dâu đến ôm bà, vuốt ve và hôn lên trán bà mà an ủi. Cô kéo bà đứng dậy, đi rủ bà lên San Francisco chơi.
Hai mẹ con đi bộ long rong qua chợ Tàu. Khi đã mỏi chân, cô con dâu cùng bà vào quán cà phê, ngồi ở dãy bàn dọn lấn ra trên lề đường cùng uống trà, ăn kem. Ngồi nhìn thiên hạ qua lại, cô con dâu nói với bà:
– Ngồi đây, đôi khi cũng thấy tâm hồn thư thái. Nhìn cái tất bật của thiên hạ, thấy cái nhàn nhã của mình, rồi biết quý cái hạnh phúc đơn sơ mà mình đang có.
Bà Năm cũng thấy vui vui, và quên bớt đi cái giận hờn ông chồng. Cô dâu nói với bà:
– Trời có khi nắng khi mưa, vợ chồng có khi vui khi buồn. Rồi mọi sự đều qua. Khi nào buồn, con đem mẹ đi chơi, giải trí. Hôm nào hai mẹ con mình rủ nhau đi xem chớp bóng, khuya mới về, để cho các ông ở nhà chờ, và đói một bửa chơi. Như vậy, các ông mới biết quý cái không khí ấm áp của bữa cơm bình thường mỗi ngày trong gia đình.
Mỗi buổi sáng, ông Năm đều nhắc rằng, nhờ có cái máy cà phê áp suất do cô con dâu mua tặng, nên ông có cà phê ngon mà uống. Đến sở khỏi phải tốn tiền mua cà phê áp suất bên góc đường. Nhiều hôm cô con dâu mua thức ăn ngon bên ngoài đem về. Ríu rít nói là cô ăn ngon quá, mua về cho cả nhà ăn cho vui. Không cần ăn ngon hay dở, nghe thế là bà Năm đã cảm động. Xưa nay, con bà, chồng bà, chưa hề thấy ngon mà mua về cho bà.
Sau một thời gian ở chung với cô con dâu, đi đâu, bà Năm cũng khoe là bà có thêm một đứa con gái, có thêm một người bạn thân để tâm sự khi vui buồn. Bà nói thêm, từ ngày anh con trai có vợ, gia đình thấy vui vẻ, hạnh phúc và thương yêu nhau hơn. Bà khen anh con trai khôn ngoan và khéo chọn bạn trăm năm. Bà không còn chê cô dâu là trán ngắn, mắt hí, miệng móm nữa.
8.
Một hôm đã khuya, bà Năm thức giấc xuống lầu uống nước, thấy có bóng người thấp thoáng ở sân sau nhà, bà ghé mắt nhìn. Trăng vằng vặc trải ánh vàng xuống khắp vườn. Bà thấy Tâm quàng tay qua vai vợ ngồi tựa ngữa, chân gác lên ghế. Bà nghe tiếng thì thầm:
– Đôi khi thấy mẹ anh thương, và bênh em, làm anh phát ghen lên. Em làm gì mà mê hoặc được mẹ anh đến thế?
Tiếng cô con dâu trong trẻo đáp lại:
– Thương yêu và thông cảm. Đem hết tấm lòng mình ra mà đãi người, rồi sẽ được đáp lại bằng tấm lòng. Nhờ em biết thương yêu ba mẹ anh như ba mẹ ruột, thì ông bà mới thương yêu em như con ruột. Em có thêm một ông bố, một bà mẹ, một cô em, có thêm nhiều tình thương. Từ đó, vợ chồng mình hòa thuận hơn, thương yêu nhau hơn, và lâu bền hơn, hạnh phúc hơn.
Bà Năm len lén trở lại phòng, chíp miệng và nghĩ rằng, bà đã già một đời mà còn ngu dại, cứ ganh ghét với gia đình chồng, ganh ghét với con dâu. Bọn trẻ con ngày nay, có nhiều đứa khôn nứt hạt.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

KÍ ỨC CHIỀU BA MƯƠI TẾT

Ngưng Thu


Hôm nay được tin bà vợ ông Bách vừa mới được đưa từ bệnh viện về, nghe nói kỳ này chắc không qua khỏi, vì hình như là bác sỹ chạy rồi. Mấy cụ trong xóm bảo nhau:

- Đã ung thư rồi thì khó mà qua lắm.

Đó là một người đàn bà mà tôi nhớ mãi trong đời.


Mẹ tôi vẫn ngồi đó, cái thớt vẫn còn nằm lọt trong cái trẹt nom cũng cũ kỹ lắm rồi, hai hàng nước mắt mẹ cứ chảy dài xuống má. Tôi đứng nhìn mẹ mà không biết nói gì, chỉ biết là thương mẹ lắm, nhưng tôi tính tình vốn hay rụt rè ít khi thể hiện tình cảm ra ngoài bằng cử chỉ hành động mà chỉ biết im lặng quan sát, lúc đó nước mắt của mẹ cũng làm tôi rưng rưng.

Sáng ba mươi tết, nhìn thấy sợi lạc treo cục thịt heo trên đầu bếp, mấy anh em tôi vui mừng đến sướng rơn cả người, mẹ nói là không có tiền mua sắm quần áo tết cho chúng tôi thì cũng hơi buồn chun chút nhưng nỗi buồn đó cũng qua thật nhanh khi biết là không có quần áo mới thì dù gì nhà mình cũng còn có thịt để ăn. Thằng em út tôi mới hai tuổi rưỡi, nhưng cũng khoái nhất món thịt kho với trứng của mợ tôi, mỗi khi cúng giỗ cậu mợ mang sang cho một ít, thể nào mẹ tôi cũng để dành cho nó. Út được mẹ cưng ghê lắm.

- Út oi mà.

Mẹ hay nói thế mỗi lần ôm hôn Út.

Tháng tết này gà trong nhà đẻ cũng đựơc vài ba chục trứng nhưng mẹ đem bán hết chỉ chừa lại cũng tròn mươi quả. Tưởng tượng tới món thịt kho trứng trong mấy ngày tết là mấy anh em tôi quên ngay mọi cái thiếu thốn khác mà cứ là sướng rơn trong bụng. Ôi ! cái mùi thịt mẹ kho thì mới tuyệt làm sao, chỉ nghĩ tới tôi cũng đã chảy cả nuớc miếng.

Trưa đến hơn đứng bóng mẹ mới xong việc chợ đò, vừa gánh cái gánh về đến nhà là mẹ tay xắn áo xắn quần lau dọn nhà cửa làm đủ thứ việc. Ấy là ở nhà đã có mấy cha con dọn dẹp tổng vệ sinh nhà cửa, giặt mùng, giặt mền trước đó mấy hôm rồi. Vậy mà không biết việc đâu ra mà mẹ cứ quần quật suốt. Cũng tới lúc mẹ đem thịt ra chặt kho, tôi đang ở ngoài vườn cùng các em tôi, mấy đứa này đúng là …chỉ thích nghịch đất, mà cũng đúng thôi, con nhà nghèo như anh em chúng tôi có cái thứ trò chơi gì đâu, không nghịch đất em tôi chơi cái gì cớ chứ.

Có tiếng người gọi ngoài cổng. Mấy em tôi còn đang nghịch đất ngoài vườn, tôi là chị lớn nên hay phụ mẹ lo la rầy nhắc nhở và tắm rửa cho các em. Không biết mẹ và người đàn bà đó nói gì với nhau, một lát sau, người ấy đi ra, tay xách cái xâu thịt mà ba tôi treo trên bếp khi sáng. Tôi và các em tôi ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra với mẹ, chỉ thấy mẹ ngồi đó, nước mắt đâu mà mẹ cứ tuôn ra tuôn ra hoài thế không biết, các em tôi ngây thơ không hiểu gì. Đứa út thấy mẹ khóc nên cứ cuống quýt gọi :

- Mẹ ơi ! mẹ ơi !

Mẹ tôi ôm đứa út vào lòng không nói gì cứ thế mà nước mắt tuôn trào. Còn tôi thì cứ đứng ngây người ra đó và nước mắt thì cứ tuôn theo. Tuy không biết gì nhiều, nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu có lẽ là bà ấy xiếc nợ mẹ thôi, làm ăn buôn bán quanh năm trên mảnh đất nghèo nàn này mẹ nuôi chúng tôi lớn lên hàng ngày như thế này cũng là quá vất vả. Năm hết tết đến, nợ nần chỗ khất đựơc chỗ không, mẹ không oán trách người đàn bà ấy mà chỉ thương các con không còn thịt thà gì trong ngày tết nữa…

Lúc đó không có ba ở nhà, ba vừa đi đâu đó hình như là có bác bên xóm gọi qua phụ bác làm tất niên. Nhìn mẹ khóc, lòng tôi thật sự rất đau, tôi không hiểu lắm chuyện người lớn nói gì với nhau, nhưng lúc đó tôi đã học lớp năm, nên tôi cũng biết thương mẹ. Tôi hiểu lòng mẹ, mẹ vất vả vì chúng tôi quá nhiều, đời mẹ gian khổ không sao, muốn cho con cái có miếng thịt trong ngày tết mà cũng không thể, mẹ ngồi yên trước cái trẹt cũ mà gương mặt buồn rười rượi. Tôi luôn để mắt tới mẹ, gió từ cửa bếp thổi vào làm tóc mẹ bay phất phơ. Hơn bốn mươi tuổi mà hình như lúc này tôi thấy tóc mẹ trắng đi nhiều, nhìn mẹ ôm em tôi vào lòng, tôi thương em tôi quá và cũng thương mẹ càng nhiều hơn.

Một lát sau đó, mẹ tôi vẫn chưa đứng dậy, cứ ngồi thừ ra trước tấm thớt không còn miếng thịt nữa. Trông mẹ già hẳn đi nhiều lắm. Lại có tiếng người đàn bà khi nãy ngoài cửa trước. Chuyện gì nữa đây? Tôi lo lắng không biết bà ấy sẽ làm gì mẹ tôi nữa, mẹ đã khóc nhiều rồi. Nhưng không, bà ấy đi xăm xăm vào nhà, đi thẳng xuống bếp và tới gần cái trẹt vẫn còn đó, bà thả cục thịt cái bạch xuống ngay tấm thớt gỗ, nhìn mẹ tôi có vẻ hơi bực bực một chút nhưng trong ánh mắt bà ấy là cả sự thương cảm, không nỡ tâm… Chắc là trên đường về bà ấy suy nghĩ thế nào rồi quay ngược trở lại.

Mẹ tôi rối rít cảm ơn bà ấy nhưng bà không nghe và cũng không nhìn mẹ mà cứ thế một mạch đi ra… Mẹ ôm em tôi hôn liên tiếp mấy cái rồi lại ngồi chặt thịt tiếp… Mẹ vui vì chúng tôi vẫn có thịt để ăn, nhưng trong ánh mắt xa xăm của mẹ, tôi nhìn thấy một nỗi buồn vời vợi …



Đám tang bà vợ ông Bách, cả tôi và ba tôi đều đến. Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của bà ấy lúc xách xâu thịt đi ra khỏi bếp nhà tôi hơn ba mươi lăm năm về trước. Nhưng mà sao tôi không hề oán ghét bà, lúc đó cũng như bây giờ, khi mà giờ đây bà đã nằm yên bất động và chuẩn bị đi vào lòng đất… Tôi cũng đã thầm cảm ơn bà vì dù sao lúc đó bà cũng đã quay trở lại với xâu thịt trên tay. Con người sống chết là thế đấy. Có những việc làm mà sau bao nhiêu năm người ta vẫn còn nhớ.

Đó là kí ức mà trong đời tôi chẳng thể nào quên… Và có lẽ trong cuộc sống thường ngày, khi chứng kiến sự lớn lên rồi trưởng thành của chúng tôi, lòng bà không hề ray rứt vì cảm thấy mình đã làm rất đúng.

Tôi đưa tay lên ngực mình cầu nguyện. Tôi cầu cho bà ra đi được thanh thản. Gió mùa thu hiu hiu buồn và lòng tôi cũng mang mác một nỗi buồn. Con người sống chết vô thường quá. Thế mới cần phải biết là nên ăn ở với nhau như thế nào trên đời.

Ngưng Thu
bichphuong
Posts: 617
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Bệnh Viện và Nghĩa Trang

Image

Chị thì thầm vào tai anh:

“Còn mấy hôm nữa là rằm tháng Giêng chắc mình phải về nhà chứ.”

Anh kéo chiếc mền mỏng lên ngang ngực, chiếc mền ngắn quá, lòi cả nửa ống chân ra ngoài. Anh nhìn chung quanh một vòng, ngượng ngùng co chân lại.

“Về sao được em, phải chờ chứ, còn nước còn tát, mấy hôm nay thằng bé cũng thấy khá hơn một chút.”

Hai vợ chồng đang nằm ngủ ngay trước cửa Bệnh Viện Ung Thư, con trai họ 12 tuổi kiếm được một chỗ nằm chung một giường với một đứa trẻ khác bên trong, (sau khi anh chị đưa cho y tá trực ở đó hai lần hai cái phong bì.) Dưới gầm giường thì có bố mẹ của đứa bé kia rồi, không còn chỗ cho anh chị nữa.

Họ lên đây từ trước Tết, đợi mãi mới tới phiên con được khám. Trong khi chờ thì cứ ngồi, nằm, ngay ở hành lang bệnh viện. Anh chị không phải là cặp vợ chồng duy nhất ngủ ở ngoài này. Số người chờ khám cho thân nhân hay chờ khám cho chính mình nhiều hơn số giường của bệnh viện có, nên người chờ đợi, ăn, ngủ, tràn lan ra tới hành lang.

Image
Nằm Chờ Khám Bệnh

Trời mưa lụt, nước tràn ngập cả trong phòng đợi, người ngồi, kẻ nằm trên những chiếc ghế nhựa trông thật thảm thương. Ngày khô thì chiếu trải la liệt dưới đất. Bệnh Viện mà trông như trại tỵ nạn.
Image
Nước lụt trong phòng chờ ở Bệnh Viện Ung Thư-Hà nội


Image
Bệnh Viện Ung Thư Hà Nội
Anh chị từ Hòa Bình mang con về Hà Nội chạy chữa, thằng bé 12 tuổi đang đi học bỗng ngã bệnh, chữa mãi Bác Sĩ tỉnh nhà không khỏi, thử máu, chụp hình mới biết là bị ung thư màng óc.

Chị lại thì thầm:

“Tết mình đã không có mặt ở nhà để cúng ông bà, thì Rằm cũng phải về cúng Phật chứ anh. Hay em ở lại với con, anh về mấy hôm đi.”

“Anh về cũng chẳng an tâm được. Mấy hôm ngủ ngoài sương thấy em đã bắt đầu ho.Thôi, Trời Phật cũng thông cảm cho mình.”

Chị im lặng một lúc, lại ngập ngừng nói:

“Thôi anh cứ yên tâm về đi, còn bà nội thằng Tí ở nhà nữa, anh về đi kẻo mẹ trông, em biết là mẹ mong anh về lắm.”

Người chồng ngồi hẳn dậy, co hai chân lên vòng tay ôm qua đầu gối, thở dài.

“Ừ, chắc anh nên về, em nói đúng, bà nội thằng Tí đang mong tin lắm. Anh đã chia tiền ra từng gói nhỏ để em tiện chi tiêu. Tiền trả cho Bệnh Viện chữa trị, tiền đưa bác sĩ thì anh để riêng, tiền đưa y tá, tiền lao công anh cũng để riêng.”

Người vợ ngồi hẳn dậy, quấn lại cái chăn cho gọn, thu xếp mấy cái túi đựng cả một gia đình lưu động của mình. Chị nhìn chung quanh một vùng bao quát, trong ánh nắng sớm mai yên tĩnh mọi người chưa thức dậy hết. Họ nằm ngang, nằm dọc, hay xoay chân ngược chiều nhau. Những bàn chân gầy gò, và những cái đầu xơ xác tóc, họ đang ngủ hay đã thức rồi mà vẫn còn nằm im lo lắng bất an. Mặt trời sẽ lên, thêm một ngày chờ đợi, đến bao giờ mới tới phiên mình, hay phiên của người thân mình. Số tiền mang trong túi, cài hai ba cái kim cho chặt, liệu có đủ trả tiền chạy chữa, tiền thuốc và tiền phong bì không?

Nói đến phong bì chị bỗng nhớ, hỏi anh:

“Tiền anh lo đủ rồi nhưng anh quên chưa mua phong bì cho em. Đưa thẳng tiền mặt ra ai đứng gần cũng nhìn thấy, không tiện đâu.”

Anh ngẩn người ra, ừ nhỉ mấy hôm nay bận quá, cứ lo chỗ ăn chỗ ngủ cho con bên trong bệnh viện, cho hai vợ chồng ngoài hành lang, anh quên hẳn việc phải mua sẵn một lố phong bì. Anh nhìn trước nhìn sau thấy một xấp báo còn mới, ai đó vứt sang chỗ anh chị nằm. Anh nhặt lên nói với chị:

“Báo còn mới, em cứ lấy con dao, rọc vuông vức rồi gói tiền vào đó cũng được. Nhưng phải nhớ để riêng vào túi trong, túi ngoài, kẻo nhầm của người này lại đưa cho người kia.”

Chị cười nhẹ:

“Anh đừng lo, tiền thì em cẩn thận lắm.”

Chị đón xấp báo còn mới trong tay anh, báo trong tay thì dĩ nhiên là chữ trước mắt, chị đọc qua một chút trước khi đi tìm dao rọc. Sau mấy phút chị ngẩn người ra, để rơi tờ báo xuống lòng. Anh thấy lạ hỏi:

“Tin gì vậy em?”

Chị không nói, đưa tờ báo cho anh.

Báo chí trong nước cho hay, chính quyền thành phố Hà Nội hôm 1/2 công bố quy hoạch được thủ tướng phê duyệt về xây nghĩa trang “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước; các anh hùng, danh nhân của đất nước”.

Tin cho hay, nghĩa trang Yên Trung nằm dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 cây số về phía Tây, giáp Vườn Quốc Gia Ba Vì; phía Đông giáp đồi núi và đường cao tốc Hòa Lạc-Hòa Bình; phía Nam giáp đồi núi và khu dân cư.

Tổng diện tích nghĩa trang là 120 hécta, gồm khu an táng 72 hécta, với 2,200 – 2,500 ngôi mộ, mỗi ngôi mộ có khuôn viên 25-35 mét vuông và khu đệm cây xanh cảnh quan trên 47 hécta, có sức chứa 5,000 người.

Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước. Thời gian thực hiện dự án khoảng 36 tháng.

Anh đọc tiếp ở một trang khác:

Vẫn theo các báo, với tổng diện tích 120 hectare, tương đương một phường lớn ở nội thành Hà Nội, dự án có vị trí ở huyện Thạch Thất, dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 kilomet về phía tây. Thông tin từ bản quy hoạch cho thấy sẽ có 105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.

Anh đọc xong nhìn sang chị, thấy chị vẫn thẫn thờ nhìn mông lung ra một nơi xa lắc xa lơ nào đó. Anh hỏi:

“Sao vậy em, nhà nước xây nghĩa trang thì dính dáng gì tới mình mà em buồn quá vậy?”

Chị quay lại nhìn chồng, hai mắt mở to:

“Sao mấy ông lớn không nghĩ đến việc xây thêm mấy cái bệnh viện cho người đau ốm, xây thêm trường học cho trẻ em? Họ bỏ ra tới 1,400 tỷ đồng để lo “chôn “ những người chưa chết. Rồi lại thêm 105 gia đình phải mất nhà mất cửa cho họ thêm chỗ. Anh nhìn đi, cả bao nhiêu năm nay bệnh nhân cũng như người thân của bệnh nhân nằm màn trời chiếu đất trước cửa bệnh viện. Trẻ con nghèo không đủ cơm đã đành ngay cả trường lớp cũng thiếu thốn. Có ông lớn nào quan tâm tới không?”

Anh nhìn vợ với cặp mắt thương hại, nói nhỏ:

“Thế bây giờ em định làm gì, em cầm biển ngữ đi biểu tình đòi nhà nước xây bệnh viện, trường học thay vì xây nghĩa trang cho các ông lớn hả. Em có muốn vào tù vì tội chống phá nhà nước, trong khi con em đang bị ung thư không?”

Chị nhìn anh một lúc, không trả lời. Hai con mắt chị ánh lên một nét giận dữ, chị mở tung những cái giỏ ra tìm con dao, chị nín thở rọc tờ báo ra từng miếng nhỏ để làm những cái phong bì, chị dằn mạnh từng nhát dao đi qua những hàng chữ: “nghĩa trang, “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước” “Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.” “105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.”
Image
Mô hình nghĩa trang cho các cán bộ cao cấp

Chị cắt ngang, cắt dọc tờ báo tưởng như cắt đứt được những dự án làm chị uất ức. Chị cắt được hơn mười cái phong bì, chia ra bốn túi khác nhau, cho bác sĩ, y tá và lao công. Chị biết, muốn cứu con chị thì không thể nào tránh né được cái khoản chi trả thêm này.

Chị nhìn anh đang thu xếp về nhà với mẹ để kịp cúng Rằm. Thật ra chị biết, cúng Rằm chỉ là phụ, việc chính là anh về nhà chạy thêm tiền, số tiền anh chị đem theo được so với số tiền sẽ phải dùng tới cách xa nhau nhiều quá. Nghĩ đến những món nợ sẽ phải trả, chị thấy như có một khối đá đè lên ngực.

Hai con mắt chị vẫn còn ánh lên những tia giận dữ, cái giận dữ của một người hoàn toàn bất lực trước một việc xấu mà sức mình không làm gì được. Một khu nghĩa trang 5000 huyệt mộ. Quan chức cao cấp Đảng ở đâu mà nhiều thế? Chắc chắn các đại gia sẽ có phần mộ ở đây. Có khi cả ca sĩ nổi tiếng có tiền cũng dọn vào. Chưa chắc các danh nhân và anh hùng tử sĩ đã có chỗ, vì phần đông gia đình họ nghèo và họ đã tắt tiếng nói (may ra có một tấm bia chung).

Chị kêu thầm trong ngực. “Bệnh Viện, Trường Học và Nghĩa Trang. Một cái cho người sống, một cái cho kẻ (chưa) chết. Cái nào cần thiết hơn.” Nước mắt chị ứa ra.

Có ai trả lời cho chị không?

Trần Mộng Tú
vuongquan
Posts: 270
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:15 pm
Contact:

Post by vuongquan »


Image


Ở TRỌ

Nguyễn Thị Thanh Dương.
Chị Bông dứt phone với anh thợ làm hàng rào và lẩm bẩm: “ Anh ta cho gía thay toàn bộ hàng rào 6,000 đồng, hao tốn qúa”.
Chị bực mình liếc mắt sang nhà hàng xóm có chung cái hàng rào sau vườn và lẩm bẩm tiếp: “ Mà cái nhà hàng xóm này lại không biết điều”.
Trước đó anh hàng xóm người Mễ đã vài lần thẳng thắn từ chối hợp tác cùng chị Bông thay phía hàng rào chung của hai nhà với lý do hàng rào chưa hư hỏng gì và tiền thì họ chưa có luôn.
Trong vườn chị Bông trồng nhiều cây hoa hồng, mái hiên patio treo chiếc chuông gío nên thơ, nếu được hàng rào đẹp thì khu vườn sẽ càng đẹp thêm.
Cái cell phone chị để trên bàn trong sân patio reo lên, không lẽ anh thợ hàng rào gọi lại…giảm gía? Hay là anh hàng xóm Mễ gọi sang báo tin đã đồng ý làm hàng rào?
Chị Bông vội vàng mở phone, thì ra là chị Huê, người bạn thân thiết. Giọng chị Huê tưng bừng vui:
- Bông ơi, hai vợ chồng mình mới mua một căn biệt thự đẹp mà gía khá rẻ so với thị trường, vợ chồng chủ nhà ly dị cần bán nhà nhanh, ưu tiên cho tiền mặt, mình đủ điều kiện. Tháng sau bạn sẽ đến ăn mừng tân gia nhé.
Chị Bông ngạc nhiên:
- Ơ kìa, nhà Huê đang ở cũng mới cũng đẹp mà lại đổi nhà à?
- Nhà này mới hơn đẹp hơn và sang trọng hơn. Đây đúng là căn nhà ước mơ của mình. Hàng xóm toàn là triệu phú trở lên đó nha.
Chị Huê say sưa tả ngôi biệt thự từ ngoài sân vào bên trong đến cả khu vườn, chị Bông nghe đến đâu choáng váng đến đó. Một tiếng sau buông phone mà chị Bông còn thẫn thờ như người mới bị bỏ bùa chưa tỉnh.
Bất giác chị ngó quanh khu vườn nhà mình bỗng thấy …tủi, gía mà chị giàu có như chị Huê thì đã thay quách toàn bộ hàng rào khỏi cần kêu gọi anh hàng xóm Mễ đóng góp.
Chị Bông đang ganh tị với căn biệt thự chị Huê vừa khoe. Anh Bông lững thững ra vườn và bắt gặp vợ ngồi im lặng trong ghế xích đu, anh thắc mắc:
- Em nghĩ gì mà thẫn thờ ra thế? Lại bực mình vì anh hàng xóm Mễ vẫn chưa chịu chung tiến thay cái hàng rào mới hả?
- Tại anh Mễ và…tại chị Huê.
- Anh biết rồi, bà Huê không khoe stock của bà ấy lên gía thì cũng khoe cửa hàng bánh mì thịt nguội, giò chả, chè cháo của bà ấy doanh thu ngày càng tăng.
Chị Bông thán phục:
- Anh nói đúng đó, cửa hàng chị ấy đắt hàng lắm, dù đã thuê mướn cả chục người mà hai vợ chồng vẫn bận rộn cả ngày, trong khi vợ chồng mình cùng tuổi về hưu như anh chị Huê thì ăn không ngồi rồi chẳng kiếm ra xu nào ngoài mấy đồng tiền hưu.
- Tội nghiệp, anh chị Huê lớn tuổi rồi mà vẫn làm việc đầu tắt mặt tối. Tóm lại giàu có mà vẫn …”khổ” vì kiếm tiền. Anh nghe kể rằng có bà gìa luôn than thở mình mẩy tay chân đau nhức, tai điếc mắt mờ thế mà vẫn …thích mở hầu bao ra đếm tiền, chẳng than mỏi tay đau tay hay mờ mắt gì cả. Thiếu đồng nào bà phát hiện ra ngay.
Chị Bông cãi lại:
- Càng có tiền càng sướng chứ, tội nghiệp gì chị Huê. Vợ chồng chị Huê mới mua một căn biệt thự hơn một triệu, trả tiền mặt nhé. Em nghe mà phát ham, trong khi em muốn thay cái hàng rào chỉ 6,000 đồng cũng không dám làm. Nãy giờ em cứ mơ ước nếu mình trúng số thì sẽ mua căn biệt thự trong khu ấy làm hàng xóm các triệu phú cho oai, hàng xóm với mấy nhà Mễ này chỉ thêm bực mình..
Anh Bông an ủi:
- Hàng rào sau vườn còn tốt chán, anh hàng xóm Mễ từ chối thay mới là đúng rồi. Em đừng “khủng bố” tinh thần nhà anh ta nữa, lần nào gặp mặt họ em cũng hỏi chỉ một câu: “ Anh chị suy nghĩ kỹ chưa? Có thay hàng rào với tôi không ?”. Mà em không nhớ bài thuyết giảng ở chùa hôm nào à, cuộc đời là cõi tạm, chúng ta đang ở trọ trần gian, đòi chi những điều hoàn hảo.
- Anh chỉ chuyên môn bênh hàng xóm, xe nó đậu đầy lề đường, trở ngại lối đi, chướng cả mắt, anh lại khen xe đậu thế này trông…. nhộn nhịp khu phố. Cuối tuần nó tụ họp bạn bè uống bia trước sân mở nhạc tiếng Spanish ầm ĩ anh cũng khen… vui cả khu phố.
- Sống hòa đồng và nhịn hàng xóm một tí có sao đâu.
- Nếu thế em cũng sẽ đậu xe lòng lề đường và cuối tuần tụ họp bạn bè ngoài sân mở ầm ĩ nhạc Bolero Thanh Tuyền Chế Linh, Hương Lan Tuấn Vũ cho hàng xóm Mễ nghe chơi nhá.
- Vợ chồng Mễ hàng xóm hiền lành dễ thương, chả lẽ vì cái hàng rào mà em đành hanh với họ thế à ? Thuyết nhà Phật….
Chị Bông ngắt lời chồng:
- Ôi, anh lại thuyết nhà Phật lắm bi quan, nào đời là bể khổ, đời là cõi tạm, kiếp người mong manh, trở về cát bụi, ai mà đang tuyệt vọng sẽ chẳng muốn kiếp lai sinh. Em muốn như anh chị Huê lúc nào cũng phơi phới kiếm tiền và hưởng đời, muốn gì cũng có. Hay là mình gom góp vốn liếng, vay mượn thêm con cái đầu tư mutual fund hay địa ốc đi anh, chơi stock thì càng kiếm nhanh hơn nữa. Vậy anh muốn cái nào?
- Nghĩa là sao? Mình mua nhà cho thuê hoặc mua mutual fund, hoặc chơi stock đu dây với may rủi ấy hả?
Chị Bông giảng giải:
- Anh nhát gan không chơi stock thì thôi. Mua nhà mình chỉ cần down khoảng 20% và lấy tiền thuê hàng tháng trả mortgage, 10 hay 15 năm sẽ trả xong nợ, căn nhà thuộc về mình. Hay là đầu tư mutual fund chậm hơn nhưng 10 năm sau số tiền đầu tư có thể tăng gấp đôi. Tới lúc đó mình lấy cả vốn lẫn lời ra…mua nhà biệt thự làm hàng xóm các triệu phú luôn.
- Nghe em nói kiếm tiền nhẹ nhàng dễ dàng qúa. Anh…không chọn cái nào cả.
Chị Bông cụt hứng giận dỗi trách:
- Hèn gì số mình nghèo là phải. Suốt đời ở căn nhà xấu này thôi.
- Ai mà chẳng muốn cuộc sống đầy đủ cao sang, anh cũng thích nhà cao cửa rộng lắm chứ, nhưng mỗi người một hoàn cảnh. Bao nhiêu năm nay không giàu có được nói chi tuổi xế chiều.
Rồi anh Bông vỗ về:
- Thôi em đừng ganh đua với chị Huê nữa, mình không có tiền bạc và càng không có thời gian để đầu tư đường dài. Em cứ an phận làm hàng xóm mấy anh chị Mễ, mấy anh chị Mỹ đen như hiện nay đi. Vợ chồng mình là khách hàng thường xuyên của CVS pharmacy tại thành phố này, các nhân viên bán thuốc full time thậm chí nhân viên part time thay đổi soành soạch mà họ còn nhớ tên nhớ mặt mình. Vậy thì hơn 10 năm nữa mình 80 tuổi, bệnh tình mình đi tới đâu? liệu có còn sức khỏe mà hưởng nhà to nhà đẹp không, hả? nếu có thay đổi nhà thì anh sẵn sàng moving đến căn nhà nào ….gần bệnh viện nhất để mỗi lần gọi 911 cấp cứu cho tiện.

***************.
Đến dự buổi tiệc tân gia nhà chị Huê, căn biệt thự lộng lẫy ấy chị Bông khó thể nào quên, vừa trầm trồ khen ngợi vừa mơ ước khi chị Huê dắt khách đi từng phòng giới thiệu, đây là phòng khách của tôi, phòng bếp của tôi, phòng nào cũng đẹp cũng sang.
Bước vào căn phòng ngủ kê hai chiếc giường mà vẫn còn rộng mênh mông với những tủ, gương sang trọng, chị Huê lại hãnh diện sung sướng:
- Các bạn ơi, đây là phòng ngủ yêu qúy của tôi, từ cái giường, khăn trải nệm, gối mền, rèm cửa đều là hàng hiệu….
Bạn bè ai cũng khen vợ chồng chị Huê có phước, con cái đứa nào cũng ăn học thành đạt, gia đình đề huề, anh chị Huê thì giàu có làm ăn tiền vô như nước. Chị Bông hỏi:
- Bao giờ thì anh chị Huê nghỉ bán buôn, ở nhà hưởng nhàn thảnh thơi trong căn nhà đẹp này ?.
Chị Huê phân trần:
- Mình cũng muốn nghỉ lắm. Con cái có công việc của chúng, chẳng đứa nào thích cái nghề bán bánh mì thịt nguội này cả, sang cửa hàng cho người khác thì tiếc rẻ vì công việc làm ăn càng ngày càng phát đạt, tiền cứ chạy vô túi vô nhà băng nên chẳng nỡ ngừng, thôi thì còn sức còn làm, có nhiều tiền tiêu xài cũng sướng tay. Nhờ thế vợ chồng mình mới mua căn biệt thự này dễ dàng.
Chị Huê ghé tai chị Bông khoe thêm:
- Trừ mọi chi phí mỗi tháng vợ chồng mình kiếm mười mấy ngàn, chẳng cần ăn học bằng cấp gì mà tính ra hơn hẳn lương kỹ sư lâu năm, tự mình làm chủ mình và làm chủ gần chục nhân viên từ khâu làm bánh mì, làm giò chả thịt nguội, đến khâu đứng bán cho khách hàng. Thử hỏi là chị có chịu buông bỏ cửa hàng ngồi nhà lãnh vài đồng lương hưu không chứ.
Sau dịp ăn tân gia ấy chị Bông ít có dịp đến nhà chị Huê nhưng thường gặp chị ở cửa hàng bánh mì thịt nguội nổi tiếng ngon nhất của thành phố này. Vợ chồng chị Huê nhanh nhẹn xã giao với khách hàng và tháo vát với công việc, chỉ huy nhân viên đâu ra đấy.
Thế mà một hôm chị Bông nghe hung tin, một người bạn gọi phone báo tin:
- Chị Huê đã qua đời trong giấc ngủ đêm qua vì heart attack.
Trời ơi, một cái chết qúa bất ngờ, không hề báo trước. Chơi thân với chị Huê nhưng chị Bông có nghe chị Huê than thở gì về bệnh tim mạch đâu.
Hay là chị Huê làm việc nhiều qúa nên căng thẳng và kiệt sức, ảnh hưởng đến tim mạch??
Sau đám tang chị Huê, cửa hàng bánh mì thịt nguội trở lại hoạt động bình thường, bạn bè ai cũng ngạc nhiên, tưởng anh Huê mất đi người vợ yêu dấu mấy chục năm bên nhau anh sẽ mất nguồn cảm hứng kiếm tiền.
Vài tháng sau chị Bông đã nghe bạn bè chung của chị Huê truyền nhau tin đồn anh Huê đang “tình ý” với chị Sương nhân viên quản lý cửa hàng.
Đó là một thiếu phụ khoảng 45 tuổi, chị ta là mẹ độc thân của ba đứa con. Được bà chủ tin cậy chị ta nhanh nhẹn khôn ngoan chăm chỉ làm việc và bây giờ thì được ông chủ độc thân ưu ái.
Ai cũng tưởng họ chỉ “tình ý” và bồ bịch cho đời nhau đỡ buồn. Nhưng một năm sau thì anh Huê chính thức đi thêm bước nữa với chị Sương với lý do để có người phụ anh công việc kinh doanh, cứ làm như anh chỉ cần người làm hơn là cần người tình.
Căn biệt thự lộng lẫy của chị Huê nay đã có nữ chủ nhân mới, thêm ba đứa con của chị ta nên cửa nhà đông vui hẳn lên, lúc nào cũng có một hai chiếc xe loại sang đậu trước sân, chiều tối các khung cửa sổ căn biệt thự đều sáng đèn ấm cúng..
Cửa hàng sản xuất bánh mì thịt nguội đã có nữ chủ nhân mới.
Ngày nào chị Huê từng hãnh diện khoe công việc và tiền bạc nay những huê lợi ấy đã vào túi người khác..
Ngày nào chị Huê từng sung sướng khoe căn phòng ngủ xinh đẹp sang trọng, nay căn phòng ngủ ấy cũng thuộc về người phụ nữ khác.
Và người chồng suốt mấy chục năm thân ái chung đôi của chị cũng thuộc về người khác luôn.
Chị Bông thấy xót xa giùm người bạn đã nằm dưới nấm mộ. Chị than thở với chồng:
- Thương chị Huê qúa. Nhớ ngày mới mua căn biệt thự chị Huê hớn hở vui mừng bao nhiêu, chị trang hoàng chăm sóc từng căn phòng, thế mà ở chẳng bao lâu…
Anh Bông lại triết lý nhà phật:
- Chị Huê đã “ở trọ” trong căn biệt thự ấy, chứ có gì là của chị Huê đâu, kể cả bạc tiền và người chồng yêu dấu. Hết thời hạn thì ra đi. Vợ chồng mình cũng đang “ở trọ” trong chính căn nhà của mình đây. Cuộc sống luôn đi bên cạnh những rủi ro bất trắc, tai nạn hay bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào. Chúng ta không chết vì tại nạn, bệnh hoạn thì cũng chết vì tuổi gìa sức yếu, mười năm, hai mươi năm nữa thôi căn nhà này sẽ thuộc về ai…
Chị Bông giật mình, anh Bông nói đúng qúa, sau này vợ chồng chị chết đi, con cái đều có nhà riêng và công việc ở xa, chẳng đứa nào có nhu cầu dọn về đây. Căn nhà này sẽ bán đi và thuộc về người khác.
Chị Bông chợt nhớ tới gia đình một người quen biết, sang Mỹ diện H.O. năm 1990, Sau 5 năm làm việc cật lực họ có chút tiền down một căn nhà. Người vợ lãnh đồ từ hãng và may tại nhà, vừa chăm chỉ may vừa lo cơm nước cho chồng đi làm con đi học, chị hết sức tiết kiệm tiền bạc và cả thời gian, ít giao du với bạn bè, thậm chí từng là con chiên ngoan đạo chị cũng “né” màn đi nhà thờ hàng tuần, chỉ đi vào những dịp lễ lớn, vì đi nhà thờ là “tốn kém” , luôn có mục đóng góp đủ thứ, nay món này mai món khác chẳng bao giờ hết việc. Mục đích chính của chị là làm việc tối đa và tiết kiệm tối đa để có tiền trả nợ căn nhà .
Nhà cửa trả xong, vốn liếng bắt đầu rủng rỉnh thì đùng một cái chị H.O lâm trọng bệnh qua đời. Chồng quan niệm con cái đứa nào cũng có ăn học và có gia đình riêng không phải lo cho chúng nữa, ông ta về Việt Nam cưới một cô hàng xóm lỡ thì nhưng vẫn còn trẻ chán so với ông, bán căn nhà cũ đang ở để mua căn nhà khác mới hơn đẹp hơn cho xứng và le lói với người mới.
Chị H.O này cũng “ở trọ” và ra đi “trắng tay” như chị Huê.
Thế là chị Bông lại an phận tìm vui với căn nhà của mình, khu vườn sau hoa lá và chuông gió vẫn đẹp và nên thơ với cái hàng rào cũ mà chị từng muốn thay bỏ chúng.
Một buổi sáng chị Bông mang rác ra sân trước thì thấy chị Mễ hàng xóm cũng kéo thùng rác ra sân liền tươi cười xã giao, bù đắp cho những ngày chị Bông liếc mắt hay lườm lườm sang nhà nó với vẻ lạnh lùng:
- Chị khỏe không? Hôm nay chị không đi làm hả ?
Chị Mễ than thở và e dè:
- Tôi bị mất việc rồi, đang hưởng tiền thất nghiệp. Chị đừng rủ tôi thay cái hàng rào nữa nghe
Xong chị ta nửa đùa nửa thật:
- Chỉ còn chồng tôi đi làm, nhà 4 đứa con, nếu tôi mà thất nghiệp dài lâu thì không có tiền trả mortgage căn nhà này đâu, lúc ấy chị sẽ có hàng xóm mới để rủ họ thay hàng rào mới.
Chị Bông cảm thấy như mình có lỗi và ái ngại qúa. Hoàn cảnh nhà hàng xóm chẳng khá gỉa gì thế mà bấy lâu chị cứ “mặt sưng mày xỉa” ngầm với họ vì cái tội không chịu chung tiền làm hàng rào mới. Chị Bông dịu dàng thân mật:
- Chúc chị mau kiếm được việc làm, còn cái hàng rào chung của chúng ta, đúng như chồng chị đã nói, vẫn tốt lắm, thay làm chi cho phí tiền.



Trong ánh mắt chị Mễ thoáng vẻ ngạc nhiên và vui. Chắc vì lần gặp mặt này chị ta thấy chị Bông đã thay đổi thái độ qúa bất ngờ.
Chị Bông lại thấy anh Bông nói đúng, chẳng có ai dám bảo đảm ở căn nhà của mình dài lâu chứ đừng nói suốt đời. Ngoài cái chết, người ta phải rời xa căn nhà vì hàng đống lý do , vì công việc, vì trường học của con cái hay vì mất job, vì li dị… v..v…và biết đâu chỉ vì…. nhà hàng xóm. Gia đình anh chị Mễ này không chịu nổi mụ hàng xóm khó tính như chị Bông, một ngày nào đó họ cũng sẽ dọn đi cho khuất mắt. ?
Chị Bông chẳng cần cái hàng rào mới đẹp nữa cho hao tốn bạc tiền của mình và của hàng xóm và chị càng không mơ nhà to đẹp cao sang nữa khi tuổi đã xế chiều. Vì nhà to đẹp hay nhà cũ xấu cũng chỉ là quán trọ ven đường đời cho ta dừng chân và một ngày nào đó ta sẽ về nơi yên nghỉ sau cùng đó mới là căn nhà vĩnh cửu của riêng ta.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Dec. 21, 2017 )
bichphuong
Posts: 617
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Hạt tình hồi sinh
Cái tin mụ Ty sắp lấy chồng Việt Kiều, truyền miệng loan đi nhanh như gió, làm chấn động cả mấy làng trong huyện Triệu Phong. Không ai tin là chuyện thật, người ta công khai xôn xao bàn tán. Nhưng cái tin nầy đã làm nức lòng và lên tinh thần đám đàn bà goá, và các cô gái muộn chồng trong cả tỉnh. Mụ Ty đã già khú đế, trên sáu mươi tuổi rồi, xấu xí ốm o, khô đét vì đói ăn nhiều năm, chỉ còn da bọc xương, răng cái còn cái mất, lại mù loà, dơ dáy, nghèo rớt mùng tơi, có thời đi ăn xin. Thế mà có Việt Kiều ở Mỹ về xin cưới. Câu chuyện gần như hoang đường, người tỉnh táo khó lòng tin được. Người ta bàn tán:


“Chắc có âm mưu thâm độc chi đây, chứ cưới mụ Ty về mà làm gì? Đem bán cho nhà thổ, chúng cũng rượt đánh đến bể đầu. Mụ đó mù loà yếu đuối, cũng không đủ sức làm nô lệ hầu hạ cho ai được. Đừng nói chuyện tình dục, già đến thế, chắc cũng đã mốc meo, héo quắt đi rồi. Mụ chỉ còn xương với da, chỉ có đem mà nấu cao, giả “cao hổ cốt” may ra còn có lý.”

Đám đàn ông bàn thêm:

“Con gái trẻ đẹp hơ-hớ thiếu chi mà đi cưới mụ già. Cưới về đem đặt lên bàn thờ mà lạy chắc? Hay là thằng cha Việt Kiều đó đau bệnh điên, làm chuyện trái đời, chơi bạo lấy tiếng? Nghe không hợp lý chút nào. ”

Ông thầy pháp thường hay gọi hồn người chết về nói chuyện thế gian cũng bóp đầu, bóp trán, hứa sẽ kêu hồn bố mẹ mụ Ty về hỏi cho ra lẽ. Ông nói thầm với bà con:

“Không chừng thằng cha Việt Kiều là phù thủy, cưới mụ Ty về để giết chết mà luyện “thiên linh cái”, vì mụ Ty dù sao cũng còn “đồng trinh”, chưa biết đến hơi trai.”

Mấy mụ đàn bà yếu bóng vía rùn vai, lè lưỡi sợ hãi, và họ tin ông thầy pháp nói có lý.

Chính quyền địa phương cũng họp chi bộ đảng cộng sản nhiều lần, để thảo luận và tìm hiểu lý do tại sao gã Việt Kiều kia cưới mụ Ty. Có âm mưu gián điệp của đế quốc Mỹ gài vào, dò xét tình hình “ta” không? Bí thư xã báo cáo lên quận. Bí thư quận nói:

“Không phải âm mưu gián điệp, vì cả Tổng Thống Mỹ Cờ-Lin-Tơn còn đi phất phơ ăn phở giữa chợ ở Việt Nam mình nữa kia mà. Nhưng cũng phải đề cao cảnh giác, để không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra cho xã, huyện nhà.”

Nghị quyết chung của chính quyền xã là gây khó khăn tối đa cho tên Việt Kiều kia chán nản, mà bỏ ý định bí mật lạ lùng kia đi. Họ tin rằng, nắm quyền trong tay, thì thừa sức ngăn cản được cuộc tình duyên tréo ngoe nầy.

Phần mụ Ty, nghe bàn vào, tán ra, người nầy nói một câu, kẻ khác bàn vài câu, cũng đâm ra hoang mang, và sợ. Nghi ngờ đến cái tấm lòng của ông Thu, người Việt Kiều muốn cưới mụ làm vợ. Những lời bàn tán kia, đều có lý, không phải dựng đứng lên.

Hơn năm mươi năm trước, khi ông Thu mới mười lăm tuổi, gặp bà Ty, thì bị “cú sét ái tình” đánh cho ngã gục. Cả gan về nhà xin cưới vợ, bị bố ông đánh cho một trận đòn quắn đít, nên tình yêu cũng tắt ngúm từ đó. Rồi mấy mươi năm thời cuộc nổi trôi, chiến tranh, tù đày, đi Mỹ, chạy theo cơm áo, ông Thu không có thì giờ, không còn kiên nhẫn, hứng thú, để theo đuổi bất cứ một bóng hồng nào. Cho đến khi ông đã hưu trí, về thăm quê ngoại, biết bà Ty cũng phòng không chiếc bóng, mù lòa, đói khát. Hai người gặp lại nhau. Ông nhớ lời ước hẹn năm xưa: “kiếp sau đền bù sum họp”, nên muốn cưới bà Ty đem về Mỹ. Nhiều người bà con nội ngoại đều can gián ông. Họ bảo rằng, nếu lấy vợ, thì nên kiếm một người có trình độ, trẻ, đẹp, khỏe mạnh, để còn chăm sóc, nương tựa khi đau yếu trong trong tuổi già. Lấy mụ Ty về, không nhờ vả được gì, còn phải lo ngược lại cho mụ. Thêm khổ thân già. Vả lại, trình độ kiến thức quá cách biệt, rất khó sống chung, khó hoà hợp, khó thông cảm. Chỉ gây bực mình và làm khổ nhau. Họ khuyên ông cho mụ Ty một số tiền lớn để sinh sống, rồi thôi, không tội chi mà đèo bòng cái gánh nợ thổ tả đó.

Gia đình, bạn bè gián tiếp sắp đặt, làm như tình cờ, đưa đến cho ông gặp nhiều cô, nhiều bà. Có trẻ đẹp, có xồn xồn, cả chưa chồng và cả goá phụ. Các bà, các cô nầy, nhìn ông hau háu, tha thiết, với ánh mắt hy vọng, khẩn cầu. Ông thấy nhẫn tâm và tội nghiệp họ. Có người còn nhỏ, chỉ đáng hàng con, cháu ông thôi. Ông nói rằng, tất cả bọn họ đều đáng thương, chỉ vì cơm áo, mà phải tha thiết với một kẻ già nua như ông. Nhưng mụ Ty là kẻ đáng thương nhất, đáng được đền bù nhất. Quan trọng hơn hết là mối tình hơn nửa thế kỷ trước, có phôi pha phần nào thật, nhưng vẫn còn âm ỉ trong tim. Cậu Út của ông Thu nói:

“Yêu là cái khỉ gì? Bọn con nít ngu, mới bày đặt yêu đương. Mình già rồi, khôn quá, hết ngu rồi. Lấy vợ, lấy chồng là phải suy xét hơn thiệt, trắng đen, cân lường. Còn trẻ, bồng bột, ngu nên ủi đại, không nghĩ đến hậu quả về sau. Bởi vậy, cháu phải suy nghĩ thật kỹ trước khi lấy mụ Ty”

Ông Thu nói với cậu út:

“Lạ thật, năm mười lăm tuổi, muốn lấy vợ bị ngăn cản đã đành. Bây giờ sáu mươi sáu tuổi, muốn lấy vợ, cũng bị ngăn cản dữ dội. Thế thì chờ đến khi xuống lỗ mới hết trắc trở sao?”

Xóm giềng và họ hàng của nhao nhao xúi giục mụ Ty thách cưới thật cho cao. Đòi cho được hai trăm phần quà. Mỗi phần có một hộp trà, một hộp bánh, sáu quả cau, một liễn trầu. Đòi thêm hai cái kiềng vàng, cặp xuyến vàng, một đôi bông tai. Phải đãi ăn năm chục người. Mụ Ty nghe mà lo lắng bảo:

“Mình thách cưới cao quá, lỡ người ta không lo nổi, rồi bỏ đi thì uổng. Mà mình thì đã tra (già) lắm rồi. Cả đời tui chưa đeo kiềng, đeo xuyến, chừ có đeo vô, cũng cấn chết, mà trẻn (xấu hổ) nữa.”

Một bà nạt lớn:

“Tra thì tra, chứ chẳng lẽ cho không, cóc đòi chi cả? Đừng tự làm mình mất giá. Hắn không cưới thì thôi.”

Nghe nói vậy, mụ Ty giật mình tái mặt, ngồi thừ người ra. Một bà khác tiếp lời:

“Nì, mụ đừng lo, Việt Kiều giàu lắm. Người nào cũng lái xe hơi, ở nhà lầu. Mình không đòi là dại. Mà cũng phải đủ lễ “tam sênh” mới được. Ba lễ, dạm mặt, đám hỏi, đám cưới đàng hoàng, chớ không phải đem xe về bắt cóc chạy đi. Làng nước không chịu cho mụ chịu thiệt thòi mô. Mụ mà không đòi, thì chúng tôi cũng đứng ra, đại diện nhà gái mà đòi”

Mụ Ty hốt hoảng nói nho nhỏ:

“Thôi thôi, mấy mự, mấy thím ơi. Mần rình rang chi thêm xấu mặt. Mấy chục năm ni, có đám cưới mô trong làng mà đủ ba lễ? Tui nghèo khổ, chớ có phải cành vàng lá ngọc chi mô.”

“Đám cưới trong làng mình, không đủ ba lễ là vì bên rể nghèo. Phải “giản đơn” lại, chớ không thì trai, gái, không vợ, không chồng cả làng sao? Mình nhắm sức người ta có, mới đòi. Mụ lo chi?”

Thấy bà con áp lực quá, mụ Ty ôm mặt khóc. Người ta bồi thêm:

“Mụ mà dại, thì có cả làng khôn. Đòi là đòi cho mụ, chớ có đòi cho chúng tui mô. Sính lễ mà đòi được, thì mụ cũng cất đi, sau nầy làm của, phòng khi nầy khi kia, chớ chúng tui có lợi chi?”

Mụ Ty đem những lời thách cưới của bà con nói lại cho ông Thu nghe. Nhưng mụ không quên thêm một câu rằng, nếu ông không có, và không chịu thì thôi, mụ không đòi hỏi chi cả.

Ông Thu cười và nói, đó là “chuyện nhỏ”. Vòng, xuyến, hoa tai, nếu mụ muốn, thì ông sẽ mua cho mụ. Nhưng hai trăm phần cưới cau trầu, trà bánh, thì không, phí phạm vô ích. Mụ Tỵ nghe mà mừng, sung sướng và nói:

“Thôi, thôi, đừng vòng xuyến chi cả. Xưa nay không đeo, bi chừ đeo vô, ngứa ngáy không chịu được mô. Đeo vô, trẻn lắm.”

Khi gặp lại mụ Ty trong hoàn cảnh mù loà, đói rách lạnh lẽo, ông Thu muốn đem mụ về Sài Gòn ở tạm. Thuê nhà, thuê người chăm nom mụ trong thời gian chờ đợi. Khi đầy đủ thủ tục, và được sở di trú Mỹ chấp thuận, ông sẽ đưa mụ về California. Nhưng vì bà con, làng nước xúi giục, mụ Ty nhất định không chịu ra khỏi làng, khi chưa có đám cưới, chưa có hôn thú, và chưa có giấy máy bay đi Mỹ. Mụ khóc và nói:

“Bà con dặn tui đừng có đi mô cả. Đi ra khỏi làng, vô tận Sài Gòn xa xôi, lỡ anh đổi ý, bỏ tui bơ vơ nơi xa lạ, mần răng mà tui có tiền, có phương tiện về lại làng. Mà về lại cũng không được mô. Thiên hạ cười cho thúi đầu. Tra chừng ni tuổi rồi mà còn bỏ làng đi theo trai, bị phụ tình, mang xác về. Xấu hổ lắm.”

Ông Thu ôm đầu thở dài. Biết mụ Ty đã bị xóm giềng bàn ra, tán vào, khuyên bảo nầy nọ. Không hẵn những lời khuyên đó hoàn toàn vô lý. Ông nhỏ nhẹ nói với mụ Ty.

Mụ Ty nói rất tự nhiên:

“Mấy chục năm sống nơi đây, cũng đã quen rồi, tui không thấy khổ nữa. Đói thì có, rách thì có. Nếu đủ cơm ăn hàng ngày là quá quý rồi. Tui không dám mơ ước chi hơn.”

“Nhà ai nấy ở. Không ai dư chỗ cho thuê mô. Ở nhà ni, có chết mô mà sợ. Nếu ở nhà ni mà chết, thì chết từ lâu rồi. Cứ cho tui ở nhà ni, đừng bắt tui đi nơi khác. Tội nghiệp.”

Ông Thu chịu thua, không muốn ép mụ Ty dọn đi nơi khác, phiền lòng mụ. Ông nhờ người bà con bên ngoại thuê thợ tu bổ lại căn chòi, lợp lại mái, che phên, làm cửa lưới ngăn muỗi, câu điện, bắt cho một chiếc quạt máy. Mụ Ty nói:

“Sửa phên, lợp nhà thì được. Câu điện chi cho phí. Tui mù loà, ngày như đêm, cần chi đèn đóm. Bắt quạt máy mần chi, lỡ nó rớt xuống, bể đầu. Khi mô nóng, ra ngồi bên hè, lấy mo cau mà quạt cũng đủ mát rồi.”

Ông Thu thuê một đứa cháu họ của mụ Ty, đến ở chung để chăm sóc, đi chợ, nấu nướng cho mụ. Mỗi ngày mụ được ăn cơm không độn khoai sắn, có cá kho, thịt luộc. Mụ Ty sung sướng hớn hở. Mụ nói với đứa cháu;

“Ăn sang phung phí như ri, ngày mô cũng thịt, cá, thì có núi của cũng sập. Thôi, đừng hoang phí nữa. Cứ cơm trắng với mắm nêm, mắm ruốc, rau luộc là đủ, sung sướng lắm rồi.”

Đưá cháu cười nói:

“Dượng Thu đã đưa tiền cho chú Hai, dặn phát tiền chợ cho cháu. O đừng lo. O mà ăn ngon, thì cháu cũng được ăn ngon theo. Cả đời, chưa khi mô cháu được ăn no, sung sướng, như bây chừ cả. Cháu hỏi thiệt, O đừng giấu cháu nghe. O bỏ thứ “bùa” chi, mà dượng Thu Việt kiều mê O dữ rứa? Dạy cho cháu với. Cháu thương thằng Bường, mà hắn cứ lờ tít đi, như không biết chi hết.”

“Mụ nội mi. Bùa chú chi mô. Người ta ở bên Mỹ, tau ở đây, mù loà, có bùa cũng không bỏ được. Miềng ăn ở ngay thật, hiền lành, trời thương nên đem dượng Thu mi về đây cho tau.”

Mụ Vàng người trong xóm, trước đây thường hay cho mụ Ty khoai sắn, ghé nhà ngồi nói chuyện, trước khi ra về nói:

“Mai mốt o qua Mỹ, làm ra tiền, đừng quên tui. Nhớ gởi về cho nhiều nhiều, để tui xây gạch, lợp ngói căn nhà nghe.”

Chú Trọng dặn dò tha thiết:

“Tui biết chị tốt lắm, qua Mỹ thế nào cũng gởi tiền về cho tui mua cặp trâu, đi cày thuê. Cả đời tui, mơ ước có được con trâu, chị không giúp, thì không khi mô có. Đừng vì giàu sang sung sướng mà quên bà con nghèo.”

Mụ Ty hoang mang lắm, nhưng cứ nói thật những ý nghĩ trong lòng mụ:

“Sợ không có, chứ có thì phải nghĩ đến bà con, phải chia xẻ cơm áo cho nhau chớ. Như bà con đã chia khoai sắn cho tui sống mấy chục năm ni. Cậu đừng có lo. Tui mà có của thì chia hết. Nghe bà con nói chuyện, tui nghĩ là Tây, Mỹ nó ngu lắm, để tiền, để của ngoài đường, cho mình qua đó mà hốt, như hốt cứt trâu ngoài ruộng”

Mụ Viện, nhà ở xóm trên, có đứa con gái ba mươi lăm tuổi bị ly dị. Cô nầy về ở với cha mẹ. Mụ Viện đến năn nỉ mụ Ty, đề nghị thẳng thừng:

“Chị tra (già) rồi, đi Tây, đi Mỹ làm chi, bên đó lạnh lắm, chịu không nổi mô. Mà đã tra dư ri (già như thế nầy), còn đi lấy dôn (chồng), thiên hạ, làng nước, con nít, chúng nó cười cho thúi trốt (thối đầu). Trẻn lắm (xấu hổ). Thôi thì chị nhường ông Việt Kiều đó cho con Thại nhà tui, hắn còn trẻ, chịu được lạnh, có thể giúp ông Việt Kiều nhiều chuyện, đẻ cho ông vài ba đứa con. Phần chị, thì ở đây đã quen, đi mô cho mệt.”

Mụ Tý nghe mà rưng rưng nước mắt, vì xưa nay đã quen bị thiên hạ chèn ép mà không dám kêu ca. Mụ nói nho nhỏ, sợ mất lòng mụ Viện:

“Chuyện đó, thì tùy ông Việt Kiều, nếu tui chịu nhường, liệu ông nớ có chịu hay không?”

Mụ Viện giục:

“Răng mà không chịu. Con Thại còn trẻ, còn đẹp, khỏe mạnh, chứ có ốm o bệnh hoạn như, như ai đó mô. Thì chị cứ nói cho đến khi ông nớ chịu. Không nói thì mần răng người ta biết.”

“Tui không dám nói mô.”

“Tại răng mà không dám nói? Có chết chóc chi mô?”

Mụ Ty khóc rấm rứt:

“Chết tui cũng không dám nói. Chị có gan thì nói thẳng với ông Thu đi. Nói được thì tui chịu nhường”

Nói đến đó, mụ Ty tủi thân quá, khóc oà lên. Tưởng như đã mất ông Thu rồi. Đứa cháu săn sóc mụ Ty, nghe mà giận quá, xen vô, nói lớn tiếng:

“Cái mụ Viện ni vô doang (vô duyên) chưa tề. Người ta ưng dau (yêu nhau) cả mấy chục năm ni, đêm ngày thương dớ (nhớ). Chị Thại con của mụ, mập thù lù, bị chồng chê, bị ly dị, chớ có quý báu chi. Có tình nghĩa chi mà nhảy vô đòi giành ăn. Ở bên đó, đầm Tây, đầm Mỹ đẹp như tiên, như thánh, trắng như trứng gà bóc, ông còn chưa chịu nữa, huống chi con của mụ, thấm vô mô.”

Mụ Viện giận dữ nghiến răng gào lên:

“Nì, cái con quỷ cái, tau bả (vả) cho văng răng ra bi chừ. Việc chi mà mi xía vô chuyện người ta? Mi biết chi mà nói. Câm cái mồm lại.”

Đứa cháu trả treo:

“Nói ngang xương dư rứa (như vậy), quỷ sứ nghe cũng không lọt tai. Tức đến nghẹn họng.”

Có nhiều người nữa, đến bắt mụ Ty hứa hẹn đủ điều. Ông chủ tịch xã cũng nói với mụ Ty, yêu cầu ông Thu giúp đỡ, ủng hộ một món tiền, đủ để xây lại lại trụ sở uỷ ban hành chánh xã cho khang trang hơn. Mụ Ty đạo đạt những lời yêu cầu của bà con đến ông Thu. Ông cười hiền:

“Tội nghiệp bà con quá. Chắc qua Mỹ, tui với mụ phải tổ chức một băng cướp, đi ăn cướp ngân hàng, đem tiền về giúp bà con mình.”

Mụ Ty không hiểu lời nói đùa của ông Thu, hốt hoảng nói:

“Đi ăn cướp? Tui không làm được mô. Tui mù loà, mần răng mà chạy trốn cho kịp. E cũng ở tù rục xương. Rứa thì lâu ni, ở bên Mỹ, eng làm việc chi?”

“Đi cày”- Ý ông Thu muốn nói đi làm cực nhọc như đi cày vậy, nhưng mụ Ty không hiểu, hỏi:

“Ruộng có diều (nhiều) không? Được mấy sào? Qua bên đó, tui cũng giúp xay lúa, giã gạo được”

“Bây chừ thì về hưu rồi, nghỉ đi cày.”

“Rứa thì lấy chi mà ăn?”

“Tiền để đèng” (để dành) – Ông Thu nói tiếng Quảng Trị cho mụ Ty dễ hiểu.

Mụ Thu xuống giọng, nói nhỏ như sợ người khác nghe được:

“Để đèng diều (nhiều) không? Được năm lạng không?”

“Được”

“Rứa thì giàu quá! Chôn cho kỹ. Coi chừng bị trộm hết, không có ăn, khổ lắm đó.”

Gian nan lắm, ông Thu mới hoàn tất được thủ tục, đưa mụ Ty về Mỹ. Phía chính quyền Việt Nam làm khó khăn, ông phải vất vả chạy mua giấy khai sinh, phải nhờ người đút lót tiền mua các loại giấy tờ chứng minh cần thiết. Bộ ngoại giao và di trú Mỹ nghi ngờ ông âm mưu đưa người nhập lậu qua khe hở của pháp luật. Ông cố gắng giải thích về sự thành thật của ông, mà không ai tin. Giá như ông cưới một cô gái trẻ, đẹp, thì được dễ dàng thông qua. Ông kể câu chuyện tình hơn nửa thế kỷ của ông cho viên chức ở toà đại sứ Mỹ nghe, họ càng không tin hơn, cho rằng ông bịa chuyện. Cuối cùng, ông phải thuê luật sư can thiệp, và nhờ thêm dân biểu, nghị sĩ vùng ông ở viết thư cho bộ ngoại giao và sở di trú. Thời gian thủ tục giấy tờ dài hơn gấp đôi bình thường.

Trên máy bay về Mỹ, ngồi bên cạnh mụ Ty, ông Thu thấy tình thương dạt dào rộn lên trong tim. Nhìn mụ Ty ngồi dựa ngửa đang lơ mơ ngủ, ông thấy mụ đẹp hơn cả “con Ty” mười bốn tuổi ngày xưa có cái răng khểnh. Ông hứng khởi, hát nho nhỏ bản nhạc Suối Mơ của Văn Cao: “… từng hẹn mùa xưa xây nhà bên suối, nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương ngát, đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi…”

Mụ Ty, quay mặt lại nói:

“Eng hát hay quá”

Ông Thu cười:

Ông Thu vuốt nhẹ bàn tay khô xương, sần sùi của mụ Ty, mà lòng vui rộn rã.

Tràm Cà Mau
bichphuong
Posts: 617
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Tình Người Phi Công

Đây là lần đầu tiên bốn người chúng tôi được phép gia đình cho đi Đalat chơi 2 tuần trong dịp nghỉ hè. Còn đến mấy hôm nữa lên máy bay mà chiều nào 3 bạn cũng đến nhà tôi dự định đủ thứ chuyện.

Minh Châu lên tiếng:

– Mẫu Đơn ơi, kỳ này đi chơi bạn không được mặc áo dài trắng nữa nha.

Hải Yến:

– Đúng đó, áo dài trắng chỉ để đi học thôi. Đi chơi phải mặc quần tây, áo đầm.

Tú Anh:

– Tại sao bạn không được mặc áo dài trắng Mẫu Đơn biết không?

– Mẫu Đơn đâu có biết.

Bốn chúng tôi học cùng lớp 11 nhưng Mẫu Đơn nhỏ tuổi nhất, hiền nhất và cũng đẹp nhất. Mọi nét trên gương mặt không có gì đặc biệt nhưng mắt, mũi, miệng đó hài hòa vào nước da trắng nuột thì lại là một mỹ nhân phúc hậu tuyệt vời tinh khiết, ngơ ngác và thật ngây thơ với chiếc áo dài trắng tha thướt cao gầy nên có biệt danh là Búp Sen Trắng.

Xe vào phi trường Nhatrang hơi sớm, chúng tôi lên nhà hàng ở tầng lầu một uống nước chờ máy bay Air Việt Nam. Ngày trước nơi đó là chỗ của người Pháp trú ngụ thường có những buổi dạ vũ thâu đêm vịnh nguyệt thưởng hoa.

Đang tìm bàn trống bỗng một người đứng dậy nhường chỗ cho chúng tôi, anh mặc thường phục nhưng kiểu cách nói chuyện với những chàng phi công ngồi gần đó, biết anh tên Khải, bay khu trục cơ A1 Skyraider. Hôm nay anh được nghĩ dưỡng sức 2 tuần ở Đalat.

Chúng tôi đến Đalat ngụ trong ngôi biệt thự của anh tôi, do vợ chồng người bà con làm quản gia săn sóc nhà cửa, nhà có sẵn xe hơi nhưng chú quản gia và 4 chúng tôi đều không biết lái.

Sáng nay cả bốn chúng tôi ra chợ Hòa Bình mua trái cây, lại gặp anh chàng Khải phi công đến làm quen.

– Nghỉ phép lần này chúng tôi gồm 3 người, nhưng hai bạn kia có mục đích riêng rồi.

Minh Châu hỏi:

– Anh biết lái xe không ?

– Biết. Các anh lái máy bay được thì xe nào cũng lái được hết. Mướn anh làm tài xế đi! Năm nào anh cũng được lên đây nghĩ dưỡng sức 2 lần, anh biết nhiều thắng cảnh ở đây lắm!

Bắt đầu từ hôm đó anh vừa là tài xế vừa là hướng dẫn viên cho chúng tôi. Sáng anh chạy vespa đến nhà rồi lấy xe đưa chúng tôi đi thăm hồ than thở, đồi thông hai mộ, thác cam ly, suối vàng, vườn mận, vườn hoa hồng, sân đánh gù, cưỡi ngựa… Có đêm đưa chúng tôi đi uống cà phê nghe nhạc, đứng sắp hàng mua bánh mì pagette nóng dòn trong tiết trời lạnh băng thật hấp dẫn khẩu vị. Hôm nào dì năm, vợ chú quản gia, làm món ăn ngon đặc biệt chúng tôi liền mời anh ở lại dùng cơm. Anh bày cách để vào lò sưởi những củ khoai lang hay đậu phộng mà không bị cháy, anh kể cho chúng tôi nghe về đời lính và những chuyến bay đại bàng vẫy vùng xé mây cỡi gió nơi lưng chừng trái đất. Học sinh chúng tôi thời đó nam hay nữ đều đọc qua quyển Đời Phi Công của Toàn Phong nên nam sinh có mộng ước sau này sẽ theo nghề phi công, những chàng trai thiên thanh khí phách hiên ngang ưu tú.

Sáng nay tôi đang còn mơ màng trong giấc ngủ, giọng ngâm nho nhỏ của Mẫu Đơn bên tai, tôi nằm yên thưởng thức:

Lặng nghe sóng hát tình ca

Lúc trầm khi bổng ngân nga biển trời

Dạt dào sóng nói bao lời

Yêu bờ nhiều lắm ngàn đời chẳng phai

Nha Trang sóng biếc trải dài

Đảo xanh một dải khiến ai nao lòng

Nắng chiều ươm sắc vàng ong

Đắm mình xuống biển tan trong sóng tình

……………………………….. (Đặng Minh Mai)

Minh Châu và Hải Yến chạy ào vào phòng nên Mẫu Đơn ngừng lại. Hai bạn leo lên giường lùa tôi và Mẫu Đơn vào giữa. Hải Yến nói:

– Yến và Minh Châu đang bàn về tương lai, những nghề tụi mình sẽ chọn khi xong lớp 12. Yến sẽ chọn học làm cô giáo, Châu sẽ học bác sĩ, Mẫu Đơn cũng học bác sĩ.

Châu vừa cười vừa nói:

– Mẫu Đơn không được học bác sĩ.

– Tại sao ?

– Vì Mẫu Đơn trắng quá, còn Châu lại đen nên người ta sẽ kêu bác sĩ trắng, bác sĩ đen mà quên mất tên chúng mình.

Thật ra nước da Minh Châu ngâm đen nhưng rất có duyên, bạn có đôi mắt to lấp lánh, lông mi dài cong thật đẹp, bạn rất thương Mẫu Đơn ngây thơ nên hay chọc.

– Vậy Mẫu Đơn học nghề như Hải Yến .

Yến lại nói:

– Không được. Bạn mà làm cô giáo thì học trò đến học hết, Yến sẽ thất nghiệp.

– Mẫu Đơn dạy con nít học mà.

– Cũng không được luôn, vì con của Yến sẽ kêu Mẫu Đơn là mẹ và tan trường Yến đến đón nó sẽ không chịu về nhà.

Thấy Mẫu Đơn sắp khóc, tôi lên tiếng:

– Học ngân hàng với Tú Anh.

– Không. Mẫu Đơn không thích đếm tiền.

– Làm ngân hàng vui lắm! Người đến gởi tiền vì họ dư tiền nên rất vui! Ai đến rút tiền, có tiền trong tay họ cũng vui nữa.

Chúng tôi lo tán dóc quên luôn giờ khắc. Dì năm vào gõ cửa nói có anh Khải đến, mới nhớ hôm nay đã hẹn anh đến đây ăn sáng rồi anh đưa chúng tôi đi chụp hình.

Chúng tôi trang điểm thay quần áo thật nhanh để còn ăn sáng, không để anh Khải chờ lâu. Hôm nay Mẫu Đơn diện áo đầm trắng, tóc gắn 2 chiếc nơ màu xanh nhạt lung linh, những sợi nubang dịu dàng buông lơi thả dài đậu xuống bờ vai lênh đênh mềm mại. Tất cả đều ồ lên vì bạn như một nàng tiên, không ai mặc màu trắng đẹp tinh khôi như bạn. Ba chúng tôi đều biết anh Khải rất thích Mẫu Đơn nhưng anh vô cùng tế nhị, anh hiểu tình bạn thân thiết của chúng tôi nên dù có cảm tình đặc biệt với Búp Sen Trắng, anh vẫn đối xử đồng đều, không săn sóc một mình Mẫu Đơn và cũng không nói chuyện riêng. Tánh lịch sự của anh làm chúng tôi nể phục và mến những anh chàng phi công nhiều hơn.

Anh yêu Mẫu Đơn nhẹ nhàng như những làn gió vân du đồng xanh bát ngát, như mây xanh quấn mềm quanh sườn núi hay vắt trên bầu trời quê hương năm tháng anh bay qua, anh thầm lặng mà không vội vã, anh trao tình yêu cho Búp Sen Trắng một cách vô cùng ưu ái nâng niu để Búp Sen Trắng thấy tình yêu thiêng liêng mầu nhiệm, anh thăng hoa thời gian bên nhau đẹp như khúc nghê thường chơi vơi bình yên dịu ngọt.

Sau chuyến đi Đalat về, 3 chúng tôi tìm mọi cách cho anh và Búp Sen Trắng có cơ hội gặp nhau. Mẹ Mẫu Đơn mất đã lâu, người kế mẫu là bạn thân của mẹ, bà yêu thương và lo lắng cho Mẫu Đơn hơi quá nên trở thành nghiêm khắc.

Những lúc 4 đứa ngồi ở biển chờ anh Khải đi bay về để trao Mẫu Đơn cho anh, chúng tôi thường đùa.

– Hay là Mẫu Đơn đừng vào đại học, hãy tìm một trường nào dạy làm vợ mà học. Anh Khải đẹp trai cao ráo, không quân kiểm tra sức khỏe của anh, mắt, mũi, miệng, răng, tai và bộ đồ lòng lại hoàn toàn khỏe mạnh, thì Mẫu Đơn học bác sĩ làm gì.

Nói xong là ba chúng tôi cười ngặt nghẽo rồi chạy ra ba ngã để Mẫu Đơn đứng lóng ngóng không biết đuổi theo hướng nào bắt lại, tiếng reo vui rộn rã hòa cùng biển trời mây nước.

Đôi khi 4 đứa rủ nhau đến nhà anh, bác gái là người đàn bà gương mẫu, chồng chết từ lúc còn trẻ mà ở vậy nuôi con. Bác rất thương Mẫu Đơn, bác nói cô bé đẹp phúc hậu. Chúng tôi đều hỏi:

– Còn con thế nào.

Bao giờ bác cũng cười và nói.

– Các con đều đẹp cả. Tuổi 18, 19 là tuổi trăng tròn, sáng nhất, đẹp nhất!

Anh Khải treo hình chúng tôi đầy phòng khách, có cả tấm hình 4 đứa nằm gối đầu trên vai, trên lưng nhau thật tự nhiên thân mật, hoặc nắm tay nhau từ trên đồi chạy xuống.

Hải Yến có dáng đẹp, anh đợi lúc Hải Yến bước qua chiếc cầu nho nhỏ, tay e ấp dịu dàng nhẹ nâng tà áo trong vạt nắng vàng là anh chụp, hoặc Hải Yến đưa bó hoa hồng lên cao, chúng tôi nhón gót lên cùng nhau dành giựt.

Minh Châu có đôi mắt đẹp mơ như sao trời, anh chụp Minh Châu ngã người ra sau, đôi mắt huyền long lanh biết cười cùng chiếc miệng sen hồng duyên dáng.

Tôi có bàn tay đẹp, anh chụp lúc hai tay tôi ôm quả dưa hấu như vỗ tròn niềm vui đan nhau quấn quít, màu xanh đen của dưa làm nổi màu trắng của những ngón tay thon dài ngà ngọc.

Và Mẫu Đơn đang ngồi ôm đầu gối vì đi mõi chân, anh đến gần kêu tên, cô bé giật mình nghiêng đầu nhìn lên ngơ ngác hiền thục nguyên trinh, anh bấm máy hình liên tục rồi lựa ra một tấm hình thật đẹp. Các anh phi công mỗi ngày đều bay trên bầu trời cao rộng nên cực kỳ lãng mạn, anh thích nét thánh thiện nên chúng tôi muốn cười nói gì cũng được, vẫn có những hình ảnh mảng mầu kỳ ảo vô biên.

Anh rủ chúng tôi cùng đến nhà Mẫu Đơn để anh xin gia đình Mẫu Đơn cho một lời hứa như đính hôn, rồi anh sẽ đợi ngày Mẫu Đơn học xong. Chúng tôi nghĩ anh sợ Búp Sen Trắng nở, hương thơm bay tỏa ra ngan ngát, ong bướm nghe mùi thơm tìm đến.

Gia đình Mẫu Đơn không hứa hẹn gì cả, chỉ nói Mẫu Đơn còn nhỏ, nhưng sau đó chúng tôi biết là họ không bằng lòng. Lý do:

1/ Anh không còn đủ song thân (dù là ba anh là một người yêu nước có tiếng ở trong Quốc dân đảng, bị Việt Minh ám sát).

2/ Nhà anh nghèo.

3/ Anh là một phi công, mạng sống quá mong manh, chết sống không biết lúc nào (anh là con một và còn mẹ già, anh được miễn đi lính, nhưng giòng máu yêu nước từ cha ông truyền lại quá mạnh nên anh phải đi bảo vệ đất nước).

Anh đến nhà Mẫu Đơn xin mấy lần đều bị từ chối, lần sau cùng anh đưa bác gái đến cũng được trả lời Mẫu Đơn còn quá nhỏ. Chúng tôi sợ anh nản lòng nhưng anh nói dù chướng ngại bao lâu, anh vẫn không nản lòng, anh chỉ sợ mạng sống anh không còn lúc đó anh mới đầu hàng.

Anh chẳng ngại thời gian đâu

Chỉ cần em hứa bao lâu cũng chờ..!

Nhớ em anh viết vần thơ

Câu thương câu nhớ câu chờ đợi em

( Thanh Tâm)

Khải chưa bao giờ này sinh ý nghĩ oán trách gia đình Mẫu Đơn không chấp nhận mình, anh hiểu chính anh còn dám hy sinh thân xác mình cho quê hương yêu dấu, thì cha mẹ nào cũng muốn con mình có được người chồng đầy đủ vật chất lẫn tinh thần để bảo bọc con của họ vững bền hạnh phúc.

Gia đình bắt Mẫu Đơn đi du học để quên mối tình đầu, chọn Canada hay Nhật tuỳ ý. Mẫu Đơn chọn Nhật Bản, chúng tôi kêu chọn Canada nhưng bạn chỉ cười và không nói gì. Hôm đưa bạn ra sân bay để đi du học có anh Khải, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy hai người sắp rời nhau lại không buồn. Sau này mới hiểu các anh Không Quân bay loại Skyraider hay A 37, F5, mỗi 6 tháng phải đi Nhật thử độ cao 1 lần. Mẫu Đơn đã biết và có kế hoạch rồi, dẫu người nơi góc biển trông đợi kẻ cuối chân mây nhưng vẫn còn bên nhau mỗi năm 2 bận.

Rồi tháng 3 năm 75 miền Trung cao nguyên Kontum, Ban Mê Thuộc bị bỏ trống, dân chúng ào xuống Nhatrang. Còn người dân Nhatrang thì tìm phương tiện đi vào miền nam. Những năm sau này gia đình Mẫu Đơn làm ăn thất bại, vé máy bay Air Việt Nam lại không mua được dù có tiền. Mẹ anh Khải đã mất, anh đến nhà Mẫu Đơn, đưa cả gia đình di tản vào Sài Gòn, rồi qua Mỹ.

Dù chưa bao giờ biết đầu hàng trước thử thách chông gai, nhưng đôi khi Khải sợ tình yêu của mình cũng đi vào huyền thoại trái ngang như cung trầm chỉ còn lại dư hương mênh mang thương nhớ, không ngờ anh cũng có một mái ấm hoàn toàn hạnh phúc với cha mẹ cùng vợ đẹp giỏi giang, ngây thơ trong trắng để anh nâng niu như kho báu, như biệt danh mà các bạn đã đặt BÚP SEN TRẮNG vô vàn thanh khiết, hai dòng sông rồi cũng hòa vào một ở nơi cho vẹn tròn mơ ước.

Anh tặng em một tình yêu trọn vẹn
Em giang tay nhận lấy cất vào tim
Cảm ơn anh tình nồng trao nhau đó
Em mơ màng hạnh phúc chẳng có tên.

(Ngọc Dung)

TRUONG KIM BAU
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests