Văn Nghệ Văn Gừng

Thơ nhạc trữ tình, thơ nhạc lính, video...
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Cấm 5 ca khúc trước 1975 và ‘cái tát’ cho hai ‘nhà phê bình âm nhạc’
Vũ Ðình Trọng/Người Việt
March 21, 2017

HÀ NỘI (NV) – Sau khi chính quyền Việt Nam tạm ngưng lưu hành năm ca khúc sáng tác trước năm 1975 thì công chúng phản ứng khá gay gắt về quyết định này. Ngay sau đó, báo điện tử VTC News và báo điện tử VOV của đài Tiếng Nói Việt Nam mở diễn đàn bình luận với mục đích “giải độc.”

Kết quả, “độc” không giải được, mà công chúng còn nhận được những phát ngôn ngớ ngẩn của hai nhạc sĩ, nhà phê bình âm nhạc Nguyễn Lưu, và Nguyễn Thụy Kha cho năm ca khúc sáng tác trước năm 1975 tạm ngưng lưu hành, gồm: “Cánh Thiệp Ðầu Xuân” (Lê Dinh-Minh Kỳ), “Rừng Xưa” (Lam Phương), “Chuyện Buồn Ngày Xuân” (Lam Phương), “Ðừng Gọi Anh Bằng Chú” (Diên An), “Con Ðường Xưa Em Ði” (Châu Kỳ-Hồ Ðình Phương).


Chẳng hạn, ông Kha cho rằng: “Hàng trăm hợp xướng của tôi và các đồng nghiệp, hàng nghìn ca khúc cách mạng vĩ đại thì chẳng ai nhắc đến hay ca ngợi. Còn năm ca khúc kia mới bị tạm dừng lưu hành lại được đưa ra mổ xẻ, tranh cãi, bênh vực…”

Nguyễn Lưu và “cái tát” 11 năm trước

Ðây không phải lần đầu ông Nguyễn Lưu gay gắt với nhạc “vàng.” Cách đây 11 năm (2006), khi nhạc sĩ Phạm Duy được công chúng chào đón trong chương trình “Ngày Trở Về” do công ty Văn Hóa Phương Nam tổ chức, ông viết bài “Không Thể Tung Hô” đăng trên báo Ðầu Tư gây phản đối kịch liệt trong dư luận. Sự phản đối về bài viết của Nguyễn Lưu mạnh đến nỗi ông không thể “ngóc đầu lên để thở” suốt 11 năm qua.

Chỉ cần đánh bốn chữ “Không Thể Tung Hô,” chúng ta dễ dàng tìm đọc cả bài trên Google. Chẳng hạn, Nguyễn Lưu cho rằng: “Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Ðình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu ‘sặc mùi’ hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng đến như thế!”

Hay Nguyễn Lưu viết: “Ðỉnh cao sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài ‘Mùa Thu Chết.’ Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa Thu trong ca khúc ấy chính là cách mạng mùa Thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.”

Bài viết này của ông lập tức bị công ty Phương Nam phản bác lại nhiều điều. Công ty cho rằng đây là một show ca nhạc bình thường, ai thích thì mua vé vào xem. Họ tổ chức cho nhạc sĩ Phạm Duy, vì họ là đơn vị nắm bản quyền khai thác ca khúc Phạm Duy ở Việt Nam trong 20 năm. Mua bản quyền rồi, thì họ phải bán kiếm lời, chứ chẳng lẽ cất vô kho!


Trong lá thư phản bác, bà Phan Thị Lệ, tổng giám đốc công ty Phương Nam, cũng chỉ ra một số “lỗ hổng kiến thức” của Nguyễn Lưu: “Ðộc giả, đặc biệt là những người từng ở miền Nam trước năm 1975, ai cũng biết rằng bài ‘Mùa Thu Chết’ rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ Guillaume Apollinaire (1880-1918), một nhà thơ Pháp. Bài thơ của Apollinaire chỉ có năm câu, mang tựa đề ‘L’Adieu,’ khi phổ nhạc vẫn giữ gần như nguyên vẹn.”

Bà Phan Thị Lệ kết luận rằng cách phê bình “cả vú lấp miệng em” của ông Nguyễn Lưu ngoài chuyện “gây ô nhiễm nặng môi trường học thuật” trong nước, mà còn “cạnh tranh không lành mạnh” trong kinh doanh nghệ thuật.

Cả hai bài viết của Nguyễn Lưu và Phan Thị Lệ tạo sự tranh luận sôi nổi, thậm chí gay gắt về nhân vật này trong năm 2006.

Ðáng chú ý là ý kiến của một người tên huynhhai, đăng lên blogger Nguyễn Ðình Chính: “Những người thuộc lớp tuổi như ông Nguyễn Lưu được sinh ra trong lòng ‘hậu phương lớn miền Bắc,’ được giáo dục ‘dưới mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa.’ Ðặc điểm chung của lớp người này là kiến thức nửa vời, lối suy nghĩ đầy định kiến, dù họ được học hành đàng hoàng và được cho là ‘trí thức Xã Hội Chủ Nghĩa.’ Thêm vào đó, họ còn một đặc điểm nữa là ‘kiêu ngạo cách mạng’ hoặc ‘kiêu ngạo Cộng Sản.’ Ðối với họ chỉ có cách mạng vô sản và người Cộng Sản mới đáng kể, mới là ‘đỉnh cao trí tuệ của loài người.’”

Qua những “cơn sóng dữ” của dư luận, người ta không ngạc nhiên khi Nguyễn Lưu “lặn không sủi tăm,” từ ngày ấy.

“Hàng nghìn ca khúc cách mạng vĩ đại chẳng ai ca ngợi”

Sau 11 năm, ông Nguyễn Lưu, bây giờ là nhà phê bình âm nhạc “trồi lên để thở” qua cuộc phỏng vấn với báo điện tử VTC News, sau khi năm ca khúc sáng tác trước năm 1975 bị tạm cấm lưu hành.

Trong lần phỏng vấn này, hầu hết từng câu trả lời phỏng vấn của Nguyễn Lưu đều bị dân mạng “bẻ gãy” bằng những lập luận sắc bén.

Nguyễn Lưu nói: “Nên cấm phổ biến những ca khúc viết về lính VNCH. Tôi thấy có rất nhiều về vấn đề tư tưởng. ‘Con Ðường Xưa Anh Ði’ là con đường nào?”

Facebooker Do Duy Ngoc phản biện: “Nếu bắt bẻ thì ngay mở đầu chú đã sửa ca từ của người ta rồi. Nguyên văn của nó là ‘Con Ðường Xưa Em Ði,’ chú gán thành chữ ‘anh’ để chú lôi anh lính VNCH vào để chú kết án: ‘Khi chúng ta ca ngợi những bước chân người lính, đó phải là những bước chân của người đi bảo vệ, xây dựng tổ quốc, chứ không phải của những người dại dột đi theo kẻ thù, chống lại quyền lợi của dân tộc.’ He… he chú lên gân cốt hơi quá rồi, hay là tại chú ngu không hiểu nội dung bài hát, hoặc chú giả vờ ngu để lái ý bài hát đi theo hướng của mình. Bởi thật ra đây là bài nhạc tình, một anh chàng yêu một cô nàng, gợi lại kỷ niệm trên con đường xưa. Chú là chuyên gia tào lao, cũng như trước đây chú lên án bài ‘Mùa Thu Chết’ của Phạm Duy vậy.”

Trên trang mạng VNTB, tác giả Kỳ Lâm cho rằng,“Và 11 năm sau, nhạc sĩ Nguyễn Lưu vẫn không thay đổi gì trong cách nhìn quá khắc nghiệt, đầy tính giai cấp và hận thù chiến tranh qua tác phẩm nghệ thuật.”

Tuy nhiên, ông Nguyễn Lưu không đơn độc. Ông vẫn có một “đồng chí” chia sẻ, đó là Nguyễn Thụy Kha, nhạc sĩ, kiêm nhà nghiên cứu phê bình âm nhạc.

Nói với báo điện tử VOV, ông Kha cho rằng: “Hàng trăm hợp xướng của tôi và các đồng nghiệp, hàng nghìn ca khúc cách mạng vĩ đại thì chẳng ai nhắc đến hay ca ngợi. Còn năm ca khúc kia mới bị tạm dừng lưu hành lại được đưa ra mổ xẻ, tranh cãi, bênh vực. Tôi cho rằng, thị hiếu của một bộ phận công chúng người Việt đang thực sự có vấn đề. Ðó là điều rất đáng buồn.”

Ngay lập tức, bài phỏng vấn này được mạng xã hội mổ xẻ.

Facebooker Do Duy Ngoc thẳng thắn: “Ðọc bài phân tích của chú, tui cũng thấy chú ngu chẳng khác gì chú Lưu. Thế mà hai chú cũng vỗ ngực xưng tên là nhà phê bình âm nhạc, tui cũng xấu hổ cho cái nghề phê bình […] Các chú làm ra hàng trăm, hàng nghìn ca khúc vĩ đại mà chẳng có ai nhớ, chẳng có ai vinh danh, nên chú tức, chú hận, chú cho là thị hiếu của người nghe bây giờ có vấn đề. […] Nếu sáng tác của các chú có giá trị, đi được vào trái tim con người, nó sẽ nằm đó mãi mãi, dù có ngăn cấm, dù có xóa sạch, nó vẫn hiện diện. Trái lại, những tác phẩm của một phong trào, phục vụ cho một thời kỳ sẽ có lúc bị lỗi mốt và người ta quên nó mất. Ðó là quy luật đào thải, không ai cản được.”

Nhà văn Lê Thiếu Nhơn cũng gởi gắm đôi điều: “Nguyễn Thụy Kha không phải hạng kém cỏi, nhưng quen thói đãi bôi kiếm ăn. Cứ có tiền, có rượu là Kha nhảy xổ lên uốn lưỡi đong đưa ca ngợi tít mù. Cái tâm tư lớn nhất của Kha là công chúng và ca sĩ đều ngu lâu dốt bền. Ừ nhỉ, tại sao thiên hạ không biết Kha cũng có viết nhạc? Ðể tái cấu trúc nền âm nhạc vớ vẩn và tái giáo dục đám đông mê muội, đề nghị ‘các cơ quan có thẩm quyền’ phải triển khai ngay ‘sự quản lý’ để mọi người cùng hát, cùng nghe nhạc Nguyễn Thụy Kha cho văn hóa Việt đi lên theo tốc độ phi mã!”
Last edited by bichphuong on Thu Mar 30, 2017 5:20 pm, edited 1 time in total.
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »

Nguyễn Ðức Quang, khi bài hát trở về


Image
Nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang (1944-27 Tháng Ba 2011).

Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Ðức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.

Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy Mà Ði của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Ðã Nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Ðức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người. Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Ðường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Ðôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.

Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ,” “xích kêu loang xoang,” “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi” đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đóa lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào.

Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng Ðạo, Du Ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh Niên Công Giáo, Gia Ðình Phật Tử, từ các quân trường Ðà Lạt, Thủ Ðức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.

Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai ,ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã hóa thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.

Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do.Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ lại được hát lên giữa Thái Bình Dương giông bão, hát lên ở các trại tị nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn HướngÐạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.

Nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam:

“…Thế bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Rống Ðàn Bò, Lìa Nhau, Thảm Kịch Khó Nói v.v… những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”

Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt hàng hay một ông tổng ủy trưởng Dân Vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước.

Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngã, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngã của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.

Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.

Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Ðức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc.” Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Ðiều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc. Văn hóa không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sau 30 Tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hóa đồi trụy” mà Ðảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt.

Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Ðể tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa Hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo Dục Và Thanh Niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Ðêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Ðà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm.

Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của mùa Hè đỏ lửa chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hòa bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng.

Ðêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.

Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau, ThángGiêng năm 1974, bài hát ViệtNam Quêạ Hương Ngạo Nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Ðà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Ðà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt. Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa Ðông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa Tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa Tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng dòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay Hải Quân Trung Quốc xâm lăng.

Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Ðông Hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng Biển Ðông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.

Trong suốt dòng lịch sử, họa xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe dọa thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo “Xung Ðột Trường Sa: Ai có mặt trước?” (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.

Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến; nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.

Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng,” “Dậy Mà Ði,” “Nối Vòng Tay Lớn” của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.

Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những“bất hạnh,” “nỗi đau,” “tính tự ti mặc cảm,” vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác “như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.

Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng. Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

"Buồn Vào Hồn Không Tên"
Tưởng Năng Tiến

Image
Nhạc sĩ Trúc Phương (1933-1995).

Có lần, tôi nghe giáo sư Nguyễn Văn Lục phàn nàn: “Người cộng sản có một sự sắp xếp rất máy móc, đơn giản về con người và sự việc. Hoặc họ coi là bạn, hoăc là kẻ thù của họ. Miền Nam sau 1975 có chiến dịch đi ‘tìm thù’ và biến miền Nam thành mảnh đất hung bạo với những ngữ từ quen thuộc như: Quét sạch, đánh phá, truy lùng, tố cáo.”
Hơn bốn mươi năm sau, sau cái chiến dịch “tìm thù” bắt đầu từ năm 1975, có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc thì chuông điện thoại reo:

– Tiến hả?
– Dạ…

– Vũ Đức Nghiêm đây…
– Dạ…
– Anh buồn quá Tiến ơi, mình đi uống cà phê chút chơi được không?
– Dạ …cũng được!

Tôi nhận lời sau một lúc tần ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi. Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi giờ nào cũng được – mấy cha?

Khi Mai Thảo và Hoàng Anh Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra (“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi … ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia bọt chút đỉnh là được!
Image
Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm. Ảnh:honque
Vũ Đức Nghiêm sinh sau Mai Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chẩy qua qua cầu, hay trôi qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.

Quán cà phê vắng tanh. Nhạc mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:
“Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi.

Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương…”

– Hình như là nhạc của Vũ Đức Nghiêm … Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.
– Em nói nghe cái gì?
– Anh thử nghe nhạc coi…
– Nhạc của ai?
Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:
– Cháu ơi, người ngồi trước mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ổng … sướng nha!
Thấy người đối diện có vẻ bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ cũng không có kết quả gì. Đúng lúc, chủ quán bước đến:
– Cháu nó mới từ Việt Nam sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?
– Dạ không, không có gì đâu. Never mind!
Tôi trả lời cho qua chuyện vì chợt nhận ra sự lố bịch của mình.
Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Đức Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Đức Nghiêm đáp lại bằng một nụ cười hiền lành và … ngơ ngác!
Tự nhiên, tôi thấy gần và thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội) của ông. Tôi cũng bị nhiều lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn không còn ai, ở lứa tuổi hai mươi – dù trong hay ngoài nước – còn biết đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (“ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của Vũ Đức Nghiêm nữa. Thời gian, như một giòng sông hững hờ, đã vô tình bỏ lại những bờ bến cũ.

Vũ Đức Nghiêm, tựa như một cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong những người này. Qua chương trình Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam đã cho biết nhiều chi tiết vô cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.

Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã khuất:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu Long…”

“Nhạc của Trúc Phương thường buồn, rất buồn. Trong số những ca khúc của ông, hình như, chỉ có hai bản vui. Đó là: Tình Thắm Duyên Quê và Chiều Làng Em. Riêng bản Chiều Làng Em nói rằng vui là so sánh với những sáng tác khác của ông. Chứ Thực ra, bản nhạc này tuy có nội dung êm đềm trong sáng nhưng giai điệu của nó cũng man mác buồn. Không hiểu vì cuộc đời của Trúc Phương vốn nhiều chuyện buồn và đã được ông gửi gấm vào dòng nhạc hay vì ông thích sáng tác nhạc buồn nên riết rồi nó ám vào người, chỉ biết những sáng tác phổ biến nhất, nổi tiếng nhất của ông đều là những ca khúc buồn: Chiều Cuối Tuần, Nửa Đêm Ngoài Phố, Tầu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều …”

Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:.
“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó,’bèo dạt hoa trôi’… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả.Tôi nghĩ ra được một cách..là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng…thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta..thế là mình lấy 1 đồng về….như là tiền thế chân…Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng…Mà nói anh thương…khổ lắm….Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi ,tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè’, thế rồi cũng phải nằm thôi.Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát…mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn …Tôi nghĩ mà thôi , còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…”

Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:
“Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá.”

“Chúng ta ở đây là những người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Bởi vì hơn ba mươi ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có một hai bài có nhắc đến chữ ‘cộng hoà’ vẫn phải được xem là những tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình . Cuối cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những ‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó. Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”

Thôi thì cũng xong một kiếp người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi. Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn – trên báoPháp Luật:
“Ngày 31-1, một số cán bộ hưu trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân,TP.HCM) bức xúc phản ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức … Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy, múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục ‘lạ mắt’ này. Có cán bộ còn dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau…

Chúng tôi tiếp tục liên lạc với bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, Phó Chủ tịch phường kiêm Chủ tịch Công đoàn phường … bà Tuyền lý giải: ‘Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo phong cách Hawaii nên hơi lạ…”

Nếu ngay sau khi chiếm được miền Nam mà quý vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải” tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn … đã không phải bỏ thân nơi đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.


Mọi cuộc cách mạng luôn luôn có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của những người cộng sản Việt Nam thì đòi hỏi mọi người đều phải trả cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tội ác!

Tưởng Năng Tiến
MatVit
Posts: 1308
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »


CÔ GIÁO THỜI 1975..

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Kim đạp xe từ nhà đến Ngã Năm chưa đầy 10 phút nhưng để tìm ra căn nhà của đứa học trò chắc không nhanh chóng dễ dàng gì. Con đường phía sau Tổng Y Viện Cộng Hòa dẫn vào một xóm nhỏ không tên, nhà cửa hai bên đường tha hồ xập xệ nhô ra thụt vào đủ kiểu, nhà có ghi số đàng hoàng, nhà thì ghi số nhếch nhác cẩu thả khó đọc khó tìm làm như đây là cõi tạm hoặc là cái địa chỉ không bao giờ cần dùng đến.
Kim còn đang ngơ ngác dò tìm số nhà có tới mấy cái “sẹc” 112/4/95/3 thì bỗng đâu có một tiếng kêu lên :
- Cô Kim, cô đi tìm nhà thằng Huy hả?
Một đứa học trò ở xóm này đã nhận ra Kim, nó hí hửng :
- Để em đưa cô tới nhà nó nghe, ở tận cuối xóm gần nghĩa địa cô ơi
Kim vui mừng:
- Ủa, em Thế, may qúa, cám ơn em đã gặp cô đúng lúc
Kim theo đứa học trò đến nhà thằng Huy, nếu không có nó thì Kim đâu biết có những con hẻm quanh co tùm lum người và rác rưới dẫn đến bãi tha ma này.
Thằng Huy có nhà, nó bối rối mời cô giáo vào trong và gọi mẹ nó đang ở sau nhà. Qua những khe hở hớ hênh của tấm liếp che Kim ngó ra sau thấy mẹ con Huy đang vội vàng bóc giấy mấy gói đậu phộng rang đổ ra một cái đĩa nhỏ làm qùa mời khách.
Nói chuyện với mẹ Huy, Kim càng hiểu thêm cảnh nghèo khó của gia đình Huy, sau 1975 cha Huy đi “học tập cải tạo”, người vợ trẻ mang 3 đứa con đi kinh tế mới ở Lộc Ninh theo lời kêu gọi của địa phương với hi vọng chồng sẽ sớm được trở về, nhưng người chồng đã chết vì ốm đau đói khát trong tù. Không chịu được cuộc sống cực nhọc thiếu thốn cả đồ ăn thức uống đến điều kiện vệ sinh y tế nơi vùng đất hoang nước lạ lâu thêm nữa mẹ Huy mang ba đứa con thơ trở về thành phố, nhà cửa đã bán tống bán tháo ngày đi kinh tế mới nay không có chỗ nương thân họ về xóm nghèo này dựng lên một căn nhà tạm bợ để có chỗ trú ngụ nắng mưa. Cả bốn mẹ con hàng ngày đều phải ra đường kiếm sống, anh em Huy bán báo, bán đậu phộng rang, người mẹ thì bán ve chai. Những “nghề” của bốn mẹ con đã nói lên cảnh nghèo nàn cơ cực của họ..
Mấy hôm nay Huy nghỉ học, bạn cùng lớp nói mẹ Huy bị bệnh nên Kim đến để thăm hỏi và động viên học trò
Kim từ gĩa mẹ con Huy và theo chân trò Thế để ra ngoài đường lớn, đã vào được căn nhà cuối nẻo đường nhưng vẫn có thể lạc lối ra đối với những người mới đến đây lần đầu như Kim. Thằng Thế nhiều chuyện líu lo:
- Cô hên đó, bữa nay chắc anh em nó bán đậu phộng rang còn ế nên má nó mở mấy gói ra mời, không thì họ chẳng có gì mời cô giáo..
Kim vừa buồn cười vì lời nói của trò Thế vừa cảm thấy chạnh lòng gia cảnh trò Huy, ra tới đầu ngõ nàng tạm biệt đứa học trò và đạp xe về nhà mà lòng vẫn buồn rưng rưng.
Kim vừa tốt nghiệp Trung học sư phạm và đi dạy năm 1985.
Kim tốt nghiệp thủ khoa, được ưu tiên lựa chọn vài trường điểm của thành phố, trong đó nổi bật nhất hấp dẫn nhất là trường tiểu học Hoà Bình bên hông nhà thơ Đức Bà, khu vực trung tâm Sài Gòn, các bạn cùng lớp đều hào hứng khuyên Kim chọn trường này toàn con nhà giàu hoặc con nhà cách mạng chức vụ cao, cô giáo sẽ tha hồ nhận qùa từ những phụ huynh học sinh giàu có và địa vị.
Nhưng Kim làm bạn bè sững sờ khi nàng nhận dạy tại một trường nhỏ bé trong xóm nghèo vùng Ngã Năm Gò Vấp. Kim so sánh giữa những đứa học trò giàu và nghèo thì đứa nghèo đáng thương hơn thế là nàng chọn trường Kim Đồng. Gia đình Kim cũng vui mừng vì Kim chọn trường gần nhà hàng ngày đạp xe đi dạy thoải mái chứ đạp xe vào thành phố nhốn nháo xe cộ đủ loại, xe chạy đủ kiểu đến nỗi mỗi đường phố đều treo những câu bảng hiệu nhắc nhở như :” Không phóng nhanh giành đường vượt ẩu” hay “ Thà chậm vài giây còn hơn gây tai nạn” hay “ An toàn là bạn. Tai nạn là thù”.. v..v…làm gia đình Kim lo lắm cứ y như nàng còn ngây thơ bé bỏng không “đương đầu” nổi với đường phố và đường đời.
Cô giáo 19 tuổi mới lớn lên chẳng nghĩ đến chuyện hơn thua, lòng nàng chỉ phơi phới những lý tưởng đẹp cho đời.
Kim dạy lớp năm, lớp có hơn 30 đứa học trò, hầu hết là con nhà nghèo cư ngụ quanh vùng. Ngày đầu tiên Kim lên bục giảng bao nhiêu ánh mắt trẻ thơ hướng về Kim đầy vẻ thân ái và ngưỡng mộ dù hôm ấy Kim mâc aó sơ mi trắng với quần tây đen chẳng có gì lộng lẫy.
Kim mỉm cười “khoe” cái răng khểnh và giới thiệu với cả lớp:
- Cô tên Kim là cô giáo mới ra trường, các em là lớp đầu tiên trong cuộc đời của cô đó, các em học hành chăm chỉ và nghe lời cô nhé… .
Những đứa học trò nhao nhao lên và bắt chước nhau:
- Cô ơi, em hứa sẽ nghe lời cô…
- Cô ơi em hứa sẽ học chăm chỉ
- Cô ơi, cô đẹp qúa trời luôn.
- Cô ơi, em thích cô quá trời luôn
Học trò cả lớp sàn sàn bằng tuổi nhau, cao thấp như nhau chỉ có Huy là đứa “gìa” nhất 15 tuổi, vì sau khi gia đình thất bại kinh tế mới về thành phố mấy năm sau anh em Huy mới đi học lại.
Huy tên là Nguyễn Thiện Huy, cái tên đẹp, vóc dáng và gương mặt dễ thương sáng sủa của nó đã nói lên một thời được sống trong mái gia đình an vui đầy đủ. Huy ngoan ngoãn, chăm chỉ và học giỏi..
Để giúp đỡ đứa học trò giỏi con nhà nghèo Kim đã bảo Huy khi nào bán đậu phộng rang còn ế thì mang đến trường Kim và các thày cô giáo khác sẽ mua giúp, thường thì Kim mua bao trọn gói. Thế là thằng bé yên chí có nơi tiêu thụ dứt điểm món đâu phộng rang nhà nó.
Thằng Huy lớn nhất lớp nên đã giúp Kim được nhiều việc như giữ gìn trật tự lớp hay năng nổ mỗi khi trường lớp có tổ chức liên hoan, văn nghệ..v..v..
Hôm lớp Kim tổ chức liên hoan mừng lớp đoạt danh hiệu lớp giỏi . Ở nhà Kim nấu nồi chè và rang đậu phộng mang đến trường. Nồi chè hơi…bị khét và đậu phộng rang …hơi bị cháy. Nhưng thằng Huy biết điều lắm, nó ăn chè ăn đậu phộng rang của cô giáo và …khen cho cả lớp cùng nghe:
- Tuy chè và đậu phộng rang của cô có mùi …khét mà thành đặc biệt và ngon lắm.
Đám trẻ ngây thơ cùng gật gù khen ngon, ăn một lúc nồi chè và mớ đậu phộng hết bay. Có lẽ không phải vì cả nể cô giáo mà vì thời buổi vật chất thiếu thốn nên lũ học trò con nhà nghèo này chẳng chê món gì.
Ôi, Kim là cô giáo giỏi nhưng nấu ăn thì đâu có giỏi vì quen được cha mẹ và anh chị nuông chiều, nàng có vào bếp nấu nướng bao giờ.
Huy phụ cô dọn dẹp, khi không có trò khác đứng gần thằng Huy đã ra vẻ kinh nghiệm “dạy” lại cô giáo nó:
- Nè cô, lần sau cô rang đậu phộng xong là đổ ra rổ ngay nha, ai biểu cô để nướng trên chảo, chảo còn nóng làm đậu phộng cháy là vậy đó.
Kim chưa biết đáp sao thì được học trò “dạy” tiếp:
- Còn nồi chè đậu xanh nữa, ai biểu cô không quậy đều, nấu hoài nó khét là vậy đó.
Kim cười trừ:
- Ừ, tại cô…quên. Không ngờ trò Huy giỏi toán lại giỏi cả bếp núc nữa ta.
- Thì ngày nào em cũng rang đậu phộng bán mà, rang khét như cô thì mẹ em hết vốn từ khuya rồi. Trước kia mẹ em bán chè em cũng biết nấu chè luôn, sau vì chè ế qúa nên mẹ em mới chuyển sang mua bán ve chai, thứ này ế hay khi mẹ em bệnh thì hàng còn nằm đó chẳng hư hỏng gì.
Huy thua cô giáo Kim 4 tuổi mà ra vẻ chững chạc ngang hàng lắm. Một buổi chiều thứ bảy thằng Huy và thằng Thế đi bộ đến nhà Kim để mời cô giáo đi xem phim ở rạp Lạc Xuân Gò Vấp. Cô giáo mặc nguyện bộ đồ bộ tung tăng theo hai đứa học trò như ba chị em vừa đi bộ vừa nói đủ thứ chuyện từ nhà đến rạp hát Lạc Xuân để xem phim.. Dĩ nhiên Kim đòi mua vé đâu nỡ để hai đứa học trò nghèo phải bỏ tiền ra bao mình, nhưng thằng Huy đã bảo Thế dùng “vũ lực” níu tay cô giáo lại để nó ra mua vé kể cả mua vài thứ ăn vặt như xoài ngâm, ổi ngâm ( nó không mua món đậu phộng rang vì ngán món này qúa chừng, mà Kim cũng ngán luôn vì thường xuyên ăn đậu phộng ế của nhà nó).
Thế là cô giáo được hai đứa học trò nhỏ chăm sóc lịch sự. Hai thằng nhóc đã ra dáng nam nhi biết “ga lăng” với phụ nữ
Chưa có thày trò nào thân tình với nhau đến thế
Một tuần sau là ngày nhà giáo 20 tháng 11, Kim đến lớp thấy nhiều em mang theo những món quà.
Đầu tiên là con Hương mang một xấp vải lên tặng cô, Hương là con một cán bộ ở quận, có vẻ như nó hiểu địa vị của cha nó và món qùa giá trị nên nét mặt nó vui sướng hãnh diện lắm.
Thằng Tùng thì vụng về bưng lên một cái rổ cũ có chục trứng gà lót trong mớ rơm khô và nói:
- Cô ơi, gà nhà em đẻ trứng, em nói má để dành đem tặng cô…
Kim đã biết gia cảnh Tùng nghèo, chắc mẹ nó phải để dành từng qủa trứng cho đủ chục để Tùng làm qùa tặng nhân ngày nhà giáo. Kim cảm động và thương thằng Tùng qúa:
- Cô cám ơn mẹ em và em Tùng nhé, nhưng em mang trứng về nhà để ăn đi, cô hiểu tấm lòng của em rồi.
Kim nói vừa dứt lời thì thằng Tùng bỗng oà khóc như cha chết làm Kim hoảng sợ bối rối:
- Sao em khóc? Sao em khóc hả Tùng?
Thằng bé nức nở:
- Cô chê trứng gà nhà em, để em về nói má mua quà khác tặng cô.
Trời ơi, thì ra thằng Tùng hiểu lầm và “quê” với các bạn vì tưởng cô giáo chê món quà nhà nghèo cuả nó. Kim vội vàng lấy khăn tay âu yếm chùi nước mắt cho Tùng và dỗ dành:
- Cô thích ăn trứng gà lắm nhưng cô muốn để dành món ngon này cho Tùng ăn chứ cô không chê.. Em nín đi, cô sẽ nhận cả rổ trứng của em .
Thằng bé mỉm cười dù những giọt nước mắt còn long lanh trong đôi mắt ngây thơ cuả nó.
Một món quà khác làm Kim giật mình bất ngờ khi con Hạnh mang ra… cái giò heo to tướng. Nó tự giới thiệu:
- Má em bán thịt heo hợp tác xã, má chọn cái giò heo ngon nói em mang tặng cô giáo ngày 20 tháng 11. Má nói khỏi cần tặng hoa, hoa tươi không bằng giò heo tươi. Hoa đẹp nhưng không ăn được, không xài được bền lâu còn mất công cô đổ rác.
Kim đã từng nghe các đồng nghiệp kể mỗi năm ngày nhà giáo nhận hoa đến …mỏi cả tay và không biết cắm hoa vào đâu cho hết, khi hoa héo tàn thành đống rác lại phải thanh toán cho sạch nhà. Ngày nhà giáo đi ngoài đường thấy ai ôm một đống hoa là biết ngay họ là thày cô giáo, cái nghề không kiếm ra nhiều tiền để mà lãng mạn ngày thường mua hoa về chưng bày trong nhà nhưng ngày nhà giáo hoa chưng la liệt từ nhà trên cho tới nhà dưới, nhà bếp, nhà kho hay trên căn gác xép tối om om.
Kim nhận cái giò heo của đứa học trò có bà mẹ rất thực tế.vì chắc chắn chiều nay nhà Kim sẽ có món giò heo “cải thiện” bữa ăn trên mâm cơm mà không cần tốn công chen lấn giành giật nhau mua ở phản thịt hợp tác xã.
Nhiều trò khác thì tặng hoa, tặng hộp kẹo, gói bánh. Thấy thằng Huy có vẻ buồn buồn nó né không dám nhìn Kim, Kim ngạc nhiên đến bên nó:
- Kìa Huy hôm nay em làm sao thế?
- Mấy hôm nay mẹ em bệnh không đi ve chai nên không có tiền, em không có quà cũng chẳng có hoa tặng cô.
Kim mỉm cười :
- Em và Thế đã tặng cô một buổi xem phim rạp Lạc Xuân vui qúa trời rồi mà. Em đừng buồn nữa nhé.
Chiều hôm ấy Kim ra về, xe đạp của Kim chở đầy hoa, trứng, thịt và bánh kẹo.. Có hương hoa thơm cho đời thêm đẹp và có thực phẩm cho bụng thêm no. Cái gìo heo buộc sợi giây lạt treo tòn ten ở tay lái xe dù đã hơi ôi ả mà vẫn hấp dẫn làm sao, Kim đạp xe tới đâu cũng có người ngó theo, chẳng biết họ ngó cô giáo hay cái gìo heo hiếm qúy của thời buổi xã hội chủ nghĩa bao cấp này.
Học trò thương mến Kim ngày nào cũng gặp đã đành, một ngày chủ nhật chúng còn rủ nhau đến nhà thăm cô
Được ngày chủ nhật Kim tha hồ ngủ muộn cho đến khi nghe ngoài cổng có tiếng í ới và nghe trong nhà có tiếng chị của Kim gõ cửa phòng:
- Kim ơi, dậy mà tiếp học trò, ai đời học trò đến thăm mà cô giáo còn lười biếng nằm ngủ nướng trên giường thế hả…
Kim vung chăn ngồi dậy:
- Chị ơi, chúng nó đâu rồi?
- Đám đông đang ngồi ngoài sân cứ như biểu tình hay Chí Phèo ăn vạ hay chủ nợ đến canh nhà con nợ kia kìa, em ra mà xem…
Kim bật cười:
- Chị ví von ly kỳ thế. Khoan…khoan…chị đừng vội mở cửa nha, để đó cho em.
Kim nhanh chân chạy xuống nhà dưới ra sân đánh răng rửa mặt và …len lén đi bằng lối cổng sau ra ngôi chợ nhỏ trong xóm mua về một mớ khoai lang, khoai mì luộc nóng hổi rồi nàng mới ra mở cổng.
Lũ học trò hơn chục đứa chắc đợi lâu mệt mỏi đứa thì đứng tựa vào tường đứa thì ngồi chồm hổm trước sân nhà. Thấy cô giáo chúng mừng vui quýnh quáng xúm lại bên Kim như vừa gặp lại cố nhân sau bao năm xa cách:
- Cô ơi chúng em đến thăm cô
- Cô có mạnh khỏe không?
- Cô ơi, sợ ngày chủ nhật cô đi chơi nên tụi em đến từ 7 giờ sáng để canh chừng cô.
Bây giờ là 9 giờ sáng, lũ học trò đã ngồi đợi suốt 2 tiếng đồng hồ. Kim cảm động lòng yêu thương của chúng dành cho mình và cảm động cả tính kiên nhẫn của chúng.
Kim mang mớ khoai lang khoai mì luộc vừa mua ở chợ về cùng ăn với lũ học trò, chưa bao giờ củ khoai lang khoai mì ăn điểm tâm lại ngon đến thế..
Thương mến cô giáo lũ học trò còn hãnh diện khen cô giáo của chúng đẹp nữa chứ.
Hôm Kim cho đề tài luận văn “Em hãy tả cô giáo của em” có bài văn chúng tả cô giáo Kim của chúng nào mắt bồ câu, mũi dọc dừa, môi trái tim..v..v. và có đứa cả gan kết luận :” Tóm lại cô giáo Kim của em đẹp nhất trường, đẹp toàn bộ từ đầu tới tay chân giày dép, đẹp như cô Thẩm Thúy Hằng mà mẹ em có treo hình trong nhà”
Chắc là chúng nghe người ta nói xưa nay nên quen miệng bắt chước theo chứ chúng biết mắt bồ câu mũi dọc dừa là thế nào. Kim không đẹp đến thế, mắt Kim mí lót, mũi Kim, môi Kim bình thường thì.chưa bằng một góc cô minh tinh Thẩm Thúy Hằng.
Nhưng Kim biết mình cũng…dễ thương vì từ hồi học cấp hai cấp ba cho đến sư phạm đã có nhiều bạn nam sinh, bạn cùng xóm để ý thương thầm nhớ trộm. Người quen cảm mến đã đành mà người không quen cũng cảm mến. Thỉnh thoảng Kim hay lên phố chợ Hạnh Thông Tây ăn món hủ tiếu mì của tiệm Tàu, có lần Kim ăn xong ra trả tiền thì ông Tàu nói có anh kia trả tiền cho cô rồi, anh gởi lại một tờ giấy. Kim mở mẩu giấy ra với nét chữ cuả người xa lạ: “ Cô bé dễ thương ơi, anh trả tiền cho cô bé rồi, lần sau nếu gặp anh xin phép được trả tiền nữa nhé”.
Anh không ghi tên tuổi, không cần làm quen, chỉ lãng mạn thế thôi, nhưng Kim…từ bỏ luôn tiệm mì ông tàu và đổi sang ăn tiệm mì khác vì chỉ sợ có anh chàng nào đó lén nhìn nàng lúc đang xì xụp ăn tô mì thì mắc cỡ lắm..
Cô giáo Kim dạy học được 3 năm, cái nghề nàng chọn ngày từng ngày đã thêm gắn bó, nàng yêu nghề giáo dù đồng lương bé nhỏ chỉ đủ cho cô nàng độc thân như nàng tiêu xài vặt khi chuyện áo cơm đã có gia đình bảo bọc..
Bạch Diệp một bạn thân của Kim thi rớt đại học không thèm vào học trung cấp như nàng mà ở nhà phụ cha mẹ bán…cây tôn, cái nghề chẳng thích hợp cho cô thiếu nữ mới lớn chút nào nhưng là nghề hái ra tiền của nhà nó. Buổi giao thời sau khi miền Nam xụp đổ người ta gỡ mái đập tường nhà để đi kinh tế mới và không bao lâu sau người ta lại có nhu cầu xây dựng nhà, tiệm bán cây tôn phát triển thêm bán cả gạch cát, xi măng nên thời nào tiệm của nhà Bạch Diệp cũng hốt bạc dễ dàng.
Bạch Diệp luôn nhìn Kim với vẻ thương hại cô bạn nghèo, chọn nghề giáo nghèo chẳng trông mong gì mánh mung bổng lộc ngoài cái ngày nhà giáo 20 tháng 11 nhận hoa, nhận qùa vớ vẩn. .
Yêu nghề giáo Kim yêu lũ trẻ, học trò ba niên khóa đã rời trường, có bao nhiêu đứa học trò thân quen, có bao nhiêu kỷ niệm dưới mái trường nghèo đã ghi vào lòng nàng. Nhưng những đứa học trò lớp đầu tiên của đời cô giáo là Kim nhớ nhất.
Một hôm khi Kim đang rời trường để về nhà thì một anh bộ đội xuất hiện nơi cổng trường, Kim đang ngỡ ngàng chưa kịp nhận ra ai thì anh bộ đội lấy chiếc mũ cối trên đầu ra:
- Em Nguyễn Thiện Huy nè cô.
Huy đã là một chàng trai 18 tuổi, nó to lớn và rắn rỏi. nét mặt thoáng buồn Huy kể:
- Em lớn rồi, không có tiền cũng như không có thời gian để ăn học tiếp nữa. Em mới bị gọi đi bộ đội.
Kim nói như một lời than:
- Lý lịch con sĩ quan “nguỵ” mà họ cũng gọi em đi bộ đội sao !!
- Dạ, bởi đi bộ đội là chuyện sống chết và gian khổ có ai tranh giành đâu cô nên em mới được gọi, mới được “trúng tuyển” nghĩa vụ quân sự. Con cháu cán bộ hay con nhà giàu có tiền đút lót phường đội địa phương đều…rớt nghĩa vụ quân sự cả.
Kim ái ngại hỏi thăm:
- Gia đình em lúc này thế nào?
- Mẹ vẫn mua bán ve chai, các em vẫn bán hàng rong không có phép lạ nào thay đổi được. À, có em đi bộ đội nè…
Huy nói đùa mà cả Huy và cô giáo đều chẳng thấy vui. Huy buồn buồn tiếp:
- Đi bộ đội đời em không có tương lai. Em tới thăm cô và chúc cô luôn dạy tốt.
Kim cũng buồn buồn an ủi một câu vô nghĩa:
- Rồi em sẽ trở về mà..
- Khi người ta phải phục vụ cho một chế độ không yêu thích coi như cuộc đời không có tương lai. Gia đình em tan nát và nghèo khổ vì họ. Người cha chết trong tù, vợ con đi kinh tế mới, con cái không có cơ hội học hành đầy đủ thì biết lấy gì và biết đến bao giờ mới bù đắp được những mất mát này…
Kim giật mình không ngờ những ý nghĩ của thằng Huy lại giống mình đến thế. Suốt ba năm đi dạy, yêu thương lũ học trò nhưng nàng đã dần dần cảm thấy cuộc đời không có tương lai khi phải sống trong một xã hội đầy rẫy những bất công dối trá và chính nàng cũng phải sống gỉa dối giảng dạy cho học trò những điều nàng không tin và không muốn..
Thằng Huy đã lớn thật rồi, đã trưởng thành từ những nỗi đau, tuổi mộng mơ 18 của nó đã thay thế bằng những mặc cảm tủi hờn . Kim nắm lấy bàn tay nó rưng rưng:
- Cô chúc em đi bình an và …
- Và nhất định em sẽ trở về phải không cô? Em sẽ tìm gặp cô tại trường Kim Đồng này. Chúc cô ở lại bình an
Một năm sau Kim đi vượt biên, nàng đến Thái Lan. Ở trại tị nạn những ngày dài tháng rộng chờ đợi đi định cư nước thứ ba thỉnh thoảng Kim cũng nghĩ tới thằng học trò đang là bộ đội, nàng nghe tin thằng Huy đóng quân bên Campuchia.
Không biết ngày Huy trở về có đến trường cũ tìm cô giáo của nó như lời hẹn không? Kim áy náy và ray rứt tưởng tượng có môt anh bộ đội trẻ thất chí trở về sau những năm chiến đấu vô nghĩa, anh ta đến trường Kim Đồng và đứng chơ vơ ngoài cổng trường vì cô giáo của anh đã đi xa.
Huy ơi, hãy thông cảm cho cô, cô từ bỏ chế độ và xã hội của họ chứ cô đâu muốn từ bỏ quê hương trong đó có trường lớp và các em học trò nhỏ của cô.
Một hôm Kim đọc báo “Đường Sống”, một tờ báo hải ngoại, ngoài những bài viết chính từ hải ngoại còn có những đóng góp của thuyền nhân tị nạn. Báo được phân phối đến những trại tị nạn vừa để thông tin vừa giải trí.
Kim đọc bài viết của một người tị nạn ở Thái Lan, anh ta là bộ đội đã cùng một bạn bộ đội khác đào tẩu đi đường bộ từ Campuchia sang Thái Lan, nhưng chỉ một mình anh sống sót còn người bạn kia đã bị bắn chết trước khi sang biên giới Thái Lan.
Người bạn xấu số của anh tên Nguyễn Thiện Huy…
Kim bật khóc nghẹn ngào, Nguyễn Thiện Huy này có phải là đứa học trò cũ của nàng không ?
Nguyễn Thiện Huy ơi, nếu là em thì lời hứa hẹn ngày cô và em tái ngộ chỉ là ảo vọng thôi..
Cô và em là thày trò cũng là hai người bạn cùng chung tư tưởng Chúng ta không gặp nhau ở trường xưa cũng không may mắn gặp nhau nơi bến bờ tự do này.
Nguyễn Thiện Huy ơi, nếu là em thì câu em nói hôm nào như một điềm báo trước “Đi bộ đội đời em không có tương lai”
Ở thế giới bên kia em hãy phù hộ cho mẹ và các em của em để mai này họ có một tương lai tốt đẹp hơn những gì trong qúa khứ.Huy nhé

Nguyễn Thị Thanh Dương
( March, 08- 2017)
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Tờ Hộ Khẩu

Mai Văn Các


‘Sự cố’ ấy là một bước ngoặt trong cuộc đời lão và nó còn đeo theo lão không biết đến bao giờ.

“Một ngày xui xẻo,” lão lẩm bẩm . Mới sáng banh mắt vừa ra mở cửa, mấy con quạ đen thù lù đậu trên cây vú sữa nhà thím Năm trông thấy lão chõ mỏ kêu “quà, quà, quà…” một hồi rồi vỗ cánh bay đi. Ðến chiều lúc lão đem giá gạo ra hè nhặt sạn nấu bữa tối có bé Hai chơi bên cạnh thì viên công an ở đâu sồng sộc đi vô:

-Kiểm tra hộ khẩu.

Lão ngơ ngác nhắc lại:

-Kiểm tra hộ khẩu, hộ khẩu là gì thầy?

-Không được kêu thầy, đừng giữ mãi cái đầu óc phong kiến bóc bột !

May quá , cái đầu óc già nua tối tăm của lão như có thần ứng mách bảo cho lão hai chữ : “đồng chí, đồng chí” . Lão nói:

-Thưa đồng chí hộ khẩu là gì đồng chí?

-Ai đồng chí với gia đình Ngụy? Kêu là cán bộ nghe chưa ! Tờ hộ khẩu đâu?

Lão vô nhà. Cán bộ theo sau. Tờ hộ khẩu mới lấy mấy bữa trước không biết ai để đâu mất . Hồi đó tờ khai gia đình cả vài năm lão không sờ tới. Hình như cách nay gần 1 năm lão kéo từ ngăn tủ phủi bụi bặm đem ra phường thêm tên con Sáu, vợ thằng Tư và con bé Hai xong lão lại đem về vất vô chỗ cũ.

May mắn sau ngày 30/4 nó vẫn nằm chình ình ở đó để lão đem trình cho Cách mạng làm tờ Hộ Khẩu mới. Lão tới lục ngăn tủ cũ không có, lão kéo ngăn bên kia ra xem cũng không , chỉ có bản sao Tờ Khai Gia Ðình hồi trước .

Lão vã mồ hôi. Cái đầu óc già nua tối tăm của lão không giúp ích gì cho lão lúc này. Mới bữa trước tổ trưởng Năm Ghi tới tận nhà giao cho lão, không biết lão để đâu. Lão đứng ngơ ngẩn bần thần.

Viên công an sẳng giọng:

-Có một tờ hộ khẩu mà cũng không biết giữ. Kiếm đi chứ !

Lão luống cuống chạy vô phòng lật đầu giường của vợ chồng thằng Tư không có , bực mình lão lật mền lật gối, tìm trong tủ quần áo cũng không.

Lão trở ra, đứng ngơ ngẩn cố suy nghĩ.

-Kiếm đi chứ, viên Công an lại giục.

Cuống quít quay tới quay lui, may mắn thấy cái bàn viết kê sát vách, lão cúi xuống lôi ngăn kéo ra lật lật đám sách vở ngổn ngang:

-A, nó đây rồi ! Lại có cả cây viết đây nữa. Cây viết Pilot nắp mạ vàng con bé Hai vẫn đòi đem ra chơi. Thế mà cái đầu óc già nua tối tăm tới lúc cùng nó cũng giúp lão, lão cười miệng méo xệch.

Viên công an giựt lấy tờ hộ khẩu ngắm nghía:

-Mới đây mà đã lem rồi. Ai bôi xóa mấy chữ này đây? Không muốn có Ðộc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc hả?

Lão tái mặt. Chắc con bé Hai rồi. Cách đây mấy bữa nó ngồi hý hoáy làm gì nơi đây. Nét bút yếu ớt vẽ loằng ngoằng làm lem mấy chữ Ðộc lập-Tự Do-Hạnh Phúc trên đầu tờ Hộ khẩu. Lão hú hồn, nếu nó xoá bỏ cả cái Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa thì chí nguy.

-Xin cán bộ bỏ qua, con bé này- lão chỉ bé Hai – nhỏ dại không biết gì.

– Nhỏ dại mà biết chống đối . Lần này tha , lần sau cho nó đi cải tạo mút mùa !

– Xin Cán bộ bỏ qua . Lão sợ hãi năn nỉ lần nữa .

Viên công an lầm lì không trả lời, hắn lật xem bên trong .

-Ngô Văn Tư là ai?

-Con trai tôi.

-Ngụy hả?

-Dạ nó đi quân dịch, không phải Ngụy.

-Ði lính cho Ngụy là Ngụy còn vòng vo gì. Nói nó Cách Mạng lúc nào cũng độ lượng khoan dung. Phải chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ðảng, của nhà nước nếu không sẽ bị đưa đi cải tạo. Tên Tư tối nay ra công an phường trình diện.

Lão cúi đầu:

-Dạ, dạ!

Viên công an lật trở lại nói tiếp:

-Còn mấy chỗ lem này tẩy sạch đi. Mua giấy lon (nylon) bọc lại.

Cái bút này vẽ bậy bị tịch thu !

Bỏ cây viết Pilot nắp vàng vào sà cộp, viên công an dặn lại:

-Nhớ mua giấy lon bọc lại cho tử tế, cất kỹ đi. Thấy ông già tôi thương hại làm phúc nói cho biết tờ hộ khẩu quan trọng, rất quan trọng – hắn nhấn mạnh- mua lương thực: hộ khẩu, xin việc làm: hộ khẩu, đi học: hộ khẩu. Hộ khẩu, hộ khẩu, hộ khẩu . . . . Nó là mạch máu của gia đình . Mua gạo,nó; mua bo bo, nó; mua khoai mì, nó; mua . . .mua bắp, nó. Không có nó là chết đói nhăn răng !

Lão tái mặt , phải rồi không có gạo, không có bo bo th cết đói cả lũ, chết đói nhăn răng . Lão sợ quá tiễn cán bộ ra khỏi cổng mà vẫn còn run.

Thím Năm đứng ở sân thấy lão thương hại hỏi nhỏ:

-Gì thế anh Bảy, sao thằng công an nói lớn vậy?

-Xuỵt ! – Lão ra dấu – nó bảo phải kêu nó là cán bộ. Ðây này, con bé Hai bôi lem mất mấy chữ làm nó la lối om xòm. Làm sao gôm hết thím Năm? Lão lo lắng hỏi.

-Mực nguyên tử đây mà. Anh Bảy lấy chút bông gòn thấm cồn lau đi là hết.

Lão thở phào nhẹ nhõm chạy vội sang nhà ông Ba Chích đối diện, giơ tờ hộ khẩu cho ông Ba xem:

-Xui quá chú Ba, con bé làm lem chút mực, chú Ba cho tôi xin chút alcool tôi lau nó đi.

Ông Ba Chích yên lặng xé miếng bông gòn bằng đầu ngón tay và thấm chút alcool đưa cho lão.

-Cho tôi xin thêm chút nữa chú Ba, sợ không đủ.

-Lúc này người khôn của hiếm anh Bảy. Lau đi thiếu lấy thêm. Mai mốt sợ không có mà xài, đừng có chê !

Cuối cùng thì lão cũng lau xong tuy những vết gạch trên mấy chữ Ðộc Lập – Tự Do-Hạnh Phúc không sao sạch hết. “Tạm được rồi, mai mua giấy lon bọc nữa là xong.” Lão nghĩ.

Quay về nhà thấy con bé Hai đang úp mặt lên giường lão khóc thút thít. Chắc nó thương nội bị cán bộ la hay có điều chi đây. Con bé thương lão lắm, tuy mới hai tuổi mà cái gì nó cũng biết. Nó quấn quít bên lão, nheo nhẻo nói chuyện suốt ngày. Con nít thời nay khôn sớm, người ta nói thế. Lão vuốt nhẹ trên lưng cháu dỗ dành:

-Nội nè con, sao con khóc?

Con bé vẫn khóc thút thít làm lão phải nựng nó:

-Nói cho nội nghe, nội thương, sao con khóc?

-Cán bộ lấy cây viết của con. Nội đòi cho con đ i i i i i i i i i i i i i i . . . !


Tối hôm ấy khi thằng Tư ra phường trình diện về, cả nhà có buổi họp để giải quyết tờ Hộ Khẩu. Con Sáu muốn cất trong tủ quần áo, thằng Tư nói để trong tủ thờ khóa lại.

Cả hai cách lão nghĩ đều không ổn. Mới có hơn 1 tháng được “giải phóng” mà bán hết cái này đến cái kia từ radio đến cái quạt máy. Nếu mai mốt phải bán đến mấy cái tủ lão chỉ sợ quên không lấy tờ Hộ khẩu lại thì nguy.

Nghĩ thế nhưng lão không dám nói ra sợ xui .

-Thôi để ba lo, ba đã có cách, lão nói.

Tuy giải quyết xong việc giữ tờ hộ khẩu nhưng còn kiếm giấy lon ở đâu để bọc không ai biết, lão phải chạy sang nhà tổ trưởng Năm Ghi hỏi. Năm Ghi trước đây đi bẻ ghi cho Sở Hỏa Xa hết làm ở ga Sài Gòn thì ra Hòa Hưng, Thủ Ðức, ổng mới về hưu mấy năm nay. Nhà có miếng ăn, miếng để, nhất là sau khi vợ chết ổng lấy người vợ kế biết chao đảo làm ăn. Cách mạng vô Sài Gòn ổng theo ngay Cách Mạng. Tính ổng xuề xòa nhưng ai nói ổng là Cách Mạng 30 ổng nghe được thì chết ngay.

Từ nhà tổ trưởng Năm Ghi ra lão mới biết bọc giấy lon là bọc nylon. Lão lại tự giận mình, giận cái đầu óc già nua tối tăm của lão có thế mà không biết.

Sáng hôm sau lão dậy thật sớm ra phường chầu chực . Khi cửa văn phòng mở lão nhào vô ngay mua giấy lon và nắn nót bỏ tờ hộ khẩu vô xong hỏi nhân viên phần hành:

-Thưa cán bộ, bọc giấy lon thế này được chưa?

-Ðược, tốt lắm.

Lão mừng quá rảo bước về ngay nhà lấy đinh đục lỗ và kiếm sợi dây móc vô đeo lên cổ, ngắm đi ngắm lại.

Thế là yên trí, không bao giờ sợ mất và điều xui xẻo nếu lão có chết thì tờ Hộ Khẩu vẫn ở cổ lão . Con cháu trước khi chôn lão cứ việc lột ra giữ lại mà xài !

Từ đó ra cửa hàng mua lương thực, đi khám bệnh . . . lão cứ việc từ từ cởi nút áo phanh ngực ra trình tờ hộ khẩu , xong lão cẩn thận khép áo cài nút lại.

Không ngờ cái sáng kiến nhỏ nhen ấy lại làm cho lão nổi tiếng.

Chẳng là bữa ra phường xin chứng nhận giấy, nhân viên phụ trách yêu cầu xem hộ khẩu, lão đứng phanh ngực ra trình. Vừa lúc ấy Bí thư phường đi qua thấy hay quá vỗ vai lão khen lấy khen để. Trong buổi họp nhân dân phường tối đó lão được kéo lên cho Bí thư phát bằng khen tuyên dương “Lão gìa chấp hành nghiêm chỉnh lệnh của Ðảng và nhà nước” và lấy lão làm điển hình tiên tiến nhân rộng ra học tập làm lão rất hãnh diện với tờ Hộ khẩu đeo trước ngực.

Giá lão cao lớn như mấy ông Thượng Tướng hay Ðại Tướng gì đó trên TV bữa trước thì tờ Hộ khẩu lão đeo trước ngực có khác gì tấm huy chương chiến công ! Thật lẫy lừng .

Từ đó người ta kêu lão là Bảy Hộ Khẩu, không còn kêu cái tên Bảy Lùn của lão như trước nữa.

Mất gần tháng trời đi hết khu phố này đến khu phố khác làm điển hình tiên tiến tưởng được yên không ngờ Bí Thư Quận Uủy lại cấp giấy khen cho lão, lại mở chiến dịch học tập “nhân rộng điển hình tiên tiến” kéo lão đi làm điển hình suốt 26 phường mấy tháng mới xong làm lão mệt nhoài phát ốm.

Bây giờ thì lão chán cái tấm huy chương này lắm rồi , nhưng không đeo ở cổ lại sợ mất.

Lão nằm dán mình trên giường chán nản nhìn lên mái tôn đang tỏa nóng hừng hực.

Ngày Cách Mạng mùa Thu (2-9) cái tủ quần áo của mẹ con con Sáu ra đi, rồi Mùa Thu Cách mạng vừa chấm dứt thì cái tủ thờ cũng âm thầm đội nón bén gót theo sau !

Rồi lại từ bữa lão phát bịnh tốn kém thuốc men, cái trần nhà bằng tôn lạnh Mỹ được cẩn thận gỡ đem ra chợ tôn Lý Thường Kiệt bán !

Căn nhà nhỏ bé chật chội trước đây ra đụng vào chạm những đồ đạc dần dần lão thấy rộng thênh thang. Vợ chồng thằng Tư kéo xe ba gác ra đi từ sáng sớm đến tối mịt mới về, giá không có con bé Hai lúc nào cũng quấn lấy lão thì đời lão thật sự trống vắng quạnh hiu.

Ðang lúc lòng lão buồn rười rượi thì con bé ở đâu chạy về sà ôm lấy lão làm lão nguôi nguôi .

-Sao nội buồn thế? Con thương nội lắm, con bé nói.

-Bé Hai à, con cầu trời cầu Phật cho nội chết đi cho đỡ khổ.

-Không, con không cầu trời cho nội chết đâu.

-Nội không chết thì sống làm gì?

Con bé cười hóm hỉnh lấy tay chỉ vô tờ Hộ khẩu nói:

-Sống để nội đeo cái này ở cổ, ở ngực.

Lão cười cái miệng méo xệch như mếu . Không biết lão còn phải sống để đeo cái của nợ này đến bao giờ!

Mai-văn-Các


Ghi chú : (1) Ngoài Bắc người ta nói bị cắt hộ khẩu là bị cắt máu , chỉ có nước chết không làm ăn gì được.
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image

Tháng tư đọc lại "một con gió bụi" của Trần Trọng Kim

Nguyễn Cao Quyền
- Năm 1945 Thế Chiến II kết thúc. Đầu năm này, Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương. Sau cuộc đảo chánh, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam và tiếp tục cho hoàng đế Bảo Đại tại vị.

Ngày 17/4/1945 nội các Trần Trọng Kim thành lập. Đây là chính phủ dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Tuy chi tại chức có 4 tháng nhưng thủ tướng họ Trần và nội các của ông đã thực hiện được một số việc trọng đại cho đất nước.

Thành tích quan trọng nhất mà chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện được là thâu hồi độc lập cho tổ quốc: ngày 20/7/1945 toàn quyền Nhật Tsuchihachi đồng ý trả lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và ngày 8/8/1945 trao trả Nam Bộ cho chính quyền trung ương.

Thủ tướng Trần trọng Kim đã thu hồi trọn vẹn lãnh thổ của tổ quốc từ tay phát xít Nhật mà không tốn một giọt máu. Nhưng ngay sau khi được thu hồi, nền độc lập này đã bị Việt Minh phá hỏng và hậu quả là đất nước đã bị điêu linh trong chiến tranh, chết chóc, thù hận và tụt hậu, như mọi người đều đã thấy.

*

Thủ tướng Trần Trọng Kim sinh năm 1883 tại Hà Tĩnh. Năm 1905 ông sang Pháp du học tại trường sư phạm Melun. Năm 1911 ông về nước làm nghề dạy học. Năm 1942 ông giữ chức thanh tra tiểu học miền Bắc. Ngày 2/4/1945 ông được vua Bảo Đại vời ra Huế. Ngày 16/4/1945 ông chấp nhận đề nghị của vua Bảo Đại, đứng ra lập chính phủ.

Mười một ngày sau khi Nhật trao trả toàn bộ lãnh thổ do Pháp chiếm giữ cho Việt Nam thì Việt Minh đã phá hỏng nền độc lập và thống nhất ấy và thay thế vào đó bằng một cuộc chiến 30 năm “nồi da xáo thịt”.

Ngày 2/9/1945 chính phủ Trần Trọng Kim ra lệnh cho công chức tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ chính phủ. Lợi dụng cuộc biểu tình này. Việt Minh phát động một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền. Quân đội Nhật ngỏ lời giúp đàn áp Việt Minh, nhưng thủ tướng họ Trần, vì thương dân, không đồng ý. Sau đó ông đã giải tán nội các và khuyên vua Bảo Đại thoái vị. Chính vì vậy mà Việt Minh đã thành công trong việc cướp chính quyển và đã làm cho nhân dân Việt Nam khốn khổ từ ngày đó cho đến ngày nay, khổ nạn này vẫn chưa chấm dứt.

Cho nên nếu nói về “cách mạng mùa Thu” ở Việt Nam thì phải nói đến cuộc cách mạng dân chủ ngày 8/8/1945 của chính phủ Trần trọng Kim, còn cuộc đảo chánh ngày 19/8/1945 của Việt Minh chỉ là một cuộc phá hoại.

Di huấn Trần Trọng Kim

Năm 1949 thủ tướng Trần Trọng Kim đã cho xuất bản một cuốn hồi ký mang tên “Một Cơn Gió Bụi”. Đây là một cuốn lịch sử quý giá gồm 12 chương mà tất cả chúng ta đều phải đọc và không những chỉ đọc không thôi mà cỏn phải nghiền ngẫm qua thời gian, để thấu triệt lịch sử dân tộc.

Đặc biệt chúng tôi xin giới thiệu Chương số 7 mà đã là người Việt Nam thì ai cũng nên học thuộc lòng. Chương này mang tên “Tôn Chỉ Và Sự Hành Động Của Đảng CSVN”.

Chúng tôi xin được viết bằng chữ nghiêng để quý vị dễ theo dõi trong những đoạn viết sau đây. Xin quý vị đọc tiếp.

“Cộng sản đảng theo cách tổ chức và hành động của họ là một thứ tôn giáo mới, giống như các tôn giáo cũ lấy sự mê tín mà tin, chứ không hoài nghi hay đi trệch ra ngoài. Song các tôn giáo cũ nói có cõi trời, có thiên đường là nơi cực lạc. Cộng sản giáo ngày nay hoàn toàn duy vật tất không ai thờ phụng thần thánh nào khác nữa mà nhất thiết phải sùng ái những người như Karl Marx, Lenin, Stalin để thay những bậc thần thánh cũ bị truất bò.

Đã mê cái đạo ấy và đã coi lý thuyết ấy là chân lý tuyệt đối thì ngoài cái lý thuyết ấy ra, là tà giáo, là tà đạo. Ai không tin và phản đối những người đứng đầu đảng, tức những bậc giáo chủ, thì là những người phản đạo, tất phải nghiêm trị. Vì vậy mới có sự tàn sát những người cộng sản theo Trotsky (cộng sản Đệ Tứ Quốc Tế) là một chi cộng sản phản đối chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam Quốc Tế.

Vậy tín đồ cộng sản phải là những người cuồng tín chỉ biết có đời sống vật chất mà thôi, ngoài ra không có gì nữa. Về đường thực tế, các đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng.

Người cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng nên họ tìm cách bỏ hết. Vì có tư tưởng như thế nên cha con anh em, bạn bè, không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa cộng sản và phục tùng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau. Hễ ai làm những việc mà có lợi cho đảng thì là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ, đều bỏ hết, bỏ đến tận cỗi rễ để hành lập xã hội mới.

Cái xã hội mới ấy không đấu tranh cho quốc gia hay cho dân tộc. Dù có nói tình đầu cho quốc gia hay cho dân tộc nữa thì cũng chỉ là phương pháp dùng tạm thời trong một cơ hội nào đó để cho được việc mà thôi, chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu cho giai cấp vô sản.

Khi ở đâu sự tranh đấu cho giai cấp ấy được thắng lợi thì cứ tranh đấu mãi để bảo vệ quyền lới cho giai cấp ấy và xóa bỏ hết cương giới giữa nước nọ với nước kia để thực hiện một thế giới đại đồng đặt dưới quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản ở bên Nga. Nước nào không theo chế độ cộng sản thì bị trục xuất ngay ra khỏi hệ thống cộng sản.

Cái phương thuật của đảng cộng sản Nga không khéo ở chỗ ấy. Tuy nói rằng bài trừ đế quốc và tiêu diệt độc tài nhưng lại áp dụng độc tài tàn ác hơn thời xưa và gây ra một thứ đế quốc theo một danh hiệu khác để tự mình thống trị hết thiên hạ. Chẳng khác gì thời xưa bên Tàu các chư hầu phải phục tùng mệnh lệnh thiên tử.

Thì ra thế gian này chẳng có gì mới lạ: chế độ cộng sản ở nước Nga chẳng khác gì chế độ nhà Tần bên Tàu thời Chiến Quốc. Có khác chỉ là những phương tiện khoa học và những mánh khoé hiện thời mà thôi, còn thì cũng tàn bạo gian trá, cũng dùng những âm mưu quỷ quyệt để thống trị hết các nước.

Về hành động thì đảng cộng sản chuyên dùng những âm mưu xảo trá, nên tuy có thắng lợi thì cũng được ít người trí thức đi theo. Vì thế mà họ bài trừ trí thức và chỉ ưa dùng đàn bà trẻ con và những người lao động là những người dễ khuyến dụ, dễ lừa dối.

Người cộng sản khi đã hành động hay dùng đến hai chữ “giải phóng”. Cần phải hiểu rõ nghĩa của hai chữ ấy. Có phải trước kia có cái cũi giam người, bây giờ họ đem cái cũi mới để bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi mới ấy, đó là giải phóng theo kiểu cộng sản.

Các chế độ cộng sản giống như in các chế độ chuyên chế thời xưa. Ai nói xấu và công kích thì bị đầy bị giết. Ai không sốt sắng thì bị tình nghi phải chịu mọi điều phiền khổ. Cả nước bị chính quyền theo dõi bởi những toán trinh thám tố cáo hết người này đến người khác. Thành ra nhân dân trong xã hội không biết ai là bạn ai là thù, mất hẳn sinh thú ở đời.

Trong những lời tuyên truyền của Việt Minh thấy luôn luôn nào là hạnh phúc nào là tự do nào là bình đẳng nhưng thực sự thì là trái ngược tất cả. Tất cả chỉ là nói dối và lừa bịp, giết hại. tàn phá, miễn sao làm cho người ta mắc lừa hay sợ sệt theo mình là được. Đó là cái thủ đoạn của Việt Minh. Dân tình thấy thế lấy làm ngao ngán nhưng không dám nói ra. Cho nên trong dân gian đã có câu nói như “Vẹm”. Vẹm là do hai chữ viết tắt VM đọc nhanh mà thành ra”. (hết trích).

Những đoạn văn bằng chữ nghiêng nói trên là di huấn của thủ tướng họ Trần truyền lại cho con cháu. Từ nhiều thập kỷ qua những người cộng sản đã gây ra những điều di hại lâu dài cho đất nước Việt Nam. Chẳng cần nhắc lại thì ai cũng biết là sau hơn 70 năm cầm quyền, Việt Cộng đã gây ra những điều ác độc như thế nào, những điều ác độc mà thủ tướng họ Trần đã báo động trong di chúc của người.

Tương lai của Việt Nam sẽ ra sao?

Tương lai của Việt Nam có bi quan lắm hay không? Câu trả là không.

Đất nước ta đang đứng trước một vận hội mới vì đảng cộng sản và chế độ đương quyền đang phải chịu một cơn bão lớn của lịch sử. Cơn bão đó đang xóa sạch chế độ độc tài toàn trị trên địa bàn thế giới, và do đó, đất nước ta, dân tộc ta sẽ sớm phục hồi và đi vào một tương lai tươi sáng. Đó là một thực tế đang mỗi ngày được khẳng định.

Phải nói rằng. trên thế giới hiện nay, chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung. Số phận này sẽ nhanh chóng đến với Việt Nam. Yếu tố thực tiễn này, chúng ta cần nắm bắt và tin tưởng. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian sớm hay muộn, và với tình hình chính trị quốc tế hiện nay thì có thể là rất sớm.

Sau hơn 70 năm kiên trì đấu tranh cho lý tưởng tự do dân chủ, người Việt tự do đang buộc Việt Cộng phải sửa sai, phải từng bước mỗi ngày một tiếp cận gần hơn với phía dân chủ và trả lại cho dân tộc các nhân quyền căn bản.

Có thể nói là CSVN đang ở trên quá trình tiêu vong và đang bước vào giai đoạn cuối cùng. Thật vậy, vì tham nhũng, cán bộ đảng viên cộng sản đang được tư sản hóa, nhà nước cộng sản đang được tư bản hóa, còn chế độ cộng sản thì đang phải dân chủ hóa. Đó là con đường phát triển tất yếu và không còn con đường nào khác./.

Tháng 4 năm 2017

Nguyễn Cao Quyền
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »

‘Điệp viên 007’ Roger Moore qua đời vì ung thư
May 24, 2017

Image
Roger Moore trong vai James Bond ở bộ “A View to a Kill.” (Hình: Larry Ellis/Express/Getty Images)

LONDON, Anh (NV) – Theo tin BBC, Roger Moore, diễn viên nổi tiếng qua vai Jame Bond đã qua đời ở tuổi 89 tại Thụy Sĩ, hôm 23 Tháng Năm.

Gia đình ông cũng xác nhận tin trên Twitter rằng ông đã mất sau “cuộc chiến ngắn nhưng dũng cảm với bệnh ung thư.”


Các con của ông cũng chia sẻ: “Với những trái tim đang mang nỗi đau nặng nề, chúng tôi phải đành lòng nói rằng cha chúng tôi, Sir Roger Moore, đã qua đời. Cảm ơn cha đã là chính mình, một người rất đặc biệt với chúng con, và với mọi người.”

Tang lễ sẽ được tổ chức kín đáo tại Monaco, theo ý muốn của ông, nơi ông sống những ngày tháng cuối đời cùng với bà Kristina Tholstrup, người vợ thứ tư.

Diễn viên Ewan McGregor chia sẻ: “Cảm ơn Roger vì đã bảo vệ quyền của tất cả trẻ em trong suốt 26 năm qua. Ông đã chứng minh rằng tất cả chúng ta đều có sức mạnh để thay đổi cuộc sống của những đứa trẻ dễ bị tổn thương nhất.”

Trong tất cả các diễn viên vào vai điệp viên 007, James Bond của Roger Moore để lại nhiều đáng nhớ cho khán giả hơn cả. Với vai diễn này, Roger cho rằng: “Bond phải hành xử với sự sự hài hước táo bạo. Và Bond của tôi không phải loại giết người máu lạnh.” Do đó, James Bond qua cách diễn của ông có đôi chút “nhẹ dạ đáng yêu,” mang tính hài hước kiểu Anh, trong con người đa tài và dày dạn kinh nghiệm.

Có lẽ nhờ sự hài hước, và tính cách nhẹ nhàng trong vai diễn đúng tính cách “phớt tỉnh ăng-lê,” ông là người đóng vai James Bond lâu nhất từ trước đến nay, và hình như cuộc đời của ông cũng gắn chặt với hình ảnh tài hoa của “người hùng nước Anh” này.

Một người viết trên Twitter: “Roger Moore là một người không quyến rũ, chẳng nổi bật, nhưng rất thông minh và dí dỏm. Vì thế ông có thể hóa thân thành James Bond lâu nhất.”

Bảy bộ phim Roger Moore vào vai James Bond: “Live and Let Die” (1973), “The Man with the Golden Gun” (1974), “The Spy Who Loved Me” (1977), “Moonraker” (1979), “For Your Eyes Only” (1981), “Octopussy” (1983), “A View to a Kill” (1985). (V.Đ.T.)
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image


Lời Ca
"Đường xưa lối cũ, có bóng tre, bóng tre che thôn nghèo
Đường xưa lối cũ, có ánh trăng, ánh trăng soi đường đi
Đường xưa lối cũ, có tiếng ca, tiếng ca trên sông dài
Đường xưa lối cũ, có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru lòng ai
Đường xưa lối cũ, có em tôi tóc xanh bay mơ màng
Đường chiều dịu nắng, bóng em đi áo nâu in đường trăng
Đường xưa lối cũ, có mẹ tôi run run trong hôn hoàng
Lòng già thương nhớ, nhớ đến tôi, lom khom đi tìm con..."

Tiếng hát của chị đưa tâm tình của Hoàng Thi Thơ vào lòng người, lòng người bồi hồi xao xuyến. Nỗi nhớ miên man chợt nghe ngập kín tâm hồn, theo giòng nhạc dìu dặt, trở về với đường xưa lối cũ. Kỷ niệm xôn xao gợi nhắc.
Ký ức như lối đi quen thuộc xa xưa, âm thầm đưa dẫn mình trở về miền luyến nhớ.
Những riêng tư của chính mình hay ai đó, ngọt ngào hay đắng cay; chừng như chung một khúc phim, phim buồn; phim quay chậm, được thu hình trong khung nền đẫm nước; nước như có màu tro, một bầu trời xám mờ, mờ mịt mưa.
Mờ mịt hình dáng thương yêu trong nhóm người lom khom, lố nhố ngoài xa, ngoài lớp hàng rào kẻm gai của trại tù "cải tạo"; đang nóng lòng chờ kẻ có quyền lực "giải phóng" bất cứ sinh mạng nào, cho vào gặp người thân trong nơi bị giam cầm .
Gặp nhau, để nhìn nhau trong chốc lát, để phải nén giữ những điều muốn nói, muốn được nghe từ người thân, để phải nghe những sinh vật biết nói đang ghìm súng canh chừng,
nói những ngôn ngữ mới gọi là "cách mạng" kỳ dị, nói những câu tẻ nhạt, lập lại giáo điều khuôn mẫu, gian dối thật trơ trẽn.

Người ta chừng như cùng viết một đoạn thư, thư của Trang, viết cho cha
mình:
"Ba,Hôm qua với hôm nay con nghe qua nghe lại hai bài hát, Nỗi Lòng Người Đi với Đường Xưa Lối Cũ.
Hồi xưa Ba hay ngồi trước thềm đá nhà mình ở Vũng Tàu chiều chiều cúp điện là ba ôm cây đàn guitar ra hát ngân nga. Mấy ngườitrong xóm đi qua đi lại ghé vô thăm hỏi rồi ngồi với Ba một lúc rồi đi.
Con thường nằm trên gác gỗ nhà mình, cái gác mở rộng không có cửa chắn ngang, và có hai bụi Quỳnh hoa trỉu nặng thả dài xuống thềm nhà trước. Con nằm nghe Ba hát…gió chiều gió tối thổi lồng lộng vô nhà. Giờ nhớ lại thấy những ngày tháng đó êm đềm quá…...
Ba đi được một tuần rồi, đường xưa lối cũ Ba tìm được ngõ về lại nhà xưa chưa?"

"Chạnh lòng thương nhớ những phút xưa, phút xưa qua qua rồi
Lạnh lùng tưởng nhớ bóng dáng ai in sâu trong lòng tôi
Đường xưa còn đó, nắng vẫn lên, vẫn trăng treo ven đồi
Mà hình bóng cũ, thiếu trong tôi mỗi khi nghe chiều rơi...."

Hầu như người ta biết đến chị qua những ca khúc ngoại quốc trẻ trung, sôi
động. Sau gần 50 mươi năm, đêm nay được nghe chị hát, hát nhạc Việt Nam.

Rõ hơn, chị hát "nhạc vàng"!
Vâng, chị hát "nhạc vàng"!
Đấy là cách gọi, kiểu cách phân biệt để kiểm soát mà ngăn cấm của bọn
người mệnh danh là "cách mạng", sau khi cưỡng chiếm nửa phần quê hương tự do còn sót lại ở miền nam, Nam Việt Nam.
"Nhạc vàng" tức nhạc của miền Nam tự do, khác với cái thứ nhạc gọi là "nhạcđỏ" của cộng sản. Cộng Sản Miền Bắc chủ tâm nhuộm đỏ miền Nam tự do với "nhạc đỏ".
Vì thế "nhạc vàng" đã bị nhà nước cộng sản gồm chung trong loại "văn hoá đồi trụy - phản động".

Sau ngày 30/4/1975, miền Nam bị điêu linh với lắm thứ mệnh danh "cách
mạng".
Người ta không thể quên các loại chiến dịch man rợ, trong đó có chiến dịch
"Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động".Người ta không thể quên được ngôn ngữ và thái độ hận thù sắc máu như màu băng đỏ ngạo nghễ trên cánh tay của những kẻ xông vào lùng xét, tịch thu những gì có liên hệ với văn hoá của miền Nam.
Trong thời gian ngắn, có đến hàng trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị
tịch thu đem thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-
phản động tại Sài Gòn.
Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân cũng
khó thoát, cũng bị đám quân đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc.
Tại các cửa hàng kinh doanh, vốn liếng văn hoá bị thu gom để thiêu hủy, coi
như đốt cháy trọn cơ nghiệp và cuộc đời người chủ. Tất nhiên, những người
có sách bị cướp đoạt đem đốt bỏ cũng có phản ứng rất quyết liệt. Trong hồi
ký Viết Trên Gác Bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long có ghi lại thảm cảnh trong
những vụ "Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động" trong năm 1975:

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên
cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong.
Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.

Đối với nhiều nền văn hóa, âm nhạc là một phần quan trọng trong cách sống của dân tộc. Âm nhạc là thế giới nội tâm của con người, niềm cảm xúc trong tâm hồn con người trước cuộc sống. Khi nghe một tác phẩm âm nhạc,
mỗi người cảm nhận theo sự rung động của riêng mình; giai điệu và lời ca cần thểhiện được Chân-Thiện-Mỹ.

"Nhạc đỏ" nhầm đầu độc trí óc trẻ nhỏ từ tuổi còn thơ ngây, tập tành tôn
sùng lãnh tụ như "Đêm qua em mơ gặp bác..." ;
để phục vụ cho đảng và nhà nước như “Bọn giặc Mỹ cọp beo. Cái bọn giặc Mỹ cọp beo...” hay "Thề phanh thây uống máu quân thù.
Tiến mau ra xa trường, tiến lên! Cùng thét lên, trí Trai là đây nơi ước nguyền!...";
chúng nó chẳng phù hợp với tính nhân bản chút nào, thì không quyền lực nào cưởng ép để nhồi nhét vào tâm trí con người được!

Theo Gioachino Antonio Rossini (1792-1868) nhà soạn nhạc người Ý:
“Ngôn ngữ của âm nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi nó được hiểu bằng trái tim”
(The language of music is common to all generations and nations; it is
understood by everybody, since it is understood with the heart.)
Tiếc thay, sau khi Cộng Sản thống trị Miền Nam Việt Nam, tuy cùng một dân tộc mà kẻ thống trị như sinh vật không có trái tim con người để thông hiểu ngôn ngữ của âm nhạc. Và, từ ngày ấy, nền âm nhạc miền Nam Việt Nam cũng bị bức tử.

Đã 42 năm qua rồi, sự hận thù và đố kỵ với “nhạc vàng” vẫn còn, nên CSVN lại tìm cách ngăn cấm, qua ngôn ngữ gian xảo "tạm dừng lưu hành".

Đối với những ca khúc bị cấm lưu hành, Vũ Đông Hà nhận định:

“Nếu ai hỏi tôi rằng sau ngày 30 tháng 4, 1975 cái gì mà cộng sản không thể"giải phóng" được;
cái gì vẫn âm thầm nhưng vũ bão giải phóng ngược lại tâm hồn khô khốc của người dân miền Bắc lẫn nhiều cán binh cộng sản;
cái gì vẫn miệt mài làm nhân chứng cho sự khác biệt giữa văn minh và man rợ, giữa nhân ái và bạo tàn, giữa yêu thương và thù hận;
cái gì đã kết nối tâm hồn của những nạn nhân cộng sản ở cả hai miền Nam Bắc... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.

Nếu ai hỏi tôi, ảnh hưởng lớn nhất để tôi trở thành người ngày hôm nay, biết rung động trước hình ảnh của Ngoại già lầm lũi quang gánh đổ bóng gầy dưới ánh đèn vàng, biết nhung nhớ một khe gió luồn qua hai tấm ván hở của vách tường ngày xưa nhà Mẹ,
biết man mác buồn mỗi khi đến hè và trống vắng với một tiếng gà khan gáy ở sau đồi, biết tiếc nuối một mặt bàn lớp học khắc nhỏ chữ tắt tên người bạn có đôi mắt người Sơn Tây,
biết ngậm ngùi trăn trở chỉ vì một tiếng rao hàng đơn độc đêm khuya... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.

Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành một chất keo gắn chặt cuộc đời tôi vào
mảnh đất mang tên Việt Nam. Âm Nhạc Miền Nam đã làm tôi là người Việt
Nam…

...Từ những ngày xa xăm tuổi nhỏ, những người lính VNCH là thần tượng của chúng tôi. Tôi mơ được làm một người lính Dù bởi anh là loài chim quý, là cánh chim trùng khơi vạn lý, là người ra đi từ tổ ấm để không địa danh nào thiếu dấu chân anh, và cuối cùng anh bi hùng ở lại Charlie. Giữa những đau thương chia lìa của chiến tranh, những dòng nhạc của Trần Thiện Thanh đã cho tôi biết thương yêu, kính trọng những người lính không chân dung nhưng rất gần trong lòng chúng tôi. Những"cánh dù ôm gió, một cánh dù ôm kín đời anh" cũng là những cánh dù ôm ấp lý tưởng đang thành hình trong tâm hồn tuổi nhỏ của chúng tôi.

Nhìn lại quãng thời gian binh lửa ấy, tôi nhận ra mình và các bạn cùng lứa không hề biết rõ Phạm Phú Quốc là ai, chỉ biết và say mê huyền sử của một người được "Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời. Đặt tên cho anh, anh là Quốc. Đặt tên cho anh, anh là Nước. Đặt tên cho Người. Đặt tình yêu Nước vào nôi", chỉ ước ao một ngày chúng tôi cũng được như anh, cũng sẽ là những "Thần phong hiên ngang chẳng biết sợ gì!" Chúng tôi, nhiều đứa núi đồi, rừng rú, chưa bao giờ thấy biển nhưng thèm thuồng màu áo trắng và đại dương xanh thẳm, thuộc lòng câu hát "Tôi thức từng đêm, thơ ấu mà nghe muối pha trong lòng. Mẹ là mẹ trùng dương, gào than từ bãi trước ghềnh sau. Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi. Nên năm hăm mốt tuổi, tôi đi vào quân đội. Mà lòng thì chưa hề yêu ai".

Chúng tôi cũng không tìm đọc tiểu sử, cuộc chiến đấu bi hùng của Đại tá Nhảy Dù Nguyễn Đình Bảo, cũng không biết địa danh Charlie nằm ở đâu, nhưng Đại tá Nguyễn Đình Bảo là biểu tượng anh hùng của chúng tôi để chúng tôi thuộc lòng khúc hát "Toumorong, Dakto, Krek, Snoul. Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu. Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình. Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành." Chúng tôi không biết "Phá" là gì, "Tam Giang" ở đâu, nhà thơ Tô Thùy Yên là ai, nhưng "Chiều trên phá Tam Giang anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận. Em ơi, em ơi..." đã thân thiết chiếm ngự tâm hồn để chúng tôi biết thương những người anh chiến trận đang nhớ người yêu, nhớ những người chị, cô giáo của chúng tôi ngày ngày lo âu, ngóng tin từ mặt trận xa xăm.

Trong cái nôi của những ngày xưa thân ái ấy, từ nơi khung trời đầy mộng mơ của mình chúng tôi chỉ biết đến nỗi niềm của các anh bằng những "Rừng lá xanh xanh lối mòn chạy quanh, Đời lính quen yêu gian khổ quân hành". Giữa mùa xuân pháo đỏ rộn ràng con đường tuổi thơ thì chính âm nhạc nhắc cho những đứa bé chúng tôi biết đó cũng là "ngày đầu một năm, giữa tiền đồn heo hút xa xăm, có người lính trẻ, đón mùa xuân bằng phiên gác sớm". Giữa những sum vầy bình an bên cạnh mai vàng rực rỡ, thì ở xa xăm có những người con rưng rưng nhớ đến Mẹ già và gửi lời tha thiết "bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường, không lẽ riêng mình êm ấm, Mẹ ơi con xuân này vắng nhà..." Âm nhạc Việt Nam đã gieo vào tâm hồn chúng tôi hình ảnh rất bình thường, rất người, nhưng lòng ái quốc và sự hy sinh của thế hệ đàn anh chúng tôi - những người lính VNCH - thì ngời sáng. Và chúng tôi biết yêu thương, khâm phục, muốn noi gương các anh là cũng từ đó…

Gần 42 năm trôi qua, Âm Nhạc Miền Nam vẫn như dòng suối mát trôi chảy trong tâm hồn của người dân Việt. Chảy từ đồng bằng Cửu Long, xuôi ngược lên Bắc, nhập dòng sông Hồng để tưới mát tâm hồn của mọi người dân Việt đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa bạo tàn cộng sản.
Dòng suối trong mát ấy cũng cuốn phăng mọi tuyên truyền xảo trá của chế độ về xã hội, con người miền Nam trước 1975 cũng như về tư cách, phẩm giá, lý tưởng của những người lính VNCH và tình cảm trân quý, yêu thương của người dân miền Nam dành cho họ.

Gần 42 năm trôi qua, trong tuyệt vọng của những kẻ thật sự đã thua trận trong cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, nhà cầm quyền cộng sản đã tìm mọi cách để tiêu diệt Âm Nhạc Miền Nam. Nhưng họ không biết rằng,
dòng âm nhạc đó không còn là những bản in bài hát, những CD được sao chép, bán buôn... Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành máu huyết và hơi thở của người dân Việt, bất kể Bắc - Trung hay Nam, bất kể sinh trưởng trước hay sau 1975.
Bạo tàn và ngu dốt có thể đem Âm Nhạc Miền Nam vào những danh sách cấm đoán vô tri vô giác, nhưng không bao giờ đem được Âm Nhạc Miền Nam ra khỏi con người Việt Nam...” (Vũ Đông Hà)

Ngục tù cộng sản không "cải tạo" được lòng yêu nước!
Những đứa con Bất Khuất của trường mẹ sẽ vẫn về Hội Ngộ, Hội Ngộ sau 44 năm. Hướng về Đêm Hội Ngộ, bạn bè không về được, mơ được thấy, được cùng bạn mình, kề sát vai cất cao tiếng hát, hát cho quê nhà, cho Việt Nam; hát vang vang trong nhịp hùng ca.

Không ai ngăn được lời ca*
Ngàn lời ca ta hát cho quê nhà
Cho cha mẹ già và đàn con thơ

Không ai ngăn được lời ca
Vạn lời ca ta hát cho Nhân quyền
Cho Thái bình, Dân chủ, Tự do

Đồng bào ơi, hãy cùng đứng lên!
Từ thành đô cho đến nơi thôn làng.
Đồng bào ơi, hãy cùng hát vang!
Triệu khúc ca đấu tranh cho Việt Nam….

Bùi Đức Tính

* Không ai ngăn được lời ca - Nguyệt Ánh
Last edited by khieulong on Thu Aug 03, 2017 4:47 am, edited 2 times in total.
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Chọn vợ hiền

Nguyễn Thị Thanh Dương
1

Anh Tư góa vợ khi tuổi đời còn trẻ. Anh đang đi tìm cho mình một tình yêu mới, một người vợ mới.

Đối tượng anh mong ước là một phụ nữ nhà quê hiền ngoan, dịu dàng để bù đắp cho anh cuộc hôn nhân đầu không mấy hạnh phúc vì người vợ đanh đá lấn lướt chồng.

Anh quyết định tìm bạn bốn phương, nơi đây có nhiều cơ hội cho anh lựa chọn. Một vài bạn thân đã cản anh, họ nói tìm vợ qua mục này là mạo hiểm gặp kẻ xấu nhiều hơn người tốt.

Người vợ quá cố anh Tư đã gặp gỡ chẳng xa xôi gì, ngay trong hãng làm việc ngày nào cũng gặp mặt nhau và tìm hiểu nhau cả năm trời mới đi đến hôn nhân thế mà anh Tư vẫn lầm cưới phải một bà chằn.

Tìm bạn phương xa nếu có duyên vẫn gặp người như ý. Thế nên anh Tư muốn thử thách với đời.

Người con gái đầu tiên ở Việt Nam tên Hoa anh Tư quen biết qua mục tìm bạn bốn phương trên mạng.

Anh Tư đã về Việt Nam gặp Hoa tại làng quê của cô ở Vĩnh Long, Hoa dịu dàng, hiền lành đón nhận chuyện tình cảm với anh, chỉ tha thiết xin anh khi cưới cô rồi hãy là người chồng chung thủy suốt đời. Thật sung sướng và hãnh diện khi được người đẹp xin chút tình yêu và hạnh phúc.

Về Mỹ, sau một vài lần anh Tư gọi phone nói chuyện là Hoa đã tự động gọi lại cho anh, tấn công tình cảm nhớ thương ráo riết đến nỗi anh như lạc vào cõi u mê gởi tiền về Việt Nam cho cô chi tiêu và học Anh Văn để chờ ngày anh làm giấy tờ bảo lãnh cô sang Mỹ. Chưa kể thỉnh thoảng anh Tư còn gởi thêm tiền theo yêu cầu của Hoa để lo cho cha mẹ, cho các em khi gặp chuyện cần thiết.

Cho đến một ngày, anh Tư trở về Việt Nam vì muốn mang niềm vui bất ngờ cho Hoa nên anh không báo trước. Anh hí hởn xách một va ly đầy quà đến thẳng nhà nàng ở Vĩnh Long tưởng rằng cô thôn nữ dịu hiền tên Hoa sẽ mừng vui mở cửa đón anh và đón quà vào nhà. Nhưng cửa mở là một anh chàng gương mặt ba trợn hất hàm hỏi:

– Anh tìm ai?

Anh Tư bối rối :

– Tôi tìm cô Hoa nhưng… chắc tôi đi lộn nhà?

Anh ba trợn điệu bộ thách thức

– Không lộn đâu, tôi là chồng cô Hoa đây.

Anh Tư càng thêm bối rối, lắp bắp:

– Ủa… cô Hoa đã… đã…

Anh ba trợn gằn giọng tiếp lời

– Đã có chồng. Hôm nay tôi theo vợ về quê ăn đám giỗ ông cố nội vợ.

Nhìn vẻ mặt và lời nói dữ dằn của anh ba trợn anh Tư biết điều rút lui ngay không muốn dây dưa thêm. Ra tới đầu ngõ anh mới hoàn hồn, một bà hàng xóm của cô Hoa đã chạy theo nói nhỏ với anh Tư:
- Con Hoa là gái bán bar ở Sài Gòn, thằng đó là chồng hờ con Hoa, con Hoa chuyên gài bẫy mấy ông già dê hay mấy tay Việt kiều mê gái để làm tiền.

Anh Tư hú vía tính lại cũng mất khá nhiều tiền với Hoa nhưng may mà chưa tiến xa hơn, chưa thân tàn ma dại.

Cô Hoa đúng là một cô gái quê nhưng chỉ là trong quá khứ mà thôi.

Tức giận và cay đắng vì bị lừa tình, lừa tiền mất mặt với người thân và bạn bè vì ai cũng nghe tin anh sắp cưới được một người vợ hiền trẻ, đẹp từ Việt Nam.

Anh nghi ngờ và thù ghét tất cả những cô gái quê trẻ đẹp qua mục tìm bạn bốn phương.

Càng ghét anh càng tò mò thích ghé mắt vào mạng coi mục này, thấy cô Hoa lại tiếp tục đăng lời tìm bạn trai ở hải ngoại, cũng thiết tha, cũng chân thật như lần trước với tấm hình xinh đẹp của cô ai nhìn mà không động lòng. Không biết đã có anh chàng Việt kiều dại gái nào như anh đang đâm đầu vào chưa?

Nhưng một mẫu đăng tìm bạn của một cô gái khác đã đập vào mắt anh, lời rao tìm bạn rất thực tế:

“Tôi tên B.V. gái quê miền Bắc, hiền lành, nhan sắc khá. Muốn được kết hôn với bạn trai ở nước ngoài để thoát cảnh đói nghèo. Không phân biệt tuổi tác, chỉ cần tình yêu thương và tôi sẽ là người vợ hiền chung thủy”

Anh Tư đã nhún vai:

– Lại một cô Hoa thứ hai.

Lần trước cô Hoa là gái miền Nam, lần này B.V là gái miền Bắc. Gái quê miền Nam nổi tiếng thật thà mà cô Hoa còn lừa lọc thế huống chi gái miền Bắc thường khôn ngoan đáo để.

Anh chợt nảy ra ý định trả thù đời.

Thế là anh Tư làm quen với cô gái có tên tắt là B.V. Anh gọi số phone của cô khi nghe đầu dây bên kia nói “A lô” anh Tư nói ngay:

– Tôi muốn gặp cô Bích Vân hay Bạch Vân gì đó .

Một giọng nói Bắc kỳ rụt rè và ngại ngùng:

– Anh… nhầm số rồi ạ…

– Tôi tin là gọi đúng mà. Có phải cô tìm bạn bốn phương trên mạng không? Tôi muốn làm quen với cô.

– Vâng, nhưng em không tên là Bích Vân, Bạch Vân. Anh nhầm ai rồi.

Anh Tư cố dằn cơn bực mình giải thích thêm:

– Tôi đọc mẫu rao gái quê hiền lành muốn tìm bạn, tên viết tắt là B.V. Thế không là Bích Vân, Bạch Vân thì là gì?

Cô gái cẩn thận hỏi lại:

– À, viết tắt là B.V hở anh? Chắc là em vì em tên Bền Vững, Nguyễn Bền Vững anh ạ.

Anh Tư mỉa mai nghĩ thầm: “Ngây thơ vụng về nhà quê quá nhỉ. Chính mình đăng tìm bạn mà còn không nhớ BV là ai. Hừm, nói dối nhiều quá nên không nhớ nổi, biết đâu Bền Vững cũng chỉ là cái tên giả cho ra vẻ nhà quê chính hiệu”.

Anh lẩm bẩm cho thuộc cái tên:

– Bền Vững…cái tên nghe lạ lạ…

Cô gái tự tin hơn:

– Bố em đặt thế vì muốn cho cuộc sống của em sau này luôn có hạnh phúc bền vững lâu dài. Nhưng cũng khổ lắm anh ạ, hồi còn bé đi học các bạn cứ trêu chọc vì tên em như tên con trai ấy.

Lối nói chuyện của cô Bền Vững thật chân quê. Anh thú vị trước cuộc chơi này để cô Bền Vững trước sau gì cũng sẽ phơi bày bộ mặt thật.

Trong vòng một tháng hai người đã nói chuyện với nhau nhiều lần và thân nhau hơn. Nhưng chỉ có anh Tư gọi cho Bền Vững, chứ cô chớ hề gọi lại cho anh. Đó là phong cách làm cao “cáo già, chảnh chọe” của các cô gái. Anh nghĩ thế.

Thế là anh lại gọi cho Bền Vững để câu chuyện tiếp tục tiến triển như ý muốn. Lần này anh Tư sẽ tấn công nhanh hơn:

– Chào em Bền Vững.

Như thường lệ cô hỏi thăm lê thê:

– Anh Tư có khỏe không? Hai bác có khỏe không? và các anh chị em của anh ở bên Mỹ có khỏe không ạ?

– Mọi người đều bình thường. Lần sau em hỏi thăm thì gom lại thành một câu ngắn gọn là “Cả nhà anh có khỏe không?” là đủ rồi, khỏi cần dài dòng em nhé, dòng họ anh nhiều lắm, em hỏi thăm sao cho hết.

– Vâng ạ.

– Anh muốn báo em một tin vui là anh sẽ về Việt Nam thăm em và gia đình để hai ta gặp mặt và tìm hiểu nhau nếu hợp sẽ tiến xa hơn.

Bền Vững mừng vui:

– Thật thế hở anh. Em mong ngày gặp anh lắm. Em sẽ cho bố mẹ em biết để chuẩn bị đón anh về thăm quê hương em.

– Anh sẽ mua vé máy bay và báo cho em biết ngày giờ anh xuống sân bay Nội Bài.

Cho cô Bền Vững niềm hy vọng ngất ngây vui mừng xong anh Tư thở phào, coi như chấm dứt một vở hài kịch.

Sẽ có một người vỡ mộng như anh đã từng vỡ mộng.

Anh sẽ ngồi ở Mỹ và ung dung tưởng tượng ra cái ngày cô Bền Vững hí hửng ra phi trường Nội Bài đón anh về, cảnh cha mẹ cô chộn rộn ở nhà chờ mong con đưa bạn trai Việt kiều từ Mỹ về và mơ ước một tương lai tươi sáng đang chờ khi con gái họ được cưới sang nước Mỹ định cư.

Nhưng cô Bền Vững sẽ bẽ bàng thất vọng vì chẳng có anh Tư Việt kiều nào về trong chuyến bay, cô sẽ phải trở về với con người thật của cô, nếu cô không nham hiểm lừa đảo như cô Hoa thì cũng là một cô gái khôn ngoan đáo để nào đó ở thành phố đang bán bia ôm, đang làm bồ nhí đại gia, hay làm gái gọi muốn từ giã “ngành nghề” tai tiếng này để lập lại cuộc đời tươi sáng hơn dưới vỏ bọc là một cô gái quê hiền lành thật thà như trước kia cô chưa hề sa chân vào cạm bẫy cuộc đời.

Những Việt kiều xa xôi vạn dặm như anh Tư thì đời nào biết được những mảnh đời éo le như thế?

Anh Tư chợt cao hứng, ngồi nhà tưởng tượng ra chưa hả hê bằng tận mắt chứng kiến màn cuối của vở kịch bi hài này. Lần trước anh bị gái đẹp lừa, lần này anh lừa lại gái đẹp thế là huề, không nợ nần ân oán gì nhau.

Anh quyết định mua vé máy bay về Việt Nam.

Anh sẽ nhìn thấy con cáo già đóng giả nai tơ và dĩ nhiên chẳng đời nào anh lộ diện chứ đừng nói đến chuyện theo con cáo ấy về quê hương nghèo khổ của nó như ngày nào anh đã theo chân cô Hoa về Vĩnh Long.

***

Anh Tư ở trong một khách sạn tại Hà Nội, ngày hôm sau anh thuê xe taxi đến phi trường Nội Bài.

Chuyến bay của anh cho cô Bền Vững đến vào buổi chiều, rất bài bản và đúng với thực tế vì anh đã hỏi tại dịch vụ bán vé máy bay ở Mỹ lịch trình ngày giờ chuyến bay về tới Việt Nam, dĩ nhiên anh không mua vé đi chuyến bay đó.

Còn chuyến bay thực sự có mặt anh Tư thì về Việt Nam sớm hơn một ngày nên hôm nay anh đã có mặt tại phi trường Nội Bài trà trộn với đám đông người bên ngoài đang chờ đợi đón thân nhân từ Mỹ về khi sắp đến giờ máy bay đáp xuống.

Anh Tư đứng một chỗ khuất kín đáo để ý kiếm tìm và dễ dàng nhận ra một cô gái trẻ mặc áo trắng tay cầm một cánh hoa hồng màu đỏ đúng như anh và cô đã giao ước, còn cô chốc nữa đây sẽ mỏi mắt tìm anh chàng Việt Kiều từ trong bước ra cũng mặc áo sơ mi màu trắng, ngực áo có đeo bảng tên Nguyễn văn Tư không bao giờ xuất hiện.

Anh ngạc nhiên sững sờ vì cô gái trông thật sự nhà quê, cách ăn mặc đơn giản và nét mặt xinh đẹp hiền lành ngơ ngác giữa chốn đông người.

Chuyến bay đến đúng giờ hành khách từ trong kéo hành lý ra ngoài gặp gỡ thân nhân, cô Bền Vững đến gần nhìn kỹ từng người rồi lại lui ra chờ đợi người khác, nét mặt cô lúc thì lộ vẻ căng thẳng, vui mừng lúc thất vọng lo âu…

Cho đến khi dường như số hành khách của chuyến bay đã ra ngoài hết thì cô thật sự tuyệt vọng, cánh hoa hồng đỏ trên tay cô hững hờ, cô đứng bơ vơ một góc chưa biết phải làm gì.

Anh Tư không hề cảm thấy hả hê thú vị như anh đã nghĩ, anh không muốn rút lui vì đã đạt ý nguyện mà trái lại anh càng tò mò muốn biết tâm trạng của cô lúc này.

Anh bước thẳng đến bên cô, anh sửa giọng cho khác đi một chút:

– Tôi có thể giúp gì cho cô không?

May quá, cô không nhận ra giọng nói của anh vì có thể giọng nói qua phone đường dài khác với giọng nói khi thực tế đối diện. Còn anh đã nhận ra đây là giọng nói của cô Bền Vững khi cô ngại ngùng chối từ và định quay đi:

– Không có gì ạ. Thôi tôi về đây.

– Tôi thật sự muốn giúp cô mà, nãy giờ tôi thấy cô đứng đây đã lâu.

Cô Bền Vững đành dừng chân lại:

– Không biết đã hết người của chuyến bay này chưa hở anh?

– Không còn ai nữa đâu.

Cô gái lặp lại câu nói cũ:

– Thôi tôi về đây.

– Khoan đã, tôi có thể làm quen với cô được không? Tôi cũng là hành khách vừa từ nước ngoài về thăm Việt Nam, tôi thật sự muốn có một người bạn gái dịu dàng như cô.

Cô vội vàng từ chối:

– Không, tôi đã có bạn trai rồi. Hôm nay tôi đi đón anh ấy, chào anh.

– Tôi không tin thế vì bạn trai của cô đã không xuất hiện.

Cô gái khẳng định:

– Chắc anh ấy bận chuyện gì đó nên không về đúng hẹn chứ anh ấy nói dối tôi để được gì…

Cô gái tất tả bước đi như sợ bị người lạ níu áo lại.

Giây phút này tình thế đổi ngược, anh Tư bỗng bồi hồi cảm động và có chút ân hận, cô Bền Vững quả là một cô gái hiền lành, đoan trang vậy mà anh đã nghi ngờ và thử thách cô.

Anh Tư nhanh chóng đứng ngay trước mặt cô vì sợ cô đi mất:

– Cô Bền Vững, cô không nhận ra tôi sao? Tôi là Nguyễn văn Tư đây.

Cô Bền Vững đứng sững sờ nhìn anh Tư, anh nói giọng bình thường thật chậm cho cô nhận ra:

– Tôi là người đã làm quen cô trên mục tìm bạn bốn phương trên mạng hơn hai tháng nay và đã hẹn gặp cô ngày hôm nay.

Cô gái ngạc nhiên và mừng rỡ:

– Anh là anh Tư đây sao?

Anh càng thêm cảm động trước cử chỉ của cô:

– Anh thành thật xin lỗi em vì đã để em chờ…

Cô gái mỉm cười:

– Thật bất ngờ quá, em đang không biết sẽ trở về nhà nói với cha mẹ em làm sao.

Anh Tư hỏi cái điều mà anh từng thắc mắc từ khi làm quen với cô:

– Nhưng anh hỏi thật em nhé, em có vẻ là một cô gái quê ít giao thiệp với cuộc đời, sao em lại có ý nghĩ tìm bạn bốn phương và bằng cách nào đăng trên mạng? Em có biết là lãng mạn và mạo hiểm lắm không? Sẽ có những người thật lòng và không thật lòng đến với em.

Cô gái thật thà:

– Vâng, em đã gặp người xấu rồi, có mấy người gọi điện cho em nói chuyện trên trời dưới đất, hứa hẹn những điều không tưởng. Em biết họ chỉ đùa bỡn không thật lòng nên không tiếp xúc với họ nữa, còn chuyện tìm bạn của em là ngẫu nhiên thôi, một người bác họ của em ở Mỹ về thăm quê miền Bắc thấy cảnh nhà em nghèo bác ấy muốn giúp em lấy chồng ở nước ngoài hy vọng em được đổi đời thoát khỏi cảnh khổ nên bác liều đăng trên mạng tìm bạn cho em để cầu may chứ em chả dám mong.

– Có lúc nào em nghĩ anh cũng không thật lòng và đùa giỡn với em không?

– Em không dám nghĩ thế…

– Khi nào rảnh anh sẽ kể cho em nghe sau, nhưng kể từ giờ phút này thì em hãy tin anh nhé.

– Vâng ạ.

– Vậy anh có thể theo em về quê ngay bây giờ không?

Cô gái cảm động và hãnh diện:

– Anh không chê em nhà quê nhà nghèo thật quý hóa vô cùng, bố mẹ em đang chờ đón khách phương xa đến thăm nhà đấy.

Họ đón Taxi về khách sạn ở Hà Nội để anh Tư lấy hành lý đồng thời Taxi sẽ đưa họ về làng quê cô Bền Vững cách Hà Nội khoảng 4 giờ lái xe.

Anh Tư sẽ thuê phòng một khách sạn tại thị xã nơi gần làng quê của Bền Vững nhất để tiện việc đi lại với gia đình cô.

Anh Tư đã đến một làng quê nghèo. Cha mẹ cô Bền Vững là nông dân và hiền lành chất phác.

Anh Tư thân tình hỏi cha mẹ cô Bền Vững:

– Hai bác cho em Bền Vững quen người ở Mỹ xa xôi như cháu, hai bác có an tâm không?

– Nhà chúng tôi nghèo nhưng anh không chê, không quản ngại từ xa xôi về muốn làm quen với em nó thì chúng tôi vui lắm, anh và em nó cứ tìm hiểu nhau thêm…

Anh Tư hào hứng:

– Nếu sau này cháu muốn cưới em Bền Vững mang sang Mỹ, con gái đi xa hai bác có buồn không?

Bác trai cũng hào hứng:

– Ở Mỹ là nhất anh ạ, ngày xưa chúng tôi chống Mỹ, nhưng bây giờ chúng tôi “chấm” Mỹ, chỉ thích cho con đi Mỹ thôi.

Chỉ qua vài câu chuyện với cha mẹ Bền Vững cũng đủ cho anh Tư hiểu họ là những người nông dân lương thiện, thật thà và cởi mở.

Ở đời chuyện xấu tốt tùy người, những người đăng tìm và đi tìm bạn bốn phương có thật và có giả dối, tí nữa anh mất đi một mối chân tình vì vơ đũa cả nắm.

Ở chơi với gia đình cô Bền Vững một tuần thì anh Tư phải từ giã trở về Mỹ, anh đâu ngờ cô Bền Vững dễ thương đến thế, chân tình đến thế, cha mẹ cô tử tế đến thế. Anh tiếc là chuyến ở Việt Nam của anh quá ngắn ngủi.

Trong lòng anh Tư đang có niềm vui phơi phới vì đã tìm được đúng người, cô Bền Vững sẽ là người yêu, người vợ hiền như anh từng mong ước, mai này các người thân và bạn bè của anh ở Mỹ sẽ phải ngạc nhiên và ghen tị với anh vì điều may mắn này.

Hôm qua anh đã nói chuyện và hứa hẹn nhiều điều với cô Bền Vững, anh dặn dò mấy lần:

– Em chờ nhé, anh sẽ về cưới em và bảo lãnh em qua Mỹ

Đáp lại cô Bền Vững ngây thơ cũng hứa hẹn sẽ yêu anh trọn đời.

Tiễn anh Tư ra phi trường Nội Bài có cha mẹ và cô Bền Vững. Cuộc chia tay bịn rịn và cảm động kẻ ở người về.

Khi anh Tư từ giã vào trong đã lâu mà gia đình cô Bền Vững vẫn còn đứng chờ ở ngoài. Bố mẹ cô sốt ruột liên tục giục con gái:

– Ta về thôi, anh ấy chắc đã lên máy bay rồi…

– Phi trường đông người nhìn ông đi qua bà đi lại mẹ hoa cả mắt, nhức cả đầu. Về đi con…

Cô Bền Vững gắt toáng lên:

– Bố mẹ làm gì mà cứ nhắng lên thế. Biết rồi, nhưng đợi con hỏi lại cho chắc.

Cô nhanh nhẹn chạy ra hỏi một nhân viên phi trường và được xác nhận là chuyến bay ấy đã cất cánh cách đây 10 phút thì cô mới thở dài nhẹ nhõm, cô nói:

– Bây giờ bố mẹ đón xe về quê, con ở lại Hà Nội. Không cần đóng vai gái quê nữa, anh Tư chẳng có cánh mà bay ngược trở lại ngay lúc này đâu.

Bà mẹ ngần ngừ:

– Thì con cứ về làm gái quê như từng là gái quê càng tốt chứ sao, làm vương làm tướng gì mà ở mãi Hà Nội?

– Về quê chán lắm bà già ạ, ở một tuần mà con muốn điên cả người. Nhưng bất cứ khi nào có anh Tư Việt kiều con lại trở về quê làm con gái ngoan của bố mẹ như chưa từng đi hoang.

Cô nghênh mặt tự hào:

– Mẹ cứ yên tâm, con chắc anh Tư sẽ về cưới con, con sẽ lấy được tấm chồng như bố mẹ từng mong đợi mà lại là chồng Việt kiều Mỹ hẳn hòi, hơn hẳn những đứa lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn đấy nhá. Người ta nói đánh đĩ mười phương cũng chừa lại một phương để lấy chồng làm lại cuộc đời quả không sai. Không bao giờ con hí cho thằng tình nhân, thằng chồng hờ hay con bạn nặc nô cà chớn nào biết lai lịch nguyên quán của con nên đối với làng quê mình con vẫn là gái ngoan tử tế con nhà lành.

Ông bố giật mình mắng con gái:

– Ôi, con này! khẽ mồm khẽ miệng chứ, mày ăn nói sỗ sàng và to tiếng thế ai nghe được thì tao đeo mo vào mặt. Ở làng quê bố mẹ phải nói dối và che đậy cho mày, nói mày lên Hà Nội làm việc trong một nhà máy.

– Bố nhạy cảm nhỉ, ở Hà Nội con mặt dày như mặt đường nhựa cao tốc rồi. Chỗ này thiên hạ không ai biết mình đâu bố đừng lo. Nhưng bố mẹ thấy con đóng vai gái quê ngoan hiền có đạt không? Cũng phải kể đến công lao của mẹ góp phần vào, mẹ đã giúp con nấu nướng những món ăn dân giã miền bắc, món nào anh Tư cũng rối rít khen con đảm đang và khéo tay trong khi con là thứ gái đoảng. Muối cà, cà thâm. Muối dưa, dưa khú. Nấu cháo, cháo khét. Quậy bánh đúc, bánh đúc khê…

Bà mẹ thật thà âu yếm trách con:

– Con liệt kê đủ thứ đoảng mà món chủ yếu lại quên. Nấu cơm, cơm sống nữa chứ con. Mấy lần con nấu cơm không sống trên cũng sống dưới. Rõ khổ, may mà con đã mua về một nồi cơm điện để giải quyết vấn đề…

Cô Bền Vững nhún vai:

– Lên Hà Nội con lại ăn cơm hàng cháo chợ nên đến bây giờ vẫn chưa biết nấu nướng là gì.

Ông bố thở dài:

– Bà chiều nó quá nên mới thế, mới ra nông nỗi này.

– Ý ông lại đổ vạ tại tôi nuông chiều đứa con gái độc nhất của chúng ta nó mới đổ đốn hư hỏng bỏ nhà đi hoang đấy hử? Ông có giỏi sao không cho tôi đẻ thêm đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư đi thì đâu đến nỗi…

Ông bố điên tiết:

– Bà lại ngoạc mồm ra chê trách tôi sau trận ốm vàng da sốt rét thập tử nhất sinh tôi không thể có con được nữa hả? Hả? đừng có chọc vào tự ái của tôi. Rõ chửa?

Cô Bền Vững cong cớn đe dọa:

– Hai ông bà mà cãi nhau nữa là đây ở Hà Nội luôn không thèm thỉnh thoảng về quê thăm nhà cho biết thân…

Hai vợ chồng nhà quê vội vàng xuống nước vì sợ con gái nổi giận tung hê bất cần đời giữa chốn công cộng này:

– Đừng, đừng con…bố mẹ chỉ lẩm cẩm nhắc lại thôi

– Bố mẹ hiểu rồi, dù sao con cũng đang muốn tìm chồng để làm lại cuộc đời. Con tìm đâu ra anh Tư Việt kiều thật là giỏi, chẳng đoảng tí nào..

Cô Bền Vững nguôi ngay và khoe thành tích:

– Tâm lý Việt kiều nào về Việt Nam chẳng muốn cưới vợ hiền, vợ ngoan, càng nhà quê càng được tin yêu. Con đã ra tay thì anh Tư có mà chạy đằng trời.

Bà mẹ khuyên con:

– Ừ, anh Tư có vẻ tin cậy và thương yêu con, hãy giữ gìn mối quan hệ này cho tốt…

Ông bố năn nỉ:

– Mày liệu mà lấy chồng đi, lông bông mãi là tàn đời con ạ. Bố mẹ bó tay không dạy bảo được mày, bố chỉ xin mày nghiêm túc nghe lời một lần này thôi.

– Khỏi cần bố mẹ dạy đây cũng biết thừa, gái hư hỏng như con ở Việt Nam ai thèm lấy có chăng là Việt kiều phương xa hay lấy Tây, lấy Mỹ thôi. Nói thật nhé, đây ăn chơi Hà Nội chán rồi đang muốn được tung cánh bay đi Mỹ, đi Tây xem nó sung sướng thế nào.

Cô Bền Vững đầy khôn ngoan bản lĩnh, cô đã tự đạo diễn cho mình một kịch bản chặt chẽ và hợp lý, đóng vai cô gái quê tìm bạn trên mạng, lúc ngơ ngác ở phi trường Nội Bài, lúc thấy anh Tư xuất hiện con cáo già như cô đã đoán ra anh Tư ngay dù chưa hiểu thấu đáo anh xuất hiện bất ngờ thế vì lý do gì, cô càng diễn giỏi diễn hay hơn nữa vai trò cô gái quê đoan trang hiền thục làm anh Tư ngả nghiêng từ những phút gặp gỡ đầu tiên ấy.

Những ngày cùng bố mẹ tiếp anh Tư cô luôn ra vẻ là đứa con ngoan, là cô gái tốt càng làm anh Tư thêm quấn quýt và gắn bó…

Chia tay bố mẹ tại bến xe trước khi mỗi người đi một ngã cô Bền Vững tươi cười hứa hẹn:

– Ông bà già cứ về quê và chờ đợi tin vui nhé. Anh Tư Việt kiều sẽ sớm về Việt Nam xin cưới con, mà dù chẳng may anh có “xù” thì con cũng sẽ tìm được anh Tư Việt kiều khác để rước đi đứa con gái giời đánh này, của nợ đời này, oan gia nghiệp chướng này cho bố mẹ được ăn ngon ngủ yên .

Nguyễn thị Thanh Dương
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image

Xuất xứ bài ÁO LỤA HÀ ĐÔNG của NS NGÔ THỤY MIÊN

Ai trong chúng ta cũng đã từng hát một lần bài " ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" của nhạc sĩ NGÔ THỤY MIÊN, nhưng mấy ai biết rằng bài hát này lại có xuất xứ từ một cuộc thi hoa hậu đầu tiên của Việt Nam.

Năm 1930, xứ Bắc Kỳ đã tổ chức cuộc thi người đẹp (giống như thi Hoa hậu bây giờ) với những ấn tượng lạ: không phải ở Hà Nội mà ngay tại tỉnh Hà Đông; các cô gái bất cứ lứa tuổi, kể cả đã có chồng, ngành nghề gì cũng đều được tham gia; phải mặc áo lụa của xứ Hà Đông.
Người đăng quang trong cuộc thi là người đẹp LÝ LỆ HẰNG, xuất thân từ một nông dân nghèo tỉnh Thái Bình. Do cuộc sống mưu sinh, cô phải lên Hà nội làm nghề hát cô đầu cho các quán rượu.

Sau khi thay đổi cuộc đời, cô trở nên nổi tiếng và là niềm ước mơ của bao công tử nhà giàu trong cả nước. Tuy nhiên chẳng ai có thể với tới được móng chân của người đẹp "chân lấm, tay bùn" bởi chỉ một thời gian sau Quốc Vương Bảo Đại đã chọn LÝ LỆ HẰNG làm người tình.

Có lẽ cũng như bao chàng trai si mê sắc đẹp khác, dù đã trải qua hơn 20 năm sau, nhà thơ NGUYÊN SA vẫn mơ tưởng đến nụ cười, ánh mắt khuynh đảo của hoa hậu đầu tiên và buộc ông phải viết bài thơ ca ngợi người đẹp mặc áo lụa ấy.

Mãi đến năm 1969, khi nghe câu chuyện về hoa hậu "thuần nông" phút chốc trở thành người yêu của ông vua cuối cùng Việt Nam, chàng trai 21 tuổi NGÔ THỤY MIÊN đã viết nên ca khúc nổi tiếng "ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" được phổ lời từ bài thơ của NGUYÊN SA như để ngưỡng mộ những cô gái tựa như đóa sen vươn lên từ đầm lầy.

( bài viết Xuất Xứ được trích từ Blog Cà Phê Diễm Xưa, lời xuất xứ được thố lộ từ chính các tác giả của nhạc phẩm )








bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Nhà văn TRẦN THÙY MAI với truyện ngắn

"Nơi có những cây tùng xanh biếc"


Image
Trần Thùy Mai
Một người bạn Nhật kể lại với tôi rằng trong suốt mấy mươi năm sau khi Kỳ Ngoại Hầu Cường Để mất, bà Ando Chie sống trong một căn hộ đơn sơ, và giữ mãi trên vách những bức hình của ông….
Tôi rất muốn được tận mắt nhìn nơi đó, nhưng khi tôi đến Tokyo vào năm 2007, bà đã qua đời trước đó không lâu. Cũng may tôi đã đến nghĩa trang Zoshigaya nơi bà chôn nắm tro của nhà chí sĩ Việt Nam.
Hôm đó là một ngày tháng Tư, trong nghĩa trang có hoa anh đào nở. Tôi hình dung bóng Ando Chie lủi thủi một mình. Trong cảnh vắng lặng, những ngày tháng giữa Cường Để và Ando Chie bắt đầu hiện ra trong tôi. Một câu chuyện về tình yêu và phận người.
Về phong trào Đông Du, khởi đầu, kết thúc và vai trò lịch sử của nó thì có lẽ ai cũng biết rồi. Tôi chỉ muốn viết về một trái tim ngọt ngào mà Trời đã đem đến cho một người đàn ông trong bước đường cùng.
…Như một ân sủng làm dịu đi nỗi rát bỏng của định mệnh.


Nhà văn TRẦN THÙY MAI

Image

Nơi có những cây tùng xanh biếc

Ando Chie cúi xuống, nhúng ngón tay vào chậu nước. Nước ấm vừa đủ tắm. Nàng kéo màn che cửa sổ. Ngoài kia, một cây anh đào vừa nở, những nhành hoa rủ xuống trắng hồng.
- Xin ngài vào tắm kẻo nước nguội.
Giọng nàng nhỏ nhẹ và lễ phép.
Ngoài ba mươi tuổi, Chie mạnh khỏe và bầu bĩnh trong bộ kimono giản dị màu lam. Là người giúp việc cho hoàng thân Cường Để, cô đến ở đây đã hai năm theo sự bố trí của Đại tá Wanatabe.
Năm ấy Hoàng thân đã ngoài năm mươi tuổi, dáng vóc nho nhã nhưng khuôn mặt gầy đượm buồn. Ông chăm chú viết, những chữ Nho chân phương rất đẹp trên giấy trắng. Thấy Chie, ông ngẩng lên, vẻ mặt ngần ngừ:
- Lại tắm. Ta mới tắm hôm kia...
Chie mỉm cười. Ông hoàng Việt Nam này rất lười tắm gội. Người Nhật vốn rất sạch sẽ . Bao giờ cũng thế, Chie rất cương quyết với ông.
Chie đến gần, đặt tay lên nút áo ông. Chiếc áo năm thân màu nguyệt bạch với rất nhiều khuy vải. Ở Nhật đã hai mươi năm, ông vẫn mặc áo Việt. Những chiếc áo ông đem theo từ Việt Nam đã cũ nát từ lâu, chiếc áo này là do Chie phỏng theo áo cũ để may cho ông, kiểu áo Việt trên nền lụa Nhật.
Nhưng hôm nay, ông hoàng dường như trái tính hơn mọi ngày. Ông chùn lại, xua tay, ánh mắt đầy nghi kỵ:
- Để ta yên!
Từ lúc Chie mới đến đây, ông vốn đã không tin nàng. Ông không cho nàng sắp xếp thư từ giấy tờ trên bàn ông, dù chúng thường rất lộn xộn. Mỗi lần đau ốm, ông cố giấu không cho nàng săn sóc.
Chie là người do quân đội Nhật cử đến. Ông nghi kỵ nàng nhưng không thể từ khước nàng. Ông khư khư không cho nàng chạm tới đống thư từ, nhưng lại quá cần nàng thu dọn giường nằm bề bộn, pha cho ấm trà buổi sáng, khâu lại áo xống, cả ánh mắt cương quyết của nàng mỗi lần bắt ông đi tắm…
Nhưng hôm nay nhìn vẻ mặt ông, Chie lẳng lặng không nài ép gì nữa. Nàng quay ra một lúc rồi trở vào với khay trà - Nàng đã quen, những lúc căng thẳng thế này chỉ có một ấm trà Tàu mới có thể làm ông dịu lại.
Bước qua ngạch cửa, nàng khựng lại. Kỳ ngoại hầu Cường Để, hoàng đích tôn đời thứ 5 của vua Gia Long đang bưng mặt khóc.
Image
Kỳ ngoại hầu Cường Để
Ando Chie vội vã đặt khay xuống án thư, chạy đến đỡ lấy mái tóc chớm bạc đang rũ rượi gục về phía trước. Tấm thân gầy mỏng của người đàn ông như muốn sụp xuống trong tay nàng.
- Điện hạ, hoàng tử...
Chie cứ nghĩ ông sẽ đẩy nàng ra. Nhưng lần này Cường Để chỉ ngẩng lên, mắt nhìn sững vào khoảng không trước mặt. Nàng nhẹ nhàng chặm những giọt nước ứa ra quanh đôi mắt thất thần. “Có chuyện gì...?”.
Cường Để không kiềm chế được, khóc nức lên. “Bác Phan mất rồi!”.
Tại Tokyo một buổi chiều tháng tư, Cường Để nhận được thư báo. Phan Bội Châu, người đã tìm đến ông khi ông mới hai mươi mốt tuổi, đã tôn ông làm minh chủ của phong trào Đông du chống Pháp. Người đã đón ông sang Nhật để tính chuyện phục quốc lâu dài. Việc Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải đã là một đòn quá mạnh đối với ông. Từ ngày ấy, ông không thôi cảm thấy lạc lõng, hoang mang; cảm giác thối chí thỉnh thoảng lại ám ảnh ông, ông phải hết sức chống lại.

Bây giờ Phan Bội Châu đã mất. Hơn ba mươi năm lưu vong trên đất Nhật, bao nhiêu ý chí, nghị lực của ông dường như được truyền từ sức mạnh tinh thần của con người này. Vậy mà giờ đây người ấy không còn nữa. Số phận đã bỏ rơi ông giữa một thế giới mênh mông xa lạ, trong cảnh tiến thoái lưỡng nan.
Không phải là chuyện có thể chia sẻ với Ando Chie, nhưng biết nói cùng ai ở nơi lữ thứ này. Phong trào Đông du đã tan rã, Trần Đông Phong đã tự vẫn, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Siêu đã trốn đi, chỉ còn mình ông trơ trọi giữa trời cùng đất tuyệt.

Chie cố gắng an ủi ông, dù không biết người chết là ai. Nàng dìu ông vào giường, đắp chăn, buông màn cho ông.
“Để mặc ta”. Cường Để nói, xua tay, quay mặt vào góc tối.
Chie gật đầu, nàng ém màn vào dưới nệm, bước lùi mấy bước.
“Chie, đừng đi!”
Ông ta bíu lấy tay nàng. Chie cảm thấy tất cả nỗi cô đơn, hoảng loạn của người đàn ông. Nàng cúi xuống, lồng tay vào chăn, ôm lấy ông vỗ về, bất giác nàng cũng rơi nước mắt.
“Thiếp thương Điện hạ lắm”. Chie nói, những tiếng rất giản dị, nàng biết rõ Cường Để không giỏi tiếng Nhật, và nàng cũng không biết lời an ủi nào hơn. Nhưng linh cảm dạy cho nàng biết phải làm gì: Nàng ghé nằm bên ông và ấp ủ ông bằng thân thể ấm áp của mình.

*
Đêm ấy trời mưa, khi trời sáng Chie cuốn màn, mở hé cửa sổ, nàng nhìn thấy những cành anh đào sũng nước. Nàng đặt chậu nước nóng cạnh giường, nhúng chiếc khăn bông trắng muốt rồi vắt thật ráo. Người đàn ông của nàng đã tỉnh giấc. Nàng cúi xuống, mỉm cười dịu dàng, lau mặt cho ông.
Kỳ Ngoại Hầu nắm lấy tay nàng, vẻ mặt ông lộ vẻ biết ơn. Chốc lát, ông quên người đàn bà này là người của quân đội Nhật. Ba mươi năm lưu lạc trên đất nước này, ông đã nhiều lần được chở che. Ông Innukai và Kashiwabara đã bảo bọc ông, thuyền trưởng tàu Yayomaru đã hết lòng che chở ông thoát khỏi sự truy lùng của mật thám Pháp. Đó là chuyện hai mươi, ba mươi năm trước. Lúc đó ông còn trẻ, chí khí còn hăng hái; gần mười năm nay, từ khi Innukai bị ám sát rồi, ông quá chật vật với cuộc sống, cô đơn, mệt mỏi. Phải nhận sự bảo trợ của lục quân Nhật là bất đắc dĩ, ông không thể không dựa vào người Nhật, nhưng ông biết Nhật và Pháp có thể bắt tay với nhau bất kỳ lúc nào. Ando Chie có phải là tai mắt của quân Nhật không? Ai biết đâu được. Dù sao lúc này bên ông chỉ còn có nàng thôi, giờ phút này nàng đang dịu dàng lau mặt ông, cảm giác được chăm sóc làm ông bùi ngùi ứa lệ.
Chie chuyển dần chiếc khăn nóng xuống cổ và ngực ông, nàng nhẹ nhàng mở khuy áo để lau vai và lưng. Bỗng Cường Để buột miệng:
- Về Việt Nam! Ước gì ta được về Việt Nam!
Chie khựng lại một giây, rồi nàng hiểu, nàng nhẹ vỗ vào lưng ông như dỗ dành:
- Rồi ngài sẽ về, nhất định có ngày ngài sẽ về mà.
Ông hoàng lưu vong cảm thấy ấm lòng, ông siết chặt tay nàng như muốn cảm ơn. Trong lúc đó Chie lại thấy lòng âm thầm một nỗi buồn. Ông sẽ đi, sẽ xa nàng, chắc chắn sẽ có ngày ấy...
Cuối tháng, Đại tá Wanatabe gặp Ando Chie ở Bộ Tư lệnh lục quân. Như thường lệ, Chie nói với ông về tất cả những sinh hoạt của Cường Để. Wanatabe hỏi:
- Cô có thấy ông ta tiếp khách khứa từ xa tới không?
- Không ạ.
- Ông ta có nhận thư từ, tin tức gì từ Việt Nam?
- Không ạ.
Chie trả lời, chắc chắn đến nỗi Wanatabe không hỏi thêm gì nữa. Ông ta nhìn Chie từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại quan hệ giữa nàng và người ngoại quốc lưu vong ấy. Chie đỏ mặt, nàng hiểu cái nhìn của Đại tá. Chắc chắn là ông ta rất khuyến khích việc nàng lên giường với người đàn ông kia, điều đó rất có lợi cho công việc. Chỉ có điều, ông ta không biết hôm qua nàng đã ủ ấm cho Cường Để, không phải với tư cách một nhân viên của lục quân Nhật, mà với tất cả tấm lòng của một người đàn bà.
Năm năm sau.
Chiến tranh khốc liệt trên khắp đất nước hoa anh đào. Những trận bom Mỹ dội xuống. Những ngôi nhà bằng gỗ và giấy cháy phừng phừng trong các góc phố Tokyo.
Đang mùa lá đỏ nhưng chẳng còn ai nghĩ đến lễ hội mùa thu... Chỉ còn những đoàn người tản cư dắt díu nhau chạy. Ando Chie gói quần áo vào hai chiếc tay nải. Vội vàng, nhưng nàng không quên những chiếc áo lụa năm thân, áo dài the, khăn xếp, và cả bộ bình trà tàu nhỏ xíu.
- Ông ơi!
Chie gọi. Hoàng thân giật mình, quay ra. Hôm nay ông mặc Âu phục chỉnh tề. Trong cảnh chộn rộn của Tokyo, vẻ chỉnh tề của ông trông thật lạc lõng.
“Mình đi thôi, ông ạ. Mọi người đều tản cư về quê, chiều nay là chuyến chót”.
Hoàng thân hốt hoảng:
- Nhưng ta còn phải chờ máy bay... Biết đâu ngày mai máy bay sẽ tới.
Chie nhìn ông, xót xa. Cuối tháng 7, Nội các Suzuki Kantaro đã tổ chức bữa tiệc linh đình đưa ông về nước. Sau 32 năm xa quê, cái tin được về nước làm ông bàng hoàng. Trong bữa tiệc linh đình tại khách sạn Đế Quốc, ông hân hoan từ giã hết các chính khách đã ủng hộ ông... Mãi đến lúc sắp ra sân bay Haneda, cầm gói thức ăn đi đường từ tay Chie, ông mới nhìn thấy vẻ buồn trong mắt nàng. “Đừng buồn Chie, ta về nước rồi sẽ tính chuyện đón nàng sang”.
Chie mỉm cười. Ở Việt Nam, ông còn có người vợ cả và hai con nay đã lớn. Người vợ mà ông đã xa cách từ năm 25 tuổi. Ông sắp về với người đàn bà ấy. Nàng cảm thấy buồn, nhưng nàng mừng cho ông.
Ngày hôm ấy ông đi, rồi đến tối mịt lại quay về. Ông kể, trên sân bay, nhân viên Bộ Tham mưu lục quân Nhật và ký giả báo chí tề tựu để tiễn chân ông... Nhưng máy bay từ Sài Gòn không đến đón. Ông quay về, ngã vật trên giường, mắt mở trừng trừng nhìn lên cao... Chie tháo giày cho ông, lau mặt cho ông. Nàng nhỏ nhẹ bảo ông: “Ông ạ, đừng buồn, chắc máy bay bị trở ngại gì đó thôi, mai lại đến ấy mà!”
Từ đó hôm nào nàng cũng quấn sushi cho ông đem theo... Hôm nào ông cũng ra phi trường Haneda, hôm nào ông cũng trở về. Hơn năm hôm sau, nhân viên lục quân lẫn ký giả không còn ai đến nữa, chỉ còn ông ngày ngày một mình ngồi đợi. Lủi thủi tới, rồi lủi thủi về.
Và hôm nay, ngày cuối tháng 7, bom B29 của Mỹ đã trút xuống Tokyo, ông vẫn còn nghĩ đến chuyện đến phi trường chờ đợi. Chie bảo ông:
- Mình phải đi thôi ông ạ! Phải chạy về quê, nếu không là chết.
- Đúng rồi, nàng cứ đi, ta ở lại, biết đâu...
Chie nắm lấy tay ông. Bàn tay ông gầy quá. Với mọi người, ông là một Hoàng thân, được các cơ quan tiếp đón, các ký giả săn tin, được các nghị sĩ bảo trợ... Còn với nàng, đây là một người đàn ông tha hương, lạc lõng, túng thiếu, cô độc... Lúc này, nàng nhất định phải cứng rắn với ông, như những lúc bắt ông phải đi tắm vậy; nàng khoác tay nải lên vai ông và đẩy ông đi. Cường Để gượng lại, phản đối, nhưng khi bị đẩy đến cửa, dòng người tay xách nách mang chạy loạn đập vào mắt ông, và ông hiểu ngay điều gì đang xảy ra.
Đêm đó trên chiếc xe bò lắc lư trong dòng xe qua vùng ngoại ô, ông nhìn thấy Tokyo bốc cháy, lửa rực đỏ dưới những lằn máy bay Mỹ vút ngang. Căn nhà mà lục quân Nhật cấp cho ông đã cháy rụi.
Tháng tám, bom nguyên tử dội xuống Nagasaki và Hiroshima, Nhật Bản đầu hàng. Không còn ai đủ sức nghĩ đến vị hoàng tử lưu vong. Chỉ có một người đàn bà thầm lặng mỗi ngày làm thuê cho một xưởng than ở vùng quê để nuôi một người chồng lớn tuổi. Ando Chie lúc này không còn là nhân viên của lục quân Nhật nữa. Buổi sáng, nàng thức dậy nấu nước nóng cho chồng rồi tất tả đi; nàng vẫn thế, dù làm ở xưởng than nhưng lúc nào về nhà cũng rất sạch sẽ, còn chồng nàng vẫn vậy, rất lười tắm và suốt ngày ngồi chép những trang sách chữ Hán đã cũ nhàu.
Nhiều người hỏi sao ông chồng nàng chẳng làm việc gì mưu sinh, Chie chỉ cười. Ông ấy là một ông hoàng, dù rất nghèo và chẳng hề có quyền uy. Ông chẳng làm được gì cho nàng cả, nhưng nàng yêu thương ông với tất cả sự trìu mến xót xa. Trong lúc ông thì đau đáu chỉ muốn về quê hương - nghĩa là rời xa nàng. Nhưng nếu ông không có giấc mơ hồi hương, liệu ông có còn là người đàn ông mà nàng thương yêu không?
*

Năm năm sau. Cơ hội về nước lại đến. Ando Chie lại chuẩn bị hành lý cho Cường Để lên đường.
Nước Nhật đã trở lại thanh bình. Trước ngày Cường Để về nước, bạn bè làm tiệc tiễn đưa. Ký giả báo Asahi cũng đến dự. Cụng ly mừng, nhà báo ngỏ ý muốn đưa tin chuyến trở về của vị hoàng thân sau gần 40 năm biệt xứ.
Chuyến đi lần này bằng đường biển, từ cảng Kobe đáp tàu Hải Minh đến Bangkok rồi theo đường bộ qua Kampuchea về Tây Ninh. Vì sao phải về nước qua cửa khẩu Tây Ninh ? Vì Việt Nam đang thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, Pháp vẫn còn đóng quân ở Nam kỳ. Nhưng Tây Ninh nằm trong lãnh địa của Giáo chủ Phạm Công Tắc. Với sự bảo trợ của Phạm Công Tắc, ông có thể lên bờ an toàn.
Ký giả Asahi dặn dò:
- Khi ngài tới nơi rồi, xin điện ngay cho tôi biết.
Cường Để ngẫm nghĩ:
- Trong nước hiện đang chiến tranh, tin tức khó gửi. Có lẽ cứ tính theo hải trình, đến trung tuần tháng bảy thì bỉ nhân đã đến quê nhà, quý ông có thể đưa tin được rồi.
Ando Chie đưa ông đến bến cảng. Mùa thu, khí trời se lạnh. Tiếng quạ kêu vang sau những tàn cây lá đỏ. Ông đi rồi, Chie trở lại căn hộ hai phòng ở phố Ogikubo. Con đường bỗng dài hơn bao giờ hết. Ông hứa sẽ có ngày đón nàng sang Việt Nam. Lúc đó nàng chỉ bảo: “Bao lâu cũng được”. Đến bây giờ, một mình trên con đường về nhà, nàng mới thấm thía cả khoảng trống trơ vơ trước mặt, rằng có thể nàng sẽ mãi mãi một mình trên đoạn đường còn lại...
Nàng tiếp tục khâu những con búp bê vải - những con búp bê đã nuôi sống nàng và ông từ lúc về lại Tokyo.
Đến tối, chủ nhà, bà Hashimoto gõ cửa hỏi thăm nàng. Bà đem vào cho nàng một gói bánh dẻo.
“Trông em xanh quá. Tôi pha cho em một chén trà nóng nhé?”.
Chie uống chén trà từ tay bà chủ nhà tốt bụng. Trà nóng làm nàng hồi tỉnh. Nhìn hộp bánh dẻo xinh xắn, nàng nhớ đến chồng. Ông ấy vẫn thích loại bánh này. Nhưng dùng trong khi uống trà tàu - Ông vẫn không quen với trà Nhật.
Bây giờ ông ấy đi đến đâu rồi nhỉ? Bà Hashimoto vuốt tóc nàng, dẫn nàng sang phòng làm việc của chồng bà, Giáo sư Hashimoto Masukichi. Trên vách, giữa những tủ sách đồ sộ là tấm bản đồ châu Á. Bà chỉ cho Chie xem chỗ nào là Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam. Chie chăm chú nhìn. Chồng nàng đang ở trên vùng biển xanh xanh kia, ngoài khơi cái khối màu hồng rất lớn mà bà Hashimoto bảo là nước Trung Hoa.
“Em đừng buồn, rồi ông ấy sẽ đạt chí nguyện, sẽ trở lại đón em sang, em phải gắng giữ sức khỏe nhé!” Bà Hashimoto an ủi.
Chie mỉm cười, nàng cúi đầu thật thấp tỏ lòng cảm ơn bà chủ. Chiều hôm ấy nàng đến chùa Senso, bên chiếc đỉnh lớn nghi ngút khói nhang giữa sân chùa nàng vớt nhẹ khói hương ủ vào nơi lồng ngực. Lần trong tay áo, nàng lấy ra số tiền nhỏ, đủ cúng dường để xin một lời nguyện cầu.
Vị sư già hỏi nàng cầu nguyện gì để ghi vào tấm thẻ gỗ trắng ngà. Nàng cúi đầu ngẫm nghĩ. Nàng muốn cầu nguyện những gì, chồng nàng sẽ có quyền uy, sẽ thành lãnh tụ, sẽ giàu sang, sẽ đón nàng về cùng hưởng cuộc sống cao sang? Cầu cho chồng nàng sẽ không quên nàng? Sẽ... Thực lòng nàng muốn gì?
Chie ngập ngừng một lát rồi se sẽ đọc cho vị sư già chép vào thớ gỗ:
- Tôi là Ando Chie... Cầu cho chồng tôi là Cường Để vượt sóng gió về đến quê nhà bình yên, sum họp với gia đình.
Vị sư già ngẩng nhìn nàng. Ông đã viết giúp cho thiện nam tín nữ hàng ngàn lời nguyện. Ông nhìn Ando Chie một lát như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi lại thôi, cúi xuống cắm cúi viết.
Khi trở về nhà, nàng thấy Giáo sư Hashimoto đang chờ trước cổng. “Ando, có tin mừng cho cô đây”. Ông đưa nàng tờ nhật báo Asahi. “Hoàng tử Việt Nam đã về đến quê nhà sau 32 năm ly hương”. Chie mừng rơi nước mắt. Chiều hôm đó nàng làm món mì Nhật và sushi cá hồi, mời ông bà Hashimoto để tỏ lòng biết ơn.
Ông bà về rồi, còn lại một mình Chie trong căn hộ vắng lặng. Một đoạn đời đã chấm dứt, đoạn đời mới bắt đầu, một chặng đường dài hun hút mà nàng sẽ phải đi một mình.
Nàng giở tờ báo Asahi, đọc lại bài viết, rồi lật dần ra những trang sau: những mục tìm nhà, tìm việc.
Cuối tháng 7, bỗng bà Hashimoto đập cửa căn hộ của Ando Chie, hốt hoảng:
- Ando, người ta vừa điện đến cho ông nhà tôi. Cô phải ra ngay cảng Yokohama!
Chie cuống quýt, hai chân run cầm cập, lưỡi líu lại. Nhưng người phụ nữ Nhật dường như được trời phú cho một nghị lực phi thường, nàng kiềm chế thật nhanh cơn hoảng hốt, cầm lấy chiếc ô, chạy ra cửa.
Bà Hashimoto tốt bụng đã kịp thuê giúp nàng một chiếc xe ngựa.
Trên cảng Yokohama về chiều, có một ông già ngồi trên chiếc ghế dài, ngẩn ngơ nhìn quanh với đôi mắt vô hồn, mặc kệ bao nhiêu người qua lại. Chie chạy lại gần. Sao mới có một tháng mà chồng nàng đổi thay đến thế, y phục nhàu nát, khuôn mặt gầy tọp rám nắng, mái tóc bạc xỉn đi và bê bết bụi.
- Ông ơi...
Chie cầm lấy tay chồng. Bàn tay ông gầy trơ xương, nhưng vẫn là bàn tay của ông, ông đang ở đây, bên nàng. “Ông ơi, sao ông lại về được?” Chie hỏi, nhưng người đàn ông ngẩn ngơ nhìn mông lung, vẻ mặt sững sờ tuyệt vọng, dường như không còn nhận ra gì chung quanh nữa. Ông chỉ không ngớt lẩm bẩm: “Không về được! Không về được nữa! Không về nữa!”.
Với Chie, về là về Nhật Bản, với ông, về là về Việt Nam.
Hơn một tháng Chie ra sức chăm sóc, Cường Để mới dần dần hồi tỉnh lại. Ông kể với nàng: Tàu Hải Minh bị trục trặc bánh lái nên đã ghé Thượng Hải một tuần. Trong khi đó, báo Asahi đã đưa tin, và mật vụ Pháp biết được rằng chuyến tàu phải cập cảng Bangkok, đã điện cho Bộ ngoại giao Thái. Vì quan hệ giao thương với Pháp, chính phủ Thái đã không cho Cường Để nhập cảnh Thái Lan, buộc lòng phải theo tàu quay về Nhật Bản.
Cường Để không bao giờ còn trở lại như trước kia nữa. Tuyệt vọng, suy sụp, ông đã hoàn toàn là một ông già trái tính trái nết, đau ốm triền miên. Đôi khi, căm hận số phận, ông ném bất cứ cái gì vớ được vào vách. Chie phải cất bộ đồ trà ông đem theo từ Việt Nam thật kỹ, mỗi sáng pha trà xong nàng đứng chờ ông uống xong, đem cất ấm chén rồi mới dám dời mắt.
Cuối mùa thu có hai người khách ở Việt Nam sang ghé thăm. Họ là hai chính khách đang có thế lực, hứa sẽ tìm cách đưa Cường Để về nước.
Khách về rồi, Chie dọn tách chén trên bàn, định bưng đi. Chợt ông níu tay nàng:
- Nàng ơi, nàng có tin ta còn về nước được không?
Chie đặt khay xuống, quay lại cầm cả hai bàn tay ông, vỗ về:
- Thiếp tin.
- Ta cũng tin vậy. Nghe nói chẳng bao lâu nữa người Pháp sẽ rút khỏi Đông Dương...
Chie lau những giọt mồ hôi đang ứa ra trên trán người đàn ông. Dạo này ông yếu quá, chỉ một cơn xúc động cũng đủ làm mồ hôi toát ra dầm dề.
Mấy hôm sau ông bồn chồn đến mất ngủ, lúc nào khỏe lại lật giở những thư từ, sách vở đã cất giữ từ bốn mươi năm trước, cả bức “Thư huyết lệ của người Việt Nam” mà ông viết khi mới ngoài ba mươi tuổi.
Ba mươi năm đã qua, sứ mệnh cứu nước không còn nằm trong tay thế hệ ông nữa rồi. Nhưng những bức thư cũ này sẽ mãi mãi là kỷ niệm rực rỡ nhất của đời ông.
- Nàng cất kỹ những giấy tờ này cho ta. Khi ta về nước, đồng bào nhất định sẽ hỏi đến.
Chie đặt chén thuốc xuống bàn rồi đỡ lấy những tờ giấy cũ vàng tên tay ông.
Bây giờ ông đã tin nàng thật sự, ông giao cho nàng những tờ giấy này, đối với ông nó còn quý hơn cả bạc vàng.
-“Uống thuốc đi mình”. Chie nhắc. Cường Để gật đầu, không đợi Chie nài ép dỗ dành như mọi lần, ông bưng chén thuốc đắng ngắt uống cạn.
Gương mặt đang rạng rỡ của ông bỗng nhăn nhúm lại, một cơn đau đang âm ỉ dưới sườn non chợt nhói lên.
Chie đỡ cái bát, tay kia vỗ nhẹ lên lưng chồng như muốn xoa dịu phần nào cái buốt nhói trong cơ thể ông. Tuần trước, bác sĩ bệnh viện Nihon Ika Daigaku đã nói cho nàng biết, Cường Để đã mắc bệnh ung thư gan, ông chỉ còn sống nhiều lắm là ba tháng nữa.
Chie giữ kín tin dữ không cho ai hay. Nàng biết đây là lúc nàng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Cường Để cố uống thuốc cho mau khỏi bệnh. Ông xem đi xem lại bức thư của mấy người Việt vừa ghé thăm tháng tám năm ngoái, bức thư hứa sẽ tìm cách vận động cho ông hồi hương. Mỗi lần đọc thư ông thấy khỏe hẳn lên như vừa uống một thang thuốc bổ.
Nhưng đến đầu tháng tư, sau nhiều cơn đau hành hạ, Cường Để cũng nhận ra rằng mệnh của mình đã hết.
Ông cố mở đôi mắt mệt mỏi, gắng nhìn thật kỹ những gì chung quanh: Khung cửa sổ nhỏ, những chiếc áo Việt may bằng lụa Nhật treo trên vách, chiếc chậu đồng dưới chân giường, những vật dụng thường ngày của cuộc sống lưu vong tạm bợ, giờ phút này ông nhìn chúng với ánh mắt bịn rịn vô cùng.

Mắt ông dừng lại nơi khuôn mặt Chie đang nhìn xuống, vẻ thầm lặng và nhẫn nhục đầy yêu thương. Ông quờ quạng nắm lấy tay nàng: “Mình ơi, mình có phải là Phật Bà Quan Âm của tôi không?”
Đó là lần đầu tiên ông nói lời tri ân với nàng sau bao nhiêu năm chung sống. Nhưng nàng không hiểu gì cả, vì ông không biết là mình không dùng tiếng Nhật. Như một bản năng, mấy hôm nay ông chỉ nói toàn tiếng Việt.
Chie vẫn cúi nhìn, vẫn vẻ mặt âu yếm xót xa, nàng áp sát mình xuống thân thể còm cõi của ông, tay nắm lấy cả hai tay ông như muốn bảo: Đừng sợ, có thiếp đây, dù đi đến đâu ngài cũng không cô độc.
Cường Để dần thiếp đi.
Lúc ấy là năm giờ 5 phút sáng mồng 6 tháng 4 năm 1951. Một mình Ando Chie úp mặt khóc lặng lẽ trên thi thể ông.
Ngoài cửa sổ, hoa anh đào đang nở. Hôm ấy là ngày đầu của lễ hội hoa anh đào trên đất Nhật.
*
Cửa mở ra, hai người đàn ông theo Ando Chie bước vào căn hộ. Đập vào mắt họ là những tấm hình của Kỳ ngoại hầu Cường Để trên vách. Vị hoàng thân trẻ măng hai mươi lăm tuổi ngày mới đến Nhật. Hội chủ hội Đông Du Phục Quốc, sinh viên trường Đại học Waseda, hình chụp với Thủ tướng Innukai, hình chụp với ký giả Asahi trong bữa tiệc long trọng tại khách sạn Đế Quốc... Tất cả là những trang đời đẹp nhất của Cường Để. Còn hình ảnh buồn thảm những ngày chờ đợi trên sân bay Haneda, những ngày chạy loạn nghèo túng cơ cực, ngày về tang thương trên cảng Yokohama... Những hình ảnh ấy giờ đây chỉ còn trong ký ức Chie mà thôi.

Hai tay bưng bình tro, Ando Chie trao di cốt Cường Để cho hai con của ông. Nàng cúi mặt thầm nghĩ: Thế là ngài sắp về nhà, giấc mơ cả đời của ngài giờ đây mới thành tựu. Ngài lên đường bình an, lần này thiếp không phải gói sushi cho ngài mang đi nữa rồi.
Người con trai cả của Cường Để đỡ lấy bình tro di cốt của cha. Mặt ông đầy nước mắt. Ông ngạc nhiên thấy người đàn bà Nhật này vẫn bình thản, nét mặt trang nghiêm dịu dàng chỉ hơi phảng phất buồn. Nhưng người con trai thứ hai đứng cách đó vài bước thấy rất rõ đôi bàn tay của Chie sau khi trao xong bình tro. Đôi bàn tay ấy bấu chặt vào nhau, những móng tay quắp vào da thịt, rồi chúng run rẩy bấu víu lấy đôi tay áo kimono, và đến lượt thớ vải giằng co như sắp bị xé rách ra.

Khi hai người đàn ông đi rồi, Chie khép cửa, quỳ xuống sàn. Nàng lấy trong ống tay áo ra một mẩu xương và một nhúm tro nhỏ. Chie đã giữ lại cho mình một phần thân thể của chồng.

Nàng biết mình không làm trái với ý nguyện ông. Dù chẳng hiểu ông nói gì khi sắp mất nhưng nhìn vào mắt ông nàng biết, ông rất muốn ở lại với nàng. Hình như vào giờ phút ấy ông nhận ra mình sắp đi vào một cõi xa thăm thẳm, ở nơi ấy ông sẽ gọi cả trần gian này là quê nhà. Và ở quê nhà đó, một trong những gì giản dị và thân thương nhất chính là Chie...
Ando Chie mất bốn mươi năm sau, trước khi mất bà để lại di chúc muốn được chôn cùng với nắm tro tàn của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Nhưng cho đến nay lọ hài cốt của bà vẫn còn trong phòng mộ tập thể của nghĩa trang Zoshigaya, nơi có những cây tùng xanh biếc và tiếng quạ kêu man mác buồn trong những buổi sáng mùa xuân

TRẦN THÙY MAI
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Bến Cũ
(Tác giả: Hạo Nhiên – Nguyễn Tấn Ích)



Huy gặp Diệp lần đâu tiên trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập binh chủng Không quân. Anh được đơn vị bình chọn là phi công đạt nhiều thành tích nổi bật trong năm.
Là một phi công trẻ, bô trai, hào hoa nên Huy được giới nữ sinh xếp vào loại “người yêu lý tưởng”. Anh có chiều cao vô địch trong nhóm phi công, vì thế bạn bè thường gọi anh là “Huy Bamboo”. Huy còn là tay chơi đàn dương cầm nổi đình đám trong các buổi trình diễn văn nghệ do đơn vị Không quân tổ chức.
Phần trao hoa cho các chiến sĩ xuất sắc do toán nữ sinh trường Trung học Sao Mai phụ trách. Lúc choàng vòng hoa cho Huy, Diệp không thể nào với tới, bởi anh cứ trong tư thế đứng nghiêm, thẳng lưng, ngẩng cao đầu. Bản Lục Quân Hành Khúc do ban quân nhạc hòa tấu đã chấm dứt. Mỗi quân nhân xuất sắc đều có vòng hoa trên cổ, riêng cặp Huy Diệp vẫn còn đứng tại chỗ giương mắt nhìn nhau. Sĩ quan phụ trách đến bên Huy nhắc khéo : “Ðưa đầu cho cô bé tròng vòng… vào cổ đi”. Huy lấy mũ, cúi xuống đặt trán mình trên mái tóc của Diệp, cả hàng quân cười khúc khích, khiến nàng ngượng chín người.
Thực ra, Huy cố ý trêu cô nữ sinh có mái tóc dài đen tuyền che một phần khuôn mặt trái soan với má lúm đồng tiền trông rất “liêu trai”. Hai người quen nhau từ đó. Sau khi đậu bằng tú tài, Diệp ghi tên vào đại học Huế.
Qua năm thứ hai họ làm lễ cưới. Dự tính lấy xong bằng cử nhân văn chương, Diệp mới chiụ sinh con. Nhưng vận rủi ập xuống. Cuối tháng 3/75, Vùng 1 chiến thuật mất vào tay cộng sản Bắc Việt. Chuyến bay cuối cùng không may bị đạn cộng quân bắn trúng, trực thăng của Huy phải đáp khẩn cấp và anh bị quân Bắc Việt bắt làm tù binh. Dù bị kẹt lại trong lao tù cộng sản, nhưng lòng Huy vẫn cảm thấy thỏa mãn vì đã kịp thời gởi vợ anh, Trương Hoàng Diệp ra đảo Lý Sơn để di chuyển vào Sài Gòn.


Diệp được bạn của Huy tận tình đưa nàng ra hạm đội sớm sủa. Ðến Hoa kỳ, nàng được một gia đình người Mỹ da trắng ở tiểu bang Washington bảo trợ. Thời gian đầu, cuộc sống tuy có phần chật vật, nhưng đỡ hơn nhiều so với những gia đình còn ở trong khu tạm trú. Dù phải qua những năm dài vất vả vừa làm vừa học, Diệp đã tốt nghiệp và đựơc giới thiệu vào làm trong hãng Boeing.

***
Ngày ra tù, cha mẹ vợ báo cho Huy biết Diệp vừa lấy chồng. Như mũi dao đâm vào tim, tay chân anh rụng rời, chẳng còn lòng dạ nào ở lại dùng cơm tối với gia đình vợ. Huy ra về với cõi lòng tan nát. Không có lý do gì để trách Diệp, anh chỉ buồn cho số phận hẩm hiu của mình. Huy đã có dự định sẽ vượt biên để được đoàn tụ với vợ. Giờ thì niềm hy vọng ấy đã tiêu tan. Nhưng lòng khao khát tự do vẫn không ngừng thôi thúc anh ra đi.
Tháng Chín năm 1985, Huy cùng với bảy người bạn tâm đồng ý hợp nhất, tổ chức vượt biển trên chiếc xuồng một “lốc” mong manh giữa mùa mưa bão. Năm ngày lênh đênh trên biển, thuyền mang tám kẻ dũng cảm ấy tấp được vào bờ của một làng ven biển thuộc Mã-Lai. Họ được tàu của Mã-Lai đưa đến hải cảng Trengganu và chuyển qua đảo Pulau Bidong.
Tại đây, Huy chưa biết định cư tại quốc gia nào. Bất ngờ, được thư của Diệp gởi đến, Huy vô cùng ngạc nhiên, làm sao cô ấy biết được mình ở đây? Có thể Diệp cần chữ ký của mình trong đơn ly dị chăng? Huy hồi họp mở thư ra xem :

“Kính gởi anh Huy,
Qua thư thầy me, em biết được anh đang ở trại tị nạn Pulau Bidong, nhưng không biết anh có được vào Mỹ không. Nếu anh muốn định cư tại Hoa Kỳ em sẵn sàng đứng ra bảo trợ cho anh với tư cách của một cousin. Như anh biết đó, em không thể nào sống đơn chiếc mãi. Ðợi chờ anh chỉ là nỗi vô vọng. Càng nhớ anh, em càng thấy nỗi trống vắng xót xa. Cuộc sống lênh đênh của em trên xứ người, nhờ vào sự đỡ đầu của một người Mỹ và định mệnh đã đưa đẩy em vào một nẻo đường mới. Chồng em hiện nay là giám đốc trong phân xưởng Boeing, người đã nâng đỡ em ngay từ buổi đầu. Ông ấy ly dị vợ lúc năm mươi tuổi. Ban đầu chỉ là lòng kính trọng, sau thấy thương hại hoàn cảnh lẻ loi của ông, vì vậy em chấp nhận lời cầu hôn của ông ấy. Bà vợ cũ đã lấy chồng khác, giao lại đứa con gái cho ông chăm sóc. Hiện giờ nó đang học High school.
Giai đoạn đầu ở Mỹ khó khăn lắm anh ạ, thật lòng em muốn giúp anh vượt qua chặn đường đó. Cuộc sống của em hiện giờ tương đối ổn định. Em hy vọng anh bỏ qua tự ái của người đàn ông thường tình mà nghĩ đến tương lai sáng lạn của mình. Hãy quên đi những kỷ niệm đã qua. Giờ xin anh xem em như một người em họ. Với danh nghĩa nầy, em hi vọng sẽ giúp anh có nhiều cơ hội thành công…
Nhận được thư, anh nên trả lời gấp để em còn kịp làm thủ tục hồ sơ bảo trợ. Anh nhớ khai với Cao ủy tị nạn có người cousin là Diep Truong Thomas theo địa chỉ trong thơ. Em gởi anh cái check 500 USD để tiêu dùng.
Mừng cho anh đã thoát được cảnh lao tù khổ nhục và giờ đây đất nước tự do đang chờ đón anh.
Em Trương Hoàng Diệp

***
Thẫn thờ đặt bức thư trên bàn, nét chữ của Diệp như nhảy múa trước mắt Huy. Hình ảnh của nàng vẫn còn đầy ắp trong trái tim nồng cháy của Huy, thế mà trong thư Diệp viết lại thản nhiên, như không vướng bận chút tình cảm nào, thẳng thắn và thực tế đến độ tàn nhẫn.
Từ ngày đến đảo, Huy chẳng thiết tha gì được vào đất Mỹ mà sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ quốc gia Tây phương nào. Tuy nhiên, khi đọc thư của Diệp, anh lại quyết định đến Hoa Kỳ. Huy muốn gặp Diệp một lần và muốn nhìn xem tận mắt cuộc hôn nhân mới của nàng hiện giờ ra sao. Dẫu biết lần chạm mặt trước thực tế bẽ bàng nầy có thể gây thêm thương tích cho trái tim mình. Lòng nhớ thương và tính tò mò đã thôi thúc Huy đồng ý đề nghị của Diệp đứng ra bảo trợ.
***
Ðúng ngày lễ Giáng sinh, Huy đến phi trường Seattle được Diệp cùng người chồng William Thomas và đứa con gái riêng của chồng, Christina đón tiếp. Cuộc hội ngộ với người “anh họ” khá niềm nở. Diệp ôm chàng trong phép xã giao của người Tây phương rất tự nhiên và chân tình như đứa em họ đích thực.
Kết hợp với lễ nửa đêm đón Chúa Hài Ðồng là buổi tiệc tiếp đón Huy đầy thân tình. Khách mời, người nào cũng mang quà Christmas đến chúc mừng Huy. Diệp không mời khách nhiều, chỉ giới hạn một số bạn bè thân thiết của chồng.


Trước cảnh gia đình hạnh phúc của Diệp, Huy nghe trái tim mình se thắt nhưng với lòng tự trọng, anh vẫn giữ thái độ bình thản. Mọi người hân hoan vào tiệc. Tiếng dương cầm ngân vang bản nhạc Ðêm Thánh Vô Cùng do cô bé Christina độc tấu, rồi tuần tự là những bản nhạc tình du dương, âm thanh êm đềm như quyện vào men rượu nồng làm tăng thêm nỗi ngất ngây cho thực khách.

Ðã ngà ngà say, tâm hồn nghệ sĩ bị kích thích, Huy đứng dậy đến bên chiếc piano xin phép cô bé được đàn một bản. Dù đôi bàn tay bị chai sần sau những năm lao động khổ sai trong tù, dù đã mười năm không tập luyện, mười ngón tay anh lướt trên phím ngà bản nhạc “Histoire d’un amour” như xuất thần trỗi lên âm điệu réo rắt làm say đắm lòng người.
Cô bé Christina trố mắt nhìn Huy đầy thán phục. Trái tim Diệp không biết có còn rung động trước âm thanh mang đầy những kỷ niệm xưa mà hai người đã từng bên nhau “anh đàn em hát” ? Bản nhạc vừa dứt, cơn say ập tới, Huy gục đầu trên bàn phím. Ông Thomas dìu Huy vào phòng ngủ đã chuẩn bị sẵn từ mấy ngày qua.
Buổi sáng thức dậy, Huy ngạc nhiên trước căn phòng được trang hoàng khá sáng sủa. Mấy bộ áo quần mới treo trong tủ và một số đồ dùng hàng ngày được sắp đặt rất tươm tất trên các kệ. Huy dạo quanh một vòng. Ðây là loại phòng dành cho người độc thân, có đủ tiện nghi từ phòng tắm đến bếp ga và cả lối đi riêng hoàn toàn biệt lập với căn nhà chính.
Hai ngày nghỉ lễ, William đưa Huy cùng với đứa con gái đi xem các thắng cảnh ở vùng Seattle được mệnh danh là thung lũng Hoa Hồng . Cô bé đi bên Huy líu lo giới thiệu tên của các thắng cảnh và về lịch sử của vài công trình xây dựng có tính tượng trưng cho thủ phủ của tiểu bang Washington. Diệp ở nhà mua sẵn thực phẩm để trong tủ lạnh cho Huy tự nấu ăn.
Vào ngày lễ đầu năm dương lịch, Huy cùng gia đình ông bà Thomas đến dự tiệc tại nhà bạn thân của vợ chồng họ. Anh được giới thiệu là cousin của Diệp từ đảo mới qua, mọi người bắt tay chúc mừng.

Sau hai tuần lễ nghỉ ngơi, Huy ngỏ ý với Diệp sẽ tìm thuê một nhà khác. Nàng ân cần khuyên nhủ :
– William rất quý mến anh. Ông ấy muốn giúp đỡ anh có hoàn cảnh thuận lợi để trở lại trường học. Nếu anh đặt nặng tương lai của mình và thắng được tự ái, chắc chắn anh sẽ có cơ hội tốt để tiến thân.
Diệp ngừng nói, nhìn Huy như dò ý rồi tiếp :
– Căn phòng đó là do ông ấy quyết định dành riêng cho anh ở hoàn toàn miễn phí. Khi nào cuộc sống ổn định, có việc làm hẳn hoi, chừng đấy anh muốn thế nào cũng được. Hôm qua Bill dự tính chờ khi anh lấy xong bằng lái sẽ tặng anh chiếc xe Ford đời cũ của ông để anh đi học và đi làm. Em thấy đó là phương tiện cần thiết đối với anh hiện giờ.
Qua những lời khuyên của Diệp, Huy cảm nhận được trong đáy lòng nàng, một tình cảm sâu kín nào đó bị ngăn chận vì hoàn cảnh. Diệp thật lòng không muốn Huy vấp ngã bởi những khó khăn mà nàng đã trải qua và những kinh nghiệm thất bại của những người đến trước. Ðó là lý do chính đáng thúc đẩy chàng ở lại. Và giờ đây, Huy biết mình phải làm gì. Ðối với anh, hiện tại là phương tiện, mà tương lai mới là cứu cánh. Cứu cánh đó sẽ là phần thưởng dành cho cả quãng đời còn lại của anh.
Dường như trong tiềm thức, Huy không muốn xa Diệp và cả Diệp cũng không muốn rời Huy, dẫu cuộc sống của hai người đã có lằn ranh phân định và tình cảm của cả hai có bức tường đạo nghĩa ngăn cách.

***
Huy đã tìm được công việc làm bán thời gian và ghi tên học tại trường college. Sáng đi, tối về, Huy và Diệp ít khi gặp nhau. Thỉnh thoảng, Diệp tổ chức những bữa ăn thân mật cuối tuần mời Huy cùng với gia đình dùng cơm tối. Sau những bữa cơm như thế, Huy thường được ông Thomas và Christina yêu cầu chơi đàn.
Có lần Huy giới thiệu bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn đã được dịch lời qua nhiều thứ tiếng trên thế giới. Huy vừa đàn vừa hát, đến điệp khúc: “..Trời còn làm mưa sao em không lại. Nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau , hằn lên nỗi đau bước chân xin em về mau?
Diệp vội quay mặt nhìn qua khung cửa sổ. Huy vẫn tiếp tục hát :
“ Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, Làm sao em biết bia đá không đau, Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau !..”Diệp nhìn Huy với ánh mắt trách hờn, rồi bỏ vào phòng. Chỉ một lần ấy rồi thôi, Huy đã khước từ những bữa cơm sau nầy.
Cô con gái của William đã qua mấy khóa học piano, nhưng ngón đàn vẫn còn non kém, cô bé rất thích được nghe Huy đàn và nhờ anh chỉ vẽ thêm. Huy thì ngại ngùng mỗi lần vào phòng khách nên đã nhiều lần từ chối lời khẩn cầu của côbé .
Christina vừa mới ghi tên vào đại học năm thứ nhất, nhưng sức học của nàng lại kém hơn Huy một bực. Vừa giỏi toán lại vững vàng về lý thuyết và thực hành môn đàn Piano nên Christina luôn quanh quẩn bên Huy , dần dà anh trở thành thầy dạy kèm bất đắc dĩ.
Chiếc dương cầm ở phòng khách cũng được mang xuống phòng của Huy để Christina tập luyện hàng ngày. Vào những đêm cuối tuần, tiếng dương cầm thánh thót và giọng cười rộn rã của cô bé vang lên từ phòng của Huy đã làm dịu bớt nỗi quạnh vắng của tháng ngày qua.
Lắng nghe tiếng đàn ngày một điêu luyện của con gái, ông Thomas rất vừa lòng và thầm cảm ơn Huy đã giúp ông bớt phần lo lắng.
Trong cuộc thi biểu diễn dương cầm toàn trường, Christina đoạt giải nhất về kỹ thuật và phong cách trình diễn. Hôm ấy, cô bé đã đích thân trao cho Huy một bó hoa hồng và cảm ơn chàng như một người thầy đã có công rèn luyện nàng tạo được thành tích ngày hôm nay.

Ông Thomas xem chừng rất hãnh diện. Riêng Diệp, dường như nàng không được khỏe, nụ cười có vẻ gượng gạo, và gương mặt bớt phần tươi tắn.
Sau hai giờ làm bài tập và chỉ thêm toán cho cô bé, Huy ngồi vào chiếc đàn piano dạo bản L’amour c’est pour rien. Ðiệu nhạc tango làm xao xuyến tâm hồn, Christina bỏ viết đến phía sau lưng Huy rồi thản nhiên choàng tay ôm cổ chàng. Bản nhạc vừa chấm đứt, cô bé xoay người Huy về phía mình rồi đặt nụ hôn nồng cháy vào môi chàng. Màu mắt xanh ánh lên nỗi đam mê, cô bé nhìn anh với cơn kích thích. Huy bàng hoàng đứng lên, vội vã bắt tay chúc ngủ ngon và tiễn nàng ra khỏi cửa.
Hôm sau, Huy ngỏ ý với ông Thomas và Diệp sẽ dọn đi ở nhà khác với lý do cho tiện đường đến sở làm và gần trường hơn. Ngày lễ Thanksgiving, Christina bay qua Virginia thăm bà mẹ ruột đang sống với ông chồng sau. Nhân đó, Huy cũng dọn nhà sang chỗ ở mới. Ông William tỏ ý luyến tiếc. Phần Diệp, nàng chẳng nói gì, chỉ đưa mắt nhìn Huy ngờ vực khi chàng bắt tay ngỏ lời cảm ơn.
Huy cố tình giấu Christina chỗ ở mới của mình, chỉ ghi riêng số điện thọai và địa chỉ để lại cho vợ chồng Diệp.
Từ khi Huy ra đi, Christina thường hay buồn bực, gắt gỏng với mọi người. Mỗi một biến đổi tình cảm nhỏ nhặt của cô bé cũng không thể nào lọt qua mắt của Diệp. Việc dời nhà của Huy đã giúp cho Diệp tin vào suy đoán của nàng là đúng.
***
Ngày Giáng sinh đã về, đánh dấu ba năm tròn trên đất Mỹ, Huy đã vượt qua được một cách dễ dàng những khó khăn ban đầu. Giờ đây, anh đang học năm thứ ba kỹ sư điện tại trường Ðại học UW. Huy đã lấy được giải học bổng của hãng Boeing dành cho sinh viên xuất sắc trong hai năm cuối cùng Ðại học.

Sáng Chúa Nhật, tâm trí thảnh thơi, Huy đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và đọc tờ báo địa phương, chợt có tiếng gõ cửa thúc bách, anh vội vàng mở hé cánh cửa nhìn ra, Christina đột ngột tông cửa vào, với ánh mắt rực lửa cô nàng hét lên:
“Tại sao anh trốn em ? Tại sao anh bỏ em ? Tại sao ? Tại sao” ?
Vừa nói nàng vừa đẩy Huy lùi về phía sau. Anh cố đứng trụ lại, cô nàng càng xông tới. Miệng Huy không ngớt van lơn : “Xin cô bình tĩnh, xin cô bớt nóng..”. Nhưng Christina chẳng ngừng tay, vẫn ra sức xô chàng. Ðến cuối phòng, Huy bị chiếc sofa cản chân nên cú đẩy sau cùng khiến anh ngã nằm lên ghế. Christina nhào tới nằm đè lên mình Huy và ôm lấy đầu anh hôn tới tấp trên mắt, trên môi rồi úp mặt mình vào vai Huy. Cô bé thì thào trong hơi thở đứt quãng, nghẹn ngào :
– Em yêu anh và anh biết em yêu anh đến mức nào, sao nhẫn tâm với em
Huy cảm thấy mềm lòng, đưa tay vuốt mái tóc vàng óng mượt của cô bé, khuyên giải :
– Cô còn quá trẻ và có cả một tương lai sáng lạn đang chờ phía trước, còn tôi chỉ là bóng đêm mịt mùng, ngày mai là những tháng năm dài lao đao. Cô chẳng được gì khi vướng víu vào tình yêu không cân xứng.
Christina vụt đứng lên, chạy đến khóa cánh cửa còn hé mở từ lúc nàng vào và nhanh tay cởi bỏ hết áo quần. Một thân thể nở nang đầy hấp lực, lồ lộ làn da mịn màng với bộ ngực căng đầy như tượng thần Vệ Nữ đứng trước mặt Huy thách thức.
Anh vừa trở thế nằm dự định đứng lên. Không để vuột mất cơ hội, Christina sấn tới và tự tay lột bỏ bộ pyjama của chàng đang mặc. Huy hoàn toàn bị khuất phục bởi những kích thích tột độ của nàng.
Từ hôm đó, sau giờ tan học, Christina thường ghé vào nhà trọ của Huy mãi đến khuya mới về nhà. Thấy con gái độ nầy đi về thất thường, ông Thomas dò hỏi, cô bé cho biết đến nhà Huy nhờ hướng dẫn toán. Tin ở con gái mình và người anh họ của vợ, ông cảm thấy an tâm.
Ra khỏi sở làm, Diệp lái xe thẳng đến nhà trọ của Huy. Nàng đứng tần ngần một chặp lâu rồi đưa tay gõ vào cánh cửa. Christina xuất hiện nơi khung cửa. Diệp lạnh lùng hỏi :
– Cô làm gì ở đây ?
– Thăm anh Huy.
– Ðâu cần cô thăm ?
Christina bốp chát
– Tại sao không !
– Tôi cấm cô.
– Ô hay, bà ghen đấy à ?
Diệp dang tay tát vào má Christina toé lửa. Cô bé trố mắt kinh ngạc rồi dùng cả hai tay tấn công trả đũa. Từ trong phòng Huy nghe tiếng cãi vã và tiếng đánh nhau, vội vàng chạy ra. Huy thấy Diệp ôm mặt khóc, còn Christina giận dữ đóng sầm cửa lại, ra khỏi nhà.
Huy hấp tấp đến bên Diệp hỏi :
– Nó đã làm gì em ?
Thay vì trả lời, nàng đấm vào ngực Huy thùm thụp, tức tối la lên :
– Anh vô tình ! Anh tàn nhẫn ! Anh độc ác !


Huy nắm lấy đôi tay Diệp giữ lại nhưng nàng cố vùng ra rồi ôm chầm lấy Huy, vùi mặt vào ngực chàng khóc tức tưởi.
Huy ôm chặt Diệp vào lòng, lặng lẽ nghe hơi ấm của người yêu ngấm vào trái tim giá lạnh suốt mười bốn năm của mình. Từng giọt lệ nóng âm thầm lăn trên má chàng. Nước mắt tình yêu của hai người đã được chắt lọc từ trái tim thử thách ở hai phương trời giờ đây kết tụ.

***
Gia đình ông bà Trương Hoàng Mẫn đến phi trường Ðà Nẵng đón vợ chồng cô con gái Trương Hoàng Diệp từ Mỹ về thăm quê hương sau mười tám năm xa cách.
Ánh nắng của tiết trời sắp vào Xuân nhuộm vàng cả phi cảng. Chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam vừa hạ cánh trên phi đạo, mọi người hồi hộp đợi chờ.
Ông bà Mẫn hết đứng lại ngồi, mắt đăm đăm nhìn ra phi đạo khi chiếc máy bay vừa dừng bánh. Hành khách lần lượt xuất hiện trên cửa phi cơ.
Những khuôn mặt rạng rỡ của người Việt ly xứ sắp được đoàn tụ với gia đình nổi bật giữa đám người địa phương trầm mặc. Trong đoàn người hối hả rời sân bay tiến vào khu hành khách, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của một người Mỹ mà gia đình ông bà Mẫn đặc biệt chú mục.
Chợt Diệp đột ngột xuất hiện, một tay kéo chiếc vali nhỏ, tay kia với túi xách đựng tả lót và bình sữa. Nàng đang dớn dác tìm người nhà.
Bỗng người em gái của Diệp reo lên :
– “ Chị Diệp kia kìa !” Cùng lúc cả nhà nhận ra, gọi to lên :
– “Cô Diệp ! Chị Diệp ! Thầy Me đứng đây nè !”
Trước nỗi vui mừng đoàn tụ không ai để ý đến Huy đang bồng con đứng phía sau vợ. Bà Mẫn ôm con gái vào lòng để rơi những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi.
Ông Mẫn là người đầu tiên nhận ra sự có mặt của Huy, vội vàng đến siết chặt tay chàng :
– Con Diệp về thầy me chỉ mừng một, khi thấy con cùng về là niềm vui tăng lên gấp mười lần hơn cho gia đình ta.
Bà Mẫn bồng cháu ngọai từ tay Huy trao qua, vừa nựng cháu vừa trách yêu :
– Bố mẹ cháu hư lắm, cái việc trọng đại một đời mà giấu ông bà suốt mấy năm nay.
Diệp nhoẻn miệng cười với mẹ :
– Chúng con bàn tính với nhau là dành cho thầy me một dịp bất ngờ, như một món quà để tạ lỗi thầy me suốt bao năm đã phải trăn trở về việc con lấy chồng khác.
Diệp âu yếm nhìn Huy rồi quay sang mẹ nói tiếp :
– Ông William Thomas là ân nhân của con, vì vậy con đặt ơn nghĩa lên trên tình yêu dành cho ông ấy. Cách đây ba năm, đứa con gái của ông bỗng nhiên bỏ nhà ra đi, ông lên cơn nhồi máu cơ tim rồi qua đời.
Mẹ Diệp thì thầm : “Nguyện cầu Thiên Chúa dìu dắt linh hồn ông ấy sớm về cõi thiên đàng”. Ông Mẫn cùng làm dấu Thánh giá với vợ rồi nói với vợ chồng Diệp :
– Âu cũng là định mệnh !

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

TÔI BAY QUA CUỘC ĐỜI NHƯ CHIẾC LÁ
TRẦN TRUNG ĐẠO
·7 THÁNG 9 2017
Nhà văn Lương Thư Trung, hiện đang cư ngụ tại Houston có lần thắc mắc tại sao tôi thường viết về những chiếc lá. Bởi vì, cuộc đời tôi như cuộc đời một chiếc lá.

Một ngày rảnh rỗi nhà văn Lương Thư Trung ngồi đọc tập thơ của tôi “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười”, sau đó viết một bài Người tiều phu và những chiếc lá vàng với những câu rất đẹp:

“Đất trời rồi sẽ chuyển sang mùa theo sự vận hành của vũ trụ. Những chiếc lá vàng rồi sẽ rơi rụng, bay đi, bỏ lại bên trời những cành, những nhánh khẳng khiu, buồn thảm đến ngậm ngùi… Trong dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể khổ trầm luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân cẩu cũng phải tan đi, để trả lại trần gian này một chút nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con người một cõi an nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi khắp bốn phương tám hướng gom góp từ nhánh củi, cọng rơm, ngọn cỏ đến những chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân sinh! Hạnh phúc thay được làm một nhà thơ! Hạnh phúc thay được làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi góp nhặt những chiếc lá vàng!”

Anh gởi bài viết đó tặng tôi. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên mình dùng chữ lá nhiều đến thế. Có lẽ vì lá gần gũi tôi trong một khoảng đời niên thiếu khá dài.

Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Hay
Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Ðau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Hay
Ai về qua phố Hội An
Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
Tôi đi quét lá trăm miền
Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm
Hay
Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn
Hay
Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu đã về rồi đó phải không em
Anh chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại
Một tình thương tha thiết sẽ không quên
Hay
Em đừng hỏi ta mong về quê cũ
Chiếc lá khô còn nhớ cội thương cành
Ta chẳng lẽ bước chân đời lê mãi
Nơi quê người làm một kẻ lưu dân
Hay
Cho tôi nhặt chiếc lá vàng trước ngõ
Viết bài thơ tha thiết hiến dâng đời
Chút chân tình trang trải với muôn nơi
Rất nhỏ bé nhưng vô cùng sâu rộng
Hay
Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở
Mỗi cành cây như có một linh hồn
Ta sẽ về sống lại môt lần thôi
Em sẽ khóc như chưa hề được khóc
Hay
Ai mang em trên đường đi vượt biển
Chẳng kịp về thăm góc phố năm xưa
Em bỏ đi như lá bỏ quên mùa
Như giọt nước quên tấm lòng biển cả.

Và nhiều nữa. Số phận của chiếc lá gắn liền với câu chuyện đời tôi.
Ngày xưa khi trọ học ở chùa Viên Giác, tôi nhỏ nhất trong chùa nên được giao công việc quét lá. Anh Hùng gánh nước, anh Sáu tưới rau, còn tôi không làm được những chuyện đó nên chỉ lo làm sạch sân chùa.

Không ai có phòng ngủ riêng. Năm đầu tôi ở chung phòng với chú Điển, bây giờ là Hòa Thượng Thích Như Điển. Mấy năm sau tôi dọn sang ở với các chú điệu cùng lứa tuổi trong căn phòng sát dưới gốc đa. Các chú điệu rất vô tư. Nằm xuống là ngủ ngay. Đúng giờ thức dậy đi tụng kinh khuya. Tụng kinh xong lại đi ngủ tiếp. Các chú hoạt động tự nhiên như những chiếc máy. Ít cười và ít nói. Tôi cũng cùng tuổi nhưng không như các chú, đêm nào khi tới phiên mình đánh chuông xong, tôi thường nằm bên hiên chùa nghe tiếng lá reo. Nhất là mùa thu, tiếng lá rung như một điệu nhạc.

Ở chùa Viên Giác ngày đó có thầy Giải Nguyên. Thầy đi tu khi tuổi đã về già sau khi đã nếm đủ hương vị đắng cay, thăng trầm, vinh nhục của cuộc đời. Thầy là một trong những người giàu có ở Duy Xuyên bỗng dưng phát nguyện xuất gia. Năm đó thầy đã ngoài sáu chục tuổi. Những người già thường ít ngủ. Thầy cũng thế. Khi thấy tôi nằm trên bệ xi-măng trước chùa, thầy cũng đến ngồi gần. Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện vui buồn trong đời thầy. Nhưng dù chuyện gì cũng chỉ để dẫn đến một lời khuyên dành cho tôi, đời là bể khổ và chỉ có đi tu là con đường giải thoát.

Tôi không phản đối cách giải thích của thầy nhưng bạch với thầy tôi không muốn đi tu. Tôi chỉ là người trọ học và một ngày không xa tôi sẽ ra đi. Tương lai của tôi nằm phía bên kia cổng tam quan chứ không phải bên này. Dường như tôi sinh ra đời này chỉ để đi xa. Đi theo chọn lựa và nhiều khi không có quyền chọn lựa.

Nhìn lại chặng đường mình đã trải qua, tôi thường nghĩ đến những hạnh phúc nhiều hơn là gian khổ. Tôi nghĩ đến những người tôi đã mang ơn. Nhiều lắm. Từ những đứa bạn nhỏ chắt chiu những đồng tiền lẻ của cha mẹ cho để chia sẻ với tôi cho đến mẹ Hòa Hưng, người đã nuôi tôi chín năm thử thách nhất của đời mình.

Thời gian ở Viên Giác là thời gian cô đơn về tinh thần và khắc khổ về vật chất. Chùa rất nghèo. Không có ruộng đất như các chùa ở ngoại ô như Long Tuyền, Phước Lâm, Chúc Thánh. Nếu các bác có đi chợ cũng chỉ để mua sắm chút nấm, chút mì căn cho thầy, phần lớn chúng tôi ngày hai bữa sống nhờ vào thửa rau lang trồng trước sân chùa và những hủ chao do các bác bên Cẩm Nam mỗi tháng hai kỳ sang làm giúp.

Các thầy, các chú lớn tuổi đi đám ma chay còn được cúng dường tiền bạc để chi dùng riêng tư, không ai cúng dường cho đứa bé như tôi. Đời tư của tôi không ai biết. Thầy chỉ hỏi một câu khi tôi đến và sau đó không hỏi nữa. Họa hoằn lắm mới có một người bà con từ trên quê xuống đi chùa, tình cờ nhận ra, vuốt tóc tôi vài cái, nói đôi lời an ủi rồi ra đi.

Cô tôi, chị của ba tôi, là người quan tâm đến tôi nhiều nhất sau khi ba mẹ tôi qua đời nhưng chưa bao giờ có dịp để vào thăm tôi. Tôi chỉ là khách trọ trong chùa, đến không ai hay và đi không ai tiễn. Ngoài trừ những chiếc lá rung như một điệu nhạc buồn trong một ngày đầu thu, gần năm năm sau, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly” để từ giã chùa Viên Giác.

Dù sao, những cực khổ của thuở thiếu thời đã trở thành phân bón cho những bông hoa tình người trong khu vườn mùa xuân của đời tôi nở rộ, để hôm nay khi nghĩ đến Viên Giác tôi cảm thấy thật êm đềm. Tiếng chuông chùa, lời kinh khuya đã nhẹ nhàng đi vào tuổi thơ tôi, đã chuyển hóa tâm hồn chất đầy oan nghiệt của tôi mà nhiều khi tôi không biết.

Những người có cuộc đời nhiều chịu đựng thường phải biết vượt qua, đôi khi bằng cố gắng và đôi khi chỉ bằng cách ngẩng đầu lên mà đi, khinh thường những chướng ngại. Tôi có cả hai. Bây giờ khi nóng tính, khi quá hăng say về một chuyện gì dù đúng hay sai tôi cũng biết dừng lại và biết lắng nghe, không khinh thường sự việc như ngày còn trẻ. Không có những ngày ở Viên Giác, khu vườn đời tôi sẽ buồn bã, khô khan, điêu tàn và trống vắng biết bao nhiêu. Thật vậy, chỉ có tình thương mới thật sự là mùa xuân vĩnh cửu của con người.
Trần Trung Đạo
(trích trong Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác)
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Image

Tháng 9, nhớ thi sĩ Hoàng Anh Tuấn
Nguyễn Mạnh Trinh

Hoàng Anh Tuấn là một nhà thơ nổi tiếng từ thập niên 60. Nói đến nhà thơ này, là phác họa lại một chân dung văn nghệ sĩ của văn học Việt Nam rất độc đáo và nhiều cá tính. Trong thi ca của ông, ngôn ngữ thơ đã làm sống lại những thời kỳ của kỷ niệm không phải riêng của ông mà còn của rất nhiều người trong chúng ta. Những nơi chốn, của không gian những thời gian nào xa xưa được nhắc đến như một phần cuộc đời của thi sĩ và trở thành những hằn dấu trong tâm thức chẳng thể nào phai. Nói đến Hoàng Anh Tuấn, là phải đề cập đến con người đa năng đa diện và tràn đầy nghệ sĩ tính. Và, thơ của ông cùng với cuộc đời ông cũng trôi nổi theo từng thời kỳ của đất nước và cũng cùng chung những tâm tư của một thời đại rất đặc biệt Việt Nam.

Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1932 tại phố Nhà Chung, Hà Nội trong một gia đình trí thức giàu có. Cha ông là một dược sĩ và hay thay đổi chỗ ở nên thuở nhỏ ông sống ở Hà Nội, rồi Vinh và trong thời chiến tranh thì về tỵ nạn ở quê nhà là Hưng Yên rồi trở lai Hà Nội. Ðến năm 16 tuổi ông du học ở Pháp tại thành phố Nice và sau theo lời rủ rê của bạn bè như Nguyên Sa, Trịnh Viết Thành,… lên Paris học. Ðến năm 1954 ông kết hôn với một nữ sinh viên đang du học Dược Khoa là bà Ngô Thị Liên. Trở về Sài Gòn năm 1958 ông làm đạo diễn, làm báo rồi làm quản đốc Ðài Phát Thanh Ðà Lạt. Sau năm 1975 đi tù, rồi đươc chính phủ Pháp can thiệp cho đi định cư. Sau cùng qua Mỹ, làm báo và tự về hưu khi sống ở San Jose. Ông mất vào ngày đầu tháng 9 năm 2006 khi đang nằm dưỡng bệnh tại một viện dưỡng lão.

Chân dung nghệ sĩ Hoàng Anh Tuấn là một chân dung đa diện. Có nhiều vóc dáng Hoàng Anh Tuấn. Nhà đạo diễn phim ảnh. Kịch tác gia. Ký giả. Công chức Quản Ðốc Ðài Phát Thanh Ðà Lạt. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là vóc dáng của một thi sĩ. Và một người thi sĩ đặc biệt, đã sáng tác hàng mấy trăm bài thơ nhưng vào lúc cuối đời lại mới in tập thơ đầu tiên do ái nữ là nhà văn Hoàng Thu Thuyền góp nhặt sưu tầm các bài thơ đăng rải rác trên báo chí. Hình như ông coi công việc làm thơ như một trò chơi, viết xong là quên đi ngay không để ý tới nữa.

Hoàng Anh Tuấn tốt nghiệp trường điện ảnh khá nổi tiếng của Pháp ở Paris IDHEC nơi mà các đạo diễn nổi tiếng của Việt nam như Lê Mộng Hoàng, Lê Hoàng Hoa đã cùng học. Khi về Sài Gòn ông làm việc cho hãng phim Alpha của đạo diễn Thái Thúc Nha và sau này đã làm đạo diễn cho hai phim Xa Lộ Không Ðèn và Ngàn Năm Mây Bay. Phim Ngàn Năm Mây Bay có cốt truyện từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Văn Quang.

Chân dung khác cũng khá lạ: Hoàng Anh Tuấn kịch tác gia. Ông là tác giả của nhiều kịch bản khá nổi tiếng và được trình diễn nhiều lần. Trong số đó có vở “ Hà nội 48”, hay “ Ly nước lọc “. Ông có lối dựng vở khá độc đáo ảnh hưởng của lối viết thoại kịch Tây phương.

Hoàng Anh Tuấn còn là một ký giả. Vì nghề đạo diễn không đủ sống nên ông quay qua viết báo. Ông được các ký giả đàn anh như Huỳnh Thành Vị, Phi Vân kềm cặp và truyền nghề để trở thành một ký giả có thể làm được bất cứ một công việc lớn nhỏ nào ở tòa soạn nhật báo. Trước năm 1975 ông đã làm việc tại các nhật báo Ðồng Nai, Tiền Tuyến, và tạp chí Hiện Ðại.

Hoàng Anh Tuấn quản đốc đài phát thanh lại là một sắc diện khác.

Theo lời nhiều người cùng thời, thì ông là một công chức ăn bận lè phè nhất dù là quản đốc đài phát thanh Ðà Lạt. Ông đi làm mà đi guốc, mặc áo bỏ ngoài quần, bộ dạng rất luộm thuộm. Nhưng ông làm việc có nhiều sáng kiến, có lần khi truyện chưởng Kim Dung được nhiều người mến mộ đã cho làm những chương trình đọc truyện truyền thanh, một sáng kiến mà các cấp chỉ huy không thích.

Sống ở hải ngoại, khi ở thủ đô Washington DC hoặc thành phố San José, ông cũng sinh sống bằng nghề làm báo…

Ông làm thơ từ thời rất trẻ khi du học bên Pháp. Ông làm rất nhiều thơ khi học ở Paris và là người đã in tập thơ Về Provins cùng với các tập thơ của những bạn cùng thời như Nguyên Sa với tập thơ Hy Vọng và Ðỗ Long Vân với tập Người Em Sống Trong Cô Ðộc. Những tập thơ in roneo vào năm 1952 và về sau này những bài trong tập Hy Vọng của Nguyên Sa được in lại trong Thơ Nguyên Sa. Còn hai tập thơ của Hoàng Anh Tuấn và Ðỗ Long Vân thì lại không được phổ biến ở quê hương dù hai tác giả kể trên về sau đã thành những tên tuổi thi sĩ lớn hay ký giả nổi danh của hai mươi năm văn học Miền Nam.

Về Provins là một tập thơ của thi sĩ viết cho một người em gái “ tóc vàng sợi nhỏ” tên là Irène với khung cảnh của xứ người, của tâm tình những người tuổi trẻ yêu nhau. Những câu thơ tự do tự nó đã có chất phóng khoáng của sự phá bỏ mọi câu thúc, kể cả sự phân biệt màu da và khác biệt văn hóa. Thơ như phác họa cho một lên đường sắp tới…

Phong cách sống thoải mái phóng túng như vậy nên thơ tình ông tuyệt vời. Hoàng Anh Tuấn có những bài thơ thật độc đáo, nhất là thơ tình yêu. Mà lạ lùng, những bài thơ ấy ông làm rồi quên ngay đi. Với ông tất cả chỉ là một trò chơi, không có gì quan trọng, kể cả đời sống của chính mình. Có một bài thơ, kể một chuyện tình, của ai ai mà sao nghe như giông giống chuyện của mình..

Thơ kể có một cậu bé học trò yêu một tình yêu khó ngỏ. Mỗi buổi chiều tan học, đạp xe theo một tà áo trắng, lòng muốn nói bằng ngôn ngữ trái tim mà chẳng thể mở lời. Suốt một năm học, chỉ là người chỉ dám theo sau với cái ngại ngùng nhút nhát của tuổi vừa chớm biết mơ mộng. Rồi thời gian qua, cậu bé ấy thành người lớn, vào lính và trôi nổi theo dòng đời của một xứ sở chiến tranh. Cho đến một hôm, gặp lại người xưa đã là thần tượng một thời niên thiếu. Người ấy, gặp lại trong một quán rượu, trong cái phong cách của một người đàn bà đã trải qua nhiều bầm dập của cuộc sống. Người đẹp ngày xưa, của áo trắng nữ sinh thuần khiết ngày nào, bây giờ, chỉ là tiếng cười man dại, chỉ là mầu môi đỏ rực của những câu cháy đỏ dục tình…

Ðó, là câu chuyện của bài thơ Gìn Giữ của Hoàng Anh Tuấn, nhưng, trong một trùng hợp nào đó, lại là chuyện tình của cá nhân tôi. Bài thơ ấy, không hiểu tại sao lại như in trong tâm thức tôi hàng mấy chục năm. Tôi đã nhớ, đã thuộc hầu như trọn cả bài, chỉ có mấy câu cuối là để sót.

Ðáng lẽ đó phải là một bài thơ đắc ý của ông mới phải. Thế mà tác giả bỏ quên đi thì lạ thật? Bài thơ ấy, tôi đọc lại cho nhà văn Thu Thuyền, con gái nhà thơ Hoàng Anh Tuấn và cô đã hỏi lại ông, thì ông trả lời: Thơ có vẻ hơi giống giống, quen quen nhưng thú thực là đã quên rồi vì làm rất nhiều bài thơ nhưng như cơn gió, thoảng qua đi rồi thôi. Nếu ai có thích thì nhớ. Ðó là chuyện của độc giả…

Tôi khoái cái phong thái đó, và lại càng thích hơn bài thơ xưa. Cái tâm tư ấy, dường như là của tôi. Hoàng Anh Tuấn đã viết giùm, đã nói giùm, đã hoài niệm giùm. Có thể, bài thơ ấy với người khác, họ không thích, không cho là hay. Nhưng với tôi, phải vỗ đùi vỗ vế mà bắt chước Kim Thánh Thán ngày xưa mà kêu ầm lên “Chẳng khoái hơn sao?”.

Bài thơ ấy với tôi, khi ấy, là tuyệt tác, tôi đọc lần đầu tiên vào một buổi tối ở phòng trực trong phi trường Biên Hòa khi cường độ chiến tranh khốc liệt và những trái đạn pháo kích cứ chực chờ mỗi ngày, mỗi đêm… Bài thơ dù chỉ là một chuyện tình nhưng hình như cũng nhuốm nhiều hơi hám của chiến tranh

Bài thơ khá dài. Nhưng có thể đọc làm hai phần. Phần đầu của cậu học trò ngây thơ si tình, yêu mà nhút nhát:

“Anh thầm nhủ đợi cuối tuần sẽ nói

cuối tuần này anh hẹn cuối tuần sau

nhưng gặp em anh ngần ngại lắc đầu

để khi khác hôm nay còn sớm quá

yêu mãi mãi can chi mà vội vã

em còn đây tóc lả nhánh ngang vai

em còn đây mười sáu tuổi thơ ngây

đường đi học hôm nào không gặp gỡ

nhưng nín lặng anh về nhà khổ sở

gọi tên em mà nhớ vẫn y nguyên

anh bảo rằng sẽ phải làm quen

dù khó nói hơn một lần xưng tội.

Ðường đi học chung con đường mấy buổi

Bữa đi thi là lần cuối gặp nhau

Anh là người chỉ dám theo sau

Theo kín đáo để em đừng ngó lại

Tuổi học trò tình yêu khờ dại

đem thiên đường hoa lá kết trăng sao…”

Còn phần thứ hai, là một chuyện tình buồn và thê thảm và đau xót:

“Mười năm rồi anh vẫn ước ao

được tiến ngang vai nhìn nghiêng mái tóc

và bảo rằng mãi mãi yêu em

khói thuốc dần tan trơ trẽn ánh đèn

em trước mặt mưa ngoià kia xối xả

em nằm nghiêng đẹp vô cùng lơi lả

tóc chán chường ôm xõa nửa cơn điên

em vội vàng cất tiếng cười lên

cho đau đớn ở lưng chừng kiêu hãnh

tay mơn trớn nhả một loài rắn lạnh

khắp mình anh nghe rợn mảnh chai đâm

anh xiết vai em nức nở âm thầm

gọi bóng tối để tìm ngây thơ cũ.

Trời còn mưa khi anh bỏ ra về

đi rất khẽ để em đừng tỉnh giấc…”

…Ðọc những câu thơ trên tôi nhớ nhiều đến những kỷ niệm thời mới lớn của mình. Có nhiều người thích những câu thơ viết về thuở mới lớn, của tình yêu đầu đời của Hoàng Anh Tuấn. Với tôi, bài thơ ấy nhắc lại một thời, của những khi mà mơ mộng như cánh diều bay vút lên tận trời xanh. Buổi chiều, đạp xe đi theo tà áo trắng, khi gió từ con kinh thổi lên, khi dốc cầu cao vút, như những tầm mắt như muốn lạc vào chốn nào xa mờ. Ðể đến buổi tối, thức khuya, tập tành làm thơ, để thấy mình lắng nghe trong sâu thẳm những ấp ủ một thời, những lãng mạn một đời. Cậu học trò nghèo mơ ước nhiều thứ, mà có khi chỉ là những mơ ước lãng đãng không cụ thể…

Người ta nói thơ của ông trẻ trung ngàn tuổi bởi phong cách ấy, tâm tình ấy. Dù bây giờ ông đã khuất núi khởi hành vào cõi miên viễn vô biên…

Tôi không phải đồng trang lứa với ông và trong đời chỉ gặp mặt nói chuyện một vài lần, mà sao nghe tin ông mất, lòng cũng không khỏi man mác. Nhưng, vẫn thấy dường như thi sĩ còn để lại điều gì. Giở tập thơ, đọc lại vài bài thơ quen, những bài thơ của những không gian, thời gian thật trẻ dù có khi mà cả thi sĩ và độc giả đã già…Có người gọi ông là Lão Ngoan Ðồng cũng có cái lý của nó.

Thơ Hoàng Anh Tuấn trẻ, rất trẻ. Nếu không ngại ngoa ngôn, thơ ông không tuổi tác. Lúc nào, thơ cũng là những niềm riêng trải ra, từ cảnh đến người. Thơ, có hơi thở của cuộc sống, bởi, nó có sự sống thật rốt ráo, thật tha thiết. Những ý tưởng, những cảm nhận, là thật của ông, và cái riêng ấy qua ngôn ngữ đã thành cái chung của nhiều người.

Có người hỏi tình yêu của Hoàng Anh Tuấn khi tuổi trẻ hoặc lúc về già có gì khác biệt, Theo tôi thì cũng thế thôi. Một nòi tình. Tuổi trẻ khi đã yêu, ai mà không nhút nhát, không mơ mộng. Ai mà chẳng có lúc “mộng ngoài cửa lớp”? Ai mà chẳng có lúc nhớ về Em của:

“Em xõa tóc bước lên ngôi thần tượng.

Ðôi bàn chân còn lấp lánh sương đêm

Môi ướp mật ong, tóc đẫm hương rừng

Tà áo mỏng dệt bằng tơ dị thảo…”

… Thơ tuyệt vời như thế chắc được nhiều nhạc sĩ ngắm nghía để phổ nhạc? Ðúng như vậy, Thơ Hoàng Anh Tuấn được rất nhiều nhạc sĩ chọn. Và có rất nhiều nhạc khúc bắt nguồn từ thơ ông. Như Hoài Khúc của nhạc sĩ Anh Việt. Như Soi Trong Lòng Mắt -Duyên Anh. Như Ngàn Năm Mây Bay – Nguyễn Hiền. Như Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội -Phạm Ðình Chương. Như Viết Trên Tà Áo Em – Văn Phụng. Như Hát Tháng Tư Xanh– Phạm Duy. Như Gọi Người Yêu Dấu– Vũ Ðức Nghiêm. Như Thầm Kín Song Ngọc. Như Em, Hà Nội – Phan Nguyên Anh. Như Giọng Hát Năm Xưa– Nguyễn Ðức Nam. Như Mùa Hạ Huyền– Khổng Vĩnh Thành…

Trong lời tiễn đưa khi hạ huyệt thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nhà văn Giao Chỉ phát biểu:
‘trong số các bài thơ của Hoàng Anh Tuấn có hai bài phổ nhạc rất danh tiếng. Bài Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội đã làm khổ thi sĩ khi kẹt lại bị hành lên hành xuống trong tù Cộng sản. Tuy nhiên Bài Thơ Hà Nội chan chứa tình yêu với tên các con đường 36 phố phường thì cả cán bộ Bắc Kỳ đọc cũng phải ngẩn ngơ:

Em Hà Nội, Hàng Ðường trong giọng nói

Ðể Hàng Bông êm ái lót cơn mơ

Thương những chiều Bác Cổ ngày xưa

Anh nắn nót một trường thi lãng mạn

Thơ thuở bé khắc ghi tình Ngõ Trạm

Hàng Cỏ ơi sao thảo cỏ mờ phai

Theo gót chân em từng bước Hàng Hài

yêu Hàng Lược chải mềm hương mái tóc…

Tình Hà Nội đến như thế thì thôi!!!”

Thơ tình Hà Nội không phải chỉ có thế. Tôi đọc “ Bài Thơ Còn Lại”, để thấy như còn chút vấn vương, còn một nỗi niềm nào mơ hồ chưa ngỏ. Lời và ý thật tự nhiên, xuôi chảy theo dòng ngôn ngữ không một chút dụng công nhưng lại gây rung động. Trong cách diễn tả, có sự thiết tha của những lời dặn dò..

Không phải thi sĩ chỉ muốn dặn dò với người yêu, mà, còn muốn dặn dò với cả chính mình, hay cả vời vợi tâm tư của một tâm thức nào đã in sâu trong trí nhớ. Lời dặn tha thiết:

“Có đi ngang xin em đừng đánh phấn

tóc buông rèm lứa tuổi thích ô mai

mắt vương tơ của những phút học bài

tay kheo khéo khi đánh chuyền với bạn…”

Thốt nhiên, tôi lại nhớ đến câu thơ Nguyễn Bính, của cái xót xa khi thấy người yêu thay đổi “hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Còn Hoàng Anh Tuấn thì nài nỉ. Hãy hồn nhiên, hãy ngây thơ, như thuở nào mới lớn. Ðừng trang điểm, bởi son phấn sẽ làm thô nhám đi lớp da mượt mà, sẽ làm bớt đi cái hồn nhiên của những bình minh vừa rạng…

Tâm tư ấy, với tuổi học trò, ai mà quên được. Có lời ngỏ từ câu thơ phất phơ tà lụa. Hay là nỗi niềm thổn thức buổi chia xa. Thơ được hình tượng riêng từ hoa lá cỏ cây đến trời mây sông biển. Dòng thơ xuôi nguồn, những câu tám chữ phăng phăng rạch về biển lớn. Câu, chữ, là lóng lánh sương trong của một ngày tinh mơ, là ánh hoàng hôn của một chiều quá vãng. Thơ, mềm mại và nõn nhẹ như tơ:

“Bước rất nhẹ như mùa Thu con gái

như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh

như chưa lần nào em nói: yêu anh

như mãi mãi anh còn nguyên thương nhớ

bước nhè nhẹ như bóp mềm hơi thở

như ngập ngừng chưa nỡ xé chiêm bao

em có về ăn cưới những vì sao

để chân bước trên giòng sông loáng bạc

ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc…”

Những câu thơ mở ra một tấm lòng rất rộng, đầy trăng sao mơ mộng Nhưng tuyệt cú là những câu cuối của bài thơ. Những câu thơ mà nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Ðình Toàn tâm đắc… Những câu cuối là những câu thơ của nỗi niềm hoài niệm, của những dặn dò cho thân ái ngày xa xưa:

“…Em nguyên vẹn là bài thơ bé nhỏ

anh còn nguyên là một kẻ yêu em

Em đi ngang xin ráng bước cho êm

Ðừng đánh thức thời gian đang ngủ kỹ

Ðừng đẹp quá để anh đừng rối chỉ

Lấy gì đây khâu vá lại tình xưa?

Có đi ngang xin chọn lúc bất ngờ

đừng nói trước để anh buồn vơ vẩn…”

Thơ tám chữ của Hoàng Anh Tuấn như bài này quá hay. Nhưng có nhiều người lại cho rằng thơ của ông tuyệt vời ở thể lục bát Hoàng Anh Tuấn vì ý thơ cô đọng và ngôn ngữ tinh chất. Nhưng, riêng với tôi, lại thích thơ tám chữ của ông hơn. Nghiệm lại, thường đa số bài của ông là tám chữ. Và, với thể loại này, dường như không gian thơ rộng hơn và thời gian thơ cũng dài hơn. Ở đó, trí tưởng tượng như vó chân tuấn mã xoải bước theo muôn dặm hành trình. Nhịp thơ dồn dập nối nhau, như nhịp thở trái tim, để, ý và lời kéo nhau vào vô biên vô tận. Ðể đến một lúc, từ những làn sóng liên miên kéo tới, để người đọc thấy như bị hụt hơi trong cảm giác và thấy bị trôi dạt vào một cảnh tượng riêng khi ngũ quan bị rơi vào khoảng chơi vơi vô định của liên tưởng. Ông không kể chuyện nhưng từ một vài câu, một vài chữ như kể đến, hay nói về, chút tâm sự riêng mà người đọc thơ tự cảm thấy mình có một chút nào chia sẻ trong đó. Trong ý nghĩ chủ quan tôi, chính vì những hình ảnh, những từ ngữ bất chợt ấy mà ấn tượng thơ như hằn vết sâu thêm, rõ thêm trong bộ nhớ của óc não độc giả. Thơ vì thế lại có dáng vẻ lôi cuốn thêm…

Thơ Hoàng Anh Tuấn làm hồi sinh lại những nơi chốn mà ông đã sống qua. Liệu nhận định ấy có gì quá đáng không? Nhưng theo tôi thì câu nói đó nêu lên được một đặc tính của con người ông và thi ca ông. Thơ huyền ảo hơn Paris của một thời tưởng tượng. Thơ dựng lại một phương trời Hà Nội. Thơ làm rạng rỡ hơn cái nắng Sài Gòn. Thơ làm lãng mạn hơn sương mù Ðà lạt. Và ở xứ người thơ chuyên chở tâm tình của Thung Lũng Hoa Vàng, của thành phố San Jose nơi thi sĩ sống cuối đời và từ trần ở đó… Những nơi chốn của đất thánh thi ca…

Trong thơ ông, muôn đời miên viễn trong tâm tưởng vẫn là Hà Nội. Chẳng phải riêng trong vô thức, là hình bóng người tình muôn thuở. Mà cũng chẳng phải là tình cảm đầu đời với một nơi chốn từ đó đã sinh ra và lớn lên. Thơ ông với Hà Nội, là nỗi bí nhiệm của tổng hợp những nỗi niềm của người từ nơi chia xa nhớ về. Nó không đơn thuần là tình yêu đầu đời và cũng không đơn thuần là hoài niệm về tuổi thơ. Mà, là tất cả, từ ấn tượng không phai nhạt. Từ tâm tư của trái tim cảm lụy. Của những “ngôn ngữ trời cho” của một bất thần vụt đến của thơ.

Những bài thơ Hà Nội, có nỗi thiết tha, có ngữ ngôn bình dị và tự nhiên không một chút làm dáng nào. Thơ như thể một cánh buồm phăng phăng vẫy vùng trong cái cao rộng của đất trời, của những phương trời tuy mịt mù khói sóng nhưng gần cận thân quen. Thơ phá vỡ đi cái biên giới hữu hạn của không gian, thời gian. Hà Nội dệt bằng những bài thơ, mềm như nắng và nhẹ như mây trời.

Ðọc thơ để thấy người! Ðọc vài câu thơ, để mường tượng một vóc dáng riêng, một người luôn coi đời là một cuộc chơi không dứt:

“Này tôi đang lạc vào em

sau lưng trăm ngón ưu phiền níu chân

này tôi du đãng tâm hồn

ngụy trang ngàn mảnh thơ buồn tả tơi

này tôi này vũng bùn tôi

nắng ngang mưa chéo rã rời ẩm nâu

cuốn theo rác rưởi nhu cầu

này tôi chới với trong mầu rất xanh

chợt nghe hà ốc hiền lành

với rong rêu lại hóa sinh một lần

này tôi trút bỏ áo quần

thân hài nhi với tâm hồn trẻ thơ

này tôi thành hạt phù sa

để yêu em với mặn mà giọt châu.”

Ðọc thơ, để thấy người, để tìm lại cái vóc dáng của một người lãng mạn “ôm đàn đến giữa đời” tài hoa…

Nguyễn Mạnh Trinh
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Thằng Bé Cu Li

Lý Lan

Dạo hoa phượng còn đỏ rực trên cành , thằng bé bắt đầu bằng một nghề nhàn hạ một cách chân chính : bán trà đá . Mẹ nó sắm cho nó đủ bộ đồ nghề : Một thùng càrem bằng mốp cũ kỹ , sang lại của ông già Năm . Một cái ấm nhôm hơi cũ , nhưng được mẹ nó kỳ cọ bằng tro , chà đánh bằng xơ mướp nên sáng loáng lên , coi cũng vệ sinh lắm . Và hai cái ly thủy tinh .

Mỗi sáng , trước khi quảy gánh ve chai ra đi , mẹ nó nấu một nồi nước sôi , pha trà , đổ vô ấm nhôm . Nó mua ở tủ lạnh nhà bác Ba một chục đá cục bỏ vô thùng càrem , chèn bao nylon thật kỹ trước khi đập nắp thật kín . Nó quàng dây qua vai gầy , đeo thùng càrem ngang hông , thân hình bé nhỏ hơn vẹo đi một tí . Một tay xách ấm nước , một tay cầm hai cái ly , nó đi bộ hai cây số từ nhà đến bến xe Ký Thủ Ôn .

Bán trà đá tưởng như một nghề chơi chơi : mình chỉ việc xách ấm và ly đi đến một người khách và mời : " Trà đá , chú " , hay : " Trà đá Dì ! " .
Khách có thể hỏi : " Bao nhiêu một ly ? " .
Trả lời : " Một trăm đồng " . Khách gật đầu : " Cho một ly " .

Mình chỉ việc bỏ cục đá vào ly , rót đầy nước trà vào . Ðá tan làm ly nước rịn mồ hôi . Nước trà màu nâu hổ phách trong veo , thoảng mùi thơm lá dứa . Khách cầm ly uống ừng ực , nước trà chảy qua cổ họng đang khác khô , tới bao tử , làm mát cả ruột gan . Khách đà khát , mặt mày tươi tỉnh lại , vui vẻ móc túi trả tiền . Thế là được một trăm đồng . Khỏe re . Vì vậy già trẻ bé lớn gì cũng có thể bán trà đá .

Nhưng bến bến xe Ký Thủ Ôn là một bến xe nhỏ , chỉ có mấy chiếc xe đò cà tàng , mỗi ngày vài chuyến , chạy đến những xứ sở buồn hiu như Cần Giuộc , Chợ Trạm , Cần Ðước , Gò Công . Người về xứ đó không nhiều , bến xe lưa thưa hành khách . Mỗi lượt tài mới có năm bảy khách mà đã tới cả chục người bán hàng rong vây quanh , ồn ào chào mời nhặng xị " Bánh tráng phồng đây " , " Cốm ngò đây " , " Kẹo dừa " , " Trà đá đây " , " Trà đá hông ? " " Trá đá chú " , " Trà đá ... " .

Thằng bé cũng lăn xả vô . Nhưng hoặc là nó không cạnh tranh lại đám trà đá " chuyên nghiệp " hơn , hoặc nếu hôm nào kiếm được mối thì sẽ bị tụi kia kiếm chuyện quần một trận cho " biết điều " hơn .

Cuối cùng thằng bé lủi thủi xách ấm nước và đeo thùng đá cục đi lang thang xuống phố . Xe cội đông đúc làm sao , người ta quan trọng làm sao , ngồi quán có nhạc đệm , dù che , uống nước cam tươi hay La hán quả . Nó đi mỏi rục giò mà chỉ bán được một ly trà đá cho chú xích lô , một ly cho chị bún riêu , một ly nửa cho ông già vé số . Hôm nào may lắm cũng có thể bán được chục ly . Có hôm mưa gió eo xèo , chẳng ai thèm uống trà đá . Mấy cục đá buổi sớm bự hơn nắm tay , đến chiều teo lại bằng ngón chân cái , đến tối thì tan biến luôn . Lỗ vốn !

Một hôm nó đang đi lững thững thì có người kêu trà đá ! Ôi , trúng mánh ! Hàng chục người đang làm việc ở một bãi đất ngổn ngang gạch đá vôi vữa xà bần tôn thép ... Hẳn là họ làm việc nặng nhọc lắm , người nào người nấy mồ hôi mồ kê đầm đìa như tắm . Một người kêu trà đá , lập tức mấy người kia kêu theo . Chưa từng có bao giờ trà đá đắt như vậy . Thằng bé lăng xăng lít xít , tay chân lanh lẹ đập đá , rót trà, bưng ly , chạy lui chạy tới như một tay trà đá chuyên nghiệp . Mất người thấy thằng bé có vẻ tháo vát , tỏ ra thân mật và trêu chọc nó . Nó không thật sự hiểu hết những lời đùa cợt , nhưng vẫn toe toét cười , miệng rộng tới mang tai .

Vèo một cái , ấm trà hết veo . túi nó rủng rỉnh ngàn bạc . Mặt mày nó phớn phở , người nó thơ thới , lòng nó rộn ràng . Môi nó chỉ chực nở thành nụ cười và tai nó cũng vểnh lên để đón nghe mọi điều người ta nói . Một hồi nó tự thấy đã quen với mấy người lúc nãy là khách hàng của nó . Nó bạo dạn hỏi chuyện :

- Mấy anh làm gì ở chỗ này vậy ?
Họ cười :
- Làm cu li chứ làm gì hả nhỏ ?
- Là làm cái gì ?
- Là đào đất , xúc xà bần , khiêng gạch , vác xi măng , là làm đủ thứ chuyện mà người ta sai biểu . Cu li là làm cực khổ như trâu bò mà mỗi ngày công được có năm sáu ngàn bạc .
Thằng bé tròn mắt kêu lên :
- Năm sáu ngàn lận ?

Thật là một con số vĩ đại . Từ ngày đeo thùng đá và xách ấm trà đi bán dạo , nó đã biết đồng bạc khó kiếm như thế nào . Cả ngày trời lang thang dầm mưa , dãi nắng , có khi nó chỉ kiếm được vài trăm . Hôm nào trúng mánh như hôm nay cũng chỉ hơn ngàn bạc .

Nó lẩm nhẩm cộng tất cả tiền dành dụm từ hồi đi bán trà đá tới giờ vẫn chưa bằng được cái con số năm , sáu ngàn đó . Mà đó chỉ là tiền công một ngày làm mà thôi . Nó ngước nhìn những công nhân xây dựng một cách ngưỡng mộ và thật thà nói lên ước vọng của nó :

- Phải chi em được làm cu li .
Mọi người phá ra cười :
- Không chuyên gì mới làm cu li . Cực chết mẹ chứ chơi à ?
Họ chỉ một người ăn mặc lịch sự , đang coi bản vẽ nói :
- Có ước mơ thì mơ thành kỹ sư như ông đó , vừa khỏe vừa có tiền . Nhưng mà phải học giỏi thiệt giỏi mới hòng ! Mày có đi học không ?

- Có , em học hết lớp năm rồi . Tựu trường này em lên lớp sáu . Mẹ nói lên cấp hai , muốn đi học tốn nhiều tiền lắm . Ðồng phục , sách vở , tiền bẩo trợ , tiều sửa chữa trường , đủ thứ hết . Mẹ sợ không đủ tiền đóng nên biểu em nghỉ hè đừng đi chơi , đi bán trà đá để dành tiền mai mốt phụ với mẹ đóng tiền học .

Mọi người nhìn thằng bé đen đủi còm nhom . Có thể nhận thấy qua ánh mắt vẻ mặt họ một niềm thương cảm . Nhưng chẳng ai nói gì cả . Mấy người lớn tuổi chắc cũng có con cái lớn cỡ nó , chắc họ cũng đang lo nghĩ về tiền học , tiền sách vở , áo quần và vân vân ...

Với lại cũng hết giờ giải lao rồi . Họ lại làm việc quần quật , không hở tay , hở miệng , hở mắt ra mà ngó tới nó nửa .

Nhưng thằng bé vẫn đứng đó nhìn người ta làm việc . Nó thấy đẩy xe cút kít chở xà bần đi đổ không khó gì . Tưới nước cho ướt gạch , rồi tiếp gạch cho thợ xây thì nó nhắm nó cũng làm được . Ngay cả chuyện trộn hồ , nó đứng coi một hồi thì kết luận nó cũng ... làm được , nếu nó cao vã to hơn chút nữa .

Tất nhiên là công việc đòi hỏi nhiều sức lực . Nhưng mà thằng bé cho rằng nó cũng dẻo dai lắm . Quả là cực nhọn thật . Nhưng đi bộ suốt ngày với thùng đá đeo bên hông và ấm nước gần bốn lít trong tay cũng không phải là việc nhẹ nhàng gì . Nó đâu có sợ cực . Vả lại , nó thấy người ta làm việc rất vui . Không khí lao động tất bật làm nó đứng coi mà cũng thấy hăng hái và táy máy tay chân .

Ấm trà đã hết rồi . Như mọi khi nó có thể đi lượm trái dầu quăng lên không trung để ngó chúng rơi xuống , xoay tít thật vui mắt . Nhưng bây giờ thằng bé không màng gì đến trò chơi đó . Nó lảng vảng ở công trường xây cất coi người ta làm , rồi động tay động chân phụ một người đang đẩy xe cút kít , gặp phải mô đất cao , xe không lên nổi . Thấy không ai kêu rằng mình vướng tay vướng chân họ , thằng bé bạo dạn hơn . Khi chú thợ xây kêu : " Gạch " , nó lập tức ba chân bốn cẳng phóng lại đống gạch , ôm một mớ chạy lại tiếp ngay . Rồi cứ chạy đi chạy lại tiếp gạch tiếp hồ suốt buổi đó .

Hôm sau , mới hưng hửng sáng thằng bé đã có mặt ở công trường , với thùng đá và ấm trà . Nhưng hôm đó ai cũng bận tối mặt . Cứ nghe cai với đội trưởng hò hét công nhân mà hãi hùng . Nào là xi măng phải dọn kho cất vô , nào là gạch đá về sân bãi đâu mà đổ . Bọn vật tư chết tiệt , khi cần thì không có , khi chưa cần thì đỗ tới ào ào , không nhận thì mai mốt không có dùng , nhận bây giờ thì nhét vô đâu .
Mấy thằng kia ra dọn hết đống xà bần này coi !
Thằng này nửa , vô kho xếp xi măng lại coi rộng được chỗ nào không !
Còn thằng nào ra trộn hồ nè ! Còn thằng nào nửa ...
Hết THẰNG rồi . Ai cũng bù đầu tối mặt , mà công việc thì cứ việc này đẻ ra việc kia .

Ông đội trưởng gào thét để chỉ huy một hồi khản cả tiếng . Bỗng ông thấy thằng bé . Hôm qua ông cũng thấy nó lăng xăng ôm gạch tiếp thợ hồ , ông chỉ mặt nó quát :
- Thằng này phụ hồ đươ(.c không ?
- Dạ , được
Nó gật đầu lia lia . Ông đội trưởng phất tay , bố trí nó " công tác " chung với một ông thợ già . Thằng bé xông vô làm như chiến sĩ xông pha trận mạc .

Khi nó đeo thùng đá và xách ấm về , ông đôi trưởng xoa đầu nó nói :
- Còn bao nhiêu trà đá coi như ta uống hết . Chiều thứ bảy trả công luôn .

Bữa nay mới thứ năm . Thằng bé về nhà , thân thể ê ẩm suốt đêm , lòng thì hoang mang không biết mình có thể được lĩnh bao nhiêu tiền công , và liệu ông đội trưởng có quịt mình không ? chú thợ già mà nó phụ hồ lúc trưa có nói nó nhỏ quá , làm toàn việc vặt , chắc được nửa tiền công thôi . Ba ngàn đối với nó cũng lớn lắm rồi . Nhưng nó siêng năng chịu khó như vậy , có thể được bốn ngàn . Ôi bốn ngàn ! Nó quên được phần nào sự mệt mỏi thân xác và ngủ thiếp đi .

Hôm sau nữa mới chỉ là ngày thứ sáu . Thằng bé tới công trường khi ở đó co người bảo vệ và thủ kho . Nó lảng vảng quanh quẩn rồi đánh bạo hỏi anh bảo vệ :
- Bữa nay em có có được làm nửa hôn ?
- Mầy ấy hả Công trường không bóc lột sức lao động trẻ em . Hôm qua kẹt quá , chứ bữa nay thì miễn .
Thằng bé khẩn khoản nói là nó thích làm cu li lắm và biết đâu bữa nay công trường cũng kẹt nửa . Anh bảo vệ nhún vai :
- Chờ ông đội trưởng tới coi ! Mướn mày mang tiếng chứ ích gì ?

Nó phập phồng chờ ông đội trưởng . Chờ hoài chờ hủy sao ổng lâu tới vậy . Cai đã thúc thợ bắt tay làm . Không ai kêu thằng bé làm gì cả . Nhưng nó không đợi kêu . Vừa thấy chú thợ già hôm qua chuẩn bị đồ nghề , nó lập tức đi ôm gạch lại chỗ ông , nhúng nước cho ướt gạch , súc hồ vô xô , xách tới để cạnh ông , rồi chăm chỉ tiếp gạch . Tuy nó nhỏ xíu chưa thạo việc lắm , nhưng tháo vát và dễ bảo nên ông thợ già chịu cho nó phụ . Cuối ngày hôm đó , ông đã khoái nó tới mức hứa hẹn sẽ truyền nghề cho nó nếu nó muốn .

Sáng thứ bảy nó đang làm thì ông đội trưởng xuất hiện . Ông chỉ mặt nó :
- Thằng này làm nổi hôn ?
Nó vội vã gật đầu :
- Dạ nổi chứ ! Con làm từ hôm kia , hôm qua lận mà !
Ông không nói gì thêm , bỏ đi .

Chiều thứ bảy . Thật là một buổi chiều trọng đại . Thầy thợ là xong việc không vội về như mọi khi . Họ thong thả rửa mặt mũi tay chân , ngồi hút thuốc lá và nói chuyện tầm phào chờ ông đội trưởng . Ông ta đã đi lên công ty lãnh tiền tạm ứng để trả lương công nhân . Mọi người tuy không tỏ ra sốt ruột , nhưng cũng ngong ngóng bóng hình ông đội trưởng . Cũng có khi công ty đang kẹt tiền , hay bản chiết tính của đội có trục trặc gì đó , thì sẽ không có tiền . Ông đội trưởng sẽ đến rất trễ để những công nhân không kiên nhẫn bỏ về bớt , và ông đeo một mặt bí sị khất nợ với những kẻ kiên trì đến thứ hai thứ ba ...

Nghe tới tình huống này , tim thằng bé thắt lại . Chẳng lẽ nào ? Bao nhiêu đơi chờ , bao nhiêu lo lắng của nó . Suốt ba ngày nay . Liệu nó có được trả lương không ? Trả bao nhiêu ? Trả mấy ngày công ? Hôm thứ sáu ông đội trưởng không có mặt ở công trường , đâu có thấy nó làm việc . Hôm nay ổng cũng không nói rõ ràng là ổng chấm công nó . Tất cả lo lắng đó , nó chỉ còn cách nhẫn nại chờ ông đội trưởng tới phút phát lương mới biết . Nếu mà ... Tim thằng bé suýt vỡ ra . Nó như ngồi trên lửa bỏng vạc dầu , nhấp nha nhấp nhổm ngóng ra đường .
- A ! ông đội trưởng về !

Nó hét to lên , mừng vui đến nỗi những người khác phải phì cười .
Ông đội trưởng dựng xe , ôm cái túi da căng phồng vô lán bảo vệ . Ông giở sổ chấm công ra , dò theo danh sách , đếm ngày công của từng người , đếm tiền , rồi trao cho họ . Ông cứ theo thứ tự trong sổ chấm công mà phát . Cuối cùng , hết danh sách .

Thằng bé không có tên trong sổ chấm công ! Nó đứng thậm thò nhìn ông đội trưởng , mặt tái đi , tay chân lạnh ngắt . Chờ cho người cu li cuối cùng ra về , ông mới làm như chợt nhớ thằng bé .
- Thằng kia , lại biểu .
Nó lật đật chạy lại , ngước đôi mắt trẻ thơ đầy lo âu nhìn ôn đội trưởng . Ông cầm một cọc tiền giấy một ngàn , hỏi :
- Mày làm mấy ngày ?
- Dạ , ba ngày : thứ năm , thứ sáu với lại thứ bảy .
Ông đếm tiền , một , hai , ba , bốn , năm , sáu , bảy , tám , chín .
Ông ngừng lại hỏi :
- Ba mày làm gì ?
- Dạ , ba con chết hồi năm ngoái rồi .
Ông nhìn nó một chút , đếm tiếp mười , mười một , mười hai .
- Má mày làm gì ?
- Dạ , má con mua bán ve chai .
- Mày có đi học không ?
- Dạ có .
- Vậy ráng mà học . Chứ là cu li , biết cực chưa ?
- Dạ , con chịu cực được mà .
Ông đếm tiếp : mười ba , mười bốn , mười lăm .
Ông toan đếm nửa nhưng đắn đo một chút , nói :
- Má mày có đánh đề , đánh bài không ?
- Dạ , không .
Ông đếm nốt : mười sáu , mười bảy , mười tám . Ông đưa tiền cho thằng bé .
- Ðem về cho má mầy cất , đừng chơi điện tử hết nghe !
Xong , ông đứng dậy , đi về .

Thằng bé cầm mười tám tờ giấy bạc mà ngón tay nó run bần bật . Nó chưa từng cầm trong tay một món tiền lớn như vậy . Mà lại là tiền chính nó làm ra , bằng ba ngày quần quật ngoài trời nắng , bằng sự cố gắng vượt quá sức trẻ em .

Má nó cũng xúc động đến rơi nước mắt khi nó đưa tiền cho bà . Bà đếm đi đếm lại , lộn tới lộn lui , nó phải cầm từng tờ đếm cho má nó coi . Bà gói vô một tờ giấy dầu , đem đấu sau ảnh thờ của ba nó :
- Má cất ở đây cho con , để tựu trường có mà đi học với con người ta .

Ðêm đó thằng bé ngủ vùi trong tay má . Má nó bồi hồi thao thức mãi , thỉng thoảng bà lại vuốt mái tóc khét nắng của con .

Có thể nửa thế kỷ sau , có một tỷ phú hay một nhà bác học để lại tiểu sử như vầy : Mười hai tuổi , tôi đi làm cu li để có tiền ăn học ... Nhưng hiện giờ , dưới một mái tranh ở vùng ven , có một đứa bé gầy gò , đen thui vì nắng gió , trong giấc ngủ say nhọc nhằn đang mơ rằng : ngày khai trường em sẽ đến lớp với đồng phục tươm tất như mọi học sinh , và không ngay ngáy lo lắng cô chủ nhiệm sẽ phiền trách vì không đóng nổi các thứ tiền tập vở , tiền thuê sách , tiền bảo trợ , tiền sửa trường ốc , tiền hội phụ huynh và đủ thứ tiền gì gì nữa ...
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest