Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Giọt máu rơi của nguời lính chết trẻ
May 24 at 5:30 AM

1.

Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.

Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.

Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.

Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".

Trong bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu thì đèn tắt.

Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.

Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.

Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.

Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..

Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...

Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.

Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.

Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.

Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".

Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.

Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.

Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".

Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:

-Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.

Rồi bà ngậm ngùi:

- Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.

2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.

Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.

Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.

Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.

Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.

Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.

Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.

Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.

Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?

Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?

Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi, ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.

Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.

Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.

Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:

- Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.

Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng ký tên. Tay Phượng run run khi cầm cây viết. Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.

Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội

3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.

Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.

Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.

Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.

Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?

Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.

Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.

Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.

Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là "chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) "Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam. Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.

Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.

Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.

Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.

Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.

Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong ngày tang lễ.

Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.

Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.

Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.

Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.

Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.

Phùng Annie Kim
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Em Không Nhìn Được Xác Chàng !

Tưởng Niệm Chiến Sĩ QLVNCH
Viết theo chuyện kể của phu nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt / Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật / Lôi Hổ - Hồ Đăng Nhựt.


EM KHÔNG NHÌN ĐƯỢC XÁC CHÀNG !
"em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong"

Thành kính đốt nén tâm hương, tưởng niệm đến những anh linh chiến sĩ QLVNCH, và đồng đội đã bỏ mình trong cuộc chiến bi hùng cho Tổ Quốc Việt Nam nhân mùa Quốc Nạn
- THÁNG TƯ ĐEN.


Lưu Trùng Duơng
Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh. Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngũ làm Cộng quân khiếp viá. Đối với Cộng quân, những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với chúng. Nhất là "đàn con của Bác" được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua giòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lià Nam Bắc. Vượt Trường sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không tim óc "sinh Bắc tử Nam" dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh ? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleime gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùng bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!

Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn Văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mỗi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách. Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan Văn Ninh, Lê Kỳ Lân, Nguyễn Bính Quan, Nguyễn Văn Tùng và chồng tôi là Hồ Đăng Nhựt. Đại úy Nguyễn Văn Khách đã chỉ huy trại này được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó thiếu tá Thơm và đại úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết sẹo nào ! Có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đã tặng cho. Đại uý Xuân từ bên sư đoàn Dù về, hai ông này là xử lý của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.

EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI ?

Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nỗi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu ! Cứ mỗi lần chàng chuẩn bị đi vào "miền gió cát", nhảy vào giữa lòng đất địch là mỗi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại ? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát....sợ anh về trên đôi nạn gỗ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về "bên hòm gỗ cài hoa..." chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.

Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua.... "Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi", Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra "nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim bay, súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam ! Tôi làm gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nỗi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiã, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ Đăng Nhựt dấu yêu của em !

Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân. Buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều, tôi đã gặp thiếu tá Thơm, đại úy Mai Việt Triết và đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: thím đã đến trễ mất rồi, Nhựt mới vừa từ giả chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ : "bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tròng, đứng nhìn theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh...!!! Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh....thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó !!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về..... Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn Thượng Đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn.

Đến năm 1966, các anh toán trưởng cũng lần lượt mỗi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan Duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô Văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn Ngọc Thiệp, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Biên, v.v... các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, .... cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleime, trận chiến này, các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều.. Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi và Nguyễn Văn Bảy, anh em thường gọi là "Bảy Lùn". Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có trung úy phi công trực thăng Nguyễn Văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực. Từ trên cao trung úy Vui bổng thình lình "cúp" máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH !

Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng. Vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng 2 Chiến Thuật sắp về. Tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàigòn, anh Nguyễn Ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến ! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể trở về Sàigòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.

Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân, chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, trung úy Nguyễn Văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nữa năm sau ông Phạm Duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm Duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.

Năm 1972, khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục. Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn...bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy.... Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô...!!!

Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỹ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đã chọn về Sở Liên Lạc thuộc Phòng 7 Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.

ÁO BÀO THAY CHIẾU, ANH VỀ ĐẤT !

Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuột và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hổn loạn, phương tiện di chuyễn vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó. Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao Triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi, "mày" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không ? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui. Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn là vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn.

Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ, sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đao binh và cướp bóc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn. Chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng. Chiều cùng ngày, trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn Cao Vĩ, trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: Xin chị bình tĩnh, tin chính xác báo cho biết đại úy Hồ Đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua. Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi ngả qụy, chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.

" Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ ". Trời ơi, Hồ Đăng Nhựt ơi ! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi ! "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mỗi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặng sim bạt ngàn. Bây giờ " áo bào đã thay chiếu, anh về đất" yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!

ĐÁ NÁT VÀNG TAN

Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xã, lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước, phần tôi thu xếp về sau. Chỉ có một đêm, đường sá bị giới nghiêm và thiết quân lực, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài gòn...... Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn Cao Vĩ....tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài gòn súng nổ, Sài gòn đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sàigòn, cơn đá nát vàng tan đã đến. Quyết một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vần vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sàigòn, một chiếc bốc cháy chói lòa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lả chã, một chiếc khác gãy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịt bốc lên cao. Sài gòn bốc cháy, Sài gòn loạn lạc, Sài gòn tiếng kêu la thất đảm. Kẽm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt chốt. Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh "Thiên Thần", giày sô "saut" còn bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào ? Chỉ còn tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui. Tôi như một cái xác phờ phạt, hồn đã thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang vì đạn pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào ? Tôi lại trở ra đường Nguyễn Văn Thoại , vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm nhau òa khóc.

Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ giả cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho đất nước. Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của "Sài gòn hoang lạnh ơ thờ, môi người goá phụ nhạt mờ màu son...." Nhựt ơi, em phải làm gì đây anh, em phải làm gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???

Cuộc đời sao lắm nỗi truân truyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ Lính ?! Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng chiều, dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một "ngụy quân", họ đã lên án tôi như thế. Chồng tôi đã gục ngả trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước cổ quan tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng tôi đôi miền: dương-cảnh. Tôi còn gì để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau...!

ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ

Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi mặt....nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác ! Cuối cùng chúng tôi được lên đường. Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đã khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng, trên khuôn mặt hốc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt "thiên đàng" Cộng Sản. Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas City đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi thành phố này.

Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến đổi theo hoàn cảnh. Đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đã quen với đời sống mới, gặp lại những đồng đội của chồng tôi năm xưa. Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của người bạn cũ, tôi gặp được đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu... Sau đó tôi quyết định về San Jose vào tháng 2 và nghe tin đại tá Ngô Thế Linh đã từ trần. Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc, các anh đã tổ chức ngày giỗ của chồng tôi rất trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan, trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người, nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó, cao qúy thay cho tình huynh đệ chi binh.

Những chiều ở đây mổi độ tháng Tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ Đăng Nhựt -chồng tôi, anh đã làm xong bổn phận của người trai thời loạn. Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo đẳng theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một cách bi phẫn trong một cuộc chiến oai hùng. Các anh đang trôi dạt trên xứ người, cuộc chiến đó còn dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài quỹ đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can trường của QLVNCH.

CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI

Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ điù hiu se sắt buồn. Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân. Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mổi lần hồi tưởng, lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. "Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lià "vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa".

Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương. Vâng bây giờ là tháng 3, đã 34 năm dài, mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên "Quê Hương Nghìn Trùng Tang Trắng". Trong một góc sâu thẳm của lòng tôi, hình ảnh cố thiếu tá Hồ Đăng Nhựt, người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC.

San Jose, Mùa Quốc Nạn 2009
Lưu Trùng Duơng
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Chôn súng
Đào Như


Anh Nhân với giọng nói đều đều, có vẻ mệt mỏi vì mất ngủ, anh tự giới thiệu mình và nói về quá trình anh đi trình diện vào ngày 30 tháng Tư 1975:

- Tiểu đoàn địa phương quân của tôi, đóng ở Bến Tre trước bảy lăm. Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngoài bắc: Hoàng Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu năm tám mươi, họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lý Bá Sơ. Cuối năm tám mươi tôi được “lệnh tha” thuộc diện sức khỏe. Đi tù cải tạo ở ngoài bắc, nghề chính của tôi là xẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy kín xương đùi trái…

Đoạn anh đưa tay phải cao lên và choàng vai người bạn ngồi bên cạnh, anh bảo:

- Cũng là nhờ đi tù cải tạo tận ngoài bắc mà tôi được biết anh Phùng này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ Hoàng Liên Sơn…

Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai người ôm nhau. Anh Phùng cảm động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:

- Nguyên tôi là đại úy, Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới. Tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bằng trực thăng. Việt Cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đình được khai báo là tôi bị mất tích, xem như đã chết. Vợ tôi lãnh “tiền tử”. Khi bị bắt, tôi thuộc diện tù binh, nhưng đến bảy lăm, cộng sản chuyển tôi sang chế độ học tập cải tạo. Năm bảy sáu họ chuyển tôi ra tận ngoài bắc, nên mới được ở chung với ông thiếu tá Lý Thiên Nhân này đây. Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy kín xương đùi tại Lào Kai, có tôi. Chính ở Lào Kai tôi và anh Nhân hái được trái “mắc cọp”, trái cây quí của người Bắc. Xin lỗi anh em tên nó không thơm lắm, nhưng khi ăn không đến nỗi nào…

Câu chuyện trái “mắc cọp” vì cái tên vô duyên của nó làm cho anh em toàn nhóm điều trị cười một trận.

Sau đó Thiếu tá Nhân tiếp nối câu chuyện về anh:

- Sự thật thì cho tới năm bảy lăm tôi vẫn còn là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 52 Địa phương quân tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ huy của tiểu đoàn đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba Lai. Địa bàn hoạt động của tiểu đòan là 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết vào đêm 30 tháng tư năm bảy lăm, cũng như các sĩ quan của các đơn vị quân đội Vùng 4, chúng tôi buông súng và đi trình diện tại quận Ba Tri.

Đến trình diện, thoạt tiên thấy cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội nón tai bèo có, nón cối có, đến ân cần nói chuyện với các sĩ quan trình diện. Tất cả đều nói một câu mà hình như có ai dạy cho họ và họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các anh phải thật thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lý lịch và chức năng của mình! Cách mạng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các anh!”.

Một anh chiến binh cộng sản coi còn trẻ, chừng mười bảy mười tám, đội mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàng hỏi tôi và ghi tên họ cùng chức năng tiểu đoàn trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội nón cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai lý lịch của tôi, đóng khung bằng mực đỏ chức năng tiểu đoàn trưởng của tôi. Đoạn ông ta ngước ngược tròng con mắt lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh xuyên suốt cột sống tôi! Cái nhìn ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi, mãi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi thấy cái gì đó rất bất ổn cho riêng tôi… Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “Các anh ai về nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung sau”.

Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung. Tôi có cảm tưởng mình là con cá nằm trên thớt đang giãy dụa. Tôi gặp thượng sĩ Long đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải, trước sau như một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe. Nó có vẻ sợ cho tôi, nó bảo:

- Hay ông thầy về trình diện ở thị xã Kiến Hòa cũng không muộn. Ở đó “có người có ta”, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông thầy là lớn. Ngại lắm…

Tôi còn mãi cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:

- Giờ này không còn ai dám chạy xe lôi xe lam rước khách cả. Được, tôi chở ông thầy đi Kiến Hòa bằng xe Honda của tôi.

Chỉ vỏn vẹn có năm phút, nó ghé nhà cho vợ nó hay. Nó bảo tôi ngồi sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một mạch về Kiến Hòa. Trên đường vào thị xã Kiến Hòa tôi gặp trung tá Bành Tấn Bửu mới hôm qua ông còn là tham mưu trưởng Tiểu khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc đồ thường phục, dân sự, mang dép Nhật, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè đường phố. Tôi liền đến trình bày với ông ta về sự thể của tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi. Ông ta bảo:

- Ở quận Ba Tri không ai mà không biết anh. Thì cũng đành vậy thôi.

Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng ra. Mồ hôi rịn trên trán ông thấy rõ. Ông Bửu vụt hỏi tôi:

- Quê anh ở Sa Đéc? Còn sớm chán, về ngay quê quán mình mà trình diện cho có bà con và cũng có vẻ thật thà hơn, chớ ở Bến Tre này anh cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân phận của tôi ngày mai ra sao!

Tên thượng sĩ già của tôi cũng chụp nói vào:

- Đúng rồi đó ông thầy. Tôi đưa ông thầy xuống phà, xong tôi bốc ông thầy lên ngã ba Trung Lương để ông thầy đón xe đò về bến phà Mỹ Thuận rồi thẳng về Sa Đéc nội trong ngày, trước hai hay ba giờ chiều nay.

Tôi bắt tay trung Tá Bành Tấn Bửu. Chúng tôi chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng không phải lời hẹn tái ngộ. Có gì đó bẽ bàng cho thân phận chúng tôi.

Ngã ba Trung Lương, một ngã ba sầm uất, nhộn nhịp của các tỉnh phía Nam Sài Gòn. Nó nằm bên này sông Tiền trên trục giao tht, đường đi Mỹ Tho, Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa Đéc và Đồng Tháp… Cách nó không xa là Căn Cứ Đồng Tâm, trung tâm hậu cần Quân khu 4; và cũng cách nó không xa là Bộ Tham Mưu của Sư đoàn 7.

Hôm nay, tại ngã ba Trung Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt thảng thốt, ngỡ ngàng. Những anh em binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự, mang dép Nhật, đứng nhìn sững sờ các chú lính giải phóng đội nón tai bèo, lái xe jeep chạy tứ tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc phải người, tung cả quán hàng. Có xe bị lật bên đường. Có xe hết xăng bỏ ngay giữa con lộ.

Nhìn lại, đó là những chiếc xe nhà binh mà các bộ đội giải phóng lấy tại Căn Cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 7. Có người lính giải phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn bằng giọng Bắc Kỳ: “Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta chĩa súng AK lên trời bắn đùng đùng.

Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh em! Mới hôm qua cả Quân Đoàn 4 đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến trường, làm chủ trong mọi tình thế. Đêm qua tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại Cần Thơ, cả Quân Đoàn 4 sụp đổ. Cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một viên đạn.

Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi thấy thương mình vô hạn. Tôi còn trẻ. Tôi mới ba mươi hai tuổi, tiểu đoàn trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và thê thảm như vậy sao? Tôi nghĩ đến Tú, vợ tôi. Tôi yêu Tú vô hạn. Tôi nhớ các con tôi. Có lẽ giờ này tất cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm lòng không được, nước mắt dâng tràn…

Anh Nhân nói đến đây mặt mũi đỏ hoe và giọng anh nghe như khàn đi, thấy vậy anh Quang tiếp lời anh. Trung tá Lâm Quang nguyên là một trong những sĩ quan tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam. Anh là sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị.

Trung tá Lâm Quang nói:

- “Tình hình chiến sự thuộc lãnh thổ quân khu 4 vào những ngày cuối tháng Tư 75 nói chung và thành phố Cần Thơ nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 4, Quân khu 4, Vùng 4, nói riêng, tương đối yên tĩnh so với tình hình các tỉnh miền đông thuộc Quân khu 3, và Biệt Khu Thủ Đô, bản doanh của chính phủ trung ương Sài Gòn. Nhất là sau vụ Tướng Nguyễn Khoa Nam đích thân chỉ huy các đơn vị thống thuộc đánh bại và vô hiệu hóa hòan toàn hỏa lực của trung đòan chủ lực miền Hậu Giang của cộng sản, khi trung đòan này xâm nhập và tiến sát vào vòng đai phòng thủ của phi trường Trà Nóc- Cần Thơ.

Sáng ngày 29 tháng tư 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 có triệu tập một cuộc họp quan trọng để duyệt xét lại tình hình và đề ra phương án phản công mới dưới quyền chủ tọa của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đòan 4, Quân khu 4. Thành phần tham dự cuộc họp gồm có: tư lệnh, tư lệnh phó, tham mưu trưởng, các tham mưu phó và các sĩ quan trưởng phòng trong bộ tham mưu của Quân đoàn 4, ngọai trừ hai sĩ quan cao cấp của Quân đoàn, một cấp chuẩn tướng, tham mưu trưởng, và một cấp đại tá, trưởng phòng 2 Quân đoàn, đã tẩu thoát ra nước ngoài là không tham dự phiên họp này. Cuộc họp tuy ngắn nhưng trang nghiêm và hết sức quan trọng. Các đơn vị trong Quân đoàn 4 thề: “Kiên quyết và đoàn kết sau lưng vị tư lệnh và chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tử thủ Vùng 4”.

Sáng ngày 30 tháng tư 1975 vào lúc 10:25, Tổng Thống Dương Văn Minh lên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi toàn thể quân đội và các tướng lãnh chỉ huy sư đoàn, quân đoàn trên toàn vùng lãnh thổ miền nam, phải buông vũ khí, ngưng chiến đấu và chờ bàn giao cho chính quyền cách mạng!... Thế là một quân đòan hùng mạnh như Quân Đoàn 4, tới giờ phút này vẫn nắm vững tay súng, chủ động trên mọi tư thế chiến đấu và phản công, đang giữ vững miền châu thổ sông Cưủ Long sắp phải tan rã.

Tướng Nguyễn Khoa Nam, một quân nhân chuyên nghiệp, ông phải tuân thủ mệnh lệnh thượng cấp, nhất là vị thượng cấp này là Tổng Thống Dưong Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, vị Chỉ huy trực tiếp của Ông.

Một số sĩ quan phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Đoàn 4, kể cả tôi, quá chán nản rời bỏ đơn vị, về sum họp với gia đình chờ ngày vào tù. Một số khác thì tìm đường tẩu thoát ra nước ngoài vì họ sợ cộng sản trả thù. Trong bối cảnh này, chỉ còn lại một mình thiếu tướng Nam- tư lệnh, thiếu tướng Lê Văn Hưng- tư lệnh phó, và một số sĩ quan thân cận ở lại doanh trại bộ tư lệnh của Quân đoàn. Tướng Nguyễn Khoa Nam, một tướng lãnh ưu tú, sống độc thân, ăn trường chay, thanh bạch, suốt đời ông cống hiến cho binh nghiệp, tận tụy với quân đội.

Chiều ngày 30 tháng tư 1975, cộng sản đưa người của họ vào là Tám Thạch, mang quân hàm thiếu tá trung đoàn trưởng, qua trung gian của Nguyễn Khoa Lai- em thúc bá của tướng Nam, thiếu tá bác sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và đại úy bác sĩ Đoàn Văn Tựu, y sĩ trưởng Tiểu đoàn 40 Chiến Tranh Chính Trị, trú đóng tại Bình Thủy- Cần Thơ, vào tiếp xúc với tướng Nam tại bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, đồn trú trên đại lộ Hòa Bình thành phố Cần Thơ. Nội dung cuộc tiếp xúc này, cấp nhỏ như chúng tôi không ai được biết, ngọai trừ tướng Hưng, tư lệnh phó, được tướng tư lệnh bàn bạc và thông báo riêng. Thiếu tướng Hưng trở về tư dinh và tự sát sau đó.

Sau khi suy nghĩ và cân nhắc mọi hậu quả có thể xảy đến cho đồng bào và chiến sĩ trong lãnh thổ, tướng Hưng và tướng Nguyễn Khoa Nam, tuần tự đi đến quyết định tuẫn tiết.

Sự tuẫn tiết của hai vị tướng lãnh, tư lệnh và tư lệnh phó của chúng ta, tướng Nguyễn Khoa Nam và tướng Lê Văn Hưng, là những quyết định kiên cường và dũng cảm, mãi mãi được tuyên dương và ghi công, đời đời được lịch sử soi sáng”.(1)

Những điều tường thuật của trung tá Lâm Quang tuy sơ lược nhưng rất súc tích, gây nhiều cảm kích cho anh em. Không ngờ sau gần hai mươi năm mà ấn tượng của các anh em về tướng Nguyễn Khoa Nam vẫn còn sâu sắc, không một phai mờ. Nhớ lại tướng Nguyễn Khoa Nam, anh em nhớ lại một thời vinh dự được cầm súng bảo vệ tổ quốc. Có một vài anh em cúi mái đầu bạc, hai tay bưng mặt khóc rưng rưng. Có một thời anh em là lính, là sĩ quan tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam.

Không muốn để tâm tình xúc động của các anh em kéo dài, trung tá Lâm Quang yêu cầu anh Nhân tiếp tục câu chuyện của anh, con đường từ ngã ba Trung Lương về Sa Đéc.

Anh Nhân bậm môi, cố gắng lấy hết can đảm mới đủ bình tỉnh tiếp nối câu chuyện của mình:

- Như các anh biết, lúc đó xe chạy rất ít. Tôi có ý sợ không có xe về sớm để kịp giờ trình diện! May quá, lúc đó một chiếc xe nhà binh GMC cũng đang chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải phóng đội nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi liền đưa tay đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy người tài xế lại là chú lính Việt Nam Cộng Hòa! Tôi mạnh dạn hỏi lớn:

- Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có được không?

Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng bắc la lớn:

- Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên. Trưa cả rồi!

Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi lên. Khi bàn tay tôi chạm phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh may bằng vải ka ki xanh Nam Định. Tim tôi se lại. Dưới màu ka ki xanh Nam Định này, tôi đã nhiều lần nhìn thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi tuổi, trên ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ xăm hàng chữ Sanh Bắc, Tử Nam.

Xe chạy… và chạy xa ngã ba Trung Lương. Mọi người ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi người đang theo đuổi những ý nghĩ riêng tư của mình. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải mắt nhau.

Xe chạy qua những thôn xóm quen thuộc tôi đã từng qua lại nhiều lần từ thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp thầy, gặp bạn. Hôm nay trông quạnh vắng lạ thường. Trường học đóng cửa, không một bóng dáng học trò, chợ búa tiêu điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ mấy miếng lá chuối khô bay.

Có lúc trên xe im phăng phắc. Hình như ai cũng đang chờ đợi cái gì. Sau những năm chiến đấu ồn ào với súng đạn, bây giờ tôi mới hiểu im lặng là cái đáng sợ. Nhất là cái im lặng sau cuôc chiến, cái im lặng chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản kháng.

Các anh bộ đội miền bắc, có lúc cố gắng pha trò để đỡ buồn, đỡ căng thẳng. Có anh nhái giọng nam bộ, hỏi người trên xe: “Mần sao?”. “Bà con làm một chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ Thuận trên chuyến xe đò cách mạng kỳ này chắc dzui’ lắm hả?”.

Câu pha trò của anh rơi vào khoảng không. Không một nụ cười đáp ứng. Tôi gượng gạo, nhìn bâng quơ ra ngoài. Làng mạc ruộng vườn bao la một màu xanh rờn vắng bóng người nông phu, chỉ có những cánh cò bay lặng lẽ.

Chợt anh tài xế la lớn;

- Đến bến phà rồi, bà con ơi.

Tôi vội vàng cám ơn mọi người và nhảy xuống xe trước nhất. Một cánh tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chặn tôi lại. Tôi hốt hoảng không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ tự nhiên của người lính, bàn tay phải của tôi đã sẳn trong túi quần, lúc ấy ngón tay cái của tôi đã nằm sẵn trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi lúc đó cũng đã sẵn sàng nằm trên cò của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người, và nó sẵn sàng nổ!

Anh chàng bộ đội nhắm nghiền đôi mắt lại, ngước cổ cao lên và la lớn:

- Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngã ba Trung Lương đến tận đây thì anh phải trả tiền chứ, sao lại cám ơn không được!

Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại bình tĩnh. Tôi từ từ rút bàn tay phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500 đồng đưa cho anh bộ đội và nói cám ơn anh ấy.

Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ lại câu nói của anh bộ đội:“Tôi đèo anh”, và tôi cười một mình.

Mãi sau này đi tù cải tạo tại miền bắc tôi mới hiểu được nghĩa của chữ “đèo”. Chiến thắng miền nam, đối với các anh nhanh quá! Các anh ngỡ ngàng như còn trong mơ. Các anh chở chúng tôi trên chiếc xe hơi nhà binh GMC mà cứ tưởng là đang “đèo” chúng tôi trên chiếc xe đạp thồ trên con đường quê nào đó tại miền- bắc- xã- hội- chủ- nghĩa.

Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi ngang qua một công đất bỏ hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến gối và nhiều bùn, tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…

Tôi bước xuống đứng dưới con lạch. Bỏ tay vào túi quần, tôi từ từ tháo gỡ cây súng. Tôi kiểm soát khóa an toàn, cho nó rơi xuống trong ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước.

Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt cá chân. Tôi dí bàn chân sâu vào trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng ngang mắt cá chân tôi rơi đúng vào lỗ bùn sâu.

Bước lên khỏi con lạch, mang lại đôi dép, tôi đi hướng về nhà không ngoảnh mặt lại…

Có một chút gì ân hận chua xót trong tôi.

Hình như tôi vừa từ giã ai? Một người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu súng?

Một thoáng bâng khuâng mơ hồ, tôi vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…


Đào Như
---------------------------------------------

Ghi Chú:

(1)- Đây là bức thư của Trung tá Lâm Quang Bạch (bà con với hai tướng Lâm Quang Thi và Lâm Quang Thơ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa gốc người Hoa ở Trà Vinh nhiều đời), đưa cho tôi sau buổi họp điều trị tâm thần tập thể.

Đây là 1 đoạn của ông ghi chú những biến cố tại Vùng 4 trong những ngày cuối tháng 4 1975, với tất cả danh dự, xương máu và nước mắt của một người lính Việt Nam Cộng Hòa.
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image


Trả nợ ân tình
(riêng tặng những người bạn lính bất hạnh của tôi)

Phạm Tín An Ninh
Đầu mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát và ngắm trời xanh.
Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông.
Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn.
Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo:
– Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi
Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện một con người khí khái và nghị lực. Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.
Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, và khá thân thiết sau này, xem như tình anh em.
Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.
Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.
Sau đó, những ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.
Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi, anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp nhà cửa bếp núc.
Quen biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai trai một gái.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một thời gian đến định cư ở vùng này.
Nhìn tấm ảnh, tôi khen:
– Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương.
Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ:
– Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi.
Tôi tò mò, không kịp giữ ý:
– Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam?
– Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston.
Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích:
– Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979.
Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp:
– Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó.
Tôi cố tìm một lời an ủi:
– Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn?
Anh cười:
– Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng.
– Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì.
Anh trầm ngâm:
– Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà.
Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà:
– Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá.
– Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi.
– Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được.
– Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh.
– Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết. Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu.
– Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi
Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
– Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.
Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi. Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi. Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà. Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.
Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.
Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười. Tính anh như thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa:
– Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết.
Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm:
– Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?
Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và nhân cách của mình.
Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”
Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.
Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu. Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau. Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn.
Anh cười:
– Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!”
Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.
Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe.
Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về thời gian chị đã có lỗi lầm.
Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị:
– Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em.
Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.
Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.
Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản.
Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.

Phạm Tín An Ninh
bobinh
Posts: 221
Joined: Fri Feb 26, 2010 1:35 am
Contact:

Post by bobinh »

Image

Những giờ phút cuối cùng của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai

[size=ê]Trịnh văn Ngân.[/size]
Lời người viết: Trong khoảng thời gian 1975 – 1977, người viết ở chung D (tương đương cấp tiểu đội) với Trung Úy Huỳnh văn Hoa, sĩ quan tùy viên của Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, kiêm Chỉ Huy Trưởng căn cứ Đồng Tâm. Trước đó, Chuẩn Tướng Trần văn Hai đã từng là Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân, và cũng từng là Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trong thời gian đi cải tạo, anh Hoa đã kể cho người viết nghe những giờ phút cuối của Chuẩn Tướng Trần văn Hai., Ông đã chọn cho mình một cái chết anh hùng như một số tướng lãnh khác cuả QLVNCH: Thiếu Tướng Nguyễn khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Thiếu Tướng Lê nguyên Vỹ, Thiếu Tướntg Lê văn Hưng, v.. v.. “Tôi” trong bài này chính là Trung Úy Hoa.

Căn cứ Đồng Tâm, một căn cứ quân sự quan trong, nằm ngay yết hầu từ cửa ngõ từ miền Tây về Saigon. Mọi ngày nhộn nhịp xe cộ, kẻ ra người vào. Hôm nay im lặng như tờ. Lúc bấy giờ là 14 giờ 30 ngày 30/4/75.

Sau khi theo vị Tư Lệnh họp mặt với các sĩ quan thuộc quyền ông lần cuối tại câu lạc bộ sĩ quan sư đoàn, tôi trở về phòng riêng trong dãy cư xá sĩ quan độc thân để sắp xếp đồ đạc cá nhân và chờ lịnh. Mới cách đây trên hai tiếng đồng hồ thôi, sau khi nhận được lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương văn Minh và chờ phiá “bên kia” đến bàn giao, Chuẩn Tướng Tư Lệnh đã triệu tập tất cả các sĩ quan. Ông đã ngỏ lời cám ơn, cùng chào từ giã các sĩ quan thuộc cấp cũ của mình, đồng thời ra lệnh cho tất cả mọi người trở về gia đình thu xếp cho vợ con, tránh đụng độ với quân địch, đổ máu vô ích.

Đúng 15 giờ, điện thoại của Tư Lệnh gọi tôi lên văn phòng của ông. Sau lễ nghi chào kính như thường lệ, tôi đứng nghiêm chờ lệnh. Khác với mọi ngày, Chuẩn Tướng Tư Lệnh không ngước nhìn tôi. Ông ngồi im như pho tượng gỗ. Dường như ông đang suy nghĩ một điều gì. Một lúc sau, ông ra dấu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế tiếp khách, trước bàn làm việc cuả ông. Khi tôi đã an toạ, ông mới bắt đấu lên tiếng một cách từ tốn:“Anh cảm ơn em đã ở bên anh trong giờ phút cuối cùng này. Vận nước đã đến hồi như vậy, không thể làm gì hơn được. Là quân nhân, chúng ta phải tuyệt đối chấp hành lệnh thượng cấp.” Sau đó ông hỏi thăm gia đình tôi. Cuối cùng, ông mới mở ngăn kéo bàn làm việc, lôi ra một gói đồ gói bằng giấy báo. Ông đưa cho tôi và nói rằng: “Đây là gói quà của anh gửi cho bà xã, và bảo bà đừng lo gì cho anh cả. Bây giờ em có thể về doanh trại thu xếp đồ đạc. Từ giờ đến tối, lúc nào cần tôi sẽ gọi.” Sau này tôi được biết, trong gói quà ấy có 70,000 đồng, cũng như một số vật dụng cá nhân hàng ngày của Chuẩn Tướng Tư Lệnh).

Đứng chào vị Tư Lệnh trở về doanh trại, lòng tôi bất ổn. Tôi linh cảm sắp có điều gì ghê gớm xảy ra cho ông. Chờ mãi đến 6 giờ chiều, không thấy điện thoại Tư Lệnh gọi, lòng tôi hết sức bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cuối cùng tôi quyết định chạy bộ lên văn phòng Tư Lệnh.

Căn cứ Đồng Tâm rộng lớn chìm trong hoang vắng. Càng đến gần văn phòng Tư Lệnh, tôi càng hồi hộp. Và rồi tôi cũng đến nơi. Đèn đuốc trong văn phòng vẫn sang như mọi ngày, nhưng một bầu không khí lạnh lẽo bao trùm. Tôi rón rén bước lại cưả văn phòng, nghe ngóng động tĩnh. Vẫn hoàn toàn yên lặng. Sau cùng, tôi liều đẩy mạnh cánh cửa phòng làm việc cuả Tư Lệnh, bước vào. Một khung cảnh hiện ra trước mắt làm tôi hết sức ngỡ ngàng.

Chuẩn Tướng ngồi gục đầu, mê man trên bàn làm việc. Một ly rượu lớn đã cạn còn ở trên bàn. Tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi cấp tốc liên lạc với Tiểu Đoàn quân y và bệnh xá sư đoàn. Lúc ấy còn một vị Thiếu Tá Bác Sĩ ở bệnh xá. Tôi liền trình bày nhanh qua điện thoại tình trạng của Chuẩn Tướng. Một lúc sau, ông Thiếu Tá bác sĩ lái chiếc xe jeep cứu thương đến. Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng nằm trên băng ca và chở ông xuống bệnh xá Sư Đoàn ngay. Sau một lúc tận lực cứu cấp, vị bác sĩ buồn rầu báo cho tôi biết, vì thuốc độc đã ngấm vào máu lâu, Chuẩn Tướng không qua được cơn nguy kịch.

Chúng tôi lặng lẽ lau mặt ông, đặt ông ngay ngắn trên băng ca, và đứng nghiêm chào vị Tư Lệnh đáng kính một lần cuối. Sau khi lấy chăn đậy thi hài ông lại, tôi trở về doan trại thu xếp đồ đạc, và quyết định khuya nay sẽ về báo tin cho gia đình của ông biết.

Khi về đến Saigon, tôi được biết gia đình Tư Lệnh gồm vợ, con và mẹ, đã chạy lánh nạn ở nhà thương Grall. Sau khi biết tin, gia đình ông đã quyết định bằng mọi cách phải mang xác ông về Saigon.

Sáng sớm hôm 1/5/1975 mẹ ông và tôi, một già, một trẻ, bao nguyên một chiếc xe lambretta loại ba bánh xuống căn cứ Đồng Tâm. Chúng tôi đến nơi vào khoảng 10 giờ sang. Khác với hôm qua, hôm nay căn cứ tràn ngập người ra vào. Kẻ tìm chồng, kẻ tìm con, kẻ đi hôi cuả…v/v Xe Honda chạy loạn xạ trong căn cứ. Khi xe lam cuả chúng tôi chạy đến cổng, thì gặp một bộ đội CS địa phương chặn lại. Như sắp đặt trước, mẹ của Tư Lệnh xuống xe mếu máo: “Con ơi, má có thằng con bị bắt đi quân dịch. Nghe nói đâu nó chết hôm qua. Cho má vào nhận xác nó đi con. Tội nghiệp má quá. Hoà bình rồi ai cũng về nhà. Riêng con má không về nữa…” Nói xong không đợi tên bộ đội trả lời, bà dục tôi lên xe và hối tài xế xe lam chạy lẹ vào căn cứ. Tên bộ đội trẻ cứ há hốc mồm ra nhìn, chẳng hiểu ra sao cả. Tôi hướng dẫn tài xế xuống bệnh xá Sư Đoàn. Sau đó cùng khiêng thi hài ra và đưa về Saigon.

Về đến nhà thương Grall thì trời đã tối hẳn. Người ta xì xầm báo cho nhau biết: “chiều nay, ở đây vừa cử hành đám tang tướng Phạm văn Phú”. Phần tôi, lúc này quá mệt mỏi, không biết vợ con hiện giờ ở đâu.

Sau khi tẩm liệm xác Tư Lệnh xong, tôi đứng yên lặng nhìn ông lần cuối, không dám chào theo nghi thức quân đội, vì sợ Tư Lệnh bị lộ tông tích, gia đình ông sẽ gặp nhiều phiền toái. Cuối cùng tôi cũng phải từ giã vị Tư Lệnh đáng kính với hai hàng nước măt đầm đià về tìm vợ con. Tôi cũng xin nhắc lại một chi tiết đáng lưu ý. Trước ngày 30 tháng 4, 1975 một tuần lễ, TT Nguyễn văn Thiệu có phái một chiếc trực thăng xuống căn cứ Đồng Tâm đón chuẩn tướng Tư Lệnh về Saigon. Nhưng ông đã từ chối. Ông chỉ cho vợ con về Saigon. Và sau cùng, ông đã chọn một cái chết anh hùng, như tôi đã kể cho anh nghe.

Trịnh văn Ngân.
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Người Cha H.O. Thầm Lặng

Tác giả: Năng Khiếu

Chủ nhật 18 tháng 6 là Fathers Day 2017, mời đọc bài mới của Năng Khiếu: đứa con được sinh ra tại khu kinh tế mới Sông Ray, tỉnh Long Khánh, trở thành một nữ dược sĩ tại Mỹ kể về người cha H.O. Tác giả họ Trần, trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện hưu trí tại Westminster. Tham dự VVNM từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt năm 2016 và có tên trong danh sách chung kết VVNM 2017.

* * *

Bố tôi đến dịch vụ làm hồ sơ xuất cảnh diện HO. Cầm theo những giấy tờ cần thiết như giấy khai sanh, giấy ra trại, tờ hộ khẩu… Chỉ vỏn vẹn có hai Bố con, trước con mắt tò mò của nhiều người. Thế rồi “Cha già con cọc”dắt díu nhau lên máy bay qua Mỹ, năm tôi tròn bảy tuổi.

Đầu mùa thu năm 1993, Bố xin cho tôi vào học lớp hai tại trường Willmore School, ở đường Goldenwest, thành phố Westminster. Mỗi lần họp phụ huynh xong, cô giáo mời cha mẹ học sinh đến tham quan lớp học và ký tên. Nhưng tôi không có ai đi họp, cũng chẳng có ai ký tên, vì Bố bận đi làm. Mẹ tôi còn ở Việt Nam. Khi cha hoặc mẹ các bạn tôi ký tên gần hết, tôi vẫn đứng tựa cửa lớp, dõi mắt ra cổng đợi Bố đến như lời hẹn. Nhưng chắc Bố đang mắc làm trong hãng nhiều hàng gấp. Chờ đợi mỏi mòn chẳng thấy bóng dáng Bố đâu! May sao mẹ của một người bạn ở gần nhà, biết hoàn cảnh cha con đơn chiếc đã đến hỏi thăm, và tôi xin cô giáo để bà ký tên thay cho Bố. Cô nhận lời và nói tôi thông dịch cho bà trước khi ký tên, cô chỉ lên bảng dán những bức hình tôi vẽ trong giấy cứng, cô khen tôi học chăm chỉ và rất giỏi.

Bây giờ chỉ còn bốn tháng nữa là tôi đủ ba mươi hai tuổi. Như vậy là tôi đã sống ở Mỹ một thời gian khá dài. Từ một con bé còm cõi, nay tôi đã có gia đình và là mẹ của hai đứa con, trai ba tuổi và gái mới đầy năm.

Từ khi còn rất nhỏ, nhiều người vẫn hỏi tôi: Tại sao Mẹ còn ở Việt Nam? Sao chỉ có hai Bố con đi Mỹ thôi? Còn nhiều câu hỏi khác, mà hồi nhỏ tôi có hiểu gì đâu mà trả lời, chỉ cười trừ, nhưng bây giờ lớn tới đâu là hiểu tới đó.

*

Cuối năm 1982. Bố tôi đi tù về, tá túc ở nhà bà nội tôi tại xứ Thánh Mẫu, Huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Bồ về chiều hôm trước, ngay sáng hôm sau, Sáu Sẹo, Công an khu vực đã ghé nhà hỏi thăm sức khỏe, rồi nhắc nhở: “Vì vợ con anh đã đi theo đế quốc Mỹ, mà lại không có hộ khẩu ở đây, anh phải đi kinh tế mới”.

Bao nhiêu năm tù đày, ngày được thả về, Bố tôi thấy bạn bè háo hức, nôn nóng mong xum họp với vợ con, mà thấy tủi thân!

Sau mấy năm tù đầy, người vợ “đầu gối tay ấp” đến thăm Bố lần cuối, yêu cầu bố ký vào tờ giấy ly dị, để bà dẫn hai đứa con trai đi Mỹ, theo diện đoàn tụ ODP, vì cha mẹ bà di tản năm 1975 gửi giấy tờ bảo lãnh về. Nhưng khi làm hồ sơ ra đi, họ đòi phải có giấy ly dị của ông chồng sĩ quan ngụy đang cải tạo mới chịu. Thấy Bố chần chờ, bà nói: “Ông phải nghĩ đến tương lai các con, tôi đưa chúng nó đi để ăn học, chứ ở mãi xứ này mà chết chùm à!” Bố tôi đành ký tên vào tờ giấy ly dị.

Sau khi tới Mỹ, thời gian đầu bà cũng gửi tiền về nhờ người em còn ở Saigon đi thăm nuôi Bố tôi. Nhưng chỉ được vài lần, rồi vì “Người khôn của khó” không ai kiên nhẫn đi thăm nuôi người tù không án. Sau đó Bố mất liên lạc với vợ con luôn. Từ dạo ấy Bố là “con bà Sơ” trong tù, nhưng Trời thương nhờ vóc dáng cao lớn, nên Bố còn cầm cự được giữa sóng gió tù đày…

Bị công an đuổi đi kinh tế mới, bố tôi cũng tìm được đất sống. Đó là khu kinh tế mới Sông Ray, cách Long Khánh khoảng ba mươi cây số. Khu mới khai khẩn, chỉ lưa thưa vài chục nóc nhà, Bố tôi sang rẻ lại của người quen miếng đất ngay đầu lối, cất lên một căn nhà nhỏ như cái chòi. Nhờ có hai người bạn cùng cảnh ngộ đến phụ giúp, chẳng mấy chốc Bố đã có chỗ che nắng che mưa, lại yên thân không bị công an khu vực dòm ngó! Xung quanh nhà Bố tôi trồng đủ thứ, nào bắp, khoai lang, củ mì, bầu, bí….. là những thứ mau thu hoặch. Đó là “thành tích” sau bảy tám năm Bố tôi học được trong các“ trại tù cải tạo”.

Để kiếm thêm thu nhập, Bố tôi cùng vài người bạn rủ nhau đi sâu vào trong rừng gần chân núi, khai hoang thêm mấy mẫu đất nữa, cặm cụi trồng trọt tiếp.

Sống trong vùng kinh tế mới này cũng hơn nửa năm, Bố cứ âm thầm lặng lẽ, cuốc cuốc, xới xới suốt ngày không để ý đến ai. Hoa mầu trồng được thì đã có người đến tận vườn thu mua giá rẻ, nhưng khỏi mất công gánh ra chợ.

Khu xóm kính tế mới nhà này cách nhà kia bằng những hàng rào gỗ lưa thưa, xa xa nhìn không rõ mặt. Một ngày mưa nghỉ làm, khi xế trưa mưa tạnh, bố tôi có dịp sang thăm hàng xóm, một căn nhà tranh vách đất cách một con đường đất đỏ.

Chủ nhà hàng xóm là một thiếu phụ tuổi ngoài ba mươi, tuy sống đời cực nhọc tại vùng kinh tế mới nhưng vẫn còn nét thanh lịch của dân Sài gòn cũ, cho biết ông chồng sĩ quan đã mất sau những năm đi “học tập cải tạo”.

Trên bàn thờ kê giữa nhà, dưới chân cây thánh giá là hình người đàn ông trạc ngoài bốn mươi, nhìn quen quen mà Bố chưa nhớ ra, đến lúc hỏi tên tuổi, thì ra là Tính, Ngô Xuân Tính. Nhìn kỹ khuôn hình thờ, chợt ký ức hiện về, Tính một người bạn hiền lành và tốt bụng, hai người sống cùng đội trong trại tù ở núi rừng Việt Bắc. Đầu năm 1977, bố tôi bị chuyển trại vào một đêm khuya, từ đó hoàn toàn mất liên lạc, nào ngờ...

Bà vợ góa của người bạn tù xấu số cho biết Tính bị bệnh sơ gan ngay trong tù, không thuốc men, bụng chướng to như người đeo ba lô ngược. Thấy đã hết đường sống, trại tù cộng sản thả cho về nhà chờ hết. Mặc dù chị đã đã tận lực cố chạy chữa cho anh, nhưng cũng không chống chỏi được bao lâu.

Sau khi lo ma chay cho chồng, chị bồng con về nhà cha mẹ chồng ở Bảo Toàn nương nhờ. Nhưng cha mẹ già yếu, nhà lại đông con. Nhờ sự giúp đỡ của anh em nhà chồng, chị và ba con có được căn nhà nhỏ ở vùng kinh tế mới này, sống qua ngày. Đứa con trai lớn nhất mười bốn tuổi, đã biết chở than mướn kiếm tiền về cho mẹ đong gạo, mà hôm nay trời mưa chưa thấy về, còn hai đứa con gái một đứa mười hai và một đứa mười tuổi, mặt mũi xanh xao, cũng biết vác cuốc ra rẫy làm cỏ với mẹ.

Nghe chuyện người góa phụ trẻ, nhìn lên bàn thờ, Bố tôi thấy thương người, thương mình. Từ đó thường lui tới giúp đỡ. Thấy nhà cửa dột nát, Bố đưa thằng con lớn vào rừng cắt tranh, dặm lại má nhà. Nhìn đàn con chị đói rách, bữa gạo bữa bo bo, Bố chia lại cho mẹ con chị một nửa khu đất đã khai khẩn được, rồi chỉ cách trồng trọt, chăm bón, và nhặt ống lon buộc quanh rẫy để gây tiếng động, cất lều ở canh thú rừng. Chẳng mấy chốc cuộc sống mẹ con đỡ chật vật, những đứa nhỏ được đi học trở lại.

Sớm hôm lui tới, có nhau khi tối lửa tắt đèn giữa vùng kinh tế mới heo hút, Bố trở thành người đàn ông duy nhất trong nhà bà mẹ góa. Tôi được sanh ra trong hoàn cảnh đó, thành đứa con thứ tư của Má.

Sau thời bao cấp, nhà nước cộng sản mở cửa để cứu nguy chế độ, đời sống dân chúng dần dà dễ thở hơn. Bà nội đã già yếu, nên chạy hộ khẩu cho Bố tôi về thị xã sống với bà, đem theo tôi về lúc vừa thôi nôi. Tôi xa Má từ dạo ấy. Bà nội và Bố tôi lên “rước Má về dinh”, nhưng Má tôi không đi vì còn bổn phận với các anh chị tôi. Thỉnh thoảng Bố đưa tôi lên thăm Má.

Đầu năm 1989, bắt đầu có chương trình HO., đưa các cựu tù nhân chính trị sang Mỹ. Sau nhiều năm bặt tin, bà vợ cũ của Bố mà tôi gọi là Mẹ cả trở về Việt nam thăm Bố tôi, nói có thể bảo lãnh Bố khi đến Mỹ. Bên gia đình nhà nội tôi chia làm hai phe, người thì trách Mẹ cả bạc tình bạc nghĩa. Kẻ thì khuyên bố trở về hàn gắn gia đình, vì còn vướng phép hôn phối.

Bố tôi chần chờ mãi. Đầu năm 1990 người HO đầu tiên đã lên đường, Bố mới bắt đầu đi làm hồ sơ cho Má và các anh chị tôi đi theo. Nhưng “Người dưng khác họ” khác hộ khẩu không được chấp nhận. Bố tôi đã lên tận Bộ Tư Pháp của Cộng Sản Việt Nam khiếu nại, nhưng chỉ một mình Má tôi đi được. Cuối cùng Má quyết định ở lại nuôi đàn con nhỏ, và ký giấy tờ, bằng lòng để Bố tôi được quyền đưa tôi đi theo. Cuộc tình của Bố và Má tôi chia ly từ đây.

Tuy nộp hồ sơ xin xuất cảnh muộn, nhưng nhờ sau này có chương trình ưu tiên cho những tù nhân trên bảy năm, nên hồ sơ Bố tôi được đôn lên đi trước.

Vì không muốn đi theo diện “đầu trọc” để nhà thờ Tin Lành bảo lãnh về tiểu bang lạnh. Bố tôi nhờ Mẹ cả bảo trợ, và đón Bố con tôi từ Phi trường LAX về nhà ở Thành phố Santa Ana.

Những ngày đầu gia đình cũng hạnh phúc, người con trai lớn đang học trường Berkeley ở Bắc Cali fornia cũng về đón Bố. Mẹ cả thì tỏ ra lo lắng cho Bố, nào chở bố đi làm giấy tờ, chở đi thăm bạn bè quen biết, dẫn cả tôi đi shopping mua quần áo mới…

Căn Mobile home của Mẹ cả, có ba phòng rộng rãi. Trước nhà trồng hoa hồng rất đẹp, còn vườn sau có nhiều cây ăn trái, tôi thích nhất là cây ổi đào trái chín vàng thơm phức, cao bằng cây ổi nhà nội bên Việt Nam. Thấy tôi trèo thoăn thoắt như con khỉ để hái trái, Mẹ cả liền la lên vì sợ tôi té rồi mang họa.

Tôi biết thân biết phận không dám nhõng nhẽo Bố như ở Việt Nam. Anh lớn tên là Peter ở chơi với Bố được vài ngày lại đi học tiếp, nhà chỉ còn lại anh Mike đi học về là vào phòng đóng cửa, ít nói chuyện. Mẹ cả và anh Mike, nhìn tôi với ánh mắt không mấy thiện cảm. Tôi có cảm giác mình là cái gai trước mắt họ, nên luôn tìm cách lẩn tránh.

Nhiều lần thu mình trong góc phòng, tôi nghe tiếng Bố và Mẹ Cả cãi nhau nho nhỏ. Rồi một buổi tối định mệnh, tôi đang học bài trong phòng, nghe Mẹ cả lớn tiếng với bố ngoài phòng khách: “Một là ông chọn con bé, hai là ông chọn gia đình này...” Tôi hồi hộp lắng nghe. Tiếng Mẹ cả lại chì chiết, “ông còn giấu tôi gửi thư về cho Mẹ nó. Tôi không chịu được cảnh một chốn đôi quê, ông dứt khoát đi!”

Không bao lâu sau, Bố con tôi khăn gói ra đi bắt đầu lại cuộc đời mới nơi đất khách.

Khu Apartment Bố thuê gần trường tôi học, có hai tầng lầu khoảng hơn mười units, thì chín nhà là Việt Nam, đâu hai ba gia đình người mễ, coi như thiểu số ở xóm này. Ở đây mọi người coi nhau như người nhà, thấy gia đình có hai cha con côi cút tội nghiệp, đến hỏi thăm xem có cần giúp đỡ chi không. Kế bên nhà tôi là một gia đình sống tại đây lâu rồi, có bốn người, một bà ngoại ngót bảy mươi, hai vợ chồng trẻ và một đứa con gái kém tôi một tuổi. Từ đó mỗi lần Bố đi đâu vắng là dắt tôi qua gửi bà ngoại để tôi chơi với cháu bà. Bà ngoại thấy tôi nói tiếng Việt rành rẽ thì thích lắm, hỏi chuyện miết: Nhà có hai Bố con thôi sao? Má mày đâu? Sao ở lại Việt Nam? Bố mày xin được Housing chưa? Chắc mày còn nhỏ có medical, được ăn Welfare. Có xin được Food stamp không? Bà ngoại hỏi dồn dập, tôi nghe không hiểu mấy cái danh từ bằng tiếng Anh lạ hoắc, làm sao mà trả lời, tôi chỉ lắc đầu cười, rồi bà cũng cười. Hai bà cháu cứ vậy, nên bà thương tôi lắm. Ngoài lúc đi học, về đến nhà là tôi chạy qua bắt chước cháu bà gọi ngoại ơi! Ngoại à! Ngon ơ.

*

Nhân dịp Fathers Day sắp đến con xin phép được thưa với Bố đôi điều.

Kính thưa Bố.

Khi con ngồi viết những dòng chữ này, dư âm của bữa tiệc xum họp quanh Bố tối hôm trước, có sự hiện diện của gia đình anh Peter và anh Mike. Để chúng con nói lên lời cảm tạ và chúc mừng sinh nhật thứ tám mươi của Bố, như còn đọng mãi trong con. Cũng là lúc sức khỏe Bố đã mỏi mòn, đi đứng phải dựa vào chiếc gậy cầm tay. Vì ảnh hưởng lần Bố bị stroke năm trước.

Con chạnh nhớ lại cách đây hơn hai mươi năm, ngày Bố con mình đến phi trường Los Angles, con bị chóng mặt vì say máy bay, nên Bố phải cõng con trên lưng bước xuống cầu thang, để đặt những bước chân đầu tiên nặng nề trên đất Mỹ.

Rồi ở tuổi sắp nghỉ ngơi, nhưng vì con mà Bố phải khổ cực, không một tiếng than van, Bố đã âm thầm, một lặng hai nín cũng vì con. Những tưởng cuộc đời được tạm ổn trên quê hương thứ hai, nhưng kiếp tha hương vẫn còn nhiều gian truân, Bố phải tranh đấu gay go với cuộc sống mới, về tinh thần cũng như thể xác.

Giữa mùa đông rét mướt, Bố phải đi làm ca đêm nên bị ốm, con đã khóc vì thương Bố, nhưng Bố nói không sao đâu con, suốt mấy năm trời tù đày, Bố đã quen với cái lạnh thấu xương nơi núi rừng Yên Bái Bắc Việt. Sau lần bị đau nặng, hãng chuyển qua cho Bố làm ca ban ngày. Mỗi buổi sáng Bố ra khỏi nhà để đi làm, con cũng bắt đầu đi học. Chiều về hai Bố con lủi thủi trong căn hộ chật hẹp trên lầu hai của chung cư, mỗi lần thấy Bố leo cầu thang mệt nhọc, con đã tự nhủ mình phải cố gắng học hành, mai sau lớn lên làm việc thật nhiều để có tiền, sẽ mua một căn nhà khang trang đẹp đẽ, để tuổi già Bốđược an nhàn hơn.

Khi con ra trường High School, Bố đã dành dụm mua cho con từ chiếc xe, rồi đóng tiền insurance, để con yên trí bước lên bậc đại học. Bốn năm qua nhanh ở trường Cal State University Fullerton, con đã hoàn tất cử nhân sinh học (Biology major) và chương trình dự bị y dược. Con đã nộp đơn xin vào vài trường Dược Khoa nhưng bị từ chối. Thấy con buồn Bố đã an ủi con. Nghỉ một năm ở nhà ôn bài và đi làm thiện nguyện.

Sau con apply vào trường University of Roseman Pharmacy School in Nevada, và được nhận. Con đã hoàn tất chương trình Pharm D trong vòng ba năm. Sau ba năm vất vả, vừa đi học vừa đi làm kiếm thêm tiền chi tiêu, vừa phải đi thực tập. Con đã chuẩn bị kiến thức đầy đủ để trở thành một Dược Sĩ. Để được nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt khắc khổ của Bố. Khi trở về Cali, con phải thi bằng Dược sĩ của tiểu bang California. Để được việc làm tại đây, và được sống cạnh Bố.

Bố thương yêu!

Con đã lớn lên trong vòng tay của Bố. Bố là chỗ dựa tinh thần vững chãi của con. Bố không để con kém cạnh bạn bè, Bố thương con trong tình thương người cha, trong tình yêu của mẹ. Rồi một ngày con đưa về nhà giới thiệu với Bố ý trung nhân của con, anh là người cùng quê và học hơn con nhiều lớp, nên đã hướng dẫn cho con vào cùng ngành. Và giới thiệu để con có được việc làm tốt hiện nay. Bố vui mừng biết dường nào. Bố đã khen anh hiền lành và chững chạc. Rồi ngày vu quy của con Bố đã chúc phúc cho chúng con thật nhiều.

Hạnh phúc hơn, khi những đứa cháu kháu khỉnh lần lượt ra đời. Bây giờ Bố con mình đã có một gia đình đông vui. Có tiếng khóc, tiếng cười, tiếng nói líu lo của các cháu nhõng nhẽo ông ngoại. Mai sau các cháu lớn lên được ông ngoại dậy nói, dậy viết tiếng Việt, để chúng con an tâm đi làm. Những tình thương yêu Bố dành cho chúng con cả đời này làm sao quên được. Chúng con cầu xin ơn trên ban cho Bố được khỏe mạnh, sống lâu, để chúng con được phụng dưỡng Bố mãi mãi, bù lại những ngày tháng Bố âm thầm hy sinh cho chúng con.

Tất cả những gì con có được ngày hôm nay, là nhờ Bố không nỡ bỏ con, Bố đã đánh đổi hạnh phúc cuối đời để ở bên con, khuyến khích nâng đỡ để con cố gắng vươn lên, giữa muôn vàn khó khăn của cuộc đời.

“Bố ơi! Bố thương yêu của chúng con! Với chúng con, thì ngày nào cũng là Fathers Day".
nguyenvsau
Posts: 1134
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Gẫm Ngày Quân Lực, thao thức tự vấn lương tâm

Nguyễn Lộc Yên

Mỗi năm đến “Ngày Quốc hận 30 tháng Tư” hoặc “Ngày Quân Lực”, người Việt dù ở trong nước hay ở hải ngoại, có lẽ đều ngẫm nghĩ đến dấu mốc lịch sử trọng đại này. Hôm nay, còn mấy hôm nữa là “Ngày Quân Lực”. Vậy “Ngày Quân Lực” hình thành thế nào?.

Khái quát về hình thành “Ngày Quân Lực”: Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Quân Lực họp tại Sài Gòn, đồng thuận đứng ra lãnh trọng trách điều khiển quốc gia. Liền sau đó, thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, sau khi thảo luận đều đồng ý đưa đến quyết định thành lập thành phần của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, gồm có: Một Chủ Tịch, một Tổng Thư Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Các vị được tín nhiệm gồm có:

1- Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu.
2- Tổng Thư Ký: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu.
3- Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.
- Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có.
- Tư Lệnh Quân Đoàn I: Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi.
- Tư Lệnh Quân Đoàn II: Thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh.
- Tư Lệnh Quân Đoàn III: Thiếu tướng Cao Văn Viên.
- Tư Lệnh Quân Đoàn IV: Thiếu tướng Đặng Văn Quang


Ngày 19-6-1965, Hội Đồng Quân Lực ra quyết định số 4/QLVNCH, giải tán Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp và thiết lập: Đại Hội Đồng Quân Lực, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Hội đồng An ninh Quốc gia, Hội đồng Kinh tế và Xã hội. Sau đấy, Chủ tịch Ủy Ban Lãnh đạo Quốc gia Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh số 001/a/CT/LĐQG thành lập nội các chiến tranh, gọi là Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và quyết định số 5/QLVNCH thành lập Thượng Hội đồng Thẩm phán. Từ đấy, “Ngày 19 tháng 6 là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”, còn gọi là “Ngày Quân Lực” và Ngày Quân Lực 19-6 đầu tiên được tổ chức trọng thể vào ngày 19-6-1966.
Image
Ai từng phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) có lẽ mong làm tròn sứ mệnh với: “TỔ QUỐC-DANH DƯ-TRÁCH NHIỆM”, riêng Sinh viên sĩ quan Trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức càng khó quên. Vì lẽ, Sinh viên sĩ quan khi mặc bộ quân phục đại lễ thì đội mũ cát két trên đầu của mình, luôn luôn có 6 chữ tiêu biểu cho sứ mệnh thiêng liêng: “TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM” để nhắc nhở, để ghi khắc bổn phận của mỗi Sinh viên sĩ quan.


Còn mấy hôm nữa là “Ngày Quân Lực” năm 2017, tôi lại thao thức lẫn thẹn thùng, vì tôi cũng được may mắn thụ huấn tại “Trường Bộ Binh Thủ Đức”, biết bao lần đã đội lên đầu mình 6 chữ sứ mệnh thiêng liêng ấy. Thế mà, gẫm lại cá nhân tôi lại nhu nhược, yếu hèn chưa làm tròn sứ mệnh thiêng liêng mà chính mình với anh em Sinh viên sĩ quan đã trân trọng tuyên thệ khi ra trường?!.

Tôi chưa tròn với “TỔ QUỐC”: Vào ngày 1-4-1975, tôi bị thất trận nhục nhã, bị Cộng quân bắt, tôi lại “Tham sống sợ chết” không dám tuẫn tiết hy sinh như những người khác đã giữ tròn khí tiết?!

Tôi chưa gìn giữ tròn “DANH DỰ” của một Quân nhân VNCH: Sau khi thất trận, tôi bị bắt vào tù. Trong tù, tôi lại răm rắp nghe theo mọi sự điều khiển của Việt cộng (VC), trong khi ấy anh Huỳnh Văn Ba, nguyên cấp bậc thiếu úy, đơn vị Biệt động quân, tính tình khẳng khái, anh đã hiên ngang: “Chúng tôi bảo bọc đồng bào, giữ gìn đất nước chống ngoại xâm; quân đội Quốc gia đã can trường chống quân xâm lăng Trung cộng tại đảo Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974, là một minh chứng hùng hồn. Còn Việt cộng các anh hãm hại đồng bào khi cải cách ruộng đất ở miền Bắc, vì vậy vào năm 1954 cả triệu đồng bào miền Bắc đã di cư vào Nam. Thế nên, thể chế Quốc gia ở miền Nam, người dân được hưởng tự do và no ấm thực sự. Các anh đã gây nên cảnh nồi da xáo thịt, đã giết vô số đồng bào ở Huế vào Tết Mậu Thân, các anh là thứ buôn dân bán nước”. Những người cán bộ quản giáo và vệ binh của Cộng sản Việt Nam (CSVN) ở trại tù 53 không đủ trình độ để tranh luận hay phản bác lời lẽ hùng hồn và lý luận vững chãi của anh Ba, nên tức tối và giận dữ, bắt anh Ba đem cùm chân ở phòng biệt giam thời gian rồi cũng cho ra khỏi phòng biệt giam.

Một buổi trưa hè trời gay gắt nắng! Bất ngờ, chúng tôi nghe tiếng súng nổ nơi bờ suối, rồi tiếng kiểng dồn dập để tập hợp tù binh, khi tập hợp xong. Một cán bộ VC, giọng điệu hằn học vu khống trắng trợn: “Huỳnh Văn Ba trốn trại, vệ binh gọi đứng lại nhưng vẫn ngoan cố bỏ chạy nên vệ binh đã bắn chết ở bờ suối” (Ai ở tù trại 53, Ngân Điền đều biết sự thật này). Rõ ràng, họ đấu lý không lại anh Ba, nên đem anh ra bờ suối bắn rồi lại hô hoán là trốn trại.

Mặc dù, tôi biết lời nói của cán bộ VC là gian dối nhưng tôi hèn, cố đè nén “Danh dự làm người” của chính mình vì sợ nói lên sự thật sẽ bị vệ binh trại bắt cùm chân ở phòng biệt giam?!. Thật là:

“Cải tạo” rõ ràng chốn đọa đày!
Lọc lừa “học tập” chỉ mười ngày?!
Tù binh bị hại, nhiều chua chát!
Việt cộng, âm mưu quá đắng cay!

Tôi chưa tròn “TRÁCH NHIỆM” của một công dân Việt Nam: Sau 3 năm tù đày, những tù binh ở trại tù Ngân Điền lại chuẩn bị sáp nhập vào trại tù A-30 ở Phú Yên, vì sức chứa của trại tù A-30 có hạn nên nhiều tù binh được cho về, tôi cũng được về trong thời gian này. Khi về, những công tác nào nặng nhọc và có thể nguy hiểm như đào mương thủy lợi (đôi khi bị bom đạn chôn lấp ở dưới đất phát nổ) tôi lại xung phong nhận các công tác này. Vì lẽ, tôi không muốn nghe mỗi khi họp phường khóm, VC lại nhắc đi nhắc lại: “Đảng ta vinh quang, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” mà bản chất hèn của tôi tuy biết u uất nhưng không dám phản đối. Cảnh sống này, tôi không thể sống dưới chế độ CSVN nhưng bản chất hèn của tôi lại không dám thẳng thắn đấu tranh như những người Việt trong nước đã và đang khí khái đấu tranh với bạo quyền CSVN để đòi “Tự do, Nhân quyền” thực sự cho dân tộc hay đấu tranh để bảo vệ bờ cõi nước nhà đang bị hao hụt.
Tôi lại lạnh lùng, thiếu “TRÁCH NHIỆM” với quê hương, tìm đường vượt biên, mong mỏi tìm đời sống ấm êm cho chính mình và cho gia đình, đấy là tôi hẹp hòi, ích kỷ?!. Dù vậy, lại đắn đo:

Liều mình thử thách đại dương
Liều mình cõi chết, tìm đường tự do
Vượt biên hồi hộp, gay go
Tự do hay chết, rủi ro khó lường?!

Thế mà, sau khi đến Hoa Kỳ lần đầu tiên tôi được tham dự lễ chào cờ VNCH, đã 42 năm vắng bóng và mòn mỏi, thì:

Nếu ta không thấy lá cờ vàng!
Trăn trở sớm khuya, luôn xốn xang!
Thấy lại cờ vàng, sao thổn thức?!
Mải mê ngắm nghía, lại mơ màng?!

Hiện nay, đất nước Việt Nam đã/đang nguy ngập, do CSVN cai trị là những kẻ bất tài và bất nhân, CSVN đàn áp đồng bào dã man lại thi hành mọi chỉ thị của quan thầy Tàu là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam?!. Từ đấy, người Việt càng lưu luyến thể chế VNCH, dù đã qua 42 năm dài dằng đẵng! Từ đấy, tâm hồn người Việt hoài niệm thiết tha VNCH, đã/đang rền rĩ, thôi thúc từng con tim, từng mạch máu của đồng bào gắn bó sắt son với thể chế VNCH, đặc biệt là QLVNCH.

Trong số này, nổi bật: Nguyễn Viết Dũng có biệt danh là “Dũng Phi Hổ” vào ngày 02-4-2015, đã thành lập “Đảng Cộng Hòa” và hội họp những người yêu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa để lập “Hội yêu nước, thương dân”, trên túi áo của “Dũng Phi Hổ” có hình Cờ Vàng của VNCH và trên cánh tay xăm hai chữ: “SÁT CỘNG” (1).

Huỳnh Thục Vy may áo dài, áo khoác, cà vạt với hình ảnh “Cờ vàng ba sọc đỏ” (2) dám thách đố với nhà cầm quyền CSVN đang đàn áp thô bạo những ai son sắt đấu tranh vì lòng yêu nước?!

Đặc biệt hơn, “Linh mục Nguyễn Văn Lý đã khóc quê hương sẽ là Tây Tạng thứ hai” (3). Các nhân vật vừa nêu chưa từng phục vụ trong thể chế VNCH, riêng Nguyễn Viết Dũng và Huỳnh Thục Vy vào thời VNCH chưa sinh ra, tâm lại lo lắng cho sự sinh tồn của nòi giống, mong gìn giữ quê hương khỏi bị Trung cộng xâm lược mà dấn thân và mong mỏi thể chế nhân bản VNCH lập lại. Thế mà, tôi là người đã từng phục vụ dưới thể chế VNCH, từng hưởng ít nhiều ân huệ Quốc gia lại hèn nhát là sao?!!

Trước hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo của quê hương hiện nay, dù tôi hèn cũng mong muốn đóng góp tâm sức của mình cho quê hương nếu được và nếu chưa hoàn thành tâm nguyện mà ra đi, thì:

Khi tôi chết, xốn xang chuyện cũ
Thân chưa tròn gìn giữ tự do
Oái oăm, buông súng sững sờ!
Xin đừng, đừng có phủ cờ tủi thân?!

Và sau khi chết, tôi tha thiết xin người thân:

Sau khi chết, ngóng tin tha thiết
Lúc thắp hương cho biết nỗi sầu
Đồng bào tranh đấu bấy lâu
Việt Nam thoát Cộng, thoát Tàu được chưa?!

Ngày 14-6-2017
Nguyễn Lộc Yên
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »


Image

Thành phố Nha Trang - Thiên Thần và Ác Quỷ
(Viết cho Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh)

Phạm Tín An Ninh

- Thành phố Nha Trang, quê hương xinh đẹp của tôi đã bị bọn ác quỷ CS cướp đoạt kể từ ngày 01.4.1975. Cũng từ ngày ấy, Nha Trang chỉ còn trong tôi như là mảnh đất của kỷ niệm. một nơi chốn đẹp đẽ trong cổ tích. Với tôi, thành phố này đã biến thành một vùng đất chết, kể từ khi nhạc sĩ Minh Kỳ, người viết bản nhạc “Nha Trang” (mà cả một thời trước 75 Đài phát thanh Nha Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu như là một biểu trưng, vang vang mỗi ngày trên thành phố biển), đã bị giết một cách dã man, oan khuất trong trại tù “cải tạo” An Dưỡng Biên Hòa, nơi mà cá nhân tôi cũng từng bị nhốt hơn một năm trước ngày chuyển tù ra Bắc.

Sau hơn 40 năm, bọn ác quỷ và đám con cháu của chúng giờ đây đã trở thành những tên tư bản đỏ, sống phè phỡn trên xương máu của người dân Nha Trang hiền lành, với bằng đủ thứ bạo lực xích xiềng, biến thành phố này trở thành địa điểm dành cho người Nga và đám Tàu Cộng vô liêm sỉ nhất hành tinh, huênh hoang xem Nha Trang như một thành phố trên nước Tàu bọn chúng.

Ngày 29.6.2017, bọn ác quỷ lại tạo thêm một chứng tích nhơ nhớp và hèn mạt, khi dùng thứ luật rừng rú kêu án 10 năm tù đối với một người đàn bà, mà gia tài chỉ có 2 đứa con thơ và một bá mẹ già, cùng với một tấm lòng yêu nước, hiên ngang, bất khuất: Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Cả một bọn ác quỷ với đầy đủ guồng máy bạo lực, tà quyền, quân đội, công an và cả một bọn côn đồ trá hình mà lại khiếp sợ trước một người đàn bà cô thân, ốm yếu, nghèo nàn, trong tay không có một tấc sắt, chỉ duy nhất có một trái tim yêu nước. Chỉ có loài ác quỷ mới khiếp sợ trước ánh sáng. Bởi chỉ có ánh sáng chân lý mới làm cho bọn chúng hiện rõ nguyên hình là những con quái vật, những con thú hút máu người.

Bản án 10 năm dành cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, sinh sau ngày 30.4.75, con gái của một Thương Binh VNCH và một bà mẹ là cựu nữ sinh Trường Thánh Tâm thuở trước, là biểu hiện một sự khiếp sợ của loài ác quỷ trước một Thiên Thần, tỏa ánh đuốc mầu nhiệm đốt cháy bức màn che đậy cuối cùng vốn đã mục rửa, để bọn ác quỷ hiện nguyên hình, trong viễn ảnh bị tiêu diệt bởi hơn 90 triệu người dân chân chính.

Trong nỗi khiếp sợ, chúng đã quên mất lời dạy từ ông tổ Karl Marx của chúng: "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh!” Và cuộc đấu tranh của những người dân lương thiện, dù bắt đầu trong muôn vàn khó khăn, nhưng ngày càng phát triển, âm ỉ trong lòng muôn dân, dần dà sẽ tạo thành ngọn sóng thần cuốn trôi cả thành trì của loài ác quỷ, sẽ là những nhát cuốc đào mồ chôn bọn chúng!

Khốn kiếp và thối tha hơn, trước một bản án ngu xuẩn và man rợ như vậy mà hơn mấy nghìn tờ báo lề phải câm họng, tất cả chỉ dành để tường thuật phiên tòa đại gia- chân dài, và đăng đầy những lời ca ngợi một cô hoa hậu gái bao như là một nữ anh hùng! Cô hoa hậu hãnh diện và tỏ ra đắc thắng với việc nhận hơn 16 tỷ đồng của một đại gia trong một hợp đồng tình dục! Những người còn lương tri, chắc phải lợm giọng với một loại địa ngục của loài ác quỷ bày ra như thế!

Là người sinh ra và lớn lên ở Nha Trang, chúng tôi rất hãnh diện có một đồng hương Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, có một đồng môn Nguyễn Thị Tuyết Lan, người mẹ can đảm, thương con và luôn hưởng ứng, cổ võ mọi việc làm của cô con gái yêu nước, can trường.

Với tôi, những tuyên dương của các Tổ Chức Nhân Quyền, cả giải thưởng“ Những Người Phụ Nữ Quốc Tế Can Đảm Năm 2017” của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ dành cho Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, không làm cho bọn ác quỷ khiếp sợ bằng lời nói cuối cùng của Như Quỳnh trước khi nhận bản án tù 10 năm quái gở và man rợ:

“Con xin lỗi mẹ và 2 con vì những gì con làm đã làm khiến tình mẫu tử mẹ con bị chia cắt lâu dài, nhưng con không ân hận về những gì mình đã làm. Và nếu như phải lựa chọn lại, con sẽ vẫn làm như vậy.”

Cho tôi xin cúi đầu cảm phục Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một đồng hương Nha Trang sinh sau tôi cả một thế hệ. Xin cám ơn em đã cho tôi một niềm tin tuyệt đối. Nhất định loài ác quỷ trên thành phố Nha Trang và cả trên quê hương Việt Nam chúng ta, sẽ sớm bị cáo chung, bởi ánh sáng của ngọn đuốc em thắp lên mãi tỏa sáng, được tiếp nối và luôn bất diệt!

Chúc em bình an và có thừa nghị lực, kiên cường trong bất kỳ nghịch cảnh nào. Nhà tù chỉ có thể giam thân xác bé nhỏ của em, nhưng không thể giam được ý chí sắt đá và tấm lòng to lớn của em. Và xin được gởi đến bà Mẹ Quỳnh Lan, cô nữ sinh trường Thánh Tâm ngày xưa, lòng thán phục và ngưỡng mộ của những người Nha Trang xa xứ. Xin cầu nguyện hồn thiêng sông núi và anh linh của bao đời tổ tiên, của liệt vị anh hùng tử sĩ luôn phò trợ cho Như Quỳnh, Mẹ Quỳnh Lan và hai cháu.

Cali. đầu tháng 7/ 2017


Phạm Tín An Ninh
khieulong
Posts: 3552
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

19/6: nhớ đến những người cầm súng

Image
Cac chien si tieu doan 37 biet dong quan tai phong tuyến khe sanh
nguoiviettudo
Hồi trước năm 75, VNCH có những đơn vị quân đội mà hễ nhắc đến là lính CS e dè, tránh được thì tránh . Những đơn vị này ( Tổng Trừ Bị ) chưa kịp ngồi nóng đít ở hậu phương lại có lệnh nhảy trở vô rừng để giải tỏa, hạ áp lực hoặc truy đuổi. Chuyện thường nhà binh .

Trước khi gia nhập lính Tổng Trừ Bị nhiều khi chỉ là một anh học trò cân nặng trong ngoài chưa quá bốn mươi lăm ký, đi bộ chừng nửa cây số đã thở hồng hộc, vậy mà ra đơn vị khoác lên mình đồ bông mấy cha từ sĩ quan tới binh nhì bỗng trở thành những con cọp rừng , cọp biển hoặc thiên thần. Họ biến đổi hoàn toàn như vậy bởi màu cờ sắc áo, tình đồng đội. Đụng trận chỉ biết thằng trước mặt, đằng sau và hai bên, quên hết cha mẹ vợ con . Chung quanh toàn đám liều thì mình có nhát gan cũng chẳng làm sao khác được. Thằng Năm xung phong liệng lựu đạn vào hầm VC lượm hai AK thì thằng Bẩy cũng đâu có ngán. Mầy dớt AK tao chụp B40 thằng nào cũng có phần.

Thành ra đụng với lính xanh cỏ đỏ ngực , VC tránh voi chẳng xấu mặt nào.

Không phải VC thiếu lính liều , nhưng đa số là con nhà nông suốt đời sống ở đồng ruộng , mới đẻ ra đã thấy ảnh Hồ Chí Minh và những tấm băng ron rực máu. Mẹ nhai cơm đút cho chưa kịp cảm ơn mẹ đã phải cảm ơn bác và đảng trước. Đám này mới trên dưới mười bảy đã tình nguyện ra trận để giết sach Mỹ Ngụy , thỏa mãn căm thù mà lãnh đạo đã tốn bao nhiêu công sức nhồi nhét vào đầu. Khi ra trận chúng cũng húc như những con trâu điên, kiểu tấn công biển người học lóm từ đàn anh Tàu Cộng, kết quả phơi thây như rác khắp chiến trường. Một bên người lớn chín chắn, không quân pháo binh yểm trợ đầy đủ, chiến thuật chiến lược học hành đàng hoàng đánh nhau với một đám con nít điên cuồng cứ xông lên phía trước nhờ thuốc Tàu Hùng Tâm thì bên nào sẽ thắng?

Rất nhiều tác giả viết về lính chính quy hay Tổng Trù Bị của VNCH , nhưng cũng có vài đơn vị khác mà mỗi lần đụng trận VC rất rầu rĩ. Họ là lính “ phân nửa “ ( bán chính quy ), nhưng đụng vào thế nào cũng bị u đầu sứt trán.

Ở phía Bắc Sài Gòn có một đơn vị như vậy. Hồi nằm trại giam tôi gặp sáu anh em Nghĩa Quân đóng chung một đồn. Chúng tôi nói chuyện nhiều với nhau mới biết lý do tại sao VC thù các anh em hơn lính Nhảy Dù. Nghĩa Quân có cái triết lý rất đơn giản nầy : đất của mình, cha mẹ vợ con họ hàng thân thuộc của mình, để tụi nó chiếm được nó giết hết. Mình là đàn ông con trai, cầm nổi cây súng thì cũng phải bảo vệ tài sản vô giá đó bằng bất cứ giá nào.

Nhiều khi bị tấn công anh em cũng rất nao núng vì địch đông hơn và vũ khí ngon lành hơn, nhưng buông súng đầu hàng là tự sát, chi bằng cứ chống cự biết đâu trong cái chết còn tìm ra sự sống. Hầu như lần nào bị công đồn triết lý này vẫn đúng

Thành ra dù với phương tiện vũ khí thô sơ, lực lượng lớn của VC cũng rất khó lòng dứt được đồn bót của anh em. Chỉ có hai mươi tám anh em với nhau nhưng khi đụng chuyện lực lượng trở thành gần một đại đội đủ, “ Nghĩa Quân “ vợ tiếp tay súng với chồng, “ Nghĩa Quân “ con cái lo vận tải đạn dược. Ba lần VC tấn công ba lần thất bại, để lại nhiều xác đồng bọn.

Hồi xưa nếu VNCH đầu tư nhiều vào Nghĩa Quân, tiếp tế đầy đủ cho họ chắc VC hết đất sống. Thiếu thốn phương tiện Nghĩa Quân vận dụng mưu trí và gài bẫy, du kích địa phương kể cả chính quy BV dính chấu bỏ mạng đều đều.

Một đơn vị khác mà sau Mậu Thân mới được thành lập, nhưng cũng ít nhiều gây thiệt hại và khó chịu cho VC là NDTV. Họ chỉ được trang bị thô thiển như Nghĩa Quân nhưng trở thành những tay súng trợ thủ đắc lực một khi chạm địch hoặc tạo ra nhiều khó khăn cho VC trên đường chuyển vận .

NDTV ở những vùng ven đô đã tạo nhiều thành tích chiến công rất đáng tuyên dương . Họ không có lương nhưng biết rất rõ nhiệm vụ của mình, nhất là ở những xóm đạo hoặc chiến khu của các giáo phái .

Như lực lượng NDTV khu vực Hố Nai Gia Kiệm, với carbine M2 thời WWII của quân đội Mỹ đối đầu trực diện trước AK47, B40 thậm chí xe tăng ( 30/4/1975) . Họ chiến đấu như lính chính quy bởi vì nhiều vị chỉ huy là những cựu chiến binh giải ngũ đầy đủ kinh nghiệm và luôn sẵn sàng trong trường hợp có biến

Một câu chuyện khác về Thiếu Sinh Quân. Những cậu nhỏ tình nguyện vào môi trường quân đội và được rèn luyện đầy đủ từ văn hóa tới quân sự để trở thành chiến binh kiểu mẫu sau này. Khi các cậu ra trường , sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm quân đội giao phó nối bước cha ông. TSQ đi trước vào quân đội người nào cũng mang vẽ vang về cho trường mẹ.

Vị “ Anh Cả “ là Thống Tướng Lê văn Tỵ, Tướng năm sao đầu tiên và duy nhất của cả nước. TSQ đối xử với nhau như anh em ruột, ông niên trưởng dạn dày chiến trận chăm sóc dìu dắt “ thằng em “ vừa rời ghế nhà trường . Ai chưa biết câu chuyện của Tr. Sĩ TSQ Vũ Thế Quang ( đàn em) với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ( niên trưởng) trong những ngày cuối cùng khi cả hai bị bắt ở hầm chỉ huy nên vào Google để đọc chuyện này, bởi vì những hùng sử như thế không dễ gì bị quên lãng

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Anh Hùng của VNCH, của chúng ta. Dân miền Nam ngưỡng mộ kính trọng ông vì tinh thần Tổ Quốc , Dân Tộc, đồng thời bởi những lời khẳng khái với quân thù, thể hiện rõ tính nhân bản của Quân Lực VNCH . ( “ Nếu chúng tôi chiến thắng, chúng tôi sẽ không đối xử với các anh như những gì các anh đang làm với chúng tôi “)

Một vị cựu TSQ khác cũng rất nổi tiếng là Đại Tá Đặng Phương Thành, người chỉ huy trận đánh thắng hai trung đoàn VC nổi tiếng ở Long An . Đại Tá Thành được ân thưởng Đệ Tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương , vì thế sau này VC đã trả thù ông đến chết bằng cách tra tấn. Anh hùng trong TSQ không ít bởi vì họ đã được tôi luyện bảy năm trời trong trường Mẹ từ khi còn thiếu niên do đó trình độ quân sự chính trị của họ có thể nói dày dạn hơn những người lính bình thường.

Trận chiến cuối cùng ở Vũng tàu là một bằng chứng . Dù không còn sĩ quan hướng dẫn, chỉ huy, như rắn mất đầu, nhưng đàn anh lớp trên đã điều động những chú nhỏ ở các lớp dưới tiếp tục chiến đấu. Cuộc chống trả đơn độc của họ chận đứng hẳn bước tiến quân làm thiệt hại đáng kể đối phương. Lần đầu tiên TSQ đánh nhau với địch , buộc chúng phải bỏ mạng một số trên chiến trường trong giờ phút chúng đã cầm chắc chiến thắng trong tay.

Đâu phải chỉ đánh cho VC sưng đầu bể trán, TSQ còn buộc địch phải chấp hành điều kiện đầu hàng của mình. Điều kiện như thế nào ?

“ Để chúng tôi nghiêm chỉnh chào Quốc Kỳ lần chót và sẽ đội ngũ chỉnh tề ra về “ . Còn nếu “ Các anh không chịu thì chúng tôi sẽ chiến đấu tới cùng “ Có quân đội thất trận nào làm được điều đó?

Lính CS chắc không dám lấy thân mình đền nợ nước nếu họ thua trận. Cứ nhớ đến đàn anh Võ Nguyên Giáp bị hạ nhục từ bộ trưởng quốc phòng giáng xuống chức bộ trưởng phòng chống thai thì đủ biết khí phách của lính VC ra sao. Tướng còn như thế, đàn em làm được cái gì?

Thành ra vào miền Nam đi ăn cướp, lính VC không chỉ gặp những chiến binh đúng nghĩa, họ cũng rầu thúi ruột trước vài lực lượng mà vũ khí và nhân lực không thể coi là một đơn vị quân sự thực thụ. Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Thiếu Sinh Quân với Carbine M1, M2, Garant M1, M3A1 thời Eisenhower vẫn sẵn sàng đối đầu và trong nhiều trường hợp đã thắng trận bởi vì : “ Mình thua nó ( VC ) là mình ( bao gồm gia đình, hàng xóm láng giềng ) CHẾT!! ”

Bọn cuồng đảng cuồng Hồ sẽ đặt câu hỏi “ Nếu thế tại sao lính VNCH thua trận? “ . Trả lời:

– Trong chiến tranh VN Hoa Kỳ là nguồn tài trợ chính, VNCH không thể gây dựng một nền công nghệ quốc phòng

Tại sao ?

– CSBV đã khởi động một cuộc chiến tranh xâm lược, phá hoại chế độ Cộng Hoà. Để tự bảo vệ mình VNCH đã huy động mọi nguồn tài , nhân vật lực vào cuộc chiến, không còn thành phần trù bị . ( hết vốn )

Tại sao nhận viện trợ từ người Mỹ ?

– Bởi vì ngoài họ ra không ai đủ giàu có để đưa tay giúp đỡ VNCH chống lại xâm lược .

Tại sao lại có những hình ảnh lính VNCH đu càng máy bay để thoát ra khỏi chiến trường ?.

– Đó là chuyện bình thường trong mọi cuộc chiến tranh trên thế giới . Bị tràn ngập, bị tàn sát vài cá nhân hoảng hốt ( VC cũng tranh nhau chạy trốn trước hỏa lực phi pháo khủng khiếp của Mỹ và VNCH) .

Tuy nhiên không thể dựa vào đó để đánh giá một quân đội.:

– Nếu QLVNCH yếu kém ( và dân VNCH yêu VC như chúng tuyên truyền hoang tưởng ) Sài Gòn đã thất thủ ngay từ những ngày tết Mậu Thân ( không đợi đến 1975 ).

– Nếu QLVNCH yếu kém , An Lộc đã mất từ những ngày đầu bị vây hãm, các vị chỉ huy quân sự đã không trụ lại, trấn giữ, và bảo vệ thành công một thị trấn tan nát vì đạn pháo của VC . ( cần nhớ người bắn cháy chiếc tăng T54 đầu tiên ở Ẩn Lộc LÀ MỘT LAO CÔNG ĐÀO BINH!!)

– Nếu QLVNCH yếu kém VC đã làm gỏi đất nước nầy ngay từ sau khi TT Ngô Đình Diệm và các bào đệ bị giết chết và tình trạng chính trị hỗn loạn nhiễu nhương ở khắp mọi nơi

Vậy tại sao cuối cùng rồi VNCH cũng chịu thua?

– Trong chiến tranh ai nhận yểm trợ đầy đủ dồi dào người đó cầm chắc cái thắng. CSBV ngày càng được khối anh em dồn mọi nỗ lực tiếp tế để tận diệt VNCH đang bị Mỹ cắt hết quân viện . QLVNCH không thể ra chiến trường đánh nhau với địch bằng giàn thun hoặc tầm vông vạc nhọn. Đưa đến thua trận không phải là do tinh thần chiến đấu suy sụp trong quân đội mà bởi thiếu hụt quân khí và sự hoảng loạn của giới lãnh đạo.

Nếu được chỉ huy tốt lính VNCH chiến đấu dũng mãnh như đã chứng minh ở Long Khánh. Nhờ vào tinh thần của Tướng Lê Minh Đảo, Tướng Trần Quang Khôi sư đoàn 18 và các đơn vị tháp tùng đã đánh VC một trận để đời và làm chùng hẳn bước tiến của chúng,( nhiều đơn vị 81 BCND, ND… vẫn tiếp tục chiến đấu ngay giữa thủ đô Sài Gòn trước và sau khi nhận lệnh đầu hàng của ông DVM).

Phần viết thêm:

Dùng vũ khí để giết hại dân lành đàn bà trẻ em không thể được coi là quân nhân, như trường hợp của Caley ở Mỹ Laị.

Thành tích VC ngon hơn nhiều:

– Tàn sát gần ba trăm đồng bào Thượng ở Dakson bằng cách thiêu sống

– Tàn sát gần sáu ngàn dân vô tội ở Huế

– Và ghê tởm nhất pháo binh VC nã đại bác trực tiếp vào đoàn dân chạy loạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị.

ISIS ở Mosul ( Iraq ) cũng triệt để áp dụng chiến thuật này: bắn sẻ, nổ bom, giật mìn dân tị nạn bất kể đàn bà con nít.

Hai thằng (VC và ISIS ) có cùng một thầy chăng?

http://quanvan.net/nguoiviettudo-196-nh ... -cam-sung/
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »



Cái lon Guigoz


Hình như ai đến đây cũng đều giấu đi thân phận và cảm xúc của mình, tôi cũng vậy. Buổi sáng từ 7 đến 8 giờ đoàn xe bus đi gom mọi người cao tuổi ở rải rác quanh vùng chở đến đây và 1 giờ trưa chở về, vì từ 1 giờ trưa đến 6 giờ chiều còn một ca sinh hoạt khác.

Ở Mỹ này có nhiều chuyện ngộ: có nhà giữ trẻ và cũng có nhà giữ người già, mỗi tuần từ thứ hai đến thứ sáu. Thứ bảy và chủ nhật họ ở nhà một mình hoặc có phước có phần ở chung với cháu con!

Tôi nghỉ hưu gần một năm nay, từ Pennsylvania về New Jersey để được gần con cháu. Mấy đứa nhỏ thấy tôi buồn nên xin cho tôi vào đây để gặp gỡ đồng hương cao niên cho vui. Nhưng sau vài tuần tôi muốn “cáo lão qui điền” vì ở đây… chán quá. Ngày nào cũng y chang như vậy: sáng vô điểm danh, ký tên, ngồi vô bàn của mình ăn sáng, rồi tập thể dục nửa tiếng, rồi chơi đá banh thùng, thảy vòng vịt, chơi bingo, nói chuyện dưới đất trên trời… Khoảng 10 giờ đến 10 giờ rưỡi được cho uống sữa, uống juice, ăn kem..rồi chờ ăn trưa, rồi xếp hàng ra xe bus về nhà.

Chắc tôi phải nói thêm về cách làm việc ở đây. Điều kiện được đưa vào trung tâm này phải trên 65 tuổi và có Medicaid và trong diện nghèo. Có nhà ở thì OK nhưng nếu có xe thì trị giá xe không quá năm ngàn đô la và trong nhà bank không có quá hai ngàn. Trung tâm này ở thành phố Cherry Hill, New Jersey với cái bảng hiệu “Prestige Adult Medicare Daycare”. Như vậy ở đây có bác sĩ trông nom sức khỏe, dĩ nhiên là bệnh tật sơ sài thôi, và sẵn sàng giúp mọi người gọi 911 để vào bệnh viện miễn phí.

Đã gọi là “nơi giữ người già” nên người nào cũng hom hem, lụi đụi, không bệnh ít cũng bệnh nhiều. Ở nhà buồn quá không ai trông nom nên tìm vào đây để giải sầu. Tôi là một trường hợp đó, nhưng tôi không vui mấy vì người Việt Nam ít quá, chỉ chiếm khoảng 10%, số còn lại là Mễ Tây Cơ và người Mỹ gốc Phi Châu. Lúc nào họ cũng ồn ào nói cười, kêu gọi nhau hoặc nhảy cà tưng theo nhạc của họ.

Người đời thường nói khi trở về già người ta giống như con nít từ sinh hoạt cá nhân mỗi ngày hay sinh hoạt vui chơi. Họ cũng tranh nhau trong giờ chơi để thắng điểm để được trung tâm phát tiền… âm phủ. Đó là tiền giả để cuối tuần dùng tiền đó mua những vật dụng trong nhà như xà bông rửa tay, xà bông giặt, kem đánh răng, giấy vệ sinh… Cứ nhìn họ vui vẻ đi shopping tại chổ với vẻ vui mừng như trẻ được quà chúng ta thấy được “già y như trẻ” là vậy. Để rồi, lúc ra về họ phải è ạch mang mấy thứ lục cục đó lên xe. Tài xế phải phụ giúp mấy vị đó mang lên xe nào là wheelchair, gậy chống, khăn áo lùng chùng…

Trung tâm này nằm trong khu biệt lập, xa đường chính nên khá yên tĩnh. Phòng sinh hoạt chính khá rộng với mười mấy cái bàn tròn rộng phủ khăn và trên bàn lúc nào cũng có chậu hoa… ni-lông cũng khá sáng đẹp. Bên trái là văn phòng, sau văn phòng là phòng nghỉ ngơi của các cụ khi thấy mệt. Quí vị vào phòng này sẽ thấy lòng mình buồn tênh vì vài người già nằm trên ghế dài trùm chăn, hơi thở mệt nhọc. Tôi cũng là người cao tuổi nhưng còn linh hoạt hơn họ đôi chút, nghĩ rằng rồi mình cũng sẽ nằm thở dốc như họ một ngày không xa!

Bàn tròn của người Việt Nam lùi vào phía trong của gian phòng rộng, lác đác chừng năm bảy người, toàn là đàn ông.Nghe nói lúc trước có vài phụ nữ Việt Nam nhưng họ xin đổi xuống ca chiều có nhiều người cùng xóm cho vui.Bàn của chúng tôi có hai vị tuổi 82 còn lại cũng trên dưới 70.Mọi người đều xuề xòa, duy chỉ có một ông lúc nào mặt cũng hằm hằm, hình như không mấy có thiện cảm với tôi.Thằng cha này lúc nào cũng trầm tư biếng nói, ít cười và đặc biệt lúc nào cũng có cái mũ nồi trên đầu. Có lẽ hắn nhỏ tuổi hơn tôi và có tên là Hiền mà mặt mày chẳng hiền chút nào, giống như dân đứng bến hay ít ra cũng là dân chợ trời hay dấm dúi bán chui á phiện! Không ai biết gì về gã, đó là lý do tôi không vui khi đến đây. Về phía đám đông Mexico và Mỹ Phi Châu kia thì lúc nào cũng như cái chợ chồm hổm, ăn uống nói chuyện ồn ào, nếu có chút nhạc thì loi choi nhảy múa như điên!

Kể ra họ còn có chút vui. Sao đám Việt Nam chúng tôi lại eo sèo đến thế? Nhiều lúc tôi tự hỏi: “Tuổi già sống khắc khoải như thế này đề làm gì, đang chờ đợi điều gì, nếu không phải chờ… ngày về với đất?” Có khi cũng không cần đất cát gì, chỉ đốt thành tro bụi rồi rải ra biển lớn. Thế là xong.

Tôi định rút lui khỏi cái câu lạc bộ này nếu không có một sự việc xãy ra hôm tuần trước.

II.

Thật ra, tôi cũng là người già nhưng khác hơn mấy ông già Việt Nam này đôi chút.Tôi xin vào đây để làm thiện nguyện, giúp người già Việt Nam thông dịch vì đa số họ không rành Anh ngữ, chủ yếu là tôi muốn tìm bạn đồng hương. Thành phố này khá yên tĩnh, ban ngày vẫn nghe được tiếng chim hót trên cành cây cao và ban đêm chừng 4 giờ rưỡi sáng chúng đã líp chíp quấy rầy tôi rồi. Thức giấc vì tiếng chim tôi thấy tuổi già trôi qua thật nhanh và từng bước chân đi của mình cũng chậm dần.

Buổi sáng hôm đó, tôi mang theo lon nước chanh gừng vì cảm thấy cổ họng đau rát. Đặt cái lon guigoz lên bàn, tôi đã thấy thằng cha mũ nồi ngồi thu lu một góc rồi. Lão già này không ưa tôi nên ít khi chào hỏi nhau. Hôm đó Hiền lại chào tôi rôm rã và nói nhanh:

- Ủa, ông cũng ở K5 Vĩnh Phú sao?

A, thì ra trên cái lon guigoz tôi có khắc chữ K5-VP. Tôi gật. Lão cười nụ, méo xệnh:

- Tui ở Nghệ Tỉnh, quê hương…

Lão định nói “quê hương bác Hồ” nhưng tôi ngăn lại.Tôi không muốn nghe hết câu.Bổng tôi thấy nét xúc động trên gương mặt tối hù của gã. Lần đầu tiên, gã kéo cái mũ nồi đặt lên bàn.Mớ tóc bù xù, lốm đốm muối tiêu của gã rớt xuống vùng trán với những “luống cày” sắc nét. Chỉ có đôi mắt mang nét quả quyết, và không… hiền chút nào!

Rồi câu chuyện bắt đầu. Chúng tôi nhận ra nhau, chúng tôi là những người lính già thua trận, tù tội, xương máu, hận thù đau đớn trải dài từ Bắc xuống miền Đông Nam Nam phần từ trước 1975. Hiền nói về mình, về gia đình tan nát của mình và… nói luôn nỗi oán hận cuộc đời mà Hiền vẫn còn đeo đẵng cho đến hôm nay.

Hiền lôi tôi ra ngoài nói là đi dạo, nhưng thật tình, hắn muốn trút bầu tâm sự ôm ấp từ lâu.Đi chán mỏi chân, hai thằng già ngồi trên ghế đá bên hông khu nhà với ly cà phê nguội ngắt.Hắn nói giọng từ tốn, chậm rãi, đôi mắt mơ màng như đang sống với quá khứ không mấy vui vẻ của đời mình.

- Khi rời quân trường, tôi gặp người này, theo lời giới thiệu của người chị họ và kết hôn sau đó vài tháng, đây là cuộc hôn nhân gán ghép vì tôi muốn thoát ra cái gia đình “u tối” của mình. Giữa tôi và cô ấy không có thứ tình nào hết, không là tình bạn học, không là tình yêu. Anh cũng hiểu rằng giữa năm 1973 chiến tranh Việt Nam leo thang với những trận đánh ác liệt. Chúng ta là những người lính, cái chết cận kề bên lưng…

Tôi chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng ngắt lời Hiền:

- Theo chú, cuộc hôn nhân này không toại nguyện?

Hiền gật, nói nhanh:

- Chính thế. Gia đình nàng giàu có, muốn con gái có một tấm chồng, trong khi tôi muốn có một chổ dung thân những ngày về phép. Gia đình cha mẹ tôi không là tổ ấm, đó là ổ của bài bạc, rượu chè, cuộc sống lem luốc… Tôi muốn trốn chạy, tôi đã sai lầm. Cuộc hôn nhân không tình yêu… cho nên đổ vỡ sau đó là chuyện tất nhiên.

Tôi ngồi thừ, lẳng lặng nghe Hiền nói tiếp:

- Sau đó, chúng ta vào tù sau tháng 4/75 như anh biết… và vợ tôi chưa hề đến thăm tôi một lần nào. Chúng tôi có một đứa con trai, và khi tôi ra tù, bà ấy thẳng thừng đề nghị ly dị vì không chịu nỗi sự nghèo túng, vất vả. Lúc đó, đôi dép lào đứt quai hay vỏ xe đạp xì lốp cũng không có tiền mua dép hay bơm xe, thì… làm sao giữ được hạnh phúc gia đình? Tủi nhục lắm anh ơi… Ôm đứa con nhỏ, tôi phải làm đủ mọi thứ nghề đề nuôi con. Căn nhà trước đó đã thay người chủ mới. Nhờ sự cứu giúp của người bạn học cũ, cha con tôi mới sống sót được đến ngày nay!

Hiền thở dài, không nói thêm gì nữa. Tôi không biết nói gì để an ủi Hiền, chỉ vỗ vỗ vào lưng bạn và trở vào câu lạc bộ.

Từ đó chúng tôi trở thành đôi bạn rất thân. Hiền có vẻ vui tươi hơn trước. Mỗi lần đến thăm Hiền, tôi đều cảm thương cho hoàn cảnh bạn: Căn apartment nhỏ với cây đàn và chú chó Lucky thân yêu. Hiền thật sự cô độc với tuổi già hiu quạnh của mình. Có lần tôi bạo dạn hỏi Hiền:

- Qua đây hơn 20 năm, sao chú không tìm được người bạn đời khác?

Hiền cười cay đắng:

- Anh thử nghĩ coi, lon lá không còn, tiền bạc không có, đàn bà nào yêu cho nổi? Thật ra tôi sợ. Con chim bị đạn một lần thường sợ những cành cây cong… Thằng Hiếu bây giờ hơn 40, có vợ con ở NY city, tôi không muốn con mình bận bịu nên ở đây một mình. Trong những ngày lễ ở Mỹ này, thằng con tôi ghét nhất ngày lễ Mẹ, Mothers Day. Hiện nay bả còn ở Saigon, giàu có lắm nhưng thằng Hiếu không nhìn. Nó nói với mọi người rằng mẹ nó đã chết từ lúc nó hai tuổi. Bả đổ thừa cho hoàn cảnh bỏ chồng bỏ con. Cái đau khổ của tôi là bả lại lấy thằng cha bí thư huyện ủy!

Nếu mượn bài hát “và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy để nói về Hiền cũng không sai chút nào.Mỗi ngày gặp nhau, tôi đều nói với Hiền về niềm tin và tìm thấy lẽ sống cho những ngày còn lại.Hiền đàn rất hay.Tiếng đàn guitar điêu luyện ấy đã trở nên thân thuộc với tôi và mọi người khi có lễ lộc ở “day care” này. Hiền vui hơn mọi ngày, cho đến một hôm…

Tôi nói với Peter, giám đốc trung tâm tôi vắng mặt hai ngày vì phải lo thu xếp việc nhà. Tôi phải đi phi trường JFK ở NY city để đón vợ tôi. Bà ấy về Việt Nam hơn tháng nay đón cô em định cư qua Mỹ. Đơn bảo lãnh từ 2004 đến nay cô ấy mới được đến vùng đất tự do này. Hiền nói với tôi giọng vui vẻ:

- Nếu không gì bất tiện, niên trưởng cho em theo cho vui?

Tôi nghiêm nghị:

- Đi với tôi thì OK, nhưng đề nghị với cậu là bỏ đi từ niên trưởng. Tủi nhục quá mà, đau khổ quá mà niên trưởng với niên chảng gì. Cứ gọi tôi là anh Phúc phải gọn không?

Trên đường đi Hiền nói với tôi về thành phố New York mà cách đây hơn 20 năm, cha con Hiền ngơ ngác đến đây do sự sponsor của người tiểu đoàn trưởng cũ. Hiền cũng cho tôi biết gia đình người con trai đang sinh sống ở Brooklyn đường ra phi trường. Tôi nói:

- Cậu có muốn tranh thủ thăm con cháu không?

Hiền xua tay nói nhanh:

- Thưa không anh, chúng nó đi làm cả. Tụi nó sẽ về thăm tôi ngày lễ Fathers Day sắp tới đây.

Đến nơi trời choạng tối. Hai anh em giúp người mới đến đem hành lý ra xe. Tôi vội vã giới thiệu với Hiền:

- Đây là Ngọc, bà xã tôi, và đây là cô em tên Nguyệt.

Bỗng nhiên Nguyệt la lớn:

- Trời ơi anh Hiền, phải anh là Hiền Tân Định không?

Hiền chết trân. Một giây sau hắn gật đầu lia lịa:

- Đúng, tôi là Hiền. Hiền Tân Định đây!

Những bàn tay không rời nhau. Tôi nói mau:

- Mời mọi người lên xe. Lên xe rồi nói chuyện sau. Trời tối rồi, về đến New Jersey chắc phải chín mười giờ đêm!

Bây giờ Ngọc mới lên tiếng:

- Vậy ra hai người quen nhau sao?

Nguyệt nói dòn dã:

- Chị Ngọc quên sao, hồi đó văn nghệ liên trường Petrus – Gia Long – Võ Trường Toản – Trưng Vương năm em học Đệ Tam, chị Đệ Nhất Gia Long đó, anh Hiền này ở Petrus Ký đoạt giải nhất đơn ca!

Đến phiên Ngọc la vui:

- Trời đất, đó là năm 1967, em nhớ giỏi quá. Ờ ha, 50 năm rồi mọi người ơi!

Hiền rôm rã:

- Cám ơn Nguyệt vẫn nhớ tôi. Bây giờ già hết rồi, dâu biển nhiều rồi…

Nói xong Hiền thở dài:

- Bây giờ tôi già lắm rồi, Nguyệt nhớ tôi thật là giỏi. Cám ơn Nguyệt. Hồi đó hình như Nguyệt cũng đoạt giải thưởng phải không?

- Dạ em giải nhì. Cho nên em nhớ anh là vì hồi đó em “cay cú” với thằng cha Petrus!

Mọi người cười vang.

III.

Cuối tuần, gia đình các con ào về nhà vợ chồng tôi để mừng mẹ và dì từ Việt Nam mới sang, nhân thể bày tiệc mừng sinh nhật 62 của dì Nguyệt. Nguyệt đã hơn 60 nhưng trông bề ngoài chỉ chừng hơn 50 vì nàng độc thân không phải lo lắng tất bật chuyện chồng con. Bà xã tôi nói rằng, Nguyệt là em kế của bà nhưng từ lúc thanh niên 20-30, nàng không hề nghe Nguyệt nói gì về bạn trai hay có quen biết và yêu đương một người đàn ông nào. Nguyệt chỉ mải mê học vấn và làm việc. Nguyệt có bằng thạc sĩ kinh tế và giảng dạy ở các trường đại học ở Saigon. Bây giờ, nàng hưu trí từ tuổi 55.

Một điều lạ lùng nhất là Hiền đến nhà tôi hôm nay, khác hẳn mọi ngày. Một tay ôm cây guitar và một tay ôm bó hoa hồng lớn làm cả nhà tò mò đoán già đoán non. Dĩ nhiên, hoa hồng tặng sinh nhật Nguyệt, chứ không phải tặng Ngọc, bà xã nhà tôi.

Mấy đứa con gái tôi cười rúc rích, ra chiều đắc thắng.

Trong bữa ăn chúng tôi chỉ nói chuyện Việt Nam, hỏi thăm sức khỏe nhau. Vợ chồng tôi bận bịu chơi với cháu ngoại, hai đứa con gái lo việc dọn dẹp dưới bếp. Hai đứa rể bận không đến được, nên khách chỉ là Nguyệt và Hiền.

Hai người này thích ca hát văn nghệ từ hồi còn đi học nên thử giọng hát hò với nhau. Hiền đàn hát thật hay. Nguyệt ngồi nghe mơ màng. Tiếng đàn, tiếng hát dứt mọi người ùa ra phòng khách vỗ tay cổ vũ. Hiền cười vui rạng rỡ nhưng có chút ngượng ngùng.

Bây giờ tôi mới ngắm kỹ Hiền. Chàng già này bữa nay sao khác hẳn. Cái mũ nồi biến mất. Mái tóc bạc cũng thế. Hôm nay sao nó thay hình đổi dạng nhanh thế: râu tóc gọn ghẽ, nhẵn nhụi, quần áo thẳng nếp, giày tây bóng loáng y như chú rể ra mắt nhà vợ. Cái gì, điều gì đã thay đổi thằng cha mà tôi từng ghét quá ghét trước đây?

Câu chuyện có lẽ dừng ở đây được rồi. Kết cục thế nào tùy độc giả. Nhưng, với con mắt của người lính già lăn lóc gió sương như tôi, tôi thấy Hiền như được hồi sinh. Người đàn ông đau khổ với tuổi già hiu quạnh như Hiền, ngày tối vào ra với con chó Lucky là bạn, với cây đàn guitar réo rắc những cung bậc bi thương, sầu não đó, đã vực dậy vì tình bạn, tình “huynh đệ chi binh” và có thể, hắn sẽ tìm được một tình yêu cuối đời? Có thể lắm chứ. Cuộc đời ơi hãy mĩm cười với bạn tôi!

Ban đầu, Nguyệt định ở New Jersey với chúng tôi vài tuần, sau đó, sẽ đi Cali ở với đứa cháu. Nhưng, có lẽ nàng thay đổi ý định khi tôi “bày trò” nhờ Hiền chở Nguyệt đi làm giấy tờ và những yêu cầu của người mới đến Mỹ. Cầu mong hạnh phúc sưởi ấm hai tâm hồn đơn lẻ bấy lâu!

Cám ơn “Prestige Adult Medicare Center” đã kết nối tôi và Hiền, cám ơn cái lon guigoz của một thời lao tù khổ sai tăm tối… để chúng tôi tìm đến nhau trong tình người, tình chiến hữu. Cái lon guigoz này tôi sẽ làm quà cưới nếu hai “đứa già” này trong tương lai quyết định cùng nhau “đi trọn đường trần”.

Tháng 6/2017

Song Lam
Last edited by dailien on Wed Aug 09, 2017 3:16 am, edited 1 time in total.
bichphuong
Posts: 618
Joined: Mon Mar 14, 2016 4:13 pm
Contact:

Post by bichphuong »

Trò chơi tai hại

Tôi vào Sài Gòn để theo học khóa Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị, theo nhu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu lúc bấy giờ đòi hỏi mỗi cấp Đại Đội trong đơn vị tác chiến phải cử một Sĩ quan Đại Đội Phó theo học khóa này. Sau khi học xong trở về đơn vị thì sẽ là sĩ quan Đại Dội Phó kiêm nhiệm Chiến Tranh Chính Trị cho đơn vị mình.

Tôi đang là Pháo Đội Phó của một Pháo Đội Tác Xạ Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh đang hoạt động vùng chiến trường Bắc Bình Định chen lẫn Vùng Kontum, Pleiku. Nhận được Sự Vụ Lệnh đi thụ huấn là mừng lắm vì có được thời gian nghỉ xả hơi, vừa đi vừa về cũng phải 3 tháng, nhất là đang có người yêu tại Sài Gòn thì không còn gì hạnh phúc cho bằng.


Trong suốt khóa học, hễ cứ đến cuối tuần là được gặp người yêu ruột, ôi sung sướng lắm. Sở dĩ tôi nói người yêu ruột cũng vì có phân biệt đẳng cấp nhiều loại (người yêu để dành cưới, người yêu chỉ để đi “rước đèn” dạo phố sau những trận đánh được nghỉ phép một hai ngày, hoặc người yêu không bao giờ dạo phố và không bao giờ tính chuyện tương lai (chuyện của Lính dài dòng lắm).

Người yêu của tôi ở Sài Gòn thì cưng như trứng mỏng và để dành cho ngày “Ghép chung tên thiệp hồng” nên những ngày học Chiến Tranh Chính Trị như là vàng son một thuở của đời lính tác chiến.

Trong cùng khóa học này có trung uý Lâm Xuân Thảo là người bạn Pháo Binh 155 ly khác tiểu đoàn với tôi (105 ly) nhưng cùng một Pháo Binh Sư Đoàn. Chúng tôi thường gặp nhau trong những lần yểm trợ chung cho một cuộc hành quân nào đó trong vùng. Là bạn bè thân nên gặp nhau ở Sài Gòn trong cùng một khóa học thì mừng lắm.

Đến ngày mãn khóa học, trường Chiến Tranh Chính Trị bao giờ cũng tổ chức buổi lễ Sinh Nhật Tập Thể cho cả khóa như là hình thức mãn khóa, phát bằng cho học viên trúng tuyển sau khi sát hạch cuối khoá. Tổ chức Sinh Nhật Tập Thể cũng để làm Bài mẫu cho học viên khi về đơn vị biết cách mà thực hiện cho đơn vị mình.

Trong ngày này có tiệc tùng, có bánh Sinh Nhật cho cả 200 người ăn chưa kể quan khách, Tướng Tá được mời đến dự, coi cũng xôm tụ lắm, đèn cầy không thể thiếu và quá nhiều cùng với hoa tươi.

Một quang cảnh choáng ngộp màu sắc của hoa chen lẫn màu sáng rực của đèn cầy, tôi có cảm giác lung linh huyền ảo, mà từ ngày nhập ngũ đến giờ chưa bao giờ thấy.

Sau khi phát bằng tốt nghiệp xong, mọi người đang chờ nhà trường cấp phát Sự Vụ lệnh để trở về Đơn vị. Hoa và đèn cầy vẫn còn đầy dẫy khắp nơi, buổi lễ đã kết thúc nhưng hiện trường vẫn còn nguyên. Tôi rời khỏi phòng ngủ Sĩ Quan đi ra ngoài đứng dọc hành lang trung tâm huấn luyện, nơi đang có nhiều người cũng chờ như tôi tụ tập từng nhóm chuyện trò trước khi chia tay với những người bạn mới quen trong khoà học. Chiếc túi đựng quân trang to lớn hơn thân người của tôi, dài cũng hơn một mét tôi nhét đầy cứng trong đó đủ thứ áo quần lính, giày dép cùng mọi vật dụng khác của một quân nhân khi thuyên chuyển đơn vị. Nó có hình tròn giống như thân một con người, và chiếc nón sắt thì không còn chỗ nhét nên để rời riêng ở ngoài. Tôi để cái túi hình tròn ấy và cái nón sắt trên chiếc giường ngủ của tôi, loại giường đôi hai tầng bằng gỗ trong các quân trường nào cũng có.

Sau một lúc lang thang bên ngoài để xem động tịnh gì về chuyện nhận sự vụ lệnh, ai cũng nôn nao nhận cho mau để rời sớm nơi đây, nhất là tôi còn lại thời gian rất ít cho lần gặp gỡ sau cùng dành cho người yêu trước khi trở về vùng chiến trận.

Tôi trở lại căn phòng ngủ, một cảnh tượng trước mắt làm tôi choáng váng lạnh xương sống, một cảm giác rợn da gà chạy lan trên xương sống, mắt tôi nhìn mà cứ tưởng đang trong mơ. Tôi vốn không tin dị đoan, nhưng hình ảnh này thú thật làm tôi sợ quá, biết đâu đây là điềm báo trước cho số phận của tôi trong những ngày kế tiếp sau khi về đơn vị và tham chiến?
“Ai đã cố ý đùa giỡn một cách vô ý thức đến như thế này?”, tôi hỏi nhanh trong đầu trong khi lòng đang giận lắm. Tôi nghĩ ngay đến thằng Thảo, chỉ có nó là thằng bạn thân duy nhất trong thời gian ở đây, những người bạn khác mới quen không thể nào dám làm như thế này. Tôi cả quyết như vậy và không cần tìm hỏi Thảo. Cả một đám đông người đa số đều mang cấp bậc Trung uý, chỉ có một hai ông Thiếu uý đứng vây quanh chiếc giường ngủ của tôi.

Xung quanh thành giường được cắm những cây đèn cầy dở dang hồi nãy làm Sinh Nhật tập thể, giờ được thắp sáng lên cùng với hai cây lớn hơn trên đầu giường. Một tấm bảng chừng ba gang tay hình chử nhật bằng giấy bìa cứng màu trắng viết tên tôi đậm nét màu đen: “Cố Đaị Uý Nguyễn Trãi” nằm gọn gàng chính giữa tấm bảng ấy. Tấm bảng được dán lên vách tường trên đầu giường. Hoa tươi từng bó nhỏ xếp đều khắp xung quanh giường, đặc biệt trên đầu thì cắm hai bình hoa hai bên tấm bảng tên tôi.

Chính giữa giường là cái túi đựng quân trang của tôi đặt nằm dọc ngay ngắn cùng với cái nón sắt nằm kế tiếp, trông như hình thù cái đầu người ta và thân người. Bên trên được phủ kín tấm Poncho (loại áo mưa nhà binh mà bất cứ ai mới nhập ngũ cũng đều được cấp phát).

Nhìn vào chiếc giường y chang như có một thi thể vừa ngã xuống trên chiến trận nào đó được phủ kín tấm Poncho, trên đầu thi thể ấy đã ghi xác nhận rõ tên và cấp bậc của người vừa vĩnh viễn ra đi.

Hình ảnh này rất quen thuộc trong tôi từ năm đầu tiên mới ra trường về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 231 Pháo Binh tại Ban Mê Thuột. Thỉnh thoảng có Sĩ Quan nào trong Sư Đoàn chết, tôi và một người sĩ quan nữa được phân chia luân phiên đi gác xác, mỗi phiên gác hai tiếng đồng hồ bất kỳ ngày hay đêm. Có lần trúng vào 12 giờ khuya đến 2 giờ, đêm ấy mưa, từng cơn gió rít lên mái nhà tole nghe rợn người. Căn nhà tiền chế của Trung Đoàn 45 Bộ Binh dùng làm nơi để tạm 15 xác chết từ binh sĩ đến sĩ quan đã chết hơn mười ngày trước đây mãi tận trên Di Linh Đà Lạt trong một trận đánh khá ác liệt. Xác của những quân nhân xấu số này đã phải vất vả lắm mới đem ra được khỏi vùng giao tranh cộng với trở ngại chờ phương tiện di chuyển từ Di Linh về Đà Lạt và từ Đà Lạt về Ban Mê Thuột là bản doanh hậu cứ của Trung Đoàn 45. Do đó các xác chết đã sình thúi, mùi hôi nồng nặc mặc dù nghe nói đã có bọc kẽm bên trong.

Một dọc các quan tài xếp hàng ngang trong căn nhà tole có vách che nhưng vách không cao tận mái nhà mà chỉ lửng hơn hai phần ba. Các chỗ ra vào hai bên vách có nhiều và để trống không có cửa, gió cùng với mưa thay nhau tạt vào, tiếng rít của gió từng cơn tạo nên thứ âm thanh ma quái, mùi hôi thúi nồng nặc.

Tất cả các quan tài đều được thắp sáng bằng những bóng đèn điện tròn màu vàng không sáng mấy nằm trên những thanh sắt ngang dọc trên trần nhà cùng với ánh sáng lung linh của những cây đèn cầy cắm trên nắp quan tài. Phía trước mỗi quan tài đều có một vòng hoa thương tiếc đầu tiên của Trung Đoàn đặt ngay ngắn cùng với tên và cấp bậc của người ngã xuống kèm theo câu Tổ Quốc Ghi Ơn phía trên.

Tôi vốn rất sợ ma từ nhỏ, nhưng đã gác xác nhiều lần nên cũng dạn dĩ bớt. Tuy nhiên lần này tôi ớn lạnh xương sống và thấy sợ thiệt tình vì cái không khí ma quái làm sao ấy. Cũng may mà mỗi lần gác xác như vậy bao giờ cũng có hai sĩ quan với nhau mặc quân phục tiểu lễ ( loại quân phục màu vàng của Trường Bộ Binh Thủ Đức, với mũ Cascette dùng để đi nghỉ phép cuối tuần trong thời gian thụ huấn).

Tôi nhìn người bạn đang chung nhiệm vụ với tôi cũng tỏ vẻ sợ sệt ra mặt, không ai nói với ai, làm ra vẻ bình thường đứng hai bên chiếc quan tài của một sĩ quan, lặng lẽ gồng mình với thế Thao Diễn Nghỉ.

Khoảng chừng 30 phút đi qua bỗng dưng chúng tôi nghe tiếng rắc rắc thật lớn phát ra từ một trong những quan tài. Tim tôi đập mạnh vì hồi hộp, chưa định thần được là tiếng kêu gì và phát ra từ đâu. Tôi quay đầu nhìn thằng bạn coi xem phản ứng của nó ra sao, mặt nó cũng tái mét lộ hẳn sự sợ sệt. Cả hai cùng chung một ý nghĩ, cùng cảm giác nhưng không ai nói với ai lời nào. Bỗng tiếng rắc kế tiếp vang lên, tôi chợt nghĩ rằng có một nắp quan tài nào đó đang bật ra và một xác người từ từ ngồi dậy …..

Bên ngoài trời vẫn mưa và gió mạnh, khí hậu miền cao nguyên đang lạnh nhiều thế mà tôi đã thấy những giọt mồ hôi lăn từ trên ót xuống dưới lưng. Chỉ kịp nói sang người bạn đứng bên kia quan tài (chúng tôi bao giờ cũng đứng hai bên đầu quan tài): “CHẠY”, và tự động tôi chạy lẹ ra cửa mà không dám nhìn lại phía sau. Tôi cũng thấy người bạn như phản xạ tự nhiên chạy theo. Hai đứa chạy nhanh đến chiếc xe Jeep cách đó khoảng 20 mét và nổ máy chạy nhanh mặc cho nhiệm vụ không hoàn thành và không hề sợ bị cấp trên phạt.

Bây giờ nhìn lại chiếc giường của tôi đã từng ngủ nhiều đêm trong suốt khoá học lại thấy tên tôi, thấy những hoa tươi cắm trên đầu giường, và xung quanh giường chen lẫn với đèn cầy sáng trưng mang tôi trở về với bốn năm trước trong hình ảnh ghê rợn, cũng màu sáng vàng vọt, cũng đèn cầy, cũng hoa tươi và nhất là tiếng kêu RẮC của chiếc quan tài.

Thú thật tôi sợ quá, tôi hình dung đây là điềm báo trước đối với tôi mai này khi trở về đơn vị. Hình ảnh gác xác năm nào trở về nhanh trong trí, tôi thấy như có ai đang chạy đuổi sau lưng… Tim đập mạnh nhịp thở không đều, tôi giận run người. Tôi nhìn một lượt xung quanh thấy mọi người cười to, như hả hê khoái chí lắm với thành tích sáng tạo này. Họ tìm một cơ hội để vui đùa, sao vô ý thức đến không hiểu nổi.

Tôi giật mạnh chiếc Poncho, kéo cái túi quân trang cùng chiếc nón sắt xuống đất, đồng thời vói tay giật mạnh tấm bìa giấy cứng ghi tên tôi ném mạnh xuống đất trong thái độ giận dữ, nhanh như cắt tôi dùng bàn tay gạt thật nhanh các đèn cầy và hoa rơi tung tóe. Tôi muốn xoá tan ngay đi hình ảnh ghê rợn này để không còn chứng tích của một điềm báo xúi quẩy kéo dài thêm hơn với hy vọng chưa hiệu nghiệm trong thế giới tâm linh. Những người đi chiến đấu dĩ nhiên khi lâm trận đều hầu như không sợ và không nghĩ đến cái chết lúc bấy giờ, mà chỉ biết làm sao diệt được kẻ thù và một phần vì mùi khói thuốc súng làm hăng say thêm.

Nhưng với bối cảnh hiện tại không phải đang đánh nhau, không có mùi khói thuốc súng, nhất là nhìn thấy thi thể của mình nằm trong Poncho, nhìn thấy tên mình với hoa và đèn cầy, làm sao không lạnh cả người, không giận cho được.

Biết ngay là thằng Thảo đùa với mình và cố tạo trận cười cho bạn cùng khoá trước giờ chia tay, tôi đã cố ý hành động phản kháng bằng cách phá tan mọi thứ trên chiếc giường như là gởi thông điệp: “Tao không bằng lòng mày làm như thế!” Sau khi ném các thứ xuống giường tôi lặng lẽ ra ngoài hàng hiên cho đỡ tức. Tôi biết Thảo và đồng bọn đang vui sướng lắm, nhưng tôi lại không hề nhìn vào mặt bất cứ người nào đang hiện diện ở đó, những gương mặt vô cùng đáng ghét đối với tôi lúc này.

Tôi bỏ ra ngoài hành lang và nghĩ rằng cử chỉ giận dữ của tôi vừa rồi đã đủ làm cho Thảo, hay chúng nó hiểu và ý thức được sự quan trọng về điều đùa giỡn như thế là rất tai hại (tự nhiên làm cho mình tin dị đoan, như một điềm xấu được báo trước). Tại sao nó có thể ngu ngốc đến độ như vậy nhỉ, tôi giận run lên, nhưng tôi cũng tự nhủ “mình đã phản ứng như vậy cũng đủ rồi”, và lòng cố xua đi hết hình ảnh vừa xảy ra.

Khoảng mười lăm phút sau, tôi trở lại căn phòng và yên tâm là mọi thứ đều trở lại bình thường. Nhưng hỡi ôi tất cả đều diễn lại như cũ. Vẫn đèn cầy sáng trưng, vẫn “cái thân người” nằm đắp kín dưới tấm áo mưa nhà binh, vẫn có tấm bảng đề tên tôi hồi nãy tôi đã quăng xuống đất, giờ được gắn trở lại như trước. Hoa tươi vẫn rộ khoe sắc khắp xung quanh giường. Tôi vẫn nhìn thấy tôi đang nằm chết ở đây một lần nữa.

Tôi không ngờ là Thảo hay cả bọn này đùa dai quá, quái ác quá trong sự đau khổ của tôi. Nếu lúc ấy trong tay tôi có súng chắc không kềm hãm nổi cơn tức nghẹn lên tới cuống họng. Tôi sững sờ đến độ tưởng mình trong mơ, không tin vào mắt mình có thật đã nhìn thấy hình ảnh ghê rợn này một lần nữa chăng? Thú thật tôi sợ quá, vì nó được lập lại như thể một điều xác nhận rằng chắc chắn tôi sẽ chết trong nay mai khi trở lại chiến trường.

Đang lúc khói lửa mịt mù, những tràng AK nổ ngay trên đầu, những quả đạn súng cối 61 ly, 82 ly của địch rớt sát bên tôi đã nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy sợ như bây giờ tôi đang sợ. Cái hình ảnh một thân người nằm yên dưới lớp nhựa màu ô liu của tấm áo đi mưa nhà binh, xung quanh cắm đầy đèn cầy lung linh huyền hoặc cùng với vô số hoa tươi dọc theo thân người, và ngay trên đầu có hai cụm hoa cắm đứng song song với hai cây đèn cầy phía trong và cao hơn một chút là tấm bảng đề tên người tử trận, giống y như cái bàn thờ tạm thời dành cho người vừa ngã gục sau trận đánh mà chưa kịp di chuyển hình hài về hậu cứ.

Cái hình ảnh quen thuộc này tôi đã chứng kiến nhiều lần trong suốt bốn năm lính, giờ đây cái xác ấy chính lại là tên tôi “Cố Đại uý Nguyễn Trãi”. Nó tự động thăng cấp cho tôi lên một cấp nữa, nhưng có chữ cố phía trước để dành cho quân nhân vừa tử trận, làm sao tôi không rợn da gà được! Giận quá tôi dùng hết sức mạnh của mình, hai tay nhấc bổng chiếc giường lật nghiêng một bên cho tất cả đổ tung rơi xuống nền nhà như trút cơn giận. Những hoa những đèn cầy đổ lăn lóc và cháy dở. Tôi thấy có những đôi giày trận vội chạy đến đạp lên những đèn cầy cho tắt đi vì sợ cháy căn phòng. Tôi muốn xóa đi dấu vết tên tôi trên tấm bảng giấy nên chụp thật nhanh và xé nát ra từng mảnh như bày tỏ nỗi căm giận ghê gớm lắm.

Không đủ bình tĩnh để quan sát những khuôn mặt đang cười toe toét, tôi vội chụp lấy cái nón sắt và túi quân trang kéo lê ra khỏi phòng như cố không cho chúng nó có phương tiện đùa tiếp. Từ đó tôi không bao giờ bén mảng vô trong phòng ấy nữa và không biết cảnh cũ có tái điễn hay không vì tôi rất sợ nhìn cảnh ấy lần nữa.

Trở về đơn vị tôi hoàn toàn không nhớ những gì đã xảy ra trong ngày cuối cùng tại Trường Chiến Tranh Chính Trị trong Biệt Khu Thủ Đô.

Một tháng sau đó đơn vị tôi là Pháo Đội 105 ly trấn đóng trên căn cứ Dakto, một căn cứ hoả lực nằm giữa đường chạy từ Tân Cảnh (Kontum) đến tiền đồn Benhet (gần ngã ba biên giới Việt Miên Lào). Từ Tân Cảnh trước khi đến căn cứ hỏa lực Dakto phải ngang qua căn cứ Phượng Hoàng, một căn cứ do quân đội Mỹ thiết lập trước đây, có cả phi trường cho máy bay C130 đáp để tiếp tế vũ khí đạn dược, lương thực cho cả vùng Tam Biên này gồm có cả những căn cứ trên các đỉnh núi cao, như căn cứ 5, căn cứ 6, căn cứ Charly mà chỉ mấy hôm sau này Đại tá Nguyễn Đình Bảo đã “ở lại vĩnh viễn”.

Căn cứ Phượng Hoàng tương đối an ninh dù bây giờ đã bỏ trống không có quân trú đóng, chỉ còn lại dấu vết của một phi trường dã chiến hoang tàn. Tôi thường hay lái xe xuống phố Tân Cảnh chơi hay mua sắm những gì cần thiết trong một hai tiếng đồng hồ những khi tình hình yên tĩnh, và khi chạy ngang qua Phượng Hoàng đều yên tâm là rất an ninh, vì nó cũng nằm sát Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh trú đóng trong doanh trại chung của Trung Đoàn 42 Bộ Binh kế cận quận lỵ Tân Cảnh.

Mấy ngày nay tình hình trở nên ồn ào hơn, các cánh quân Nhảy Dù, cùng với những cánh quân của Trung đoàn 47 và Trung đoàn 42 xin tác xạ yểm trợ liên miên. Tin tình báo cho biết Sư Đoàn Sao Vàng và Sư Đoàn 320 Bắc Việt đã kéo về hoạt động quanh vùng này.

Đang bắn yểm trợ cho các cánh quân bạn đụng địch thì nhận được công điện từ Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực Sư Đoàn 22 Bộ Binh gởi đến ra lệnh cho pháo đội tôi chuẩn bị di chuyển một trung đội PB 105 ly đến chiếm đóng vị trí Căn Cứ Phượng Hoàng. Phải sẵn sàng ngay bây giờ và chờ khi có lệnh di chuyển.

Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn Trịnh Lê Triễn còn nói rõ: “Hãy giao cho trung đội của Trung Uý Trãi nhận nhiệm vụ này”, vì tôi là trung uý thâm niên nhất trong pháo đội, vừa là Trung Đội Trưởng kiêm Pháo Đội Phó và là Sĩ Quan Tác Xạ có nhiều kinh nghiệm. Ông Trung tá này là vị Tiểu Đoàn Trưởng của tôi ngày tôi mới ra trường tại Ban Mê Thuột giờ đây chỉ định đích danh tôi kéo trung đội đến Phượng Hoàng trong chiều nay.

Tôi nhớ lại điềm xấu mà thằng Thảo cũng trung uý trung đội trưởng kiêm Pháo Đội phó như tôi đã bày cái trò để cười cho thoả thích ngay ngày mãn khóa Chiến Tranh Chính Trị. Không lẽ giờ đây được ứng nghiệm? Tôi đã cho lệnh Trung Đội chuẩn bị “Thế Lên Đường”.

Chuyện nhà binh ra trận mạc sống chết là chuyện thường tình, chỉ lo lắng khi chưa lâm trận, nhưng trong lúc giao tranh thì hầu như mọi người đều hăng say chiến đấu mà không sợ gì cái chết sẽ đến với mình.


Thế nhưng khi nhận lệnh “Thế Lên Đường” đến căn cứ Phượng Hoàng chiều nay, lòng tôi bỗng bồn chồn âu lo có cái gì vương vấn trong đầu, và liên tục hình ảnh chiếc nón sắt, cái túi xách nhà binh được phủ trong chiếc Poncho và đầy dẫy đèn cầy cùng hoa cắm đầy xung quanh “thi thể tôi kèm với cái bảng tên tôi “Cố Đại Uý Nguyễn Trãi” cứ chập chờn. Tôi cho rằng đó là điềm báo trước cho số phận của tôi trong cái lệnh chiều hôm nay sao?

Tôi tự trấn an thầm kín trong lòng “coi dó là chuyện tào lao, đừng để ý nữa để yên tâm chờ lệnh từ Đài Tác xạ cho biết: “di chuyển”.

Mãi đến hai tiếng đồng hồ sau, vẫn không thấy động tĩnh, tôi vào Đài Tác Xạ bắt máy hỏi Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn Tiền Phương ra sao với lệnh DI CHUYỂN vừa qua.

Lúc này họ cho biết đã thay đổi lệnh và đưa súng 155 ly đến đó thay vì 105 của tôi. Tôi không tìm hiểu đơn vị nào đã thay tôi vừa kéo đến căn Cứ Phượng Hoàng.
Ngay đêm hôm đó lúc 10 giờ điện văn “XIN TÁC XẠ” tới tấp gởi về tôi bắn yểm trợ cho Căn Cứ Phượng Hoàng bị tấn công tràn ngập biển người. Bắn suốt đêm cho tới 5 giờ sáng mới tạm ngưng trong khi quân tiếp viện đang tiến vào Căn Cứ truy đuổi Cộng quân.

Qua hệ thống vô tuyến tôi đã biết Trung Uý Lâm Xuân Thảo khoá 21 đã vĩnh viễn nằm xuống sau khi bị tràn ngập bởi những quả beta của địch. Và chính trong cuộc yểm trợ này buộc lòng phải bắn đầu nổ cao ngay trên căn cứ theo lệnh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để diệt địch.

Tin Trung Uý Lâm Xuân Thảo ngã xuống làm tôi lặng người, tiếc thương cho bạn và tự hỏi “tại sao có sự thay đổi lệnh để rồi nó chết thay cho tôi?” và tôi cũng liên tưởng tới trò chơi lúc ngày ra trường khoá học Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị.

Đúng là cái số của tôi chưa chết.

Nguyễn Trãi
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Tiểu Đoàn 92 B.Đ.Q/BIÊN PHÒNG

Ngày 24-4-75, Tiểu đoàn 92/BĐQ chúng tôi từ khu Bàu Hàm, được lệnh rút quân về vùng Hố Nai, Biên Hòa.
Theo lịch trình sẽ nghỉ dướng quân 3 ngày, để chỉnh đốn đơn vị và để các cơ quan kết nghĩa đến ủy lạo

Image

Ta Biệt Động quân nung rèn chí trai
Khí phách hiên ngang diệt thù xây tương lai .
Ngày 24-4-75, Tiểu đoàn 92/BĐQ chúng tôi từ khu Bàu Hàm, được lệnh rút quân về vùng Hố Nai, Biên Hòa. Theo lịch trình sẽ nghỉ dướng quân 3 ngày, để chỉnh đốn đơn vị và để các cơ quan kết nghĩa đến ủy lạo (nhưng chúng tôi có nghỉ bao giờ đâu). Suốt từ tháng 11-74 cho đến nay, tiểu đoàn thường xuyên tham dự hành quân và tùng thiết cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh, như Chiến đoàn 312/Thiết Giáp/LĐ3KB, do Trung Tá Dương Kều làm Chiến đoàn trưởng (ông Trung Tá này cao lêu nghêu do đó mới có biệt danh Dương Kều)

Chúng tôi và CĐ 312 di chuyển từ vùng Tân Uyên, Biên Hòa đến Gò Dầu Hạ, rồi Bắc quận Khiêm Hanh, Truông Mít, rừng cao su Suối Sâu (nối liền với quận Dầu Tiếng) như cơm bữa. Sáng còn ở rừng Tân Uyên, chiều ngủ đêm ở vùng Gò Dầu Hạ. Nhưng có một điều tôi không hiểu nổi, cứ 4 ngày tiếp tế một lần do sĩ quan Hoả thực hướng dẫn. Trong chuyến tiếp tế, có lúc được thêm mươi người lính đi phép về đáo nhậm tiền tuyến, chuyện này là chuyện thường của Tiểu đoàn – Tuy nhiên, tôi không hiểu nổi là mỗi lần tiếp tế thường có vài người vợ con lính ở trại gia binh tháp tùng. Tôi thấy khó chịu vì không giữ được bí mật quân sự. Lẽ dĩ nhiên, là Tiểu đoàn trưởng có rất nhiều âu lo cho đơn vị mình. Khi nào tôi cũng mong muốn mình đem tiểu đoàn đi hành quân, quân số tối đa là 540 người, khi mình về thì cũng đem đủ người về (không phải tôi là người yếm thế). Sung sướng nhất là thấy gia đình vợ con lính ở trại gia binh tràn ngập hạnh phúc – nhưng có khi nào đủ đâu – Như vậy, đời lính chyện chẳng may xảy ra hàng ngày, nên quá tầm thường đối với họ

Các anh có nghĩ rằng khi Tiểu đoàn hành quân, dừng quân nhận tiếp tế, đêm về, thì thế nào đi nữa cũng có một vài gia đình lính, quây quần quanh một chiếc poncho, che nắng che mưa cho chính họ và gia đình họ – Thú thật với các anh, tôi không thể cầm nước mắt và nghĩ rằng, sao quê hương mình lắm khổ đau do bọn CS gây nên làm vậy !

Những người lính, họ cũng hy sinh vì quê hương, hy sinh vì cấp chỉ huy, hy sinh cho gia đình, để mong rằng con của mình được đi đến trường ê a như những đứa trẻ khác. Nhưng ước nguyện đó có thành không ? – Thưa các anh, tôi dám nói là không thành, vì người lính chỉ biết rằng hôm nay mình còn sống và luôn cầu nguyện như vậy. Không một ai trong chúng ta biết ngày mai sẽ ra sao. Hôm nay tôi ngồi viết lại những dòng chữ này là một may mắn cho gia đình tôi, phúc đức đó âu chũng có kẻ nhận được và cũng có kẻ không. Làm trai thời loạn, tôi cũng như những bạn khác, cầm súng để bảo vệ quê hương. Trong chúng tôi,không một ai nghĩ mình là những con dê tế thần “chính trị” cả. Nếu có người nghĩ như vậy, chắc chắn rằng không có một chiến trận hào hùng nào mang lại cho họ khi kết thúc. Tôi đã đi hơi xa rồi đấy – Trở về với TĐ92/BĐQ…

Một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu chuyển qua binh chủng BĐQ – Được gọi là Tiểu đoàn Biên Phòng, kể từ ngày 30-11-1970. Gọi là Tiểu đoàn, nhưng quân số không quá 300 người, kể cả các sĩ quan do Lực lượng Đặc biệt chuyển đến – Tiểu đoàn 92/BĐQ quá son trẻ, đóng quân tại căn cứ Tống Lê Chân, một điểm chiến lược để ngăn chặn nguồn tiếp tế của VC vào khu Tam giác Sắt, cũng như án ngữ vùng Mỏ Vẹt, mà cục R của VC đóng bản doanh. Trại Tống Lê chân, một trong những trại được thiết lập dọc theo biên giới Việt-Miên, thuộc lãnh thổ Vùng 3CT – Vị trí trại Tống Lê Chân nằm giữa hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long .

Tiểu đoàn 92/BĐQ cũng bị nhiều tổn thất đáng kể, khi rút quân ra khỏi tiền đồn Tống Lê Chân, nơi mà VC đem cả Sư đoàn/Trung đoàn chủ lực, bao vây một thời gian dài 311 ngày. VC nghĩ rằng thế nào cũng tiêu diệt được TĐ 92/BĐQ – Nhưng trên thực tế, TĐ 92/BĐQ vẫn sống và sống đến ngày 30-4-75. Trung Tá Lê Văn NG…người tiền nhiệm đã nghiên cứu và đề nghị Tiểu đoàn triệt thoái vào đêm 11-4-74. Cuộc rút quân được thi hành rất bí mật, giờ “G” là yên lặng vô tuyến để địch không phát giác được đơn vị khi rút lui. Đến khi VC hay được thì TĐ đã rời xa căn cứ – Cuộc rút quân lịch sử này có cả hai phi hành đoàn trực thăng của Căn cứ KQ Biên Hòa bay vào tiếp tế, bị bắn rơi không thể ra được. Mãi đến sáng ngày 12-4-74, vào khoảng 09h00 sáng, BTL/Quân đoàn III/QK3 mới bắt được liên lạc với TĐ92/BĐQ trên hệ thống hành quân , khi này Tiểu đoàn chỉ cách Chân Thành khoảng chừng 5 cây số – Cuộc rút quân xuyên qua rừng rậm, dưới sự rình rập của địch quân, bất cứ lúc nào cũng có thể bị tấn công.

Trong cuộc rút quân lịch sử này, Tiểu đoàn đã chạm súng và đoạn chiến với địch và đã có thêm 14 binh sĩ tử thương và 34 bị thương. Cuối cùng TĐ đã về tới Chân Thành, chúng ta có thể nói đây là một phép lạ, tất cả các thương binh và tử thương binh, đều được mang vê đầy đủ. Riêng chỉ có 3 binh sĩ chịu ở lại để nghi binh cho Tiểu đoàn đã hy sinh vì Tổ quốc.

Tưởng cũng nên nhắc lại TĐ lúc bấy giờ chỉ vỏn vẹn có 254 chiến sĩ BĐQ, 4 binh sĩ Pháo binh, 12 Lao công đào binh chiến trường và 7 nhân viên thuộc hai phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi. Tổng cộng 275 người, nhưng thật sự tham chiến chỉ có hơn 100 người, còn lại là thương bệnh binh, khả năng chiến đấu đã bị yếu đi rất nhiều vì bị vây hãm quá lâu ngày .

Tiểu đoàn 92/BĐQ đã làm rạng danh QLVNCH nói chung và binh chủng BĐQ nói riêng với bốn chữ “VÌ DÂN QUYẾT CHIẾN” . VC cứ tưởng rằng TĐ 92/BĐQ dễ bị tràn ngập, khi đã bị bao vây gần cả năm trời, thiếu thốn mọi thứ , thật là một miếng mồi béo bở cho chúng. Nhưng miếng mồi đó đã thoát hiểm một cách thần tình, làm chúng sững sờ, tiếc nuối.

Khi về đến Chân Thành và vài tuần sau đó BCH/BĐQ/QK3 đề nghị cho TĐ đi học bổ túc đơn vị tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Đây là một dịp để Tiểu đoàn được bổ sung quân số, tái trang bị cũng như huấn luyện bổ túc đơn vị. Lúc này TĐ được giao cho Trung Tá Nguyễn H… từng làm Trưởng Phòng 3 BCH/BĐQ. Trung Tá luôn có mặt trong các bài học của đơn vị, từ cấp Trung đội, Đại đội đến Tiểu đoàn .

Bốn tuần lễ trôi qua thật mau lẹ, TĐ trở về tham dự những cuộc hành quân tại địa khu của BTL/QĐ3/QK3. Tiểu đoàn nhận nhiệm vụ HQ diệt chốt tại địa bàn quận Phú Giáo, phía Bắc Biên Hòa, giáp ranh với sông Đồng Nai. Sau đó TĐ được lệnh tùng thiết cho CĐ 305 rồi CĐ 312 thuộc BTL/Lữ đoàn 3 Kỵ Binh ở vùng rừng núi Tân Uyên. Ngoài ra TĐ cũng đã HQ vùng Đất Quốc, vùng núi Kỳ Lân đã gây nhiều tổn thất và khó khăn cho VC thâm nhập khu phía Bắc Biên Hòa. Vì vậy, như tôi đã nói trên, TĐ đã di chuyển từ vùng Tân Uyên Biên Hòa, đến vùng Gò Dầu Hạ, thuộc vùng SĐ 25/BB trấn giữ như cơm bữa. Và trong cuộc HQ vào Truông Mít ban đêm, TĐ đã tùng thiết cho Chiến đoàn 312, bị VC phục kích bằng đại liên, B.40, B.41 và AK 47 trên đường di chuyển vào Truông Mít . TĐ và Thiết Giáp đã phản công mãnh liệt, tuy nhiên 1 Thiết vận xa bị cháy vì B.40, các quân nhân TG và BĐQ trên xe đều bị tử thương. Riêng vị Tiểu đoàn trưởng TĐ 92/BĐQ bị thương nặng ở chân phải, nên phải tải thương và tôi đã chỉ huy TĐ từ giờ phút này

Trong một cuộc HQ vào phía Bắc quận Khiêm Hanh, khi TĐ di chuyển ra cùng với CĐ312 (-) bị VC phục kích cấp Trung đoàn. Thật sự mà nói tương quan lực lượng giữa ta và địch thì địch đem cả Trung đoàn để tiêu diệt TĐ này. Cũng may, sáng hôm đo, ĐĐ2/TĐ92 BĐQ đi bên phải, báo cáo thấy có hai đường giây điện thoại và hỏi ý kiến tôi, tôi ra lệnh cắt đứt 2 đường giây điện thoại đó và buộc vào gốc cây sát đất. Vì vật từ điểm phục kích của địch, đến BCH/HQ địch không liên lạc được. Không đầy 10 phút sau thì TĐ và Thiết vận xa chạm địch, quân ta đã phản kích quyết liệt. Trong khoảng thời gian hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, TĐ và Thiết vận xa làm chủ tình hình, VC phải tháo chạy và có vài VC bị bắt cùng khẩu đội 12 ly 7 phòng không. Tổng kết trận phản kích này, chúng ta đã tịch thu được 2 khẩu 12 ly 7 phòng không, 6 B.40, 5 B.41 và 24 AK.47. Cũng là lần đầu tiên trong cuộc chạm súng này, TĐ đã tịch thu được một SA.7 hỏa tiễn phòng không mang vai. Tiểu đoàn đã trả giá 6 tử thương và 24 bị thương, không tính thiết vận xa .

Sau đó TĐ hành quân vào vùng Suối Sâu, đồn điền cao su nối liền với quận Trị Tâm. Địch đã xử dụng súng 82 ly không giật, bắn bay pháo tháp M.48, làm tử thương Thiếu Tá Chi đoàn trưởng và Đại úy ĐĐT/ĐĐ2/TĐ92BĐQ cùng 5 binh sĩ khác. Một kinh nghiệm cho thấy, thiết giáp rất khó khăn khi vào rừng cao su. Tuy ĐĐT/ĐĐ2 tử thương, nhưng vị Thiếu úy ĐĐP đã giữ vững tinh thần binh sĩ và ĐĐ3 đã ở bên cạnh, cùng nhau phản công, kết quả thu lượm được 5 B.40, 6 AK.47. Sau trận này, TĐ di chuyển về vùng Long Khánh, gần ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn đã có mặt ở ấp Bàu Hàm và núi Sóc Lu. TĐ luôn bị VC bám sát để tiêu diệt, nhưng với tinh thần bất khuất và nhờ vào tin tình báo chiến thuật của P.7, Tiểu đoàn đã ngăn chặn kịp thời những cuộc tấn công của địch vào ban đêm.

Trong đêm 26-4-75, VC đã tấn công Trường Bộ binh Long Thành. Tiểu đoàn cùng TĐ 64/BĐQ/BP được lệnh giải tỏa Trường Bộ binh và quốc lộ từ trường Bộ binh đến Long Thành .

Những đoàn người chạy loạn từ quận Long Thành về Biên Hòa và Sàigòn là trở ngại lớn lao cho Tiểu đoàn. Tin tức người chạy loạn cho biết, quận Long Thành đã bị VC tràn ngập. Đoạn đường từ Trường Bộ binh đến quận Long Thành vào khoảng hơn 12 cây số, nhưng không thể tiến được. Chiều ngày 27-4-75, Tiểu đoàn được điều động về vùng Hố Nai và trông cảnh phi trường Biên Hòa đốt cháy mà lòng thắt lại. Cho đến sáng ngày 28-4-75, Tiểu đoàn tham dự một cuộc họp hành quân (chót) tại trại Lữ đoàn 3 Kỵ Binh. Sau khi họp xong, vị Tư lệnh V3CT, trước khi lên trực thăng đã nói: “Kể từ giờ phút này, có việc gì thì các anh cứ hỏi Thiếu Tướng KH…” .

Chiều ngày 29-4-75, Tiểu đoàn đã tham dự một trận đánh, tôi cho là rất ngoạn mục: Làm sao phải chiếm được cầu Hang Biên Hòa – Trong lúc này, cầu Hang đang bị một Trung đội VC đóng chốt – Không ngoạn mục sao được, dân chúng vùng Tân Vạn, toàn là lò gạch, đối diện với hậu cứ Tiểu đoàn chạy dài ra tới ngã ba xa lộ Biên Hòa . Dân chúng vùng Tân Vạn trước giờ chỉ biết hậu cứ Tiểu đoàn ở gần cầu mới Biên Hòa, họ chưa thấy BĐQ đánh giặc, đã kéo nhau ra xem TĐ92/BĐQ đánh chiếm cầu Hang. Binh sĩ TĐ 92/BĐQ đã tiến hàng ngang và yểm trợ rất chính xác, cho các tay xử dụng lựu đạn diệt chốt – Mỗi chốt của VC đã bố trí 1 B.40 và 2 AK.47 hầm trú ẩn là chữ V ngược – Khi nhổ xong những chốt ở cầu Hang, TĐ đã có 1 tử thương và 6 bị thương, đều được di tản về bệnh viện Cộng Hòa .

Tối ngày 29-4-75, dừng quân tại cầu Hang, Biên Hòa, tôi không sao chợp mắt được. Theo lịch trình BTL/QĐ3/QK3 sẽ rút khỏi Biên Hòa lúc 1 giờ đêm – Tôi nhắc nhở ĐĐ đóng quân ở cầu Hang phải cẩn thận khi đoàn xe đi qua – Đoàn xe qua cầu cùng với tiếng loa VC kêu gọi các Binh sĩ BĐQ nên đầu hàng .

Ngày 30-4-75 như các bạn và các niên trưởng đã biết, Tiểu đoàn cùng chung số phận ấy – Hạ màn.

K.T. 8-04
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Bút ký Mũ Đỏ, Mũ Đen

Đoàn Phương Hải
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Đức Dũng, và những anh hùng Mũ Đỏ, Mũ Đen đã vị quốc vong thân tại Damber.

Gửi N/T Bùi văn Lộc – Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh… đã tham chiến tại Damber để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.

Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng Sản Nga, Tầu, Cộng Sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.

Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp Tết Mậu Thân, trên “Đại lộ kinh hoàng”, trên phố trên nhà, trên ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão lửa chiến tranh.

Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng Cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy lùng tiêu diệt.

Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia. Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích, tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng Sản Việt Nam.

Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung Tá Nguyễn Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.

Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn Cộng Quân bao vây căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến biên giới Việt Miên.

“Song kiếm trấn ải” 11 Dù tiến quân vào căn cứ trong tiếng reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị Cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.

Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức lòng binh sỹ, mang khí thế mới về cho đơn vị.

Thừa thắng xông lên 2 Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.

Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hoả lực Pace ngay sát biên giới Việt Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất Kampuchia.

Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa “ăng ten” ngắn, dài, một người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn Trưởng TĐ11/ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.

– Niên trưởng “Đại Lộc”, lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ này vào Damber, chắc gay lắm phải không?

– Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn tôi và Mũ nâu Biệt động quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung đoàn Cộng quân tại “Miếu ông Sành”. Kỳ này mình phải nghiền nát Damber ra mới được!

Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 18 Kị binh, Thiếu Tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.

Xếp Mũ đen với biệt danh “Tầy Quầy”, lừng danh trận mạc trong binh chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi.

Tình tự Võ Bị từ ngày nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao hơn, nhưng vẫn một điều “Niên trưởng, hai điều Niên trưởng” xưng hô với xếp Mũ đen.

Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực thăng xuống ngay trận địa.

Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đ/T Khôi bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần, tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 Cộng quân đang có mặt tại Damber.

Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối trống với rất nhiều gò mồi, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn cho chiến xa di chuyển.

Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân.

Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió nổi bật trên nền trời.

Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.

“Mê Linh” Lê văn Mễ, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M 113 giải tỏa, thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung Tá Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.

Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào cũng “Anh Năm, Anh Năm” xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp bậc.

– Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung Tá, lúc nào cũng xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi như anh em trong nhà.
Image
Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, Ba Đại úy Đại Đội Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22 Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc là “Bắc Đẩu” và “Phi Điểu” ào ào tiến quân trực chỉ Damber.

Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M 41 bẵng qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa. Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113 thì không có gì trở ngại.

Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến trừơng, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.

– Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp nghiền nát chúng tại đây!

Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy cây cao bóng mát, nườm nượp “khách giang hồ” lui tới ghé thăm.

Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch. Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.

“Tubip” Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong, nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình, êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành kia nào ai biết đến chiến tranh!

Qua khỏi Miếu Ông Sành, (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón cối, dép râu vương vãi trên chiến điạ. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.

Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp cao của Quân đoàn ghi nhận.

– Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?

– Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.

Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tíếng mõ văng vẳng từ ngôi chùa gần khu đóng quân.

– “Khều”! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?

– TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung Tá Thoàn là mũi xung kích cho Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng.

Có đêm mới 2, 3 giờ sáng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến thắng lớn.

Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.

Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!

Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy lạy như tế sao.

Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.

Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt Cộng nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!

Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!

Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người lính Nhảy dù đứng nhìn bầy trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi trên một quê hương xa lạ!

Image
Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (phải), Tiểu đoàn trưởng cùng tác giả, Đại Uý Đoàn Phương Hải (trái), sĩ quan hành quân,
thuộc tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tại Damber, Campuchia 1971.
Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn kia cũng đang run sợ khi bom đạn đốt hừng hực đốt cháy quê hương!

Thấy dân làng và bầy trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi đang làm độc trên thân thể.

Anh Năm, “Đại Lộc”, ra lệnh cho tiền trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành quân.

Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.

Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao su, thè lươĩ liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt, mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới sót sa tội nghiệp làm sao!

Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái thơm thơm của dầu săng khi lại gần chiếc xe nhà binh.

Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và mấy chủ tiểu trên chùa.

Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn, tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam..

Quê hương tôi sao quá đọa đầy! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em miền Bắc!

Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn!

Nếu vương quốc Cao Miên không cho phép Cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người linh miền Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!

Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy múa lung linh trên pông sô, bên tiếng hót trong cao của bầy chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin may mắn cho đơn vị khi bứơc vào chùa giã biệt vị sư già.

Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hoả lực Hồng Hà để trở về quê mẹ. Hình ảnh dân làng và bầy trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên lũy tre.

Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức nhột nhạt khó chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và săng nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.

Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo của địch.

May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ.

Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào xạ kích, đánh bom trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.

Mấy thiết xa M48 chất đầy săng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm săng, bơm dầu cho chiến xa.

Phi hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để chờ trực thăng bốc ra.

Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.

“Tubip” Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với ông bạn Bác sỹ quân y bên Thiết giáp.

– Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào cũng ầm ĩ đầy mùi săng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia Budwiser và bia 33)!

– Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, “rang muối” gần chục xe rồi đấy ông ơi !

Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống B40 ngay trước đầu xe.

Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì bỗng choàng mình tỉnh giậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng cày tung đất đá ngay sát bên tai.

Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82 nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi hái tử thần sé gío bay đến vị trí đóng quân.

Mặc dầu đã qúa quen thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến. Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trứớc, đằng sau, bên trái, bên phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!

Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe. Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên canh Trung tá Bảo cũng đang ôm ngực chống tay, dựa vào thành xe.

Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong máy, “Bảo Ngọc” chụp ống liên hợp liên lạc với “Đại Lộc” và các đại đội ngoài phòng tuyến.

Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố trí theo bờ suối, sát đường.

Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra điểm hẹn trước khi trời sáng.

Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên đầu địch.

– Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao sẽ dùng chiêu “Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung” mà địch vẫn thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt sạn đạo Damber. Công trường 7 Cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong trận thư hùng quyết tử này!

Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.
Image
Ban Tham Mưu/Hành Quân chiến trường Damber 08/1971
Có tiếng C 47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng.

Vừa chui ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.

– Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!

– Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái đầu!

Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.

– Đệ nhất phong thủy miền Nam, “Diễn tiên sinh”, khi được xếp lớn đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội. Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!

– Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến “Diễn tiên sinh”, đó anh Năm!

– Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì nữa!

Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác, bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.

Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy “thảm” B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu tiên pháo binh, không quân cho trận điạ.

– Sáng rồi, mình “thượng đài” nhập trận đi anh Năm!

– Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.

-Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí và tài liệu của địch.

Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa trắng ngả nghiêng uốn mình theo gío, cảnh vật im vắng trong làn sương mỏng ban mai.

Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm, căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an tòan của đủ loại vũ khí chờ Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu.

Tôi chợt nghĩ đến gia đình, một thoáng Saigon, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.

Sau khi đã bàn thảo với “Đại Lôc” xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít sé gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông “Lước Hốc Môn” từ nhiều vị trí khác nhau “T.O.T” chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá, bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau. Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.

Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị trí Bắc quân.

Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa.
Image
Từng đoàn khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hàng chuỗi bom chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam và chiếc nón bay của các phi công bạn.

Rừng cây bùng lên trong biển lửa khi bom “Napalm” chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng.

Phòng không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như pháo bông dầy đặc quanh thân tầu.

Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực, cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng đạn bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và lửa.

Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hảo lực ào ào xung phong vào trận địa.

Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt tấn công.

Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37 ly nhả đạn như mưa chống trả.

Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh, Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.

Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.

“Tubib” Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang cấp cứu cho các thương binh.

Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận chiến cũng vừa tàn.

Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen.

Dăm ba chiếc nón sắt rằn ri móp méo lủng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gío chiều.

Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng Đại Đội Trưởng/ Đại đội 111/ TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.

Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn khoá trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời xanh… Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu…

“Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.

Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!

Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ, mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa ttrong đám bạn bè, và thường bị các cô trêu chọc.

Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng, khóa 22 Võ Bị. – Người “Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi ra trường”

Người sỹ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏ anh em!!!

Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.

Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ mãi mãi vắng thiếu bóng anh!

Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người chết ngủ vùi cạnh bên nhau.

Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói súng chiến trường lắng đọng trong tim.

Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe rất lạ tai!

Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên tay anh.

Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ kéo về. đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng, cây trái, sẽ xoá mờ đi vết tích chiến tranh.

Tôi nằm đong đưa trên võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận chiến.

Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.

Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mặc kẹt trong xích xe bắt đầu xông lên khó chịu.

– Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!

– Thì cũng quen đi thôi!

Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.

– Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết còn đánh nhau cho tới bao giờ! “Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp ma”!

Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đòan quân rời vùng, tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ 7.

Mấy con qụa đen cất tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài cánh đồng.

Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Saigon, nhớ vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia đình mờ mịt cuối phưong Nam…

****

Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã, hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương… lấy xương trắng máu đào để bảo vệ miền Nam.

Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ huynh trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.

Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 Cộng quân.

Đai úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐTT112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà, nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài Quảng Trị. trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.

Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ “Phi Điểu” hy sinh trong trận ác chiến tại đồn điền Krek, Kampuchia.

Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại Hải Lăng!

Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha trận mạc.

Xin thắp nén hưong lòng để tuỏng nhớ các Anh

Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời gian từ hơn môt phần tư thế kỷ. Nhưng vì “Nhớ bạn bè, nhớ anh em”, nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ huynh của một thời chiến trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.

Memorial Day, Bắc Cali
Đoàn Phương Hải
dailien
Posts: 2451
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Trả nợ ân tình

Phạm Tín An Ninh

Đầu mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát và ngắm trời xanh.
Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông.

Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn.
Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo:
– Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi

Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện một con người khí khái và nghị lực. Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.

Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình.
Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.
Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.
Sau đó, hững ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.

Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi, anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp nhà cửa bếp núc.
Mấy năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên thân thiết như anh em.

Quen biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai trai một gái.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một thời gian đến định cư ở vùng này.

Nhìn tấm ảnh, tôi khen:
– Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương.
Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ:
– Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi.
Tôi tò mò, không kịp giữ ý:
– Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam?
– Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston.
Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích:
– Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979.
Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp:
– Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó.
Tôi cố tìm một lời an ủi:
– Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn?
Anh cười:
– Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng.
– Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì.
Anh trầm ngâm:
– Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà.
Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà:
– Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá.
– Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi.
– Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được.
– Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh.
– Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết. Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu.
– Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi
Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
– Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.
Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi.

Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi. Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà. Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.

Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.

Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười. Tính anh như thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa:
– Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết.
Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm:
– Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?
Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và nhân cách của mình.

Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”
Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.

Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu. Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau. Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn.
Anh cười:
– Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!”
Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.

Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe.

Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về thời gian chị đã có lỗi lầm.

Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị:
– Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em.
Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.
Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.
Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản.
Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.

Phạm Tín An Ninh
thienthanh
Posts: 3384
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Mùa Hè Đỏ Lửa

Bùi Đức Tính

Hạ đến mang theo nắng ấm. Nắng ấm trở về trong mong đợi, sau tháng ngày dài qua mùa tuyết rơi, gió lạnh. Lá thêm xanh thẫm nhựa sống từ ánh mặt trời. Nắng ấm cho cánh hoa rực rỡ màu, cho làn da trần được đậm sắc. Không một ngày có mưa rơi từ giữa tháng sáu sang đến tháng bảy. Sang tháng bảy, trời càng gay gắt nắng, có ngày nóng đến 26 độ C. Nắng nơi đây không nóng bằng ở Việt Nam, nhưng cũng đủ cháy rát lớp da trần. Không biết áo lụa Hà Đông ngày nào của Nguyên Sa có làm cho nắng nơi đây “chợt mát” hay chăng? Mùa hạ nơi đây không giống như ở Việt Nam. Nắng ấm nơi đây có cái gì đó thiếu vắng không sao tìm lại được của nắng Sài Gòn trong ký ức. Người xa quê hương ngoảnh nhìn về phương Nam bên kia bờ Thái Bình Dương, xôn xao nhớ thương như Lê Uyên Phương “Khi Xa Sài Gòn”

“Sài-gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sài-gòn bây giờ ai khóc thương ai
Sài-gòn giới nghiêm che kín đêm dài
Sài-gòn khói bay, Sài-gòn nắng đổ
Sài-gòn đã buồn như trời sớm mai”


Sớm mai, chưa thấy ánh mặt trời. Cơn mưa đêm hôm qua có làm dịu bớt nóng bức kéo dài suốt cả tháng dài, nhưng không đủ để dập tắt tất cả các đám cháy rừng trên khắp tỉnh bang. Đã có hơn ngàn khu rừng bị hoả hoạn. Lửa thiêu huỷ một diện tích cây rừng cùng nhà đất lân cận rộng gần 9000 cây số vuông. Cái nóng gay gắt suốt nhiều tuần dai dẳng đã nung cây cỏ khô khốc, trở thành những mồi lửa, chờ đợi lửa để bừng cháy. Ngoài các nguyên nhân thiên nhiên, rừng bị cháy còn do con người gây ra, vì tàn thuốc hút bị quăng liệng bừa bãi bởi những kẻ vô tâm.

“The next stop is King George Station!…”

Tiếng nói trên loa êm nhẹ, vừa đủ lớn để đánh thức những người đang mơ màng gật gù ngủ, để biết là sắp đến trạm King George. King George Station là trạm cuối cùng của tuyến đường Expo Line. Expo Line là một đoạn đường thuộc SkyTrain, dài 36.4 Km, gồm 24 trạm. SkyTrain là hệ thống vận chuyển tốc hành hoàn toàn tự động dài nhất ở Canada và trên thế giới. SkyTrain còn được biết đến trong kỷ thuật vận chuyển tự động có trên thế giới với Skybridge, cầu bắt qua sông Fraser có đường dây cáp dài nhất dành riêng cho xe điện. Expo Line khởi từ trạm Waterfront ở Downtown của thành phố Vancouver, chạy qua các thành phố Burnaby, New Westminster để đến trạm sau cùng là King George thuộc thành phố Surrey. Tuy không bằng ngồi trên “roller coaster” của tuổi trẻ, nhưng cũng rất thú vị đối với những du khách trung niên; khi đứng nhìn qua khung kính ở đầu toa, xem đoàn xe điện bốn toa lao đi với vận tốc có lúc đến 80 km, uốn lượn từ đường rầy cất cao bên trên đường phố chui xuống lòng đất, quanh co xuyên qua đường hầm ở bên dưới thành phố rồi lại phóng trở lên và vượt qua sông Fraser trên Skybridge để sang Surrey.

Từ đường rầy xe điện cao bên trên mặt đất nhìn xuống, thành phố Surrey trong buổi sáng sớm cuối tuần thật yên bình và tươi mát. Đoàn xe nghiêng nghiêng uốn cong để lượn quanh sang trái, Holland Park bên dưới hiện ra với màu sắc và khung cảnh của ngày lễ hội mùa hè. Hàng hàng lớp lớp lều trắng rộng lớn dành cho gian hàng trong hai ngày Hội chợ Đa Văn Hóa của Surrey, Surrey Fusion Festival. Hàng năm có đến hơn 40 quốc gia tham dự Hội Chợ này. Đây là hội chợ quy tụ nhiều sắc dân, đa văn hoá thành công và lớn nhất ở Canada.

Năm nay, cũng còn sự hiện diện của gian hàng dưới tên gọi Việt Nam!

Cộng sản lợi dụng văn hoá để trục lợi cho mưu đồ chính trị. Họ trưng bày cờ cộng sản của Việt Nam và của bọn quan thầy cộng sản Tàu, như để giới thiệu với thế giới: Việt Nam bây giờ là một tỉnh bang của Trung Cộng!

Có phải chăng những kẻ phục vụ cho đảng cộng sản đã bán lương tri, hãnh diện với kỳ công bán nước?

Cho dù họ từ đâu đến hay chỉ là những người dân địa phương, vì lý do nào đó mà can tâm phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam, đem cây cờ đỏ sao vàng cấm vào vết thương chưa bao giờ lành của những người đã vượt thoát chế độ cộng sản. Sự hiện diện của màu cờ máu man rợ trong ngày vui lễ hội đã là những tàn thuốc lá cháy đỏ của những kẻ vô tâm quăng vào niềm đau xót khô cằn và đốt cháy yên bình trong lòng người tỵ nạn cộng sản nơi đây.

Mùa hè năm 76, miền Nam Việt Nam cũng đỏ lửa. Những ngọn lửa bừng cháy từ tháng Tư năm trước chưa tàn lụi lại chợt bùng lên đỏ rực.

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, danh xưng Sài Gòn của thủ đô miền Nam bị cộng sản bắt đổi tên!

Sài Gòn phải mang cái tên của kẻ đã từng nộp đơn xin cộng tác với chế độ thực dân Pháp để rồi bị Pháp từ chối, bèn quay sang phục vụ cho đế quốc đỏ; kẻ làm tay sai cho quốc tế cộng sản để thực hiện mưu đồ bành trướng chế độ cộng sản bản xứ ở các nước Đông Dương, tại Việt Nam. Sài Gòn phải mang tên của con người đã đẩm máu đồng bào bị giết một cách man rợ trong các cuộc đấu tố, thanh trừng. Không riêng tên gọi Sài Gòn, rất nhiều đường phố quen thuộc, mang tên những danh tướng trong lịch sử của dân tộc như Nguyễn Huệ, Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trần Quốc Toản, … cũng bị thay thế bằng những cái tên xa lạ, chỉ gắn liền với chế độ cộng sản. Ngay cả, Công Lý và Tự Do là hai danh từ mang nhiều ý nghĩa cao đẹp, được nhân loại quý trọng và người dân hy sinh xương máu mình để bảo vệ công lý và tự do của quốc gia. Thế nhưng, công lý và tự do lại là hai trong những điều làm cộng sản sợ hãi và căm thù; sau khi cưỡng chiếm miền Nam bọn chúng đã nhanh chóng thay tên hai con đường Công Lý, Tự Do ở Sài Gòn thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng Khởi.

Trong phút chốc, lịch sử trăm năm của Sài Gòn đã bị cộng sản thiêu huỷ.

Mùa hè lại đỏ lửa!

Từ khi quân cộng sản cưởng chiếm miền Nam năm 1975, dòng người vượt rừng vượt biển vẫn nối nhau. Không chỉ ở miền Nam, mà từ khắp 3 miền trên quê hương Việt Nam, người ta liều lĩnh ra đi, bất chấp đòn thù tra tấn, tù đày, kể cả phải đánh đổi tính mạng để được sống tự do. Lắm người từ năm 1954 đã từng phải bỏ thân quyến cùng thôn làng ở miền Bắc để chọn cuộc sống tự do ở miền Nam. Không ít người đã từng vượt qua hiểm nguy để trốn thoát các đồng chí cộng sản của mình để hồi chánh, tìm về với chính quyền miền Nam tự do.

Trong đoạn “TỪ ĐỘNG ÔNG ĐÔ ĐẾN ĐỒN CẢNH SÁT DÃ CHIẾN”, trong Hồi ký Tôi Tìm Tự Do, Hữu Nguyên kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của ông khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi ông cương quyết đi tìm tự do vào mùa hè đỏ lửa năm 1972.

“Đầu năm 1972, cộng sản Hà Nội một lần nữa, chuẩn bị ráo riết mở chiến dịch xâm lăng VNCH thật quy mô. Tại mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên, Cộng sản tập trung 3 sư đoàn chính quy trong đó có sư đoàn 324B. Lúc đó tôi chỉ là người lính binh nhì thuộc đại đội thông tin hữu tuyến của sư đoàn 324B. Đơn vị của tôi được lệnh tiến lên Động Ông Đô, một căn cứ pháo binh của QLVNCH lúc đó đã triệt thoái. Tuy trước đó khoảng nửa năm, tôi đã theo sư đoàn 324B vô tận vùng rừng núi Nam Lào, rồi trở ra Bắc, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy quân trang, quân dụng của QLVNCH. Và chính những cuốn sách truyện, những trang báo, những tờ tạp chí, cùng những tấm hình, những vật dụng cá nhân, vứt bừa bãi trên Động Ông Đô vào thời gian đó, đã giúp tôi thấy được cuộc sống tự do của người dân, người lính VNCH. Điều này đã giúp tôi quyết định đi tìm tự do.

Điều quan trọng nữa khiến tôi đi tìm tự do là lúc đó, tôi thiệt ngạc nhiên và hoảng sợ khi chính mắt tôi chứng kiến những người bộ đội thuộc đại đội bộ binh, không phải binh chủng pháo binh, xúm vô mầy mò, sử dụng những khẩu pháo 105 ly, bắn bừa bãi về phía thị xã Quảng Trị. Tôi không biết những viên đạn pháo 105 ly trong những ngày “mở màn mùa hè đỏ lửa” đó, có gieo tai tóc tang thương cho người dân Miền Nam nào không, nhưng chỉ nhìn những người lính bộ đội hò hét, cười đùa, nhảy múa bên cạnh 3 khẩu pháo 105 ly, coi những phương tiện giết người bừa bãi đó như những đồ chơi, tôi hiểu rằng, cuộc chiến tranh của người cộng sản không những là cuộc chiến xâm lăng, mà còn là cuộc chiến gây tội ác bừa bãi. Chính những gì tôi được chứng kiến trong những ngày ngắn ngủi tại Động Ông Đô, đã khiến tôi thêm quyết tâm rời bỏ hàng ngũ cộng sản bằng mọi giá.

Nhưng rời Động Ông Đô như thế nào để không bị chỉ huy và những người bộ đội khác phát hiện? Và trong hoàn cảnh hai bên đang giao tranh quyết liệt như vậy, liệu khi gặp tôi trong bộ đồ bộ đội, nón cối dép râu, những người lính, người dân VNCH có chịu để tôi sống hay không? Nếu tôi đi ban ngày, tôi dễ dàng trở thành mục tiêu cho cả hai bên. Nếu tôi đi ban đêm, sự bất ngờ xuất hiện trong đêm tối của tôi cũng cực kỳ nguy hiểm. Và liệu tôi có nên mang theo súng, lựu đạn, hay chỉ đi chân tay không? Nhất là chiếc nón cối trên đầu là dấu hiệu vô cùng nguy hiểm, khiến tôi có thể ăn đạn dễ dàng, trước khi tôi kịp thốt nên lời… Từ Động Ông Đô, ban ngày cũng ban đêm, tôi nhìn về hướng đông và thấy được thị xã Quảng Trị. Ban ngày thì nhìn thấy thị xã ở xa tít tắp chân trời. Ban đêm thì ở đó là cả một vùng ánh sáng hắt lên, đầy quyến rũ. Tôi giống như một con thiêu thân, khao khát ánh sáng tự do. Và tôi hiểu, với tấm lòng chân tình của tôi, với quá khứ cuộc đời đau khổ của tôi, với những kinh nghiệm đau thương của một người cha bị đấu tố địa chủ, và 5 người chị ruột đang ở trên mảnh đất Miền Nam, tôi tin tưởng, một khi tôi đặt chân trên vùng đất tự do của Miền Nam, tôi sẽ được đối xử tử tế trong vòng tay thương yêu của những người bạn, những người anh, người chú, người bác…. Tôi là con thiêu thân đam mê tìm đến vùng ánh sáng tự do, nhưng sẽ không chết gục như con thiêu thân, mà sẽ được lột xác để hóa thành bướm…”

Từ trạm King George, nhìn sang bên kia đường, người ta đã thấy cờ vàng tự do cùng những biểu ngữ phản đối sự hiện diện của cờ cộng sản Việt nam trong Surrey Fusion Festival. Cờ vàng, biểu tượng của tự do, tung bay trong gió từ cổng vào đến gian hàng bên trong hội chợ của Vietnamese Canadian Community, Cộng đồng người Việt Nam tại Canada. Màu cờ tự do rực sáng ánh vàng, vươn cao ngang hàng quốc kỳ của các quốc gia hiện diện. Cờ vàng trên quốc phục trong đoàn diễn hành của Vietnamese Canadian Community.

Không có cờ đỏ sao vàng trong đoàn diễn hành năm nay!

Những tuổi trẻ bị hổ thẹn, lúng túng che dấu mặt khi phải diễn hành với cờ đỏ sao vàng năm trước, năm nay đã từ chối diễn hành cho Việt nam cộng sản. Chế độ cộng sản đã bị nhân loại vạch trần tội ác và chính người dân trong nước căm hờn, khinh bỉ.

Mùa hè đỏ lửa!

Lửa thiêu đốt sinh mạng và tài sản.

Nhưng lửa cộng sản bạo tàn không bao giờ huỷ diệt được niềm tin và chính nghĩa của tự do và nhân quyền cho Việt Nam.

Bùi Đức Tính
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests