Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Lên núi tìm chồng

Trần Thị Đông Phương
Sáu năm dài thật dài, ngày này qua tháng khác, tôi mong ngóng tin tức của chồng, biệt mù, không một ai trong tất cả những người đàn bà có chồng đang ở trại tập trung cải tạo, biết chồng mình sống ra sao, khỏe, yếu như thế nào - mù tịt. Họa hoằn, tôi mới nhận được một mảnh giấy, với vài dòng như công thức định sẵn. Bao giờ cũng là....anh học tập tốt..... lao động tốt....Em yên tâm, cách mạng rồi sẽ khoan hồng cho anh về với gia đình và trở thành người công dân tốt....mỉa mai và trơ trẽn, tôi nhận thấy như vậy - Tôi đang giữ trong túi 4 miếng giấy - Cũng chỉ có bấy nhiêu chữ.

Tôi thu xếp hàng, đem gởi nhà người quen, để về sớm hơn thường lệ. Trong nỗi khốn cùng, tôi cũng gặp được điều may - Chị Liệu, vợ anh Lượng, họ là bạn của gia đình tôi - Anh chị Lượng trước 30-4-75, có tiệm buôn bán xe gắn máy, xe đạp và phụ tùng, thuộc loại lớn ở Ngã Bảy, ngay đầu đường Minh Mạng - Từ lúc 9 giờ sáng ngày 30-4-75, Anh Lượng cũng là quân nhân, chạy ra bến Bạch Đằng và biệt tích đến bây giờ -Thoát hay chết chưa ai biết -Chị Liệu là bạn học của tôi, ở lại với 6 đứa con, tiếp tục bán đồ xe đạp, chỉ là đồ xe đạp thôi, vì nhà cửa kho hàng bị tịch thu - Liệu thương tình đã gọi tôi lên chỗ chị ta, nhường lại cho tôi một số phụ tùng để bán lẻ nơi lề đường - Hai chị em mỗi sáng trải chiếc poncho của chồng để lại, bầy lên đó những thứ phụ tùng xe đạp - Trời cũng còn thương kẻ khốn cùng, nên những chú Bắc kỳ vào Sàigòn vẫn thích tìm mua, nhờ vậy mẹ con tôi vẫn còn được ngày hai bữa cơm ăn.

Tôi về sớm vì con gái lên chỗ tôi bán hàng cho hay: “Mẹ! có thư của Bố, kèm theo phiếu thăm nuôi, Bố dặn cách xin giấy đi thăm, mẹ về coi thì mới biết được”- Sáu năm xa cách, tuy chẳng hề được nhìn mặt một giây, nhưng dù vài chữ tôi vẫn thấy ấm lòng, nhìn nét chữ của anh, tôi hình dung ra khuôn mặt yêu dấu của chồng, nhất là nghe thằng con út đọc thư oang oang, tôi cũng vui được đôi chút và cầu nguyện xin ơn trên che chở cho chồng, cho đồng đội của anh sống sót trở về - Lần này thì đúng là thư thật vì được viết dài hơn một trang giấy - Tuy không được kể lể tâm tình, thương nhớ, khoẻ, yếu - Bù lại, anh hướng dẫn tôi phải làm những gì để được chấp thuận cho đi thăm.

Việc đầu tiên là tôi phải mang thư, giấy thăm nuôi của trại cải tạo gởi về, kèm theo hộ khẩu, đến phường, nơi cư ngụ để được xác nhận là tất cả những thứ mang theo đó là đúng - Tình trạng cư trú của gia đình đúng, là vợ chính thức của anh ấy. Phường chứng thực xong, viết cho mấy chữ giới thiệu lên Quận, để chính thức cấp giấy đi đường, cho phép đến trại cải tạo thăm chồng đang “học tập cải tạo”. Lên tới Quận, lại thêm một lần may mắn, trong lúc ngồi chờ duyệt xét giấy tờ, tôi gặp được các chị cũng xin giấy đi thăm nuôi chồng, hỏi ra thì được biết, các chị ấy là vợ anh Tâm (KQ), vợ anh Bình (BĐQ), chị Đỗ văn Nhĩ (SĐ.18BB) và cô Tuyết, đi thăm hai người anh ruột, anh Lê Hoàng Nghi, cùng trại Lam Sơn, Thanh Hoá. Sau đó Tuyết lại còn đi tiếp ra trại Ba Sao thăm anh hai là Tướng Lê Minh Đảo, chưa lên đường, chúng tôi đã thấy mối cảm thương dành cho Tuyết, lặn lội, cơ cực, đi thăm hai người anh đang trong tù cộng sản, khoảng vài phút làm quen, cùng cảnh ngộ, nên chúng tôi thân nhau nhanh chóng và hẹn nhau mua vé xe lửa, để được đi cùng chuyến và cùng toa xe, để chuyện trò hàn huyên, hy vọng quên vất vả dọc đường.

Có giấy phép cho đi Thanh Hoá thăm nuôi chồng rồi, tôi bắt đầu lo tiền để mua sắm thức ăn, chẳng còn gì ngoài mấy lon gạo, vài ký khoai mì hợp tác xã bán theo hộ khẩu - Vật dụng thì còn cái tủ lạnh, biết bán nó cho ai bây giờ? Nhìn quanh, tôi đang trơ trọi một mình, gia đình chồng thì chưa liên lạc được, suy nghĩ đến đau cả óc, cuối cùng tôi phải cầu cứu mẹ:

- Mợ ơi! tuần sau con đi thăm chồng ở Thanh Hoá, con chỉ còn đúng 30 $ và mấy lon gạo, phải làm gì bây giờ hở mợ! - Mẹ tôi im lặng, suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Con xem có còn cái gì bán được thì bán đi - Mợ sẽ nói các em mày nó phụ mỗi đứa một chút. Cố gắng đi con ạ! - Bố tôi nghe được, ông thở dài, quyết định thật nhanh:
- Đừng lo, Cậu còn cái máy chụp hình Canon, bây giờ cũng chẳng cần đến nữa, cậu cho con, đem lên nhờ cô Liệu quen biết nhiều bán giúp, lấy tiền mà thăm nó.

Tủi thân thế đấy! lấy chồng làm quan, bao nhiêu năm, giờ đây lại vẫn phải dựa trong vòng tay cha mẹ để nương nhờ. Bán chiếc máy ảnh, tôi bán luôn chiếc nhẫn cưới một chỉ vàng đang đeo trên tay. Tạm đủ để mua vé xe lửa và ít đồ khô, theo sự ấn định cho phép của “cách mạng” - Các em tôi được mẹ tôi hô hào, đã xúm nhau mỗi đứa cho ít đồ ăn khô và chút tiền. Tôi tưởng tượng thật nhiều về chuyến đi tìm chồng lần đầu, bao nhiêu ngày đêm mòn mỏi nhớ thương, lo âu và cả hận thù, oán ghét kẻ đã giam cầm chồng tôi - Tôi suy đoán, gặp nhau chắc anh mừng lắm - Tôi sẽ được sờ lên mặt, cầm tay chồng, dù chỉ chốc lát cũng đã cho tôi nhiều an ủi và yên tâm tần tảo nuôi con chờ ngày anh về - Đã sáu năm, cả hai chúng tôi đang bắt đầu vào tuổi già - Chúng tôi cùng ngoài bốn mươi.

Đúng 5 giờ sáng Chủ nhật, tôi và thằng con thứ ba, sau hai chị nó, mang đồ đạc lên ga xe lửa, thật ra đồ thăm cũng chỉ có trong hai cái giỏ đệm (bao bị cói) và một túi nhỏ đựng vật dụng riêng của hai mẹ con, cháu đeo sau lưng - Tới ga, tôi gặp đủ những chị đã gặp ở quận hôm đi xin giấy, ngoài ra còn có các chị đi thăm chồng, nhưng khác trại như Thanh Cẩm, Thanh Lâm, Kỳ Anh (Nghệ Tĩnh) v..v..

Có lẽ đây là lần đầu, nên số người đi ra Bắc tìm thăm chồng khá đông. Chúng tôi không đủ tiền mua vé tàu suốt, nghĩa là chạy thẳng từ Sàigòn, không ngừng các ga nhỏ - Chúng tôi mua vé tàu chợ, thời gian đến sẽ kéo dài hơn vì tàu ngưng nhiều ga, để khách buôn lên xuống. Chúng tôi chen chúc nhau lên tàu, quả thực là vất vả, trong toa, kẻ nằm người ngồi ngổn ngang, đủ các loại hàng, từ thú vật như gà, vịt, lại có cả hai con heo con, cũng được bỏ rọ mang đi - Mùi phân thú, mùi mắm, mùi người nồng cả toa, mỗi lần bị đụng chạm hay xô lấn, lũ gà, vịt kêu réo oang oác, hai con heo cũng eng éc phụ họa - Từ thuở bé, tôi chưa được đi xe lửa lần nào, nay là lần đầu tiên, cảm thấy hơi khó chịu, nhưng tự an ủi:

“Có chỗ cho mình đi là may rồi” - Chị vợ anh Nhĩ thật nhanh nhẹn và mau mắn, chị vượt lên trước, loay hoay thế nào kiếm được một chỗ trong góc toa, chị gọi chúng tôi mang đồ để chung vào một nơi, dễ canh chừng. Chị Nhĩ dặn: “Chị em mình có ngủ thì chia làm hai, một nửa thức giữ đồ đạc, lơ đễnh chúng nó lấy mất”

- Tiếp theo chị ghé tai từng người nói thật nhỏ: “Nếu có tiền hay vàng giữ thật kỹ, coi chừng bị cắt túi đó, mấy thằng móc túi nó lẹ và ma mãnh lắm”.

Chúng tôi cố thu xếp cho nhau để mỗi người có một chỗ ngồi, lúc ngủ thì dựa người trên mấy cái giỏ đồ, hoặc tự gục trên hai gối của mình, nhưng có lẽ không ai ngủ đúng nghĩa, mà chỉ thiếp đi trong cơn mệt, phần háo hức mong gặp mặt chồng, phần lo lắng nên chỉ chập chờn theo âm điệu của tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray. Con trai tôi thì quên cả chật chội, chẳng quan tâm đến mùi hôi hay thơm trên tàu, cháu len ra chỗ hai toa tàu nối nhau, có chỗ cho người đứng, nó đứng giữa hai người đàn ông để an toàn và dõi mắt nhìn say mê cảnh vật dọc đường, chỉ lúc thật mỏi mệt và mỏi mắt, cháu mới trở vào chỗ, tội nghiệp cháu, nó sợ tôi mệt, đói, nên thỉnh thoảng lại nhắc chừng: “Mẹ ăn gì chưa? Mẹ có khát nước không?”

Hành trình khởi sự từ ga Hoà Hưng Sàigòn, đến ga Thanh Hóa vừa mất đúng 3 ngày, 3 đêm, tàu vào ga Thanh Hóa lúc 9 giờ sáng. Chúng tôi vội vàng phụ nhau khiêng vác đồ thăm nuôi xuống, đặt cạnh đường ray. Tất cả đều ngơ ngác, chốn lạ xứ người, chúng tôi lấy thư của chồng ra coi lại, trong đó có chỉ dẫn của trại tù viết trên giấy. Chúng tôi đi về cuối ga, gặp hai tù hình sự do một công an có súng đã đợi sẵn - Một trong hai anh tù hỏi: “Các chị có phải “nà” người đi thăm cải tạo, trong trại “lăm Nam Sơn” (5, Lam Sơn) không?” chúng tôi trả lời đúng, lúc đó người công an mới lên tiếng:

- Bọn tôi đợi ở đây để giúp các chị chở tiếp phẩm vào trại - Hai thằng này sẽ đánh xe trâu đến để xếp đồ lên, chỉ chở đồ đạc thôi nhé, người đi bộ theo sau - Đường khá xa và qua phà nữa đấy. Để tranh thủ, bây giờ là 10 giờ - Đúng 10 giờ 30 ta sẽ về trại - Các chị vào trong lều gần xe trâu nghỉ đi.

Khoảng đường từ Thanh Hóa vào đến trại 5 Lam Sơn thăm thẳm, qua đồng, qua ruộng, hết ruộng đến núi, lại rừng - Nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm, má hồng truân chuyên như thế nào, chỉ đọc, chỉ nghe mà không thấy. Bây giờ, chúng tôi, những người vợ lính đi lên núi, vào rừng tìm chồng, có lẽ cơ khổ và truân chuyên hơn bà vợ chàng hào kiệt của Chinh phụ ngâm khúc, gấp mấy lần. Dọc đường, ai cũng phải ngồi xuống xoa bóp chân mình nhiều lần. Tôi có cảm giác như mấy chục mũi gai đâm vào lòng bàn chân, chị Nhĩ khóc mếu máo:

“Cha ơi! Mẹ ơi! sao lúc nhỏ cha mẹ không tập cho con đi bộ” - Cũng còn may, chúng tôi ai cũng đi giày vải (Bata), nếu đi giày khác chắc chết. Cả bọn ai cũng lặc lè, sắp qụy, duy nhất có con trai tôi, vì tuổi nhỏ, mong gặp Bố, lại được đi xa lần đầu, lạ cảnh, thỉnh thoảng cháu liều lĩnh đu lên sau xe trâu ngồi đỡ vài phút, cũng không bị quở trách, vì thế, cháu có vẻ chưa đau chân và mệt - Cố gắng cách mấy, chúng tôi cũng không thể nào đến trại Lam Sơn kịp trong ngày, đường đi khá xa, có lẽ cũng vài chục cây số, mặt trời đã tụt sau dãy núi phía Tây, dãy đồi thấp, hàng cây hai bên đường bắt đầu nhòa bóng, thỉnh thoảng mới gặp hai, ba người đi thồ hàng, đạp xe vội vã vượt qua hoặc ngược ra ga Thanh Hóa.

Chúng tôi đi thêm được chừng hai cây số, đến một khu phố buôn bán, có ngôi chợ nhỏ đã họp xong buổi sáng. Người công an áp tải cho lệnh hai “tài xế xe trâu” dừng lại nghỉ, đường còn xa, không đi kịp. Họ chỉ cho chúng tôi khu nhà trọ, dặn dò: “ Các chị thuê chỗ ngủ trọ, sáng mai tập trung tại quán nước chè, ta sẽ đi tiếp”.

Mẹ con tôi đã trải qua một đêm chưa bao giờ khiếp hãi đến thế - Bộ ván, chiếc chiếu ước chừng đã khá lâu không được làm vệ sinh, giặt giũ - Thật mệt, nhưng giấc ngủ vẫn không đến với chúng tôi, vì nhiều lý do. Nỗi sợ ám ảnh, phải đối phó với hàng trăm, hàng ngàn con rệp, chị em đành ngồi kể chuyện cho nhau nghe chờ sáng.

Khoảng 12 hay 1 giờ trưa hôm sau thì chúng tôi tới trại 5 Lam Sơn, con đường ngoằn ngoèo, vòng qua dãy núi đá không cao lắm, xuyên qua một khu đất rộng đang canh tác, nhìn từ xa, không ai biết, tới gần, chúng tôi mới nhận ra - Họ là tù, toàn thể là nữ tù, chia thành nhiều tốp, trồng đậu phọng, cấy lúa v...v... Đám người này khá đông, nhưng dường như họ là những bộ máy, lạnh lùng làm công việc của mình, âm thầm như những chiếc bóng, đầu phủ kín bằng những tấm khăn vải để chống nắng. Người cuốc đất, người nhổ cỏ, hoàn toàn lặng lẽ, đến cả hai giám thị công an, một nam và một nữ, như hai pho tượng, ngồi kế bên nhau trên bờ đường. Trên lưng áo vải mỗi người đều có hàng chữ Lam Sơn 5, chúng tôi còn gặp thêm hai toán người đang đập đá để nung vôi - Nhận ra chúng tôi, một vài anh cũng lên tiếng hỏi: “Các chị đi thăm ai?”, nhưng chỉ có thế, vì các anh đã buộc phải im tiếng.

Sau khi làm những thủ tục của trại tù xong, đã vào buổi chiều, hết giờ thăm nuôi, chúng tôi phải chờ qua ngày sau. Người cán bộ phụ trách thăm nuôi, dẫn chúng tôi vòng ra sau căn “nhà việc” (văn phòng) để đến nhà vãng lai - Sáu người ở chung một gian nhà, vách ván, mái ngói, kê ba chiếc giường tre, trong trại tương đối sạch hơn, chiếu còn mới - Họ cho mượn mùng, nếu ai không có, chúng tôi rủ nhau xuống bếp, ngay đầu nhà, có sẵn củi, nồi - củi phải mua mỗi người 5 đồng, nồi cho mượn, vợ Bình (BĐQ) đem lon mắm ruốc xào thịt ra xào lại để tiếp tế cho chồng, tôi cũng xào lại lon gà kho gừng cho khô thêm.

Thời gian chờ đợi, dằn vặt, xao xuyến trong lòng chúng tôi không ít, cứ đứng lại ngồi - Mỗi lần có anh “cải tạo viên” đến, chúng tôi lại rướn cổ nhìn, nhưng vẫn là chồng người ta - Mấy ông tuy là mặc đồ lành lặn, sạch sẽ, nhưng nhìn bóng dáng đi, bộ điệu cố ưỡn ngực thẳng lưng, vẫn chẳng dấu được cái tiều tụy, tàn tạ, trên thân thể. Ai cũng giống nhau, sự hành hạ qua năm tháng đã làm họ mất thật nhiều phong độ, cố giữ cho thẳng mà vẫn xiêu vẹo - Giờ này qua giờ khác, lại mất một ngày nữa chờ. Chúng tôi an ủi nhau, mình tới trại sau, nên được gặp sau, chắc chắn ngày mai sẽ đến lượt mình.

Ngày thứ ba, kể từ ngày chúng tôi bưóc vào khu thăm nuôi của trại 5, chừng 10 giờ sáng, cán bộ thăm nuôi đến gọi chi Tâm (KQ) và Tuyết, em anh Lê Hoàng Nghi lên phòng thăm nuôi, mọi người vui hẳn lên và hồi hộp - Mười lăm phút sau, việc thăm nuôi xong, chị Tâm và Tuyết trở lại, mặt đỏ vì vừa khóc xong - Tuyết vội vàng thu xếp đồ và nói: “Em chào các chị, em phải đi ra Ba Sao ngay bây giờ, may quá, có xe của trại ra Thanh Hóa, họ cho em quá giang” - Nhìn theo Tuyết quảy đồ ra cửa, chúng tôi không ngăn được xúc cảm - Tội nghiệp cô bé, lặn lội, tất tả, đi thăm hai anh ở cách nhau hàng trăm cây số.

Cuối cùng rồi cũng đến phiên mình, sáng ngày thứ tư ở trại (thật ra mới có ba ngày rưỡi) vợ Bình, vợ anh Nhĩ và tôi, cùng được gọi lên nhà thăm nuôi một lượt, ba người ngồi một bàn, con trai tôi ngồi sau lưng tôi - Chừng 10 phút sau thì một tên công an bước vào phòng, anh cán bộ thăm nuôi vội đứng dậy chào rồi nói: “Báo cáo anh, các chị ấy đã tập họp đủ”, chúng tôi chưng hửng, tự hỏi: “sao lại thế này, chồng tôi đâu?, thằng quỷ dịch này là đứa nào? bước vào chẳng chào hỏi, mặt như âm binh, lạnh ngắt “. Một chút sau hắn mới lên tiếng:

- Chào các chị - Các chị đi đường chắc vất vả lắm, nhưng nghỉ mấy ngày, chắc cũng khỏe rồi - Tôi là Bắc, cán bộ chấp pháp trại, hôm nay đến đây có mấy điều quán triệt với các chị - Hắn ngừng lại, nhìn mặt chúng tôi thật chậm và làm oai - Tôi cũng nhìn lại hắn, quan sát và nghĩ: “Hèn chi nó làm chấp pháp (an ninh) là đúng, mặt tái xanh, mắt như hai lằn chỉ, môi dầy và đen như hai miếng thịt trâu phơi nắng” - Tên Bắc chợt hỏi:

- Chị nào là vợ “cải tạo viên” Bình, chị nào là vợ “cải tạo viên” Đỉnh? - Chúng tôi dơ tay - Lại im lặng và hồi hộp.

- Thật là quá đáng, từng ấy năm học tập cải tạo, uổng công “cách mạng” quan tâm giáo dục, chưa nói tốn cơm, tốn của - Chồng các chị thuộc loại không thể cải tạo, “cách mạng” rồi sẽ phải xử lý. Tôi và X. rụng rời, nghẹt thở, há miệng mà không thở được - Giọng tên Bắc lại cất lên chì chiết:

- Một bọn phản động, ngoan cố, cấu kết với nhau, ra sức chống phá “cách mạng”, cách này, cách khác - Bọn phản động ấy có chồng hai chị - Tụ họp lại bày đặt tuyệt thực, yêu cầu cải thiện, cho nên trại đã tạm thời kỷ luật các tên này, để tạo cơ hội hối lỗi cho bọn họ - Các chị không tin lời tôi nói à? Đây, để chứng minh, tôi đọc cho các chị nghe lệnh tạm giam những tên phản động. Cấm thăm nuôi bốn lần. Hắn đọc tên từng người: Nguyễn Xuân, Hồ văn Phước, Phan Nhật Nam, Hồ Công Bình và chồng tôi, có tất cả trên 10 người, nhưng tới lúc này thì tôi mắt hoa, đầu váng, mọi vật quay như chong chóng - Vẫn giọng tên Bắc:

- Đấy bọn phản động, nguyên cả một buồng, các chị hiểu không? Giờ phút này rồi, còn gì nữa đâu mà vọng động - Các chị về viết thư động viên chồng hối cải, lao động, học tập cho tốt, để còn về chứ - Trại lần này họp, các đồng chí lãnh đạo đã nhất trí để hai chị đi về, lần sau sẽ thăm nuôi.

Tôi cố chõi tay, để đầu không gục xuống bàn, đưa tay trái véo nhẹ lên tay vợ Bình - Cần phải can đảm - Lát sau vợ Bình hỏi:

- Trại không cho gặp, vậy xin cho chúng tôi gửi thuốc và chút đồ ăn cho chồng tôi có được không?

- Không được, đã là kỷ luật thì phải cấm hết, mang về đi các chị - Trại đã lo đủ cả, thuốc men, ăn uống không lo. Biết là vô ích khi mình đang nói với một xác ướp, nên chúng tôi càng im lặng. Tên Bắc đãi bôi:

- Các chị yên tâm, động viên chồng học tập cho tốt, biết đâu chừng sau lần kỷ luật này, các anh tiến bộ, lại được tha về sớm.

Tôi có ý nghĩ muốn trở thành người đàn bà đanh đá, chửi vào mặt thằng xác ướp này vài câu, nhưng nghĩ lại, làm vậy là dại - Thôi! - Liếc qua vợ Bình cười nửa miệng - Muôn ngàn cơ cực, đến mà không gặp. Niềm đau, nỗi buồn đã đóng băng trong lòng hai người chúng tôi.

Bắc hướng qua chị Đỗ Văn Nhĩ, giọng trở nên dịu dàng

- Chào chị Nhĩ, hết mệt rồi phải không? Vất vả quá đấy nhỉ - Chị vui lòng cho tôi xem thư và giấy thăm nuôi từ trại gửi về cho chị nào - Liếc đọc lá thư, tờ giấy thăm nuôi, tên Bắc hỏi tiếp:

- Chị nhận được thư này lúc nào?

- Tháng 8, cán bộ. Trong thư đề tháng 3, nhưng tháng 8 tôi mới nhận được, có sao không cán bộ? - Tên Bắc thở dài, cố làm vẻ trang nghiêm:

- Tiếc quá, chị nhận thư anh Nhĩ hơi muộn, sớm hơn thì chị đã gặp chồng, bây giờ thì quá muộn.

- Trời, sao vậy cán bộ, chồng tôi làm sao, anh ấy bị cái gì? Anh Nhĩ làm sao rồi?
- Chị bình tĩnh nghe tôi nói, như chị đã biết, anh ấy có hai ba thứ bệnh từ thời “ngụy”, vừa suyễn, vừa cao máu, trại đã chữa hết sức rồi, đồng chí y tế đã tận lực, nhưng anh Nhĩ đã chết hồi giữa tháng 6 - Anh ấy là người cải tạo tốt, sắp được tha về.

- Trời ơi là Trời! chồng tôi sao lại chết - Ba mẹ ơi! chồng con chết rồi! Anh ơi! Tưởng ra đây gặp anh, bây giờ anh đi mất, bỏ mẹ con em, bỏ ba má sao anh -Chồng tôi năm nay mới có 32 tuổi, làm sao mà cao máu? Anh ơi, anh chết oan rồi!

Hai chúng tôi cùng chồm qua, ôm lấy vai chị Nhĩ, cố kềm, nhưng rồi cũng khóc theo, vợ anh Bình mếu máo khuyên: “Chị nín đi, chị nín để hỏi cán bộ anh ấy chôn ở đâu chớ” - Chị Đỗ văn Nhĩ rũ xuống như tàu lá, toàn thân lạnh và mềm oặt, hơi thở đứt quãng. Chị Nhĩ đã mê đi trong cơn đau mất chồng. Vợ Bình vội lần trong túi áo bà ba lấy ra chai dầu gió thoa lên trán, thái dương cho chị Nhĩ miệng vẫn gọi liên hồi - “Tỉnh đi, dậy đi để đi tìm mộ chồng chứ! Tỉnh dậy đi chị Nhĩ!”. Im lặng một lúc, khoảng năm, mười phút, tên cán bộ Bắc lại nói:
- Thôi, để tranh thủ, trại sẽ giao lại cho chị vật dụng của chồng chị và giấy chứng nhận anh Nhĩ đã chết bệnh. Sau đây, tôi bận công tác, đồng chí Cận (tên cán bộ phụ trách thăm nuôi) sẽ đưa chị ra chỗ mả anh ấy - Tôi và vợ Bình cũng xin đi theo, nhưng không được chấp thuận.

Mấy chị em chúng tôi quay về Sàigòn lúc mờ sáng ngày hôm sau - Ngày thứ năm ở trại “cải tạo” của chồng, nhìn những dãy nhà cũ kỹ, khóa kín cửa, tôi tưởng tượng là chồng tôi đang phải bị giam nhốt trong những ngôi mộ đó, gần ngay kế bên mà cách biệt muôn trùng. Ngày đi náo nức, mong ngóng hy vọng bao nhiêu, nay trở về, cõi lòng tan tác, sự thất vọng chiếm hết mọi suy tư - Chúng tôi đi trong vô thức - Tội nghiệp chị Đỗ văn Nhĩ, nếu không có bạn đồng hành chúng tôi phụ giúp, không hiểu có còn đủ sức, đủ nghị lực để về với các con không - Điều an ủi là ngày về, nhân chuyến xe trâu đi không, họ đặc ân cho chúng tôi quá giang, với giá 10 đồng một người đến ga Thanh Hoá.

Phải chăng những người đàn bà Việt Nam chúng tôi, những người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa, là người bị đọa đầy hơn tất cả mọi người của thế gian.

Trần Thị Đông Phương

nguyenvsau
Posts: 1135
Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
Contact:

Post by nguyenvsau »

Image


Tiếng Nói Việt Nam Cộng Hòa


Vi Anh

Sự kiện lịch sử là chân lý, chân lý Ông Trời cũng không đổi được. Niềm tin này có thể thấy rõ trong chánh nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa, trong Chiến Tranh Việt Nam mà Mỹ đã tham dự nhưng bị những thành phần thiên tả, phản chiến Mỹ nắm truyền thông phủ lên một lớp bụi mờ làm cho công luận Mỹ chia rẽ, xã hội Mỹ phân hóa, và quần chúng Mỹ hiểu lầm, khiến Mỹ thua CS Bắc Việt ngay trên đồi Capitol tại thủ Đô của Mỹ. Nhưng không bao lâu sau những người Mỹ, những người Việt chánh trực, trung thực, công minh bằng cách này hay cách khác phủi lớp bụi mờ phản chiến, thiên tả, trả lại chánh nghĩa, chân lý cho Việt Nam Cộng Hoà và cho Quân Lực Mỹ tham chiến ở VN để bảo vệ lý tưởng tự do, dân chủ của Mỹ.

Một thời sự chánh trị mới nhứt chứng minh chánh nghĩa của Chiến tranh VN. Lần đầu tiên Mỹ tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm cuộc chiến Việt Nam tại Quốc hội Mỹ ngày 8/7/2015, sau Lễ Độc Lập của Mỹ mấy ngày. Có mặt đương kiêm Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner (Cộng Hoà) và Cựu Chủ Tich Hạ Viện Pelosi (Dân Chủ) nay là Trưởng Khối của Dân Chủ, đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Carter và Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hagel cựu chiến binh từng tham chiến VN và nhiều nghị sĩ, dân biểu thế lực của hai đảng có mặt, dự từ đầu tới cuối.

Nhưng quan trọng nhứt là những cựu quân nhân, thân nhân của những quân nhân Mỹ đã hy sinh mạng sống, những thương phế binh đã bỏ một phần thân thể trong chiến tranh VN, có mặt. Quốc Hội và Bộ Quốc Phòng nhân danh chánh quyền Mỹ của dân, vì dân, do dân long trọng và chánh thức rửa cho họ niềm đau, nỗi khổ, cái tủi, cái nhục mà Phản Chiến và Thiên tả đã oan sai gán cho họ là những người đã tham chiến Chiến tranh VN, một cuộc chiến không chánh đáng. Trong Chiến tranh VN ở Mỹ, Phản Chiến, Thiên tả đã dùng truyền thông, dùng biểu tình, dùng bầu cử bó tay quốc hội, hành pháp. Buộc quân đội Mỹ rút khỏi VN như quân thất trận ra khỏi chiến trường. Quân nhân Mỹ tham chiến ở VN về nước Mỹ không được thừa nhận là cựu quân nhân, không được quyền lợi cựu quân nhân. Còn chánh quyền Mỹ thì phản bội đồng minh, cúp viện trợ Việt Nam Cộng hoà, gián tiếp bức tử VNCH cho CS Bắc Việt cưỡng chiếm.

Trong buổi lễ do Quốc Hội tổ chức, RFI ghi nhận, “mở đầu buổi lễ, chủ tịch Hạ viện DB John Boehner mời tất cả những cựu chiến binh hiện diện trong khán phòng đứng dậy. Trong tiếng vỗ tay vang dội của gần một ngàn người tham dự, ông John Boehner ngỏ lời tri ân những chiến sĩ mà nay tuổi đã xế chiều. Ông nhấn mạnh, đất nước và nhân dân Mỹ phải nhớ ơn một thế hệ trẻ đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho lý tưởng tự do mà giá trị của nó luôn được ghi nhận. Ông nói “Họ đã đi, đã vào sinh ra tử, đã nằm xuống trên miền đất xa xôi mà rất nhiều người Mỹ thời đó không biết tới. Và nếu không chết, không bị tù tội mà còn sống trở về thì họ đã phải chịu đựng những lời chê trách nặng nề hay là bị quên lãng đi. Những chuyện như thế ngày hôm nay không còn nữa, những chuyện không hay ho như thế phải chấm dứt, phải trả lại sự xứng đáng và công lý cho những cựu chiến binh Việt Nam”, dân biểu John Boehner kết luận.

Cảm nghĩ của “Cựu chiến binh Ben Petrone ngồi trên xe lăn do vợ đẩy, chừng như không dấu được nỗi xúc động: “Thật tuyệt vời, cảm ơn rất nhiều, không gì có thể so sánh được. Sau một thời gian dài thì bây giờ tôi chỉ có thể nói được rằng trước kia nhiều người Mỹ đã hiểu sai về cuộc chiến Việt Nam mà chúng tôi là những người từng tham chiến. Đáng tiếc những người phản chiến đó đã bị hướng dẫn thông tin một cách sai lạc.”

Và người Việt ở Mỹ trong 40 năm qua cũng làm tất cả những gì có thể làm được để nói lên tiếng nói chánh nghĩa, tinh thần xây dựng tự do dân chủ của chánh quyền và quyết tâm vì dân chiến đấu vì nước hy sinh của quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hoà. Nhiều, nhiều những việc làm ấy lắm.

Quân thì cùng các tướng lãnh Mỹ tham chiến ở VN và các nhà phân tích chiến lược, sưu khảo, nghiên cứu, đối chiếu nhận thấy nếu Quân lực Mỹ bị cúp quân viện như Quân Lực VNCH thì chỉ có thể chịu đựng ba tháng chớ không phải gần ba năm như VNCH.

Dân thì nhận thấy suốt trong hai thời kỳ đệ nhứt và đệ nhị VNCH, hễ nói chạy giặc là chạy ra vùng người Việt Quốc gia, có đồn bót treo cờ nền vàng ba sọc dỏ, chớ không chạy vào vùng CS. Qua Mỹ người gốc Việt tiếp tục một cuộc “chiến tranh khác”, chiến tranh chánh trị, đấu tranh cho tự do, dân chủ nhân quyền VN, đưa nhân quyền VN vào Quốc Hội Mỹ, biến thành “trở ngại trung tâm” trong bang giao giữa Mỹ và CSVN. Giương cao ngọn cờ chánh nghĩa nền vàng ba sọc đỏ di sản của VNCH, được cả chục tiểu bang hàng trăm thành phố thừa nhân

Chánh quyền thì mới đây Đại Hoc Cornell (Cornell University) ở New York vốn là căn cứ địa của một số trí thức thiên tả, phản chiến chống Chiến Tranh VN. Nay gió đã đổi chiều. Đặc biệt là khoa truyền thông, xuất bản của Đại Học này gần đây được một một số trí thức, khoa bản công minh, chánh trực nắm. Nên có những hoạt động hội luận, nghiên cứu, sưu khảo trả lại chân lý, chánh nghĩa cho Chiến tranh VN, cho VNCH. Trong đó có nhưng người chánh trực như Chủ Nhiệm K.W. Taylor, thuộc bộ phận Cornell Southeast Asia Program Publications.

Mới đây đích thân vị này tự tay viết và gởi tặng cho toà soạn Việt Báo. Và hai tác giả quen biết với người viết bài này là Bác sĩ Mã Xái có gởi biếu, và Đốc sự Phan công Tâm có gọi điện thoại giới thiệu quyển “Voices from the Second Republic of South Việt Nam (1967- 1975)”.

Hình thức bên ngoài của cuốn sách lịch sử chánh trị này rất bắt mắt. Bìa màu xanh lá cây êm dịu, với hình quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà nền vàng ba sọc đỏ chiếm gần 1/3 trang. Toàn tiếng Anh rất thích hợp với lớp trẻ Mỹ gốc Việt bây giờ đã đông hơn lớp cao niên. Nhưng chữ in hơi nhỏ so với người lớn tuổi, có lẽ vì nội dung nhiều bài và nhiều sự kiện không thể rút ngắn, tóm gọn được

Nội dung bên trong. Lời cảm tạ của nhà xuất bản đối với Ô. Phan công Tâm đã đưa ý kiến tiên khỏi và giúp hoàn thành tác phẩm này và cám ơn những vị đóng góp bài vở và in ấn, phát hành.

Phần nhập đề “Voices From the South” (Tiếng Nói từ Miền Nam) do chủ biên K. W. Taylor viết. Đây có thể nói là một lượt sử của hai thời đệ nhứt và đệ nhị VNCH trong bối cảnh chánh trị liên quan đến Pháp, Mỹ, CS Liên xô và TQ. Sự hình thành, trưởng thành của VNCH. Đặc biệt VNCH vừa chiến đấu tự vệ chánh đáng, bảo vệ chánh nghĩa quốc gia kiên trì, và bờ cõi chống CS Bắc Việt xâm lăng, và vừa xây dựng chánh tri tự do, dân chủ, và kinh tế phát triển kỹ nghệ, nông nghiệp. Hình thành quốc hội lập hiến, làm ra hiến pháp, bầu quốc hội lập pháp. Xây dựng chánh quyền tam lập, cải cách ruộng đất, thăng tiến cần lao đồng tiến xã hội. Phát huy giáo dục phổ thông tối đa, mở đại học tổng hợp, chuyên môn như đại học bách khoa, quốc gia hành chánh, võ bị, học viện cảnh sát. Phát triển quân đội, lực lượng bán quân sự, an ninh tình báo. Càng biết càng tiếc VNCH.

Ít có một quyển sách về Việt Nam nào cô động, đi sâu chỉ vào Đệ Nhị VNCH từ 1967-75 như cuốn “Voices from the Second Republic of South Viet Nam (1967- 1975). Và cũng ít có quyển sách nào dưa ra những lời của những nhân chứng trong cuộc, của thời ấy như vậy. “Voices from the Second Republic of South Viet Nam (1967- 1975) có 171 trang bên trong, chứa 10 bài của 10 nhân chứng sống, làm việc trong thời Đệ Nhị VNCH. Có tiểu sử của những nhân vật này ở phần sau cùng của tác phẩm.

Thiết nghĩ không có ai, không có bài điểm sách nào đúng đắn và đầy đủ như suy nghĩ và câu viết, lời nói của tác giả. Nhứt là nội dung của nhưng bài viết này liên quan đến lịch sử, kinh tế, chánh trị, hành chánh, quân sự của một đất nước, trong một thời đại khó khăn mà chánh quyền VNCH đệ nhị làm tất cả những gì có thể làm được cho quốc gia dân tộc mình. Nên người viết bài này xin phép chỉ ghi ra đây tựa bài và tên tác giả hầu giới thiệu cho bà con cô bác đọc và nhận định, nhứt là lớp trẻ sanh sau Chiến Tranh VN có dịp ôn cố tri tân.

Dẫn nhập là K.W Talor. Đây là những bài luận thuyết đọc trong dịp Đaị Học Cornell tổ chức hội luận. Tiêu sử của tác giả ở trang 169. Bài “Cái Nhìn của người Việt về Việc Tham Gia của Mỹ, do Bùi Diễm [thường được biết là Đại sứ VNCH viết]. “Chứng lý của Viên Chức Trung Ương Tình Báo Nam VN,” Phan công Tâm [là một trong những thành phần lãnh đạo chỉ huy cao cấp và thâm niên trong cơ quan Trung Ương Tình Báo/ VNCH]. “Từ việc Chống biểu tình Phản Chiến Đến việc Xây dựng Quốc gia”, Nguyễn ngọc Bích [Nhân sĩ hoạt động truyền thông và chánh trị]. “Một Thập Niên Công vụ: Xây dựng Quốc gia Trong Thời kỳ chuyển tiếp và Đệ Nhị Cộng Hoà, Trần quang Minh [Tiền sĩ Canh Nông]. “Xây dựng Kinh tế Thị Trường Trong Thời Chiến, Nguyễn đức Cương [Cựu Thứ Trưởng Thương Mại, Kỹ Nghệ]. “Từ Đệ nhứt đến Đệ Nhị Cộng Hoà: Từ Scylla đến Charybdis,” Phan quang Tuệ [Thẩm Phán Di Trú Mỹ]. “Lời chứng của một Cựu Dân Biểu của Quốc Hội Nam VN (1971-75),” Trần văn Sơn. “Đảng Tân Dại Việt và Sự Đóng Góp vài Công trình Xây Dựng Dân Chủ Đệ Nhị Cộng Hoà,” Mã Xái [Bác sĩ ở VN và MD ở Mỹ]. “Hải Chiến Hoàng sa,” Hồ văn Kỳ Thoại [Tướng Hải Quân VNCH]. “Quân sự và An Ninh,” Lữ Lan [Tưóng Lục Quân VNCH].

Xin trân trọng giới thiệu cùng bà con cô bác, nhứt là lớp trẻ gốc Việt của Việt Nam hải ngoại./. (Vi Anh)
tiendung
Posts: 874
Joined: Tue Jun 19, 2007 7:47 am
Location: Paris
Contact:

Post by tiendung »

Cuộc trùng phùng bi thảm

Phạm Tín An Ninh
Theo đoàn quân tiếp thu Sài gòn mà lòng ông Hai Chi rối như tơ vò. Ông và hầu hết các đồng chí của ông ngơ ngác tưởng như chuyện mộng mị không thể nào xảy ra. Chính đơn vị của ông bị đánh tan tác gần như phải xóa sổ trong mùa hè 1972, đến nay vẫn chưa bổ sung xong, và đám bộ đội còn sống sót cũng chưa kịp hoàn hồn. Vậy mà Ban Mê Thuột mất, Tây Nguyên, Vùng 2, đến Vùng 1 có lệnh bỏ, để rồi cả miền Nam thất thủ chỉ trong vòng bốn mươi lăm ngày. Có lẽ những người ngồi trong Bộ Chính Trị ngoài Hà Nội cũng còn bất ngờ, huống hồ Hai Chi, chỉ mang quân hàm thiếu tá, làm sĩ quan hậu cần của một sư đoàn nằm tận vùng rừng núi Tây Nguyên heo hút..

Từ ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu. Nhờ phước đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không chết, nhưng trên người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều thương tích. Vết thương nặng nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ trưởng chỉ còn lại dưới 50 người. Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn 320 làm cán bộ hậu cần. Mùa hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn Điện Biên hay Sư Đoàn Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo tung vào trận địa Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng. Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75 có mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn.

Hai Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của một gia đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ một tiệm bán xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người con, nhưng cả ba cô con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi và người em út, nhỏ hơn đến mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại Học Hà Nội, thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản. Làn sóng di cư đổ xô về Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở họ vào Nam. Bị lực lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến được Hải Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em trai của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định.

Nhờ có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà tiểu tư sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu hết bạn bè cùng khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng, sau khi bị thương, được điều về làm cán bộ hậu cần của một đơn vị bại trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung.

Giữa tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như xóa sổ, sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến tranh, để cuối cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

Sư Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài gòn, khi Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần hai tuần lễ gây tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi được chỉ định bổ sung cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian quân quản, ông là một trong số những cán bộ may mắn được “biên chế” ở lại miền Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc. Từng đoàn xe liên tục từ Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi phẩm, không những đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân chúng miền Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”. Lúc này trong dân gian truyền miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ nếp, ông Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa tịch thu từ gia đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để ông cất giấu hàng ngàn cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con trai của ông cũng từ ngoài Bắc được chuyển vào ở với ông. Học đòi một chút vương giả, bà vợ muốn có người ở, phụ bà lau nhà rửa bát và để cho bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn một người lớn, chuyện “làm ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch rừng” lọt ra ngoài, nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định đi xin một đứa con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được tiếng nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”.

Vợ chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông bà muốn có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng sủa. Cuối cùng vợ chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm” Cô nhi viện Biên Hòa dắt con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong trận đánh Long Khánh. Có người thấy nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà nuôi. Một thời gian sau “giải phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có đủ cơm ăn, đúng lúc con bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang cháu đến giao cho cô nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó, nhưng các sœur không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi dưỡng cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn.

Thực ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể dù không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy không khí hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này không cho ai biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn Thị Hồng Phượng, để nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê hương ông.

Những năm 1978 – 1979, bọn cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra khỏi nước nhằm cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người ta đặt tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí” Mười Vân ( tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh Đồng Nai móc nối vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa giàu có (và cả những người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng để nhận hồ sơ Hoa kiều giả), vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng, chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán chính thức”. Bọn họ mở nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hai Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực.

Bé Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng nỗi cơ cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà Hai Chi muốn tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào tính thông minh cần mẫn, Phượng học rất giỏi.

Điều may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn Phượng càng xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao cậu học trò. Và người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất của ông bà Hai Chi. Diệp lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là sinh viên của Trường Đại Học Bách Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã con trai nào muốn tán tỉnh Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp thường bênh vực Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công việc.

Chưa bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này. Hơn nữa cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn ngoan của Phượng. Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám làm Diệp buồn lòng. Điều này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là điều mà bà quan ngại. Điều lo âu nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông chồng say đắm nhìn cô con gái nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé ô-sin của nhà bà.

Ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm chờ đợi và thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều tiền, ông tỏ ra uy quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để giữ chồng. Nhờ người giới thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số tiền khá lớn, bà là một trong những người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ tài năng của mấy ông bác sĩ miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều lắm, nhưng so với những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế thải được “tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà “đổi mới tư duy”

Vốn là con gái của một gia đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác man rợ này, bà đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước mắt chồng con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu đang bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này.

Ban đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi đời con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi lấy cớ đuổi Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao hai lưởi, không chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy Phượng làm vợ thì quả là tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể nào để con trai một của cán bô đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà để ý mỗi lần đến nhà, thấy Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm chăm vào Phượng rồi bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại vì dù gì Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy công an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa người Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ.

Đạt có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một “bộ đội gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong thời “chống Mỹ”, phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng bệnh sốt rét rừng vẫn còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao vàng vọt.

Bà Hai Chi biết Đạt mê mệt cả nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ dậy thì, nên đã dễ dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số độc đắc cặp mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào của bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn, ông Hai Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và Phượng uống nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ vào ly nước của Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya hôm đó sau khi thấy Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để hiếp Phượng. Bà giả vờ vào phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả ông Hai Chi và thằng Diệp chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với thằng đàn em thân tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là một tiếng súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng. Đạt nằm trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay còn cầm chặt khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp.

Ông Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt. Trong lúc giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích. Tay thượng úy Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương chở vào bệnh viện Biên Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng, tại sao lại có thể giật súng bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm, kết quả: bình thường. Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả.

Tay Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu. Phượng bị bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ động hiếp dâm và Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt ngăn cản vừa năn nỉ. sợ mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra cái quỷ kế ác độc của bà. Còn ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân tín của tay Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, quyền uy như ông vua một cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên thành ủy còn bị hắn ta lập kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm gì được thì đã ăn đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc ngủ. Trút bỏ hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa hai bàn tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng bị tạm giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định sẵn. Các báo Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng”

****

Trận chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS bị các đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả xuống địa điểm “tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử Nam”. Mang hận thù này, nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã bắn giết dã man bao người dân vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng treo trên vách, mang quân phục và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn đi. Phượng chạy theo khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ hãi, không còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên đường di tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm tù qua rất nhiều trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con, ông nghĩ là tất cả đã chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh trước ngày mất nước.

Ngày 2/ 9 năm 1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị “cách mạng” tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi thăm vợ con mình, những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an trợn mắt nhìn chằm chặp vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh lùng: “tôi không biết, hỏi làm gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất khó nghe. Khi đến trình diện công an xã, ông bị chỉ định về trình diện chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu trong núi để được tạm trú và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có bất cứ một người thân quen nào.

Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị ngày xưa. Chắc chắn là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được người tài xế và vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những người thân thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu tình hình hầu tìm một con đường sống.

May mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà tôn mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một tháng lương của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh em lính. Bây giờ cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với chiếc Honda từ đời 70 còn lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động. Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin, gọi thêm hai anh em cùng đơn vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay, làm mấy món nhậu uống mừng được gặp lại ông Thầy.

Men rượu ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan nghiệt, tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về chiếc máy truyền hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói sắc máu của người nữ xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn thấy cô con gái đứng trước vành móng ngựa, hai tay bị còng, phía sau là một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng đằng sát khí. Cô bé giống vợ ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông đã gặp bao nhiêu lần trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải thích, ông bảo anh tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên Hòa, nơi phiên xử mới bắt đầu.

Chỉ hơn 10 phút sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc tội” của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình khi nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con gái duy nhất của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung trọn vẹn hình ảnh người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày phép về nhà đưa cháu vào bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều bất ngờ khác làm ông bàng hoàng hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có tên là Nguyễn Công Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi năm, sau ngày ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước lên vị trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được. Với con mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông anh còn có tên gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn tên anh mình, nhưng kịp nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình cũng là người tù chưa trình diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh niên đứng bật dậy, hét to:

-Tôi là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến tận mắt, ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi chỉ phải tự vệ bằng chính khẩu súng của ông Đạt.

Bất chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu thanh niên vẫn tiếp tục:

-Khi bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ không phải mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.

Tất cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông Trực vội vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã công an đã đẩy Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta bỏ đi trước một mình khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau

Khi thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp nhận ra ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố gắng lắm mới thốt ra lời:

-Anh Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con gái của em!

Ông Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước mặt khi ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm của mình mà cả vợ con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa, đến dưới một bóng cây bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Cả hai đều chưa biết tung tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã đoán ông anh của mình phải là một cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ và đứa con trai. Một cảm giác rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu ông Trực. Ông Hai Chi căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con trai ông. Bởi vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em mình. Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật.
Đưa Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi xuống chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông nóng còn hơn lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người em của mình cho biết:

-Bố mẹ đã chết trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt giam cầm hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất của em, mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.

Là một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc tiểu tư sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực ra thì ông cũng đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến trường Hạ Lào, Tây Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô nghĩa của hàng vạn thanh niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài lần thoáng hiện trong đầu ông hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn sẽ phải khốn khổ với đám cường quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết thúc nhanh chóng đến bất ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật khéo vai trò “đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người “bên thắng cuộc”.

Buổi chiều, phiên tòa tái nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai nhân chứng. Là một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười Vân giám đốc ông an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng tất cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:

-Lời nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ Hữu Đạt đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con gái nuôi của chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một đảng viên và cán bộ nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là hoàn toàn chính xác. Sáng nay, vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt, nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra, làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với đảng, với nhân dân.

Bà Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ của ông chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta không phản biện, vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu bà Hai Chi. Hắn ta khai ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại chuyển sang một hướng khác, hoàn toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát. Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.

Không khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại đây để mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy tờ. Ông Hai Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha con gặp nhau trong ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết thống phụ tử rất nhiệm màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới ngực bên trái của con có một vết sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng như vừa mới nở ra một đóa hoa tươi thắm nhất.

Giữa tháng 10/ 1984, khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một biến cố lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:

Mười Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời, đang là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ trưởng công an, âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và tin cẩn từ Hà nội vào Sài gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp. Lục soát tư dinh và nhiều nơi khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột xoàn các loại.

Ngày 1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố Biên Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng chí” Trần Quyết, Bí Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.

Mười Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau một tuần tại trường bắn Long Bình.

Lần đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ phạm là một ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những chiếc tàu chở người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái, Rạch Giá ,Phú Quốc và vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều người. Và khắp cả nước bàn tán về chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia không đều giữa những người cộng sản!

Sau đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng lõa, trong đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó, vụ án của Phượng bị bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và cả tay thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai đều là cánh tay đắc lực của gã Mười Vân.

Biết không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện trưởng ban điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng, ông khai là Mười Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường giây làm ăn của Mười Vân, nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt, tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả 800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau nhà một đàn em thân tín của Mười Vân, phải điều xe cần trục câu lên.

Tất nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số vàng. Ông vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để gởi cha con ông Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông vượt biển khẩn cấp ra khỏi nước.

Nhờ tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại Tây Đức.

****

Mùa Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên Sơn lúc trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt Động Quân, là bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B – từ Pleiku di tản xuống Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm này. Tôi cũng được nói chuyện với cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ. Chúng tôi cũng đến thăm cậu Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu ruột của anh. Diệp đang sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai tuổi.

Tôi cũng được biết ông Hai Chi, nhờ “thành khẩn khai báo”, nên được hưởng khoan hồng với hai mươi năm tù. Vợ ông, bà Hai Chi bị án sáu năm tù về tội đồng lõa và tàng trữ vũ khí, vàng bạc phi pháp. Bà chết trong tù sau hai năm thụ án, do chính tay công an Đỗ Hữu Đạt, người bị giam cùng trại, đánh lén bằng cuốc trong giờ lao động, để trả mối thù xưa. Hắn ta nghĩ rằng chính bà đã lập mưu để hại hắn, chứ Phượng không hề bị bà cho uống thuốc ngủ. Hắn ta cũng nghi ngờ ông Hai Chi đã khai hắn là tay chân đắc lực của Mười Vân, đã từng giết người bịt miệng, nên nhà cửa bị tịch thu cùng với bản án bốn mươi chín năm tù.

Và sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn không phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều. Tay Mười Vân đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa làm gió, qua mặt đám đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì.

Về sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai bảo lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên trời cao, lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.


Phạm Tín An Ninh
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Ba dòng nước mắt

Phạm Tín An Ninh
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận đuợc thư Bình, thằng bạn thân tình từ thời nối khố. Nó là đứa cuối cùng trong đám bọn tôi rời xa đất nước, vừa mới được sang định cư bên Mỹ theo diện HO 31. Lá thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng:
"Tao đã đến Mỹ vừa đúng hai tuần. Ở đây ồn ào và ngột ngạt quá, tao muốn tìm một chỗ bình yên. Mày có cách nào giúp tao sang Bắc Âu với mày. Bởi tao nghe mày kể bên ấy dù có buồn và mùa đông khá lạnh, nhưng cuộc sống yên bình, thích hợp cho những người cần một nơi để chửa trị những vết thương khó lành được trong lòng.
Tao đang có nhiều vết thương, và cũng đang có nhiều điều rối ren không giải quyết được. Rồi có dịp tao sẽ tâm tình với mày sau. Bây giờ, bằng mọi cách mày giúp tao sang đó với mày. Càng sớm càng tốt.."

Hơn một tháng trước, Định đã báo cho tôi biết việc Bình sẽ sang Mỹ. Nó đã phụ giúp vợ Bình sẵn sàng tất cả mọi thứ để đón Bình. Định còn bảo khi nào Bình đến Mỹ rồi, nó sẽ báo để tôi sang thăm. Ba thằng gặp lại, tha hồ mà kể chuyện xưa. Vậy sao bây giờ vừa mới đoàn tụ vợ con, Bình lại muốn sang Bắc Âu với tôi, một nơi xa tít mịt mùng ?


Gọi điện thoại cho vợ Bình và Định nhiều lần, nhưng không ai bốc máy. Hôm sau tôi vào sở xin lấy trước một tuần hè, và đặt vé máy bay sang Mỹ.
***

Bọn tôi là ba thằng bạn thân từ những ngày mới lớn. Cùng học một lớp ở trường làng, rồi lên trường huyện. Điều đặc biệt là tên của ba thằng đều có vần "inh". Trong lớp bạn bè thường gọi bọn tôi là Ninh-Bình-Định, mặc dù cả ba thằng chưa hề biết quê quán của Quang Trung đại đế, cái nơi nổi tiếng "con gái cầm roi đi quyền" đó nó ra sao. Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn, nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá tắm sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được phía sau hè. Rồi cả ba thằng được may mắn vào thành phố Nha Trang học trung học. Dù khác lớp nhưng cùng vào một đội bóng của trường. Đội bóng bao lần chiếm giải quán quân. Sau khi đậu tú tài, nhìn thấy con đường học hành sao mà xa xăm diệu vợi quá. Muốn học thêm phải khăn gói vào tận Sài gòn, trong lúc kinh tế gia đình đang lúc khó khăn. Không đành lòng bắt cha mẹ phải còng lưng thêm chút nữa, ba thằng rủ nhau vào lính. Làm đơn tình nguyện vào binh chủng không quân, bởi hình ảnh những chàng phi công hào hoa đi mây về gió, trong bộ đồ bay, khăn quàng cổ tím, đã là thần tượng của bọn tôi từ lâu lắm. Vậy mà chỉ có riêng tôi là mộng ước không thành, vì thiếu thước tấc, bị loại ngay vòng khám sức khỏe đầu tiên. Hai thằng bạn được toại nguyện, nhưng không vui. Vì kể từ hôm nay, không còn "chúng mình ba đứa" nữa. Tôi tiễn hai thằng đến Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân nằm bên bờ biển Nha Trang, rồi một mình khăn gói vào Sài gòn học tiếp.

Khi bọn nó sang Mỹ học phi hành, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Cứ vài tuần tôi nhận thư từ bên Mỹ. Nhìn tấm ảnh hai thằng chụp trước cổng trường, hoặc đứng bên cạnh một chiếc F 5, tôi thấy thèm cái oai phong của tụi nó. Sau khi về nước chỉ có thằng Bình được lái phản lực A-37 cho một phi đoàn đóng ở Biên Hòa, còn thằng Định thì ra phi đoàn trực thăng tận ngoài Vùng 1.

Tôi ra trường, được bổ sung về một tiểu đoàn tác chiến đang làm lực lượng lưu động cho Quân Đoàn, rày đây mai đó, gần như chỗ nào có trận chiến là tôi có mặt. Vậy mà so với mức độ hiểm nguy, chết chóc, chẳng nhằm nhò gì với cái chuyện đi bay của thằng Định. Bởi phi đoàn của nó chuyên thả và bốc những toán biệt kích delta trong các vùng địch. Sau một chuyến công tác, nếu may còn sống, được thưởng một số tiền và mấy ngày phép xài chơi. Bao nhiêu lần nó thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Nó bảo đúng là đạn tránh nó. Nhờ vậy mà nó là thằng thường có mặt ở thành phố Nha Trang. Cứ sau một lần thoát chết, nó trở về đây, còn tôi và thằng Bình, cả năm chỉ được một tuần "anh về với em rồi anh lại đi". Có lẽ nhờ vậy mà nó có khá nhiều mối tình để kể cho bọn tôi nghe mỗi lần có dịp gặp nhau, hay bất ngờ liên lạc được trên các tần số không lục.

Nhưng rồi trong ba thằng, tôi lại là thằng bước lên xe hoa trước nhất. Thằng Định vẫn muốn thoải mái đi mây về gió, không bị vướng chân vướng cẳng, còn thằng Bình thì khá kín miệng nên chuyện tình duyên của nó bọn tôi cũng mờ mịt lắm.
Một lần tiểu đoàn đổ quân xuống Ninh Hòa lúc hai giờ sáng, khi cả cái thị trấn nhỏ này còn đang say ngủ. Đại đội tôi được chỉ định vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau, quần áo chỉnh tề, tôi rủ thêm hai thằng bạn lính vào một ngôi nhà phía trước "thăm dân cho biết sự tình", không ngờ "hồn lỡ sa vào đôi mắt em", đôi mắt nai tơ của cô bé chủ nhà. Đám cưới tôi có mặt cả hai thằng bạn nối khố, và hai thằng đều tình nguyện làm phụ rể.

Ba năm sau, Định lên chức quan ba, được thuyên chuyển về một phi đoàn đóng ở Pleiku làm trưởng phòng hành quân, nên chúng tôi có nhiều dịp gặp nhau, khi ở thành phố, khi thì trong các cuộc hành quân trực thăng vận. Lâu lâu nó tình nguyện bay tiếp tế cho đơn vị tôi, thả cho tôi vài ký thịt tươi và chai rượu đế. Mùa hè 72, tôi bị thương ở căn cứ Võ Định, Kontum. Suốt hơn hai tuần bị địch bao vây và pháo kích nặng nề, tôi nhận lệnh phải mở đường máu rút quân ra, nhưng vết thương nặng ở chân phải của tôi là một trở ngại lớn cho đơn vị. Trong lúc Định đang bay chiếc CNC (trực thăng chỉ huy), nhưng đã điều động hai chiếc võ trang (gunship) bắn nghi binh và yểm trợ, rồi một mình nhào xuống bốc tôi trong lưới đạn phòng không dày đặc. Chiếc trực thăng bị nhiều vết đạn mà bọn tôi vẫn an toàn. Mặc dù nó dày dạn kinh nghiệm và bay rất tài ba, nhưng đúng là đạn đã tránh nó, như nó vẫn thường ba hoa với đám bạn bè.

Chỉ có thằng Bình là "số đẻ bọc điều". Từ A-37 nó chuyển sang lái F-5, nhưng vẫn quanh quẩn ở Biên Hoà, rồi Cần Thơ. Nó là thằng đẹp trai và ít nói. Trước đám con gái, tôi và thằng Định thì líu lo chuyện dưới biển trên trời, còn nó chỉ ngồi cười mỉm. Có lẽ nhờ vậy, mà sau này nó âm thầm về Nha Trang và cua dính Mỵ Khê, một cô bé răng khểnh khá xinh ở trường Nữ, mà ngày xưa cả ba thằng đều quen biết, bởi đã từng thách nhau cùng đạp xe theo "tán", sau các buổi tan trường.

Mỗi lần về Nha Trang thăm bồ, nó đều rủ tôi và Định bay về Nha Trang với nó một vài hôm. Lúc này chiến trường Tây Nguyên khá sôi động, phi đoàn Thần Tượng ở Nha Trang có một biệt đội trực thăng tăng cường cho Pleiku, mà hầu hết các chàng pilot đều là bạn thân của Định, nhờ vậy mà tôi và Định về Nha Trang dễ dàng như đi chợ. Có khi chỉ ở Nha Trang một đêm, rồi sáng hôm sau lại có mặt ở chiến trường. Những lần gặp nhau, đều có mặt Mỵ Khê. Cô bé học trò trường nữ ngày xưa bây giờ đã là cô giáo. Nhưng có lẽ đi dạy học chỉ để làm kiểng, bởi cô ta là con nhà giàu. Ông bà già có mấy tiệm buôn trên đường Độc Lập. Mỵ Khê được nuông chiều, nên ngay cả chuyện bếp núc cũng không rành. Lần nào gặp nhau ở nhà nàng, bọn tôi cũng chỉ được mời một món duy nhất mà nàng rất tự hào do chính tay mình nấu : cháo trắng ăn với hột vịt muối.

Cuộc tình này cũng kéo dài đến mấy năm. Không phải để tập làm sao "đừng nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng" như lời khuyên trong sách, mà vì cha mẹ Mỵ Khê rất tin vào bói toán. Tuổi tác của hai người chưa thể kết hôn.
Cuối cùng, đến mùa hè 73, thì cuộc tình dài này cũng kết thúc bằng một cái đám cưới khá linh đình ở nhà hàng La Frégate. Khách khứa lên đến trăm người.

Lần này chỉ có thằng Định được làm phụ rể, còn tôi bị loại khỏi vòng chiến bởi "xác thân đã nhuốm mùi trần tục", một vợ mấy con, nên được thằng Bình giao cho cái chức tiếp tân, chỉ đứng mỉm cười đón khách.
Đúng là thằng Định có số đào hoa. Không biết tài tán gái thế nào mà sau đám cưới, tôi đi tìm nó khắp nơi, cuối cùng bất ngờ gặp nó ôm chặt cô bé phù dâu xinh đẹp, ngồi ngoài bờ biển. Có lẽ đúng như mấy ông bà già thường nói "lắm mối tối nằm không", đến ngày mất nước thằng Định đào hoa nhất bọn vẫn cứ còn độc thân.

Tháng 3-75, miền Trung mất vào tay giặc, Định theo phi đoàn di tản về Nha Trang rồi Biên Hoà. Trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này nó gặp lại vợ chồng Bình. Sau một ngày với bao nhiêu phi vụ hiểm nguy, tối đến hai thằng lại bù khú mày tao mi tớ với nhau như cái thời còn đi học. Mỵ Khê, bà xã của Bình cũng vừa sinh được cô con gái đầu lòng, nên căn cư xá lúc nào cũng rộn rã tiếng cười hoà lẫn tiếng khóc của trẻ thơ. Nhờ vậy mà hai thằng phi công cũng bớt được phần nào những ưu tư lo lắng trong giờ phút lâm nguy của chính mình và đất nước.

Sau những trận đánh lẫy lừng của các đơn vị ở Long Khánh, cũng chỉ có khả năng cầm chân địch hơn một tuần. Biên Hoà bỏ ngỏ. Phi đoàn của Bình nhận lệnh đem máy bay xuống phi trường Trà Nóc tránh pháo. Bình nhờ Định đưa vợ con về Tân Sơn Nhất, cùng ở tạm trong cư xá, nhà của một thằng bạn cùng khoá, sau mấy lần bị thương, không còn khả năng phi hành nên về làm trong Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Ngày 29.4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích liên tục. Tình hình nguy ngập, cả phi đoàn của Định chỉ còn lại vài chiếc trực thăng. Anh em trong phi đoàn ngồi lại tính chuyện bay ra hạm đội Mỹ đang chờ ngoài biển..
Trong lúc bạn bè chạy ngược xuôi tìm chỗ cho vợ con, chỉ có Định là một thân một mình nên chẳng lo lắng gì, ngoài cái tâm trạng bực tức, chán chường. Định liên lạc với Bình, báo cho biết việc phi đoàn của nó sẽ bay ra hạm đội, bảo Bình thu xếp gấp về Sài gòn để kịp đưa vợ con đi. Định bảo là nó được dành ba chỗ trên tàu, vừa đủ cho vợ chồng Bình và một đứa con nhỏ. Nhưng Bình từ chối, bảo là vùng 4 còn an toàn, phi đoàn phản lực của nó được đặt dưới quyền của tướng tư lệnh Nguyễn Khoa Nam. Bình chỉ nhờ Định lo cho vợ con nó đi cùng. Tùy tình hình nó sẽ đi sau.

Khi Định và vợ con Bình đến đảo Guam hai ngày,thì biết tin Sài Gòn thất thủ. Định đi tìm Bình khắp nơi nhưng không thấy. Người ta bảo có lẽ Bình đã bay sang Thái Lan.
Ngày tôi khăn gói đến địa điểm trình diện "học tập cải tạo" bất ngờ gặp Bình. Trong cái cảnh "nước mất nhà tan" này mà có được một người bạn thân thì cũng vơi được nỗi buồn. Nó kể là anh em trong phi đoàn không đành rời căn cứ trong lúc hai ông tướng quân đoàn vẫn còn ở lại sống chết với anh em. Sau khi hai ông tự sát, thì tình hình đã quá muộn màng, địch quân bao vây, pháo kích dữ dội vào phi trường, nên anh em chỉ còn kịp phá hủy một vài hệ thống trên phi cơ.

Ở tù chung trong trại tù An Dưỡng Biên Hòa gần một năm, khi chuyển ra ngoài Bắc mỗi thằng bị chia mỗi ngả. Ra tù, tôi ghé lại thăm gia đình Bình. Ông già nó qua đời, chỉ còn bà mẹ và cô em gái, nhưng nhà cửa được xây lại khang trang và cuộc sống khá sung túc so với những người khác trong vùng. Mẹ nó bảo tiền bạc do vợ Bình gởi về đều đặn. Bà còn khoe mấy tấm ảnh của vợ con Bình được phóng lớn treo trên vách.

Đúng một năm ra khỏi tù, tôi vượt biên. Trong trại tỵ nạn Bataan, bên Phi, khi chuẩn bị lên đường định cư thì nhận tin Bình được thả về. Nhưng chỉ vài tháng sau thì lại được tin nó bị bắt khi tổ chức vượt biên. Mãi đến tám năm sau nó mới lên đường sang Mỹ theo diện HO. Tôi định chờ một vài tuần để nó tạm ổn định cuộc sống và gia đình, tôi sẽ bay sang thăm vợ chồng nó và thằng Định, thì bất ngờ nhận lá thư này của nó.

Máy bay đáp xuống phi trường Fayetteville, North Carolina lúc 9 giờ rưởi tối. Một phi trường nhỏ ở một nơi tôi hoàn toàn xa lạ. Anh tài xế taxi người da đen chở tôi chạy lòng vòng qua những rừng thông hoang vắng càng làm đầu óc tôi căng thẳng, lúc nào cũng trong tư thế "ứng chiến" để đối phó với những điều bất trắc. Cuối cùng thì anh ta cũng tìm tới được địa chỉ nhà Bình. Trong nhà tối om. Cổng khoá chặt. Tìm chuông cửa nhưng không thấy. Tôi mở bóp tìm địa chỉ của Định, nhưng lâu nay viết thư cho tôi, Định chỉ dùng P.O.Box. Tôi hỏi anh tài xế taxi tên một motel gần nhất. Tôi viết vài chữ lên tấm giấy nhỏ, bảo Bình đến tìm tôi ở motel ấy, rồi gắn lên cửa.

Trưa hôm sau, người đến tìm tôi không phải là Bình, nhưng là ông già vợ của Bình. Tôi chỉ gặp và nói chuyện với ông vài lần trong ngày đám cưới của Bình, nhưng nhận ra ngay. Mặc dù bây giờ ông già hơn xưa, nhưng có tướng đẹp lão. Và vẫn còn hàng ria mép. Ông bảo chính Mỵ Khê nhờ ông đi đón tôi. Trên đường đưa tôi về nhà, ông cho biết là ông đang làm chủ một khách sạn nhỏ và một nhà hàng. Ở cách xa nhà vợ chồng Bình chừng hai mươi phút lái xe.

- Tội nghiệp, vợ chồng nó đang có chuyện buồn. Chuyện phức tạp quá nên hai bác đã cố gắng hết sức nhưng không giải quyết được. Cháu là bạn bè thân, hy vọng cháu nói bọn nó nghe.

- Cháu muốn được nói chuyện riêng với bác trưóc khi gặp vợ chồng Bình. Tôi muốn biết rõ ràng việc gì đã xảy ra với vợ chồng Bình, để biết cách ứng xử sao cho thích hợp.

Ông già của Mỵ Khê quay xe lại, tìm đường rẽ sang một hướng khác. Hơn mười phút sau, ông dừng xe trước một nhà hàng Á châu.

- Cháu vào đây với bác. Nhà hàng này là của bác.

Ông bảo người con gái đứng trong quày mang cho tôi một phần ăn, và một tách trà cho ông, rồi kéo tôi ngồi xuống một cái bàn nằm riêng trong góc. Ông bảo tôi cứ dùng cơm tự nhiên, rồi bắt đầu tâm sự :

- Hai bác thật là buồn và khó xử, chẳng biết phải tính làm sao. Khi thằng Định đưa con Mỵ Khê, vợ thằng Bình sang Mỹ với đứa con chưa tròn một tuổi. Một thân một mình nơi xứ lạ quê người, tất cả từ việc lớn đến việc nhỏ gì nó cũng trông cậy vào thằng Định. Mà Định quả là thằng chí tình với bạn bè, Nó hết lòng lo lắng cho vợ con thằng Bình, mê chuyện học hành mà đành phải bỏ, đi làm hai ba ca để vừa có đủ tiền lo cho mẹ con Mỵ Khê, mà còn gởi về Việt Nam giúp gia đình thằng Bình sau tháng 4/75 trải qua bao năm túng quần. Rồi cũng chính nhờ thằng Định giúp việc bảo lãnh gia đình bác từ Việt Nam sang Mỹ đoàn tụ với mẹ con Mỵ Khê. Nhưng rồi tất cả cũng vì Bác mà gây nên cớ sự. Trước khi rời Việt Nam, hai bác có ra chào vợ chồng anh chị sui gia, là ba má của thằng Bình. Ông bà khóc lóc kể cho bác biết là có tin do vợ một người bạn cùng tù với Bình vừa ra thăm chồng ngoài Bắc về, bảo là Bình đã bị bắn chết trong một lần trốn trại với mấy người bạn tù khác nữa ở biên giới Lào. Chính vì vậy mà hai bác khuyên con Mỵ Khê nên tiếp nối với Định, bởi bao nhiêu năm nay nó đã hy sinh ở vậy để tận tình lo lắng cho mẹ con Mỵ Khê, và cháu Lina, con của Bình cũng xem Định như là cha của nó. Hai bác tâm tình khuyên mãi, tụi nó mới làm đám cưới. Sống với nhau hơn mười năm, tụi nó có hai đứa con, thì mới nhận được tin là thằng Bình vẫn còn sống, chỉ bị thương nhẹ, rồi đem đi biệt giam ở một trại tù nào khác, không ai biết. Từ ngày ấy thằng Định buồn ghê lắm và lúc nào cũng ngồi thơ thẩn một mình. Nó giấu việc này không dám nói với thằng Bình, và cũng chính nó phụ với hai Bác gởi tiền về giúp đỡ gia đình Bình và lo cho Bình sang Mỹ theo diện HO.

Tôi đưa tay xin ngưng lời bác.

- Bây giờ thằng Định đang ở đâu thưa Bác ?

- Trước ngày thằng Bình sang đây, thằng Định mang hai đứa con của nó với Mỵ Khê sang đây nhờ hai bác mướn người giữ hộ, rồi "mu" qua Hawaii. Con Mỵ Khê khóc lóc, bảo nó cứ ở lại đây, khi nào thằng Bình sang Mỵ Khê sẽ nói chuyện với thằng Bình, thằng Bình sẽ hiểu được bao điều khúc mắc và chắc sẽ không buồn. Hai bác cũng giải thích cho nó biết, dù sao thằng Bình với con Mỵ Khê cũng đã xa cách quá lâu, và sự việc xảy ra là do bao nhiêu nghịch cảnh đẩy đưa, chứ Định là một thằng tốt bụng, hết lòng chung thủy với bạn bè. Hai bác cũng sẽ nhận trách nhiệm này trước mặt thằng Bình, khi nó tới đây.

- Rồi cuối cùng ra sao, thưa Bác ?

- Vợ chồng bác khuyên giải suốt cả mấy ngày liền, nhưng nó vẫn không nghe, nó xin lỗi hai bác và con Mỵ Khê, rồi nhờ bác trao lại cho thằng Bình một lá thư. Nó xin được phép dán lá thư lại nên hai bác cũng chẳng biết nó viết cái gì trong đó. Khi đến Hawaii, nó có gọi phôn về cho bác, bảo đang chạy taxi với một thằng bạn cũ. Chút nữa bác sẽ cho cháu số phôn của nó, để cháu liên lạc khuyên giải nó hộ bác.
Bác chở tôi lại trước nhà vợ chồng Bình, bỏ tôi trước cửa, chỉ tôi cái chuông điện nằm kín phía bên trong cánh cửa, rồi lái xe về. Bác bảo là để đám trẻ bọn tôi gặp nhau sẽ được tự nhiên hơn.
Người ra mở cửa là Mỵ Khê. Vừa nhận ra tôi, Mỵ Khê nắm chặt tay tôi, nhoẻn miệng cười, nhưng lại bật khóc ngay sau đó. Mỵ Khê đưa tôi vào nhà, chỉ cho tôi nơi Bình ở, căn nhà sau, chung vách với gara xe. Tôi gõ mấy lần, cửa mới mở.

Sau bao nhiêu năm hai thằng bạn thân từ thời nối khố gặp lại nhau, nhưng đều không vui, ôm lấy nhau mà lòng dạ bùi ngùi. Suốt đêm hôm ấy tôi ở trong phòng Bình, nhưng hai thằng không ngủ, nằm tâm sự thâu đêm. Tôi chưa biết phải nói điều gì với Bình, thì Bình mở đầu tâm sự.

- Khi biết việc này, tao có bất ngờ, và dĩ nhiên cũng buồn ghê lắm. Nhưng chỉ sau một đêm suy nghĩ, tao lấy lại được sự bình thản, và nghĩ là Mỵ Khê đã thuộc về Định, và hai người rất xứng đáng trong tình yêu, trong cuộc hôn nhân mới này. Tao phải cám ơn thằng Định, đã hết lòng cưu mang vợ con tao và cho Mỵ Khê một gia đình hạnh phúc, một chỗ dựa vững chắc trên xứ lạ quê người. Hơn nữa tao và Mỵ Khê xa cách khá lâu, trong lúc nàng đã hội nhập vào xã hội Mỹ này từ lâu rồi, còn tao bây giờ cũng đã già, lại là một thằng quê mùa, bệnh hoạn, mà vết thương trên thân xác cũng như trong lòng tao vẫn chưa lành được.Tao tự biết mình thực tình không còn thích hợp, không còn xứng với nàng. Tao cũng đã tâm tình với Mỵ Khê và điện thoại cho thằng Định, nói hết nỗi lòng.
Mong nó trở về đây. Cháu Lina, con gái của tao cũng nhớ nó mà khóc cả ngày. Tao hiểu, con bé còn xa lạ với tao lắm. Mà nó xa lạ là phải. Không dễ dàng gì cho một cô con gái đã hơn 20, không hề biết mặt cha từ lúc mới năm tháng tuổi, bây giờ phải chấp nhận một ông cha bất ngờ từ trên trời rơi xuống

- Thế rồi vợ mày và thằng Định tính sao ?

- Mỵ Khê thì chỉ khóc và im lặng, còn thằng Định thì nhất quyết trả Mỵ Khê lại cho tao. Nó còn bảo là nó nhớ tao lắm, nhưng không muốn gặp tao.

- Bây giờ mày tính sao ? Tao sẽ giúp được gì cho tụi mày ?

- Tao nhờ mày. Chỉ có mày có thể giúp tao trong lúc này. Mày đưa tao qua Hawaii gặp thằng Định và tâm tình giải thích để nó trở về với vợ con tao.

- Còn mày thì sao ?

- Tao một thân một mình. Nếu mày kéo tao sang Nauy ở với mày là phúc cho tao. Có mày tao sẽ dễ quên bao nhiêu chuyện đau lòng. Còn nếu không được thì tao lang thang đâu cũng được. Lâu lâu kiếm được tiền tao lại ghé về đây thăm cháu Lina, cho dù trong lòng nó, có lẽ tao chưa hề là cha của nó.

Ba thằng bọn tôi lại gặp nhau, qua bao nhiêu năm chia cách cùng những dông tố trong đời. Ôm nhau mừng rỡ mà sao nghẹn ngào, không ai nói nên lời, chỉ có nước mắt chảy dài trên má. Ngày xưa, thằng Định là đứa ba hoa, khôi hài nhất trong bọn, vậy mà cũng không mở miệng để nói một lời, dù chỉ là một chữ hello, mà nó đã thường xài từ lúc còn ở Việt nam, mỗi khi gặp bạn bè.

Không biết lúc này trong đầu hai thằng bạn đang nghĩ điều gì. Riêng tôi đang hình dung tới cuộc chiến bi thảm mà kẻ chiến thắng lại là những con người tàn ác nhất đã tạo nên bao chia ly tan tác.

Sáng nay, chủ nhật, mùa đông Bắc Âu khá lạnh. Tôi thức giấc đã lâu nhưng còn đang trùm chăn nằm nán trên giường thì nghe điện thoại reo. Bốc ống nghe chưa kịp hỏi là ai, thì nghe bên kia đầu giây giọng nói quen thuộc của thằng Định :

- Hello! Ninh ơi. Có thằng Bình đây, nó muốn nói chuyện với mày.

Tôi nghe giọng nói yếu ớt nhưng rất vui của Bình :

- Bình đây. Gọi thăm vợ chồng mày và báo cho mày một tin vui. Tao đang ở nhà vợ chồng thằng Định đây. Vừa từ bệnh viện về. Vợ chồng Định lên tận Houston tìm thăm tao, báo tin cháu Lina bị bệnh rất nặng cần phải thay gấp một quả thận. Bác sĩ cho biết cách tốt nhất là lấy thận của nguời cùng huyết thống, nên tao theo Định và Mỵ Khê bay xuống North Carolina ngay để kịp thời lo cho cháu. Bác sĩ bên này giỏi thật.

Mọi việc tiến hành nhanh chóng. Bây giờ đã xong xuôi. Cháu Lina cũng đã khỏe lại. Đáng lẽ tao đã về lại Houston, vì tao vừa mới mở cái tiệm giặt ủi, do vợ chồng thằng Định giúp vốn, vợ chồng nó cũng vừa mua cho tao một ngôi nhà nhỏ, ở bên cạnh hai thằng bạn cùng phi đoàn với tao ngày trước, nhưng vợ chồng nó nhất định giữ tao lại. Cả cháu Lina nữa. Nó cũng muốn có nhiều thời gian để tâm tình với cha của nó. Mày cố gắng bay sang đây với tụi tao cho vui.

Chưa kịp trả lời, tôi lại nghe giọng nói của đàn bà :
- Ông bà qua đây để tôi còn đãi món cháo trắng ăn với hột vịt muối. Tôi nghe những tiếng cười khúc khích, rồi giọng đùa nghịch của thằng Định xen vào :

- Hello, Ninh ! Mỵ Khê bây giờ nấu ăn nghề lắm đó, biết nấu cả cháo trắng tới bảy món. Vợ chồng mày nhớ bay qua sớm, không thì mất phần đó nghe chưa.

Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.


phạmtínanninh
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Góc nhìn từ... người lính cũ: Hồi tưởng bạn tù
Quốc Bảo
(SÐ18BB/QLVNCH)
Vào một ngày “cải tạo lao động,” với tình trạng thiếu ăn, với cái rét căm căm dưới cơn mưa tưởng chừng như không bao giờ dứt của miền Bắc Việt, thêm vào căn bệnh phù thũng trong người, ý tưởng duy nhất lúc còn đang bị tù đày vào năm 1977 của tôi là thà tự tử chết phứt đi cho rồi, đừng để Cộng Sản hành hạ thân xác và tinh thần một cách thê thảm như thế nầy.

Ngước nhìn lên trời mây u ám, tay cầm con dao chặt nứa khá bén, tôi sắp sẵn sàng hành động liều lĩnh, nhưng đúng vào lúc đó, một ý tưởng khác bổng xuất hiện trong đầu.

Tôi tự hỏi tại sao tôi phải tự tử? Nếu chết vào lúc nầy có nghĩa là thua cuộc, đúng với ý muốn của cộng sản. Mình phải chịu đắng nuốt cay, cố gắng sống, “chống mắt lên” để có một ngày nào đó chứng kiến chế độ Cộng Sản sụp đổ tan tành.

Cũng ngay sau đó, tôi nghe có tiếng người đi đến phía sau lưng. Quay người lại, tôi thấy anh Ðỗ Văn Nhỉ, thân thể rắn chắc, động tác nhanh nhẹn, đang vác một khúc gỗ to, đi tới. Tưởng như nằm mơ, thật không ngờ còn gặp lại anh Nhỉ tại miền Bắc rừng sâu nước độc, sau khi chia tay.

Cả hai chúng tôi đều sửng sốt một hồi lâu và sau đó hỏi thăm vắn tắt về những tin tức của đơn vị Sư đoàn 18 Bộ Binh QLVNCH, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Anh Nhỉ cho biết lúc Bộ Tham Mưu Hành Quân chia tay ở cư xá Thanh Ða, anh đi theo Hằng Minh, anh mang theo một cặp táp trong đó còn khoảng một triệu đồng VNCH. Sau đó, tôi còn nhớ lời anh nói là Hằng Minh đã hai lần cầm khẩu Colt 45 ly, để vào màng tang mình định bóp cò. Nhưng lúc đó mẫu thân của Hằng Minh cũng đã hai lần vừa kéo tay cầm súng của Hằng Minh và vừa khóc xin đừng làm như thế vì bà đã cao tuổi.

Tuy đã gặp Hằng Minh hai lần sau 30 năm xa cách, nhưng tôi vẫn chưa dám đề cập về sự việc nầy.

Về phần anh Nhỉ, anh luôn luôn giúp đỡ các anh em cùng chung cảnh ngộ, kể cả cung cấp thuốc men mặc dù thuốc tây rất hiếm có. Ðôi lúc anh còn ra sức khiêng phụ gỗ, các bó nứa giúp cho những anh em yếu sức. Tôi thực sự đâu có ngờ anh đã vĩnh viễn nằm xuống ở trại cải tạo miền Bắc trong khoảng thời gian “Trung Cộng dạy cho Cộng Sản Việt Nam một bài học” để làm quà đón tiếp Tổng Thống Nixon.

Cho đến khoảng năm 1980 tôi mới hay tin anh Nhỉ mất, do một người bạn cùng ở chung trại với anh cho biết. Anh bạn tên Nhung (T.V.) kể lại như sau:

Cán bộ ban hậu cần của trại có gọi anh Ðỗ Văn Nhỉ (Ðại Úy Chánh Văn Phòng, Bộ Tư Lệnh SÐ18BB) và anh Lương Lê Ðồng (Ðại Úy Tiếp Liệu binh chủng Nhảy Dù) lên ban hậu cần để nấu tiệc ăn cho cán bộ trại vào bữa trưa. Sau đó cán bộ trại có “bồi dưỡng” hai anh ăn ngay tại ban hậu cần. Ðến khoảng nửa đêm hôm đó, cả hai đều rên la, ôm bụng oằn oại. Một lúc sau, hai anh ói ra toàn là máu. Các anh em ở gần bên thấy máu xuất hiện ở mắt, tai, mũi và miệng. Chẳng bao lâu sau đó hai anh tắt thở. Dựa vào sự kiện đó, anh bạn cho biết có lẽ bọn Cộng Sản đã lén bỏ thuốc độc vào thức ăn và mời hai anh ăn để ám hại.

Trong khoảng thời gian đó, tôi đã được chuyển trại về miền Trung, nên không hay biết tin nầy.

Sau khi được thả về, một hôm có một bà cụ đến thăm tôi và cụ bà cho biết bà là mẹ của anh Nhỉ, từ Long An đến Sài Gòn để muốn biết tin tức về Nhỉ khi còn sanh tiền. Tôi rơi nước mắt khi nghỉ đến tình cảnh của cụ bà, nên tôi kể lại về những hành động rất hào hiệp của anh Nhỉ, đã tận tình giúp đỡ các anh em bạn tù và thường chia sẻ thuốc men hoặc kem đánh răng với anh em.

Trước khi ra về, bà còn cho biết vợ con Nhỉ sẽ vượt biển và sở dĩ bà biết địa chỉ nhà tôi là do anh Nhung đã gởi thơ báo cho bà. Tôi an ủi cụ bà vì tuy anh Nhỉ đã qua đời nhưng dù sao anh Nhỉ cũng đã thể hiện đúng lòng nhân ái trong cơn hoạn nạn khốn khổ chung của các bạn tù bị Cộng Sản đày đọa.
quangminh
Posts: 548
Joined: Thu May 27, 2010 1:54 am
Contact:

Post by quangminh »


SẮT SON


Phạm Tín An Ninh
Không ngờ tôi lại là người bưng tấm ảnh chị Ngà theo sau quan tài của chị. Và cũng chính tôi là người đào huyệt chôn chị. Đám ma của chị có lẽ là một đám ma buồn nhất mà tôi chứng kiến. Có cái chết nào lại không buồn. Những ngày ở trong trại “cải tạo”, tôi đã từng khiêng xác vài người bạn tù đi chôn ở ven triền núi hoang vắng đến lạnh lẽo, trong cảnh nhá nhem của buổi chiều đông trên khu núi rừng Việt Bắc. Nhưng đó là chuyện trong tù, còn hôm nay ngay trên làng quê mình, chị Ngà đến nơi an nghỉ cuối cùng mà không có một người ruột thịt tiễn đưa, ngay cả cái áo quan cũng do bà con láng giềng góp tiền mua cho chị.
Chị nằm bên cạnh cha mẹ cùng người em trai, trên một ngọn đồi đầy những cỏ may và cây hoa bộng giếng, nhìn xuống cái làng quê mà gần cả một đời chị sống quanh quẩn ở đây, cô đơn, lặng lẽ.
Chôn cất xong, mọi người ra về, tôi nán lại, dựng tấm bia bằng gỗ trước mộ chị. Khi ngồi một mình nắn nót viết cái tên của chị lên tấm gỗ, nước mắt tôi ràn rụa, mơ hồ như thấy mình đang trở về cái thời nào đó thật xa xăm.

Ngày xưa cha tôi làm thầy giáo, dạy trường Pháp Việt. Tôi mồ côi mẹ từ lúc mới lên ba, cho nên những ngày đi dạy học ông thường dắt tôi theo. Đến lớp, ông giao tôi cho mấy anh, chị học trò lớn của ông để tôi vừa chơi vừa học. Nhờ vậy mà lúc còn bé tí xíu tôi đã biết “con ngựa cheval nhảy qua hòn núi montagne ăn cỏ herbe uống nước de l’eau “.
Trong số các anh chị dạy tôi học, tôi thích nhất là chị Ngà. Chị là con gái lớn của ông bà Tần, chuyên nuôi tằm, bán tơ, một gia đình thuộc hàng khá giả trong làng, có ngôi nhà ngói lớn, ở cách nhà ông bà nội tôi chỉ mấy cái vườn cây. Chị Ngà có làn da trắng, mái tóc thật dài. Lúc nào gặp tôi chị cũng cười và nói năng nhỏ nhẹ. Nghe cha tôi nói lại, chị hiền lành ngoan ngoãn và học rất giỏi, nên là một trong số học trò cưng của cha tôi. Thấy tôi mồ côi mẹ, lại là con của thầy mình, nên chị rất thương tôi. Ngay cả những ngày nghỉ, chị cũng thường ghé lại nhà ông bà nội, dắt tôi đi chơi, mua cho tôi mấy con bò, con gà bằng đất. Có điều tôi ít khi đến nhà chị, vì rất sợ những con tằm. Tôi bảo đó là những con sâu, mặc dù chị tốn bao nhiêu công sức để nói về lợi ích của con tằm đã làm nên tơ lụa, và những con bướm đẹp đẽ đang bay ngoài vườn kia là hoá thân từ chính những con tằm. Nhưng lúc ấy tôi nghĩ là chị đã kể từ một chuyện thần thoại nào đó nên không tin những điều chị nói.
Cả một thời ấu thơ, lớn lên ở nhà ông bà nội, ngoài cô Út ra, chị Ngà là người mà tôi gần gũi nhiều nhất. Chị có một người em trai tên Ngọc, lúc nhỏ tôi rất phục tài đá banh của anh. Gần như không trận bóng nào có anh mà thiếu tôi trong hàng khán giả nhi đồng. Nhờ anh mà đội bóng cùa làng tôi giữ chức vô địch mấy năm liền trong huyện. Tôi mê anh đá banh, nhưng nhiều cô gái trong làng thì mê anh đẹp trai, cao lớn. Sau này anh đăng vào lính thủy quận lục chiến. Nghe nói anh đánh giặc hăng lắm, nên mới ba năm đã lên tới chức trung sĩ. Lâu lâu về phép dắt theo cô bồ có mái tóc quăn, trông anh oai phong lắm.
Khi tôi từ giã quê lên tỉnh học, cũng là lúc chị Ngà ra nghề làm cô giáo, dạy một lớp nhỏ trường làng, rồi lấy chồng. Tôi cũng vinh dự được mời, và quà cưới tôi cho chị hôm ấy là bức tranh chân dung của chị do chính tay tôi vẽ. Tưởng chồng chị là ai, hoá ra là anh Phúc,cũng là học trò của cha tôi, học trên chị một lớp, người cùng làng. Nghe nói anh học giỏi, nhưng thầm lặng, ít nói và không thích giao du với bạn bè. Anh là con trai một của bà ba Tịnh. Bà góa chồng từ lúc nào tôi không biết. Chỉ nghe người ta bảo ông Tịnh theo vợ bé, là một cô đào trong gánh hát rong, rồi biệt tăm luôn.
Anh Phúc thi đậu lấy bằng primaire, nhưng viện cớ mẹ goá con côi, nên không đi làm công chức như những người khác, mà lại tự mình khai thác một khu vườn bên kia sông Gốc, trồng nhiều loại cây và có ao nuôi cá. Trong làng ai cũng khen anh biết tính toán và có lòng hiếu thảo
Trong đám học trò của cha tôi cũng có vài anh khác ngắm nghé chị Ngà, nhưng vâng lời cha mẹ, chị lấy anh Phúc, bởi anh là con một của bà mẹ góa, được nhà nước cho miễn dịch, khỏi phải đi lính xa nhà, để chị còn được gần gũi săn sóc ông bà khi đến tuổi già. Đám cưới nhà quê, nhưng khách khá đông, mà hầu hết là bạn học của hai người và cũng là học trò của cha tôi.Trong lễ cưới, sau khi cô dâu chú rể lạy tạ cha mẹ hai bên, rồi xin được lạy cha tôi một lạy để đền ơn sư. Cha tôi cầm tay anh chị dặn dò nhiều thứ, tôi không nhớ hết, chỉ còn mang máng hai tiếng thủy chung.

Từ ngày chị Ngà lấy chồng tôi ít có dịp gặp lại chị. Mặc dù nhà chồng chị cũng không xa mấy, nơi ven làng, bên con sông Gốc, mà phía bên kia sông là khu vườn của anh Phúc và cánh rừng tiếp giáp với dãy trường sơn.
Tôi gặp lại chị đúng vào một ngày buồn. Chỉ đứng nhìn chị ấy khóc. Anh Ngọc, em trai duy nhất của chị, bị tử trận đâu trong Rừng Sát. Cha mẹ chị ngất xỉu khi nhận chiếc quan tài mà không hề được báo trước. Đám ma hôm ấy nghiêm trang lắm, có cả ông quận và mấy anh lính bồng súng chào đi theo. Tôi dìu chị đi sau linh cửu, tiễn đưa anh Ngọc đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Điều làm tôi – và nhiều người – ngạc nhiên là trong đám ma của anh Ngọc, không ai nhìn thấy mặt anh Phúc, chồng chị. Mọi người thì thầm “cha nào con nấy, chắc là lại mê con đào hát nào, bỏ con Ngà rồi! ’’
Tội nghiệp cho chị và oan cho anh Phúc. Vì trước đó mẹ anh Phúc đã thay mặt con trai xin lỗi gia đình sui gia, bởi anh Phúc ốm nặng bất ngờ phải nằm bệnh viện.
Hai tháng sau, một trận lụt lớn tràn qua làng tôi, kéo theo một số nhà cửa và trâu bò, nhưng không có ai chết, ngoại trừ cái tin anh Phúc bị nước cuốn đi, khi anh còn ở khu vườn bên kia sông Gốc, chưa kịp về nhà. Mẹ anh Phúc rước thầy ngồi đồng đi tìm xác anh Phúc suốt mấy ngày liền, nhưng người ta nghĩ là xác anh đã trôi ra biển.
Trong nhà cũng lập bàn thờ, nhưng chị Ngà nhất định không chịu để tang. Chị bảo linh tính báo cho chị biết là anh Phúc, chồng chị vẫn còn sống. Có thể trôi giạt đến một nơi nào đó rồi được người ta cứu như câu chuyện nàng Thúy Kiều mà chị thường đọc cho cha mẹ chị nghe…

Tôi rời quê vào Sài gòn học, rồi sau đó đi lính. Lâu lâu nghỉ phép về quê, tôi tìm đến thăm chị. Sau ngày cha mẹ mất, chị nghỉ dạy học, bán ngôi nhà ngói lớn của ông bà, đem tiền bạc về xây lại ngôi nhà mẹ chồng thành ngôi nhà lớn ba gian, mua luôn cả khu vườn bên cạnh có trồng đủ loại cây ăn trái. Chị dành lại một số tiền mở một nhà máy xay xát nhỏ, nuôi bà mẹ chồng bị đau bệnh mấy năm nay, chỉ nằm một chỗ.
Trong làng, có người thì bảo chị ấy “khôn nhà dại chợ, bán nhà cha mẹ để gây dựng nhà chồng, và mang cả bàn thờ cha mẹ, em út sang bên ấy, không sợ tủi hổ vong linh”. Nhưng cũng có người, trong đó có ba tôi, thì khen chị, bảo là “xuất giá thì phải tùng phu, con Ngà nó làm vậy là đúng theo sách thánh hiền !”
Không hiểu có phải vì chị nghe lời dặn dò của ông Thầy, từng khai tâm và dìu dắt chị nên người, thuộc lòng hai chữ thủy chung, nên dù chồng đã biệt tích từ lâu, chị vẫn ở vậy, thờ phụng nhà chồng, trong lúc chị vẫn còn trẻ và có nhan sắc trong vùng. Có mấy ông thầy giáo ở xa đổi tới từng mon men đến chị nhưng chị khước từ.
Ngày mẹ chồng chết, cũng chỉ có mỗi một mình chị mặc áo tang. Nghe nói cái đám ma đúng vào một ngày gió mưa, ảm đạm. Người ta không chỉ thương cho người chết, chẳng có chồng con trong phút lâm chung, mà còn tội nghiệp cho cả cô dâu, một mình cô đơn đi sau quan tài, tiễn đưa bà mẹ chồng về nơi chín suối, mà cũng đưa cuộc đời mình vào chốn quạnh hiu.

Chiến tranh càng lúc càng leo thang. Sau ngày mấy ông tướng nghe theo Mỹ hạ bệ và giết hai anh em ông Ngô đình Diệm, không biết đất nước có thực sự khá hơn không, nhưng ở quê tôi thì không còn bình yên như trước nữa. Một vài người làm việc trong chính quyền bị ám sát. Cứ vài ba tuần lại có một cuộc đụng độ giữa các toán dân vệ với quân du kích. Ba tôi phải bỏ quê, về sống ở thành phố, giao ngôi nhà từ đường của ông bà nội cho cô Út tôi chăm nom thờ phượng.
Tôi về phép thăm ba tôi đúng vào ngày giỗ ông nội, nên hai cha con cùng về thăm quê. Tôi gặp chị Ngà khi vừa bước chân vào nhà ông nội. Chị đến đây từ sáng sớm, phụ cô tôi dọn dẹp nhà cửa, bàn thờ, chùi bóng mấy bộ lư đồng và mấy tấm liễn. Thấy ba tôi, chị vòng tay cúi đầu thưa Thầy như cái hồi còn bé. Chị nắm tay tôi, miệng nở nụ cười. Nhưng nhìn trong đôi mắt chị, tôi thấy phảng phất buồn.
Không biết ba tôi thay đổi quan niệm từ lúc nào, sau đám giỗ, ông bảo tôi tìm chị Ngà, dặn chị ở lại cho ông nói chuyện. Ông khuyên chị Ngà nên bước thêm bước nữa, hy vọng còn sinh đẻ được để có mụn con, hầu tránh cảnh tuổi già đơn chiếc, chẳng có ai lo lắng cho mình. Hôm ấy tôi cũng phụ họa nhiều điều và hứa sẽ làm mai cho chị. Lần này Chị không một mực khước từ, nhưng xin để tang mẹ chồng cho đủ ba năm. Tôi giận chị nhưng cũng cảm phục tấm lòng thủy chung của chị.

Tháng tư bảy mươi lăm, khi chị Ngà chưa mãn tang mẹ chồng, thì cả miền nam để tang cho đất nước. Cái “đại thắng mùa Xuân” của những người Cộng sản đã gây biết bao nhiêu thê lương tang tóc. Ba tôi bị bắt trong lúc tôi còn theo đơn vị từ cao nguyên“di tản chiến thuật” vào các địa danh xa lạ ở tận Long An tham dự những trận đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ.
Miền Nam mất. Trong lúc những người Cộng Sản ngơ ngác hò reo chiến thắng, tôi lặng lẽ quá giang đủ các loại xe trở về quê. Tìm tới trại tù Đá Bàn, một mật khu lúc trước nằm sâu trong núi, nơi ba tôi bị giam giữ, nhưng cuối cùng tôi vẫn không được phép gặp ba tôi. Tôi về nhà ông nội thăm bà cô út và thắp hương từ biệt trước bàn thờ gia tộc.
Cô tôi đau lòng cho biết, người ký lệnh bắt ba tôi là một anh học trò của chính ông ngày trước. Anh bỏ nhà lên núi rồi tập kết ra Bắc. Bây giờ đang giữ một chức vụ khá lớn trong Uỷ Ban Quân Quản.
Cô tôi chưa kể hết câu chuyện thì chị Ngà đến. Chị nắm chặt hai bàn tay tôi, không nói điều gì. Tôi thấy chị đang khóc. Tôi nghĩ là chị thương và lo lắng cho cha con tôi trong cái cảnh sa cơ này. Tôi lấy lại bình tĩnh, chưa kịp nói lời trấn an, thì chị nhìn tôi nghẹn ngào:
– Em, em.. xin Thầy và em tha thứ cho chị. Chị không ngờ.., chị thật sự không ngờ.
Và chính tôi cũng không ngờ. Anh học trò ký lệnh bắt cha tôi chính là anh Phúc, chồng của chị. Tôi rút nhanh tay ra khỏi bàn tay của chị.
Dường như đây là lần đầu tiên trong đời, nhìn những giọt nước mắt – mà lại nước mắt của một người rất gần gũi thân quen – lòng tôi dửng dưng không hề xúc động. Tôi có cảm giác đắng cay của một người bị lừa gạt và phản bội. Tôi giận cho tình đời và thầm ân hận là cha tôi đã từng “nuôi ong tay áo”.

Tôi từ biệt làng quê và bà cô cả một đời nuôi nấng chăm lo cho tôi từ thời tấm bé, bước vào trại “cải tạo” với ngổn ngang trăm mối trong lòng. Tự dưng tôi mất mát gần như tất cả mọi thứ trên đời, kể cả những tình cảm mà tôi cứ ngỡ là nó sẽ không bao giờ mai một,
Hơn tám năm trong nhiều trại tù từ Nam ra Bắc, bị hành hạ đói khổ khốn cùng. Tôi sống còn có lẽ là nhờ những giấc mơ về quá khứ. Trong đó tôi bắt gặp lại hầu hết bóng dáng những người thân yêu của cái thời hạnh phúc. Và khuôn mặt xinh đẹp hiền hậu dễ thương của chị Ngà vẫn thường hiện lên rõ nét, mặc dù khi đầu óc tỉnh táo, tôi đã cố gắng xua đuổi hình ảnh ấy ra khỏi ký ức mệt mỏi của mình. Tôi thương chị mà hận chị. Tôi nghĩ là chị đã đồng lõa với nhà chồng để lừa gạt chúng tôi hơn mười mấy năm qua.

Ra khỏi tù, tôi không được phép về sống chung với vợ con ở thành phố Ninh Hòa, quê vợ. Lý do hết sức đơn giản là : chính quyền ở đó không nhận tôi tạm trú. Công an tỉnh bắt buộc tôi phải về “trình diện chính quyền”nơi sinh quán. Tôi lại một mình khăn gói về quê cũ, mà ở đó chỉ còn một bà cô già goá bụa sống âm thầm trong ngôi nhà từ đường có mái ngói âm dương của ông bà nội tôi để lại.
Nghe tin tôi về, bà con hàng xóm đến thăm. Mới hơn tám năm mà trông ai cũng già nua, khắc khổ. Trong số đó tôi để ý một người đàn bà, đứng ngoài cửa nhìn tôi, đôi mắt thất thần, đầu tóc rối bù, áo quần rách rưới bẩn thỉu. Tôi ngờ ngợ nhớ tới một người. Nhưng khi vừa đứng lên định bước tới hỏi thăm, thì bà ta vụt chạy về phía sau vườn. Tôi ngẩn người khi cô tôi bảo nguời đàn bà ấy chính là chị Ngà, vợ anh Phúc ngày xưa.
Buổi tối, sau khi dắt tôi lên căn nhà thờ thắp hương lạy ông bà, cô tôi đóng kín cửa, khêu ngọn đèn dầu, ngồi kể cho tôi bao nhiêu nỗi niềm tâm sự.

Cha anh Phúc – theo lời tiết lộ sau này từ những đồng chí thân tín của anh Phúc – thực ra không hề theo một ả hát rong nào cả, mà bỏ làng vào bưng từ khi anh Phúc mới lên mười. Ông đã chết từ lâu, nhưng hàng năm vợ con vẫn nhận được thư ông do một vài người lạ mặt mang tới. Trong mấy lá thơ, hầu hết là “động viên” tinh thần anh Phúc nối gót cha đi làm “kách mệnh”. Trước khi lên núi, anh Phúc làm quen, rồi tỏ ra yêu chị Ngà, nhưng thực ra đó là kế hoạch đã được các“đồng chí thủ trưởng “ giao cho anh Phúc phải thi hành, để giải quyết việc nuôi nấng mẹ của Phúc, mà bọn họ biết là bà đã trở thành goá bụa từ lâu rồi.
Những ngày làm vườn bên kia bờ sông, anh Phúc đã hoạt động cho phía bên kia. Dưới căn hầm trong khu vườn là sào huyệt từng che dấu cho nhiều cán bộ. Sau một trận tấn công chiếm trụ sở xã bất thành, sợ hành tung bại lộ, anh Phúc đã lên núi rồi tập kết luôn ra Bắc, sau khi dựng lên vở kịch chết trôi trong trận lụt năm nào.
Tất cả mọi việc không phải chỉ để qua mắt mọi người, mà còn đánh lừa cả chị Ngà. Chị nhẹ dạ cả tin, nên ban đầu cứ tưởng chồng mình còn sống bị trôi giạt ở đâu đó, nên vẫn chờ đợi trong hy vọng. Sau một thời gian dài bặt vô âm tín, chị mới nghĩ là anh đã chết. Tội nghiệp, chị không hề biết là mình đã bị lừa dối để uổng phí cả một đời xuân sắc.
– Thế bây giờ ông Phúc ở đâu và vì sao chị Ngà lại ra nông nỗi ? Tôi hỏi.
– Sau ngày “giải phóng” chưa đầy một tháng, thằng Phúc đưa vợ con từ ngoài Bắc vô đây, giành lấy ngôi nhà do công sức của con Ngà gầy dựng, trong đó phần lớn là tài sản của chính cha mẹ nó. Con Ngà phải ra phía góc vườn che một cái chòi tranh để trú nắng trú mưa.
– Còn cái máy xay xát ở đâu mà trông chị nghèo khổ đến như vậy ? Tôi thắc mắc
– Họ mang vào hợp tác xã. Thời gian đầu họ cho con Ngà làm công nhân xay lúa, nhưng lại trả lương bằng bo bo. Chỉ sau vài tháng tất cả các máy xay xát tâp trung về huyện, nó bị mất việc.
– Bây giờ gia đình ông Phúc vẫn còn bên ấy? Con không muốn có ngày gặp mặt ông ta.
– Thực ra nó giành nhà, nhưng chỉ ở một vài tháng rồi cho gia đình một“đồng chí”nào của nó cũng từ ngoài Bắc vào tá túc, trong khi chờ chia chác những ngôi nhà lớn mới tịch thu. Sau đó thằng Phúc bán cả nhà lẫn vườn tược lại cho người khác, vào thành phố nhận một chức hàm lớn hơn. Con Ngà nó phát điên từ dạo ấy. Ngày nghe tin ba con chết trong trại tù cải tạo, nó như một kẻ không hồn. Ban đêm, người ta nghe tiếng nó gọi Thầy ơi, Thầy ơi rồi khóc nức nở.
Tôi theo cô Út, đi dọc theo phía sau mấy khu vườn, tìm đến chị Ngà. Trong căn chòi lụp xụp tối tăm, chị Ngà đang ngồi thẫn thờ trên cái giường tre như một pho tượng cũ. Trên đầu giường có ba tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc, em chị, nhem nhuốc, úa màu. Không ngờ cái ngày đổi đời, người chồng biệt tăm bao nhiêu năm bây giờ bỗng dưng về, trở thành ông lớn thì cuộc đời của chị lại tàn tạ bi thảm như hôm nay. Tôi ngồi xuống bên cạnh chị, ôm đôi vai gầy còm của chị mà trong lòng tựa hồ như bao nhiêu vết chém.
– Chị Ngà ơi, chị vẫn mãi mãi là chị của em mà. Em thương chị và sẽ lo lắng cho chị.
Chị Ngà ngồi bất động. Rồi bất ngờ òa lên khóc. Cô cháu tôi càng dỗ dành an ủi, chị lại càng khóc to hơn, tôi nghe tiếng ấm ức nghẹn trong cổ họng chị.
Tôi năn nỉ, khóc lóc với chị bao nhiều lần mới đón được chị về ở chung trong nhà ông nội. Tôi mang mấy tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc về để một góc trên bàn thờ gia tộc. Từ ngày ấy chị khá hơn xưa. Những lúc ngồi tâm tình với cô cháu tôi, chị vui vẻ bình thường như thuở còn con gái, nhưng cũng có nhiều đêm khuya chị ngồi trước bàn thờ lẩm bẩm một mình và khóc sụt sùi. Từ ngày có chị, tôi cũng thấy mình đỡ bớt cô đơn, và có lúc còn thấy mình hạnh phúc trở lại với cái thời thơ dại.
Vậy rồi chị lìa bỏ thế gian này cũng thật bất ngờ. Buổi sáng thức dậy sớm, tắm rửa xong chị thay quần áo mới, kẹp lại mái tóc, trông chị trẻ ra. Cả ngày hôm ấy chị cười đùa hồn nhiên vui vẻ, ngồi ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của những ngày tôi còn bé, và chị còn là cô học trò cưng của ba tôi. Khi vui, trí óc chị trở nên minh mẫn lạ thường. Chị còn nhớ bao nhiêu điều mà chính tôi đã quên từ lâu lắm. Trước khi đi ngủ, chị còn ôm đầu tôi vào lòng, nhại một câu hát đã lâu “ may mà có em đời còn dễ thương..”. Và sau đêm hôm ấy, chị không bao giờ thức dậy nữa.

Trước ngày vượt biển, phải cắt ruột bỏ quê mà đi, tôi đến nghĩa trang gia tộc thắp hương cho ông bà và mẹ tôi, rồi đến thăm mộ chị cuối cùng. Trong lúc cầm ba nén hương đứng trước mộ chị, tôi nghĩ đến thuyết luân hồi của nhà Phật, và hình dung bây giờ chị Ngà đang sống ở một thế giới khác, xinh đẹp và rất hạnh phúc với một người chồng xứng đáng, bởi chị là một nguời đàn bà thánh thiện, sắt son.
Một con bướm trắng không biết từ đâu bay lại đậu trên tấm bia bằng gỗ, mà chính tay tôi đã dựng lên cho chị, nhịp nhịp đôi cánh rồi vụt bay theo cơn gió lốc, biến mất trong bầu trời xanh.

Phạm Tín An Ninh
tankhoasinh
Posts: 838
Joined: Sat Jun 23, 2007 4:20 am
Contact:

Post by tankhoasinh »

NGƯỜI VỢ LÍNH Ở THỦ ĐỨC

Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ.

Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức. Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ.

Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính.

Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính.

Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.


Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.


Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.

Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa.

Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính CS vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.


Giây phút cuối của Chương Thiện


Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:
“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Cộng quân cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng Cộng quân vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được.

Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “
“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”


Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng. Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.
“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.
Image
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà nói rằng.
“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”

Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.


Giao Chỉ , San Jose.
[/B]
vuphong
Posts: 2749
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Chữ Tín

Mũ Đỏ Trương văn Út, danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan.


LTS: Cựu Đại Úy Trương văn Út, cựu SVSQ Khoá 22/TVBQGVN. Ông là ĐĐT Đại đội 5, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt.

Sau ÐÐ5 Biệt Cách Nhẩy Dù cải tuyển thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù/SĐND, được các cựu SVSQ/Khoá 22/TVB Quốc Gia VN gọi là “Lão Ngoan Đồng”.
Ông vượt thoát khỏi trại tù CS (Long Giao). Mấy năm trời sống lanh quanh thành phố Saigon, trước khi vượt biên (1982) đến trại tị nạn Mã Lai.
Ông hiện định cư tại Houston, Texas .
***

Tôi chỉ có một bà chị dâu duy nhất. Chị kết hôn với người anh thứ ba của chúng tôi nên tôi gọi là Chị Ba. Tên của chị là Trần Sâu Lầy. Nghe qua cái tên thì biết ngay Chị là người Việt gốc Hoa. Chị sinh quán ở xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân Sư Phạm Sài Gòn, làm cô giáo ngay tại nơi sinh trưởng của mình.

Anh của tôi là Trương văn Nhì (Khoá 15 Võ Bị Đà Lạt (VBĐL) phục vụ tại Trung Đoàn 12/ SĐ 7 Bộ Binh...

Theo lời kể, gia đình ông sở ông sơ của chị, thuộc dòng dõi Minh Hương bên Tàu, chạy tỵ nạn nhà Thanh sang lập nghiệp ở Cà Mau cùng thời với Mạc Thiên Tứ, Mạc Cữu....Cho đến đời Ông Cố, ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng "Phản Thanh Phục Minh"...và đến đời thân phụ thì di chuyển về Cây Dừa, tỉnh Cai Lậy và chị được sinh ra nơi đây...

-Năm 1975... Anh của tôi đi tù caỉ tạo CS. Chị bị cho nghĩ việc vì vợ sĩ quan “Ngụy”... Chị chuyển sang nghề may vá, tần tảo nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.

Khi tôi trốn ra khỏi trại tù CS ở Long Giao (1976), thỉnh thỏang lén lút ghé thăm Chị. Chị lúc ấy gầy rọp thân thể, lưng còm xuống, già lão trông giống như người đàn bà năm sáu mươi tuổi, mặc dù lúc ấy chị mới khoảng 26, 27 tuổi.

Ấy, vậy mà cứ sáu tháng một lần Chị phải gánh hai bao bố thức ăn khô, thuốc men, từ Sài Gòn ra đến trại Vỉnh Phú (miền Bắc) thăm nuôi Anh tôi trong tù.

-Năm 1987... Mười hai năm sau, anh được thả ra. Chị đã chuẩn bị sẵn cho Anh để vượt biên bằng đường biển, qua sự trung gian của gia đình người Hoa mà chị thân thích. Không may, Anh lại bị bắt và bị giam ở Mõ Cày (Bến Tre) chịu đựng ba năm khổ sai...

Sau đó, được tạm tha, trở về gia đình, sống trong bàn tay buôn tần bán tảo của Chị. Vợ chồng đạm bạc bên nhau, cho đến ngày cả gia đình được sang Mỹ với diện HO-5...

Ngày nay, gia đình anh chị tôi, đã ổn định. Con cái đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội ngọai đề huề...Có lần tôi hỏi Chị

-Bí quyết nào giúp cho Chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay?

Chị cười và nói:

-Có gì đâu! Chị có 9 đồng, chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng, rồi Chị dấu đi để phòng khi hữu sự. Còn tụi Em có 9 đồng, đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè. Tiền vất qua cửa sổ, chẳng bao giờ chạy ngược trở vào....

Đó là triết lý sống của người chị dâu gốc Hoa của tôi..

Năm 1979... Ngược giòng thời gian...

Tôi ghé thăm Chị, khi anh tôi còn đang ở trại tù ngoài Yên Bái. Tôi sống lang thang không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật, vì đã trốn ra khỏi tù. Nhờ chị giới thiệu tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn và tôi có việc làm “chui "...

Mỗi sáng lúc 5 giờ, đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải sa-ten đen, chở lên Cầu Tre ( Phú Lâm) giao cho người nhận là một xưởng nhuộm lậu. Sa-ten là một lọai lụa, dùng để may quần cho đàn bà.

Buổi chiều lúc 3 giờ, trở lại nhận 3 cây sa-ten trắng đem về giao lại cho Chủ. Cứ mỗi chuyến " giao hàng " như vậy, Chủ trả cho 25 đồng tiền mới (tiền cụ Hồ - mỗi 500 đồng của VNCH đổi ra 1 đồng tiền Hồ).Thôi, cũng độ nhật qua ngày...

Ông Chủ trạc 60 tuổi, Tôi gọi là chú Quảnh , người Em của ông, là chú Xồi...Tôi không biết gia đình này có bao nhiêu người, nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở đường Triệu Đà, Chợ Lớn. Căn phố cũ kỹ, đơn sơ, không một chút gì sang trọng như những căn phố gần đó.

Một hôm sau khi giao hàng, như thường lệ Chú Xồi trả công cho tôi 25 đồng. Tôi cám ơn, vội vã đạp xe đạp, giông tuốt rồi ghé quán càphê . Tôi móc tiền đếm lại thì tới 50 đồng, chứ không phải 25 đồng...

Trong hoàn cảnh khốn cùng này được đồng nào hay đồng nấy. Hớp vài ngụm cà phê, Tôi chợt giật mình vì chợt nhớ lại lời chị dâu tôi dặn:

- Em phải nhớ làm ăn với người Tàu, một cắc là một cắc , một đồng là một đồng, ăn gian nói dối thì không bao giờ làm ăn với Họ được...Họ làm ăn với nhau chỉ đơn giản với một chữ TÍN "...

Tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút trở lại gặp Chú Xồi và trả lại 25 đồng mà Chú đã đưa dư...Chú cười và nhận lại tiền dư.

Tôi không biết chị dâu của tôi có nói gì với Họ về tôi hay không, nhưng một hôm, khi Tôi giao hàng, Chú Quảnh bảo Tôi:

-Nị dào chong dữa mặt , zồi za ăn cơm dới Ngộ há ..

Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình...Họ xí xô xí xào. Tôi không hiểu họ nói với nhau điều gì. Khi từ giã ra về, Chú Quảnh đưa tôi ra cửa và Chú hỏi nhỏ:

-Nị có phải là sĩ quan “ngụy” chốn học tập không hả ???.. Đừng sợ... Ngộ biết hết dồi lớ...từ từ mình sẽ tính...

Tôi bàng hoàng rời nhà chú Quảnh với nỗi cực kỳ lo sợ. Ngày mai có nên trở lại nơi này không ??? Không !!! chắc chắn là không...

Tôi chuyển hướng, thay vì đi thẳng đến bến xe An Đông tìm chỗ ngủ đêm như thông lệ, Tôi đạp xe qua bến Phạm Thế Hiển gặp chị tôi...

-Chị Ba! Chị có nói gì mà Họ biết Em là sĩ quan ngụy trốn trại cải tạo?

Với nụ cười hiền hậu Chị trả lời:

-Không có sao đâu, họ đang giúp Em đó...

Hai tuần sau, tôi có cái giấy Khai sinh giả mang tên Trần Chỉnh, sanh năm 1942...người Việt gốc Hoa ...

Tôi (chỉ một mình tôi) cùng gia đình Họ , hơn 60 người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, rời bến ở kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi trên chiếc ghe đánh cá, ba block đầu bạc, đi tìm tự do.

***

Tàu ra khơi, nhưng không may, xế trưa ngày hôm sau bị gảy bánh lái cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông. Tàu bỏ neo để thay bánh lái phụ. Một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần. Tất cả chúng tôi vội vàng chui xuống dưới khoang ghe, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như đang đi đánh cá.

Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại. Ngang ghe chúng tôi vài chục mét, chúng vẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc.

Tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi anh Lợi, người tài công có mười năm kinh nghiệm đánh cá. Anh nói với chút lo âu:

-Mình phải đi ngay, càng nhanh càng tốt, tôi đoán thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi Công an Biên Phòng...

15 phút sau ghe nhổ neo, vội vã lái về hướng Nam ... Nhưng quá trễ. Hai chiếc PCF duyên tốc đỉnh phất phới ngọn cờ máu phiá sau chúng tôi với hằng tràng đại liên chỉ thiên đe dọa. Thế là chúng tôi bị bắt. Ghe được kéo về đồn Công An Biên Phòng ở Cây Gáo, sau đó bị tống vào trại giam của Ty CA Hình Sự Cà Mau, nằm phía bên kia cầu sắt. Bên này là chợ Cà Mau .

Thời gian này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đãi như khách du lịch có passport (thông hành) chờ xuất ngọai. Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ "thời điểm" này, mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ. Bọn CA chỉ lo vơ vét vàng... 5 cây, 10 cây... tùy số lượng để giải quyết vấn đề.

Tôi không biết gia đình Chú Quảnh hay Chú Xồi “làm việc” với bọn chúng bằng cách nào, vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng của chúng, khi trở về phòng giam, anh em họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu.

Hai ngày sau đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò cho xe chở về SàiGòn... Đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau ..

Trong thời gian chờ đợi, Chú Quảnh dặn Tôi:

-Nị nhớ khai đúng tên tuổi trong khai sinh mà Ngộ đã đưa cho Nị ... Nị là Em dợ của Ngộ, là Em duột của dợ Ngộ...Nhớ nói giọng lơ lớ...đừng nói nhiều hớ ...."

Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một 18 anh em "người Hoa chúng tôi" được ra ngòai lao động: vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh Cầu Sắt.

Bao nhiêu nỗi lo âu sợ hãi ban đầu dần dần vơi đi, Tôi bỏ hẳn ý định trốn thoát, vì rằng trong trạng huống này Tôi nghĩ sớm hay muộn, không bao lâu, chúng nó cũng thả chúng tôi ra.

Thêm vào đó tình cảm với anh em Chú Quảnh càng ngày càng khắn khít qua những liên hệ của những người tù cùng chung một trại giam "ngọt cùng chia, bùi cùng xẻ”. Họ đối với Tôi như chính anh em của họ.

Sau hơn ba tháng lao động chúng tôi được cấp giấy "tạm tha trở về nguyên quán "...Điều này đối với tôi, tôi nghĩ như đang nằm mơ, vì mang tội vượt biên thì ít nhất ba năm lao động ở các trại tù cải tạo của miền Tây. Tôi tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời, bằng gịong người Tàu nói tiếng Việt.

-Mấy Bả dề trước, mấy Bả lo cho tụi mình...

Về đến xa cảng miền Tây, chúng tôi chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò:

-Nị nghỉ ngơi vài ngày rồi trở lại gặp chúng tôi ..

Chú nhét vào túi quần tôi 50 đồng. Tôi quay lưng, niềm suy nghĩ bay cao..

Trở về nguyên quán? Nguyên quán của tôi ở đâu? Mấy năm nay, nhà của tôi là đầu đường xó chợ, là ga xe lửa, bến xe đò! Nhớ vợ con lắm thì nhắn chị Ánh (vợ Hùng Móm), chị Hồng Tố Yến (vợ TTC), chị Thu (vợ NTN) rồi kiếm cách lén lút gặp vợ con vài ba tiếng đồng hồ, khi những người thân yêu này giả vờ đi chơi lang thang trong Sở Thú...

Một tuần sau, tôi mon men trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh. Đứa con gái Chú Xồi chỉ ra quán cà phê góc đường Triệu Đà - Hùng Vương. Nơi đây tôi gặp lại họ.

Chú Quảnh vừa thấy tôi, Chú mừng lắm. Chú chạy ra, nắm tay tôi kéo đi một khoảng khá xa và nói:

-Nị đi ngay đi ... đừng vào trong đó... Ngày mai lúc 6 giờ chiều gặp ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm.. Nị biết chớ?

Tôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp, cứ đạp miết. Vô ngã hẻm này, ra ngã hẻm khác, len lỏi vào giòng xe đạp trên các lộ chính, rồi bất ngờ quẹo vào một con hẻm nào đó, mục đích “cắt đuôi” nếu bị theo dõi.

Tôi tin tưởng nơi gia đình chú Quảnh. Tôi chỉ còn một nơi bám víu chỉ với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia đình Chú mới có thể giúp tôi thoát khỏi nơi này để đến bến bờ Tự Do.

Nhưng nay, qua sự gặp gỡ vừa rồi, Tôi hiểu gia đình của Chú cũng đang bị theo dõi gắt gao.

* * *

Sau bốn năm “giải phóng”, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rỡ như ngày nào. Tôi bước vào, lòng mang bao nhiêu nỗi ngậm ngùi, nhớ lại những tháng ngày của một thời oanh liệt. Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi, đảo mắt qua một vòng. Tôi yên tâm vì không có người lạ. Hầu hết là những người cùng Tôi vác lúa khổ cực ở Cà Mau khi bị giam về tội vượt biên...

Chú Xồi hỏi Tôi:

-Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không?

-Dạ nhớ.

-Ai ngồi kế bên?.

-Dạ, chú Chảnh...

-Nị ráng nhớ cho kỹ, một chút nữa qua đó ngồi nói chuyện với tụi nó và tụi nó nói cái gì thì nị cứ làm theo cái đó. Mấy thằng chó chết VC đang đánh tư sản mại bản. Tụi nó đóng cửa ba cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch biên tất cả vải vóc chúng tôi đang có, và có thể sẽ tịch biên nhà cửa và đưa chúng tôi lên vùng kinh tế mới, không biết ở đâu...Cho nên chúng tôi không còn giúp cho Nị được gì nữa ...Đây là Hộp trà Sâm, anh Chảnh biếu cho nị, có vậy thôi... Nhớ giữ hộp trà này bên mình.. Bây giờ qua nói chuyện với Xường và Chảnh.

Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn tôi mỉm cười. Buổi tiệc hôm nay là ngày sinh nhật thứ 16 con gái Út của Chú Quảnh. Tôi nắm lấy bàn tay chú Xồi siết thật chặt và thật lâu, trước khi chỉ biết nói hai chữ cám ơn rồì bước sang bàn chú Xường....

Xường và Chảnh chỉ lớn hơn tôi năm hoặc bảy tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng Chú. Thời gian ở tù Cà Mau, trong cái láng dơ bẩn, ba chúng tôi cùng nằm một chiếc chiếu rách tả tơi .. Khi ngã lưng xuống chiếu Tôi thường hay kể chuyện Thủy Hử cho Họ nghe trước khi thiếp ngủ mỏi mệt sau một ngày vác lúa, vác gạo nhừ người.

Một cái ghế đã sắp sẵn cho tôi giữa Xường và Chảnh...Xường đi ngay vào đề:

-Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không ? ...

-Dạ biết..

-Nhớ kỹ lời tôi dặn đây. Hôm nay là ngày Thứ Bảy. Sáng ngày Thứ Hai tới, anh gặp Tôi và Chảnh ở Thanh Thế. Cứ đến đó vào lúc khỏang 10 giờ nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo đừng hớt... Đêm nay nhớ mở Hộp trà Sâm, mà anh Quảnh biếu cho Anh nhâm nhi cho đỡ buồn.

Tôi đứng dậy, nhìn một lượt chung quanh nhẹ cuối đầu như một sự từ giã không lời, lặng lẽ ra về với bao nỗi bâng khuâng trong lòng. Vui buồn lẫn lộn...cùng với nhiêu thắc mắc. Họ là Ai? Tài phiệt Chợ Lớn cỡ như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng, hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hay thuộc xã hội Đen của Tàu Cộng, Đài Loan, Hồng Kông? Mặc kệ! Nghĩ chi cho mệt óc miễn sao mình còn thong dong đạp xe đạp tự do ngày nào hay ngày đó, dưới đường phố mưa sa mà không cần nhìn đến cờ đỏ sao vàng..

Đêm đó tôi mở Hộp trà Sâm...10 lượng Vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong đó, tôi chợt nhớ lời Chú Xường dặn "Thứ hai gặp Tôi ở nhà hàng Thanh Thế..."

Tôi ngủ một giấc ngủ chập chờn trên một căn gác cho thuê đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.

***

Lúc còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ Tôi thường cùng bạn bè la cà....sáng thì đi uống cà phê có pha chút bơ Bretain ở nhà hàng Thanh Thế cách phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa đi ăn Chateau Brillant ở tiệm Thanh Bạch, rồi Brodard. Ban đêm, đi vũ trường Văn Cảnh, hoặc Thanh Thanh ở xa lộ. Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng Mập, Dũng Tây Lai , Cao-P-Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh mắt Trừu...một hoặc hai thằng chia nhau một chầu. Chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nửa tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con, chỉ có một đĩa rau muống luộc và hộp thịt ba-lác!

Theo lời dặn của chú Xường, Tôi đến nhà hành Thanh Thế khỏang 10 giờ. Giờ này, chỉ lác đác năm ba khách đến uống cà phê ...Tôi tìm cái bàn trong góc có thể nhìn xuyên qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài. Nhâm nhi ly cà phê với mùi vị bơ Bretain, hút hết điếu Samit thứ hai thì Xường và Chảnh cũng vừa đến. Họ vẫn tíu ta tíu tít xí xô xí xào như mọi khi. Tôi đứng dậy chào, Xường vội vàng ấn vai tôi...

-Ngồi xuống! Ngồi xuống...

Câu chuyện thật ra rất dài, Tôi tóm gọn những gì đã xảy ra trong phạm vi bài viết này...

Chú Xường mở lời :

-Đêm qua Anh uống trà Sâm có ngon không? .

Tôi gật đầu .

-Anh có mang hộp trà theo không

-Dạ có ...

-Anh đưa cho Tôi ...

Tôi chỉ lẳng lặng làm theo và chỉ im lặng ngồi nghe .

Tôi lần mở cái túi vải ăn mày móc 10 cây được gói cẩn thận đêm qua trong cái quần xì-líp dơ bẩn vàng úa, giao cho chú Chảnh. Chú Xường đưa cho Tôi một túi giấy trong đó có bốn cái bánh tiêu còn nóng hổi...

-Thời giá hiện nay, một cây là 2,850 đồng (tiền già Hồ)...Chúng tôi lấy lại 10 cây này, trả lại Anh bốn cái bánh tiêu Anh có puồn không ?...

Nghe Chú Xường phát âm cái tiếng "puồng” không. Tôi không “Puồng” chút nào, nhưng cố nén nỗi kinh ngạc để không hiện lên ánh mắt của mình

-Dạ không...

Chú cười và nói tiếp:

-Ở dưới bốn cái bánh tiêu, là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó. Anh nhớ ...lúc nào cũng cột thật chặt vào bên hông của Anh, chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp Anh. Anh ấy là anh em chú bác với tụi tui . Anh Xế Phò sẽ cho Anh biết anh sẽ phải làm gì... Còn phần tôi (Chú Xường) Anh phải nhớ kỹ những điều dặn dò của tôi sau đây: anh Quảnh bảo chúng tôi gặp Anh để cho anh biết những gì anh Quảnh đã sắp đặt cho Anh . Anh có biết tại sao không?..

-Dạ không!

-Vì Anh đã trả lại 25 đồng cho anh Xồi, anh Xồi thử Anh đó, và đó cũng là lý do Anh Quảnh quyết định mang Anh theo trong chuyến vượt biên kỳ vừa rồi.

Anh Quảnh chỉ lo ...nếu Anh bị lộ tông tích thì chỉ có chết... Anh có biết Thương xá Tam Đa cũ hay không?

-Dạ biết.

-Bây giờ là cửa Hàng IMEX , bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng tôi ở Chợ Lớn...Thôi, uống cà phê đi...

Vừa lúc Chú Xế Phò bước vào. Chú Xế Phò, người dong dỏng cao, dáng dấp không có vẽ Tàu chút nào. Chú nói tiếng Quan Thoại, tiếng Pháp, tiếng Việt rất sành sõi rõ ràng.

Khi Chú Xường và Chảnh ra về, Xế Phò bắt đầu chất vấn:

-Anh tên Trần Chỉnh hả?

-Dạ vâng ...

Chú mỉm cười...cái mỉm cười gọi là cái mỉm cười biết hết chi tiết.

-Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không ?..

-Dạ chút chút...

-Được tốt lắm ...Tôi đang là Trưởng phòng Quản Trị Công Ty Imex thương xá Tam Đa cũ, theo lời yêu cầu của anh Quảnh, Thứ Hai tuần sau Anh bắt đầu làm việc dưới quyền của Tôi làm chức Thủ kho. Chỉ có nhiệm mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của Tôi. Anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất trong ngày. Khỏang 10 giờ, giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú Chảnh. Ban đêm Anh ngủ lại cơ quan cùng với ba nhân viên khác, họ là những công nhân viên từ ngoài Bắc vào. Cứ như vậy đi, dần dần quen và biết hết mọi việc Anh sẽ có nhiều việc quan trọng hơn... .

Trước khi chia tay, Chú Phò đưa cho Tôi một Giấy Chứng Nhận: "Trần Chỉnh" nhân viên Cửa Hàng Imex, phía dưới đóng dấu ký tên Trưởng Phòng Thương Nghiệp Quận Nhất TP HCM , cùng một giấy nhỏ có ghi "Lý Kim Anh "Trưởng phòng Công An Chợ Bến Thành”.

***

Tôi đạp xe đạp loanh quanh với một tâm trạng lộn xộn xà ngầu ...Hung hay Kiết?...Ngạc nhiên, lo âu lẫn lộn....nhưng không có nỗi lo sợ như khi Chú Quảnh hỏi “Có phải Anh là sĩ quan ngụy trốn học tập hay không”.

Tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ được gì cứ vớ, không cần biết cái đó lành hay dữ. Đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao ... không còn sự chọn lựa nào khác .

Giám đốc Imex là một tên "Cán Ngố". Cả ban Quản Trị của hắn ngơ ngơ ngáo ngáo, cộng trừ nhân chia sổ sách cứ lộn tùng phèo, lại thêm lòng tham lam ăn được cái gì là ăn cái đó. Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh. Lúc này Tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một chỗ ở an toàn, không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào. Cũng trong lúc này Tôi đã áp dụng "Nghệ thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy" của trường Võ Bị để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào, một cách dễ dàng. Chú Phò hài lòng và mừng lắm.

Một hôm Chú rũ tôi đi ăn tối. Trên chiếc Volwagen màu vàng củ kỹ Chú chở tôi một vòng chợ Bến Thành và trực chỉ bến Bạch Đằng. Một buổi cơm tối vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị trong đời tôi.

Trong nhà hàng nỗi Mỹ Cảnh...ba người đã ngồi sẵn. Tên Giám Đốc Imex Nguyễn Tạo, với cái mặt chành bạnh nhưng không che dấu được vẽ ngu si đần độn tham lam trên gương mặt của hắn. Tên Trung Úy Lý Kim Anh Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, Đặng Tư,Trưởng Phòng Tài Chánh Imex.

Trên bàn, chai Remy Martell vơi hơn phân nữa. Tôi khúm núm bước theo sau Chú Phò , chấp tay cuối đầu chào họ. Ngồi vào bàn Tôi cố giữ thái độ bình tỉnh, chỉ lắng nghe họ bàn luận việc của họ cùng với những suy nghĩ mông lung. Quả thật chú Quảnh và gia đình của Chú đã giúp Tôi quá nhiều, ơn sâu nghĩa nặng này bao nhiêu kiếp người tôi có thể báo đáp được .

Sau buổi cơm gọi là thân mật đó, tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Phò.

Một buổi sáng khi Tôi giao danh sách hàng xuất kho cho chú Chảnh, hôm nay lại có mặt Chú Xường, Chú Xường bảo Tôi giao lại số tiền mặt tôi đang giữ. Chú Xường giao lại cho tôi một danh sách giá cả mua vô bán ra trong ngày ở thị trường Chợ Lớn. Tôi chỉ biết làm theo Có thắc mắc thì cũng chẳng ích lợi gì, vì tin rằng họ đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.

Thời gian năm 1979, 1980, 1981... Thân nhân nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là "Phiếu Imex”.

Hàng Imex là hàng thứ thiệt, được tịch thu sau chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản ...Nào là thuốc tây, radio, cassette, căm, sên, phụ tùng xe đạp...

Cả trăm mặt hàng khác, đều là hàng ngoại. Giới tiêu thụ hầu hết là con buôn từ Hà Nội, giá nào họ cũng mua, họ mua theo cái NGU của họ. Còn những người buôn bán phiếu Imex cò con thì đều qua tay mã thầu dậu là Chú Xường...Làm giá thì Chú Quảnh trong Chợ Lớn Khi Chú Quảnh cho biết giá cả sáng trưa chiều tối , thì Chú Phò cho lệnh xuất kho, bên cạnh có Tôi và Chú Chảnh đang chờ bên ngoài. Có gì trục trặc thì có Giám Đốc và tên Trung Úy Công An Lý Kim Anh.

Dù rằng tình hình an ninh có vẻ khả quan, nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tôi. Không biết bị phát hiện giờ nào và nếu bị chúng bắt thì sẽ ra sao. Cứ vài hôm chú Xường gặp tôi nhét vào túi Tôi một hai ngàn (tương đương 1 cây vàng).Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng "hùn vốn" của Tôi. Tôi nhờ Niên Trưởng Huỳnh Bá Long Khóa 21 Võ Bị Đà Lạt, gửi về giúp vợ con và Cha Mẹ Chị Em Tôi. ...Thôi cứ thế rồi thời gian cũng qua, dù chưa được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con.

***

Một ngày đẹp trời tháng Ba năm 1982... Tôi đang ngồi uống cà phê dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, một chiếc Honda hai người trờ tới. Một người xuống xe, vội vả nắm lấy tay và bảo Tôi:

-Niên Trưởng theo Tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Henneckein.

Tôi có một cảm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh đầu, nhưng định thần thì ra Nguyễn văn Định, (Khoá 24 Đà Lạt - TĐ 11 Nhảy Dù), đang chờ ngoài xe là Trần văn Hợp (Khoá 23 Võ Bị Đà Lạt)...

Chiếc Honda chở 3 người qua Chợ Cũ, làm đĩa cơm sườn, vài chai bia Con Cọp. Hợp móc trong túi xách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh, rồi chở tôi ra bến Thủ Thiêm "TỐNG" xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty Dầu Khí Vũng Tàu...

Đêm đó Tôi lại ra khơi. Lần này là lần thứ bảy, không kịp một lời từ giã nào với Chú Phò, Chú Xường, Chú Chảnh, Chú Xồi, Chú Quảnh và vợ con gia đình.

Một tháng sau, đang chờ đợi để rời khỏi Đảo Pulau Bidong, Mã Lai, sang trại chuyển tiếp Galang II ở Nam Dương, Tôi nhận được thư của vợ tôi :

“Anh yêu thương, Chị Ba (chị Dâu của Tôi) có đến thăm Em. Cùng đi với Chị có một người đàn ông, người này đã trao cho Em 10 lượng vàng và nói đây là tiền của anh Út gửi cho”.

Đó là Chú Xồi.

Quá Khứ và Hiện Tại

Trong ba tháng tội vượt biên, chúng tôi khom lưng đi vác lúa gạo ở Cà Mau , tình cảm của Tôi với gia đình chú Quảnh càng ngày càng gắn bó, qua những bữa cơm sau một ngày vất vả lao động xã hội chủ nghĩa, những bữa cơm “lòng heo, phá lấu heo quay, vịt quay”....Có nhiều lúc Tôi bỗng chợt cười khan...Họ hỏi tôi sao lại cười, tôi nói:

-Ở tù kiểu này sướng hơn trở về nhà

Chú Quảnh tiết lộ rằng, gia đình đã “chung” 150 cây cho thằng Trưởng Ty CA Hình Sự rồi, nay mai mình sẽ được về.

Thời gian này tôi gần gũi với Chú Xưòng - Chảnh nhiều hơn. Xường và Chảnh nhỏ con ốm yếu lại cùng một tóan lao động với Tôi...Có lần vác bao gạo bước qua tấm ván gỗ, bắt từ bờ sông xuống ghe bầu, Xường trợt chân té nhào xuống sông, tôi liệng bao gạo xuống mũi ghe, nhảy ùm xuống sông vớt chú ấy lên, ông chủ ghe bầu thông cảm không làm khó dễ mà chỉ nói ...

-Không sao...không sao...xem như Tôi biếu bao gạo đó cho các Anh...Tội nghiệp!Tù Tội!.Tội Tù ...

Từ đó Tôi, Xường, Chảnh như hình với bóng. Tôi thường kể họ nghe chuyện Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thủy Hử. Họ khóai nghe nhất là bộ truyện Kim Dung kèm theo lời bàn phân tích của Lão Ngoan Đồng (biệt danh của tôi) về những nhân vật Ma Giáo và Chính Giáo. Cũng nhờ vậy mà ba tháng tù trôi qua như một giấc ngủ đêm với thịt quay phá lấu...

Viết theo lời kể của Xường và Chảnh :

Ông Cố Nội chúng tôi, lập nghiệp ở Chợ Lớn (vào khỏang năm 1860 ) với một cái gánh mua bán ve chai lông vịt, thường ngày thì mua được lông vịt nhiều hơn lông gà, vì người Tàu ăn vịt quay nhiều hơn . Khi Ông Nội chúng tôi ra đời thì cái gánh ve chai lông vịt đã trở thành cái " vựa " ve chai lông vịt, sau đó trở thành cái "xưởng” chuyên làm chổi lông gà, quạt tay và áo che mưa bằng lông vịt, còn ve chai thì cân ký bán sĩ cho một lò rèn làm chai lọ thủy tinh và cuối cùng là xưởng dệt tơ vải

Trong khi đó, người Em thứ Ba của Ông Cố chúng tôi - ông Cố Ba - làm nghề mổ heo , Bà Cố Ba giữ lại lòng heo nấu phá lấu theo kiểu Dương Châu, rồi cho hai người con trai đội mâm đan bằng mây đi bán dạo...Sau đó trở thành quán hủ tiếu duy nhất có bán thịt heo quay, thịt vịt quay, lòng heo phá lấu....Đó là tiền thân của "Công Ty Nhà Hàng Bát Đạt " sau này.

Khi đến đời Ông Nội chúng tôi (vào khoảng vài thập niên cuối thế kỷ 19...1880-1900) thành phố SàiGòn được hình thành với những dinh thự, công sở, khách sạn nguy nga đồ sộ của mấy ông Tây Bà Đầm, trong khi khu Chợ Lớn vẫn còn bùn lầy nước đọng, đường xá được chính quyền Tây mở rộng ra đến vùng ngoại ô ...Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Phú Lâm.... Huyết mạch giao thông buôn bán chính là ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn và ngược lại... do đó mới có Kinh Chợ Gạo ( Mỹ Tho )

Cơ sở của Ông Nội chúng tôi phát triển rất nhanh, Bà Nội trông coi cửa hàng buôn bán tơ lụa, có thể nói gia đình chúng tôi lúc đó như là nhà thầu duy nhất cung cấp gấm, sa-ten, vải lụa... cho các con buôn thực Dân Pháp... trong khi gia đình Ông Cố Ba đang phát triển các tiệm ăn rập khuôn theo kiểu Tàu. Quán ăn và quán trọ Bát Đạt. Gia đình giàu có nhất trong vùng là giòng họ Mã, hậu duệ sau này là Mã Sái, Mã Tuyên .

Đến đời thân phụ mẫu chúng tôi thì gia đình cũng đã khá giả. Sáu anh chị em chúng tôi khi lên ba bốn tuổi đã được dạy xử dụng bàn tính (bàn toán) của người Tàu một cách rành rọt. Chúng tôi học trường Tinh Võ, ở nhà nói tiếng Quan Thoại, khi giao tiếp với con buôn thì bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tây... Khi anh Quảnh lấy vợ người Triều Châu, thì cha Tôi giao hết chuyện quản trị làm ăn cho Anh, và Ba Tôi trở thành "Ông Trùm" của "Bang Hẹ "... Anh Xồi được giao trách nhiệm sổ sách kế tóan, còn Tôi (Xường),Chảnh và cô em út A Cảo làm chủ 3 hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, Phú Lâm.

Lời Kết

Qua những câu chuyện kể trên, Tôi không biết có phải vì trả lại 25 đồng mà Chú Xồi đã cố tình đưa dư, mà cơ duyên định số đưa đẩy Tôi gặp gia đình họ, làm ăn sinh sống với họ khoảng bốn năm trong hoàn cảnh lo sợ hồi hộp từng ngày cho đến một ngày đột ngột rời bỏ quê hương không định trước .

"HỌ".... Trong ngôn ngữ lịch sự của người VN chúng ta thì Họ là người Hoa Kiều Chợ Lớn, bình dân thì thường gọi mấy Ông cắt chú , được phiên âm trệch ra từ danh từ "Khách Trú”...từ đó mới có danh từ Chú...Chú Ba Tàu...Chú Chệt...

Dù gọi là gì chăng nữa, Họ vẫn là Họ. Họ vẫn giữ phong tục tập quán từ hằng nghìn năm qua cho đến ngày nay....dù đã trải qua Tứ Đại Triều Đình (Tống, Nguyên, Minh, Thanh)... cho đến Bát Quốc Liên Quân... rồi Ma Cao Hồng Kông, Đài Loan và lục địa dưới bàn tay sắt của Cộng Sản... Họ lấy gia đình làm đơn vị căn bản, để từ đó vươn lên, trở thành "Bang"... nhỏ lớn tùy thời tùy thế. Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng Con Cái đùm bọc che chở cho nhau, để từ một gánh ve chai lông vịt hay một cái mâm đan bằng Mây, bán dạo lòng heo phá lấu một ngày trở thành những Đại Gia trong sinh hoạt các "Bang" của Họ... Chẳng qua chỉ có một chữ "TÍN".

Họ khởi nghiệp từ Buôn Bán. Nhỏ lớn, sang hèn, nghèo giàu gì Họ cũng có thể làm, cần cù nhẫn nại, chắt chiu dành dụm, không khoe khoang, không xa hoa phung phí... cho đến một ngày "Puôn Pán Dạo...Puôn Pán Lẽ..." trở thành những Công Ty Xí Nghiệp kếch xù trong những lãnh vực rất đơn giản .

Gần như suốt thế kỷ 20, người Hoa Kiều Chợ Lớn Sài Gòn Gia Định không có một dịch vụ nào liên quan đến công nghiệp nặng chỉ chú trọng về việc trao đổi buôn bán hàng tiêu dùng gia đình . Họ tích lũy tài sản theo truyền thống cha truyền con nối, cho đến khi sự tích lũy tiệm tiến này trở thành một gia sản khả dĩ có thể trở thành một hội viên trong hệ thống thương mại vĩ đại của các " Bang " ...

Dĩ nhiên trong sự buôn bán làm gì không có sự cạnh tranh dành giựt lẫn nhau, rất hiếm nhưng không phải là không có. Nếu có xảy ra thường thì Họ giải quyết nội bộ. Họ không thích tranh tụng kiện cáo, có những trường hợp liên quan đến pháp luật chính quyền thì Bang của Họ thương lượng để mọi việc trôi qua. Sau đó Họ giải quyết nội bộ bằng những biện pháp chế tài, cô lập vì "Bất Tín", nặng nề lắm mới có vụ thanh toán. Gia đình hay cá nhân nào phạm vào chữ Tín thì chỉ có nước đi ăn mày.

Trung Hoa lục địa (Trung Cộng , Đài Loan , Hồng Kông , Ma Cao....) Họ đều có chính quyền riêng của Họ. Người dân sinh ra, lớn lên học hành thành đạt , từng bước từng bước Họ tham gia chính quyền từ hạ đến thượng tầng cơ sở. Nhưng đối với người Hoa Kiều ở hải ngoại (theo sự hiểu biết của Tôi) như VN, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc...Họ không muốn tham gia vào chính quyền dù Họ có mãi lực đồng tiền, có thể mua tiên cũng được. Thí dụ như ở Indonesia , người Hoa Kiều chỉ có khoảng 3% dân số mà nắm giữ 70% tài sản của đất nước này. Nhưng có điều tài tình chúng ta cần phải khâm phục.... dùng mãi lực đồng tiền. Họ móc nối với chính quyền nơi Họ cư ngụ một cách kín đáo trơn tru... bên cạnh là những "Cái Bang", giống như xã hội đen, mafia còn khủng khiếp hơn God Father của Italy rất nhiều.

Nhiều người cho rằng "Ba Tàu" hay bắt chước làm đồ giả, điều đó hẳn nhiên, giải thích chuyện này Tôi chỉ mượn câu "Cứu Cánh Biện Minh Cho Phương Tiện "...

Còn Người Việt- Nam mình ?

Trải qua trăm năm dưới sự đô hộ thực dân Tây , 30 năm hiện diện của Mỹ (1954-1974) , nay dưới sự cai trị tàn độc của CS , còn gần 4 triệu người Việt đang sống rải rác năm châu hải ngoại, chúng ta hãy xét nghiệm và làm một bài toán....

Câu Hỏi : "Đã có bao nhiêu người vì Danh, vì Vị, Vì Lợi đã dùng những bước chân "Bất Nhân, Bất Lễ, Bất Nghiã, Bất Trí, Bất Tín” để leo lên lên những bật thang danh vọng hảo huyền ảo tưởng, khiến cho cả nước (quốc nội) lâm vào tình trạng nghèo đói trong danh sách những Quốc Gia nghèo đói nhất thế giới, khiến cho Cộng Đồng Người Việt Nam nói chung và các Hội Đòan Tập Thể nói riêng ở hải ngoại lâm vào tình trạng ngày càng nghi kỵ, chia rẽ, phân hóa như ngày nay không bao giờ hàn gắn đượ., và cũng chẳng bao giờ có một vĩ nhân nào có thể xuất thế tế độ chúng sanh....ít ra cũng vài thế hệ sắp tới..

Họ là Ai?

Họ là những người tên Đỗ họ Thừa .

Họ đổ thừa cho Chế Độ Miền Nam VN sinh ra tham quan ô lại.

Họ đỗ thừa cho Chế Độ CS vơ vét mồ hôi nước mắt của dân lành cho tư lợi cá nhân

Họ đỗ thừa cho xã hội Tây Phương làm cho Tam Cương Ngũ Thường đảo lộn.

Nhưng Họ không bao giờ dám Đỗ Thừa cho chính Họ ..."Ta là kẻ đã VONG BẢN, VONG QUỐC, VONG THÂN".

May quá, Lão Ngoan Đồng học được những bài học từ gia đình chú Quảnh nên không bị vướng vào Ba cái VONG trên, mà Lão Ngoan Đồng chỉ mang cái bệnh ....VONG MẠNG!

Trương Út
(Út Bạch Lan) hay Lão Ngoan Đồng
quaichao
Posts: 1186
Joined: Mon Jun 11, 2007 5:32 am
Contact:

Post by quaichao »

Robert Funseth, ân nhân của HO, qua đời

Ngọc Lan/Người Việt


ARLINGTON, Virginia (NV) - “Ông Funseth vừa mất sáng nay, Thứ Sáu, 25 Tháng Chín, lúc 10 giờ 20 tại một bệnh viện ở Arlington, Virginia.”

Bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, nói với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại,
sau khi chứng kiến linh mục làm lễ và thi hài ông Robert Funseth được đưa đến nhà quàn.

Ông Robert Funseth, từng là phát ngôn nhân cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời gian cuộc chiến Việt Nam diễn ra.
Đặc biệt, khi đang làm phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, ông là người “được trao trách nhiệm đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu
thả tù chính trị và cho họ cùng với gia đình sang Hoa Kỳ định cư, cũng như cho những người thuộc diện con lai và thân nhân của những người Việt
đang sinh sống tại Mỹ được rời Việt Nam theo chương trình Ra Ði Có Trật Tự (ODP),” theo lời ông nói với đài RFA vào năm 2005.

Image
Ông Robert Funseth (ngồi), phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, và các nhân viên tại Việt Nam, vận động thả tù nhân chính trị. (Hình: vietnam.ttu.edu)

Với nỗ lực không ngừng của ông Funseth, sau bảy năm, kể từ năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ và nhà cầm quyền Việt Nam đã ký xong bản thỏa hiệp vào ngày 30 Tháng Bảy, 1989, đồng ý đưa 300,000 tù nhân chính trị, những cựu quân nhân VNCH cùng gia đình họ, đến định cư tại Hoa Kỳ.

***

Nói về nguyên nhân cái chết của ông Funseth, bà Khúc Minh Thơ cho biết: “Ông mất chính là vì bệnh già. Khi vợ ông qua đời hồi đầu năm 2015, thì ông cũng yếu dần, chứ không bệnh gì. Vợ chồng ông Funseth chỉ có một con trai nhưng đã mất lâu rồi.”

“Nơi ông Funseth ở có những người hàng xóm rất tốt. Hai, ba ngày họ không thấy ông ra lấy báo trước cửa, nên gọi cảnh sát và báo cho người em trai ông ở New York biết. Khi cảnh sát đến nhà mới biết ông té nằm trên sàn cả ba ngày rồi, vậy mà ông vẫn sống. Người ta mang ông vô nhà thương,” bà Thơ cho biết.

Cũng theo lời bà, "tôi có hứa với ông bà Funseth là tôi sẽ thay mặt cho tất cả tù nhân chính trị chăm sóc ông bà khi họ đau ốm.”

Thế nên ngay sau khi từ Việt Nam trở về, được em trai ông Funseth báo tin cho biết, bà Khúc Minh Thơ đã có mặt mỗi ngày tại bệnh viện nơi ông nằm điều trị.

Bà cũng cho biết, hôm Thứ Ba vừa qua, ông Funseth đã yêu cầu bệnh viện tháo ống trợ thở để ông được “ra đi tự nhiên.”

Nói về ông Funseth, bà Khúc Minh Thơ cho rằng, “Tất cả tù nhân chính trị và cả bản thân tôi đều coi ông Funseth như một người ơn mà không cách gì trả ơn nổi. Đó là người đã cứu rỗi linh hồn những người tù nhân chính trị, những người HO.”

Bà Thơ kể, “Tôi vẫn nhớ khi tôi vào nhà thương thăm ông, ông tỉnh lại nói chuyện với tôi suốt hai tiếng đồng hồ. Ông cứ sợ không gặp lại tôi. Tôi có nói ông không hề cô độc, dù vợ con ông đã mất, nhưng ông vẫn còn tụi tôi, tụi tôi hứa sẽ chăm sóc cho ông.”

“Ông nhắc, ông nhớ, ông nói thao thao về những kỷ niệm, về những người tù nhân chính trị. Ông thương họ lắm. Cho đến lúc gần chết mà ông còn nói với tôi câu như thế này: Nếu bà không để tâm, thì cho phép tôi để hình tôi trên bàn thờ của bà.”

“Vì sao biết không? Vì ông muốn khi nào những người tù chính trị ngày xưa có đến thăm tôi thì cũng sẽ gặp ông luôn. Vì ông đâu có gia đình. Ông chỉ có người em và hai người cháu lại không ở gần đây,” bà Khúc Minh Thơ giải thích tâm nguyện của ông.

Cũng theo bà Thơ, “Trong nhà ông Funseth, dưới tầng hầm, có một thư viện, nơi đó ông cất giữ rất nhiều món quà của những người tù nhân chính trị, của những hội đoàn tặng cho ông.”

Bà kể thêm, “Trong nhà thương, ông nhắc đủ thứ, nhớ kỹ đủ thứ. Nhớ lại những lúc tôi làm việc với ông. Nhắc lại lúc ông đi ký thỏa hiệp, ông về kể với tôi khi sang Việt Nam ký thì bên Việt Nam đâu có đồng ý tất cả các điều khoản đưa ra, vẫn còn một số điểm họ không chịu ký. Trong khi những người trong phái đoàn cảm thấy như vậy là cũng được, thì ông lại luôn nhớ câu tôi dặn trước khi ông rời khỏi Bộ Ngoại Giao để lên máy bay đi, là 'ông làm bằng cách nào tôi không biết, nhưng ông phải yêu cầu họ ký hết các thỏa hiệp đó mới được.' Tôi nói là nói vậy thôi chứ làm sao buộc ông như vậy được. Mọi chuyện khó khăn lắm chứ. Vậy mà đêm đó, ông kể, 1 giờ khuya ông ngồi dậy đọc kinh cầu nguyện cho Việt Cộng ký hết những điều khoản còn lại để cho gia đình tù nhân chính trị được yên lòng.”

“Sáng hôm sau, khi phái đoàn của ông đi ăn sáng trước khi chuẩn bị trở về Mỹ, thì ông Vũ Khoan là người đại diện phía Việt Nam ký thỏa hiệp đó tiến đến nơi ông Funseth, và nói phía Việt Nam đồng ý ký hết những điều khoản còn lại. Ông nói ông mừng hết lớn. Khi ông đến phi trường Bangkok gọi về cho bà Funseth, kêu bà báo tin cho tôi biết,” bà Thơ tiếp tục kể về người ơn của chương trình H.O.

Bà Khúc Minh Thơ còn cho biết, ông Funseth, trong những ngày nằm bệnh viện, đã nói nguyện vọng muốn được bà Thơ “làm cho ông một buổi Funseth's Day.”

“Tôi nói ông cố gắng khỏe lại thì sẽ tổ chức, dự định cũng đúng vào dịp 30 Tháng Bảy. Giờ ông đi rồi, nhưng tôi nghĩ tôi cũng sẽ làm ngày đó cho ông, trong một hình thức nào đó,” bà nói.

Chia sẻ về cảm xúc của một người thân thiết với ông từ 30 năm qua, bà Khúc Minh Thơ cho biết, “Ông ra đi tôi buồn nhưng cũng vui cho ông, vì ông vẫn thường nói ông nhớ vợ ông, con ông, ông cứ mơ thấy họ. Thì thôi coi như ông đã được đoàn tụ với vợ con mình. Nhớ về ông, điều cảm động nhất với tôi là việc ông cầu nguyện trong đêm để cho tất cả các điều khoản trong bản thỏa hiệp được ký hết.”
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Sau cuộc biển dâu

Phạm Tín An Ninh

Khuya hôm đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo: “Nhớ liệm ba bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe con.”

Câu chuyện từ một bộ quân phục


Tôi gặp và quen anh trong một trường hợp khá bất ngờ, có thể nói là hơi kỳ cục. Vợ chồng tôi đến thăm và ở lại nhà cô con gái út hai tuần. Cháu vừa mua được căn condo trong một khu nhà mới xây ở thành phố Anaheim, cách Khu Disneyland chỉ một con đường. Đêm nào, bọn tôi cũng ra balcon ngắm pháo hoa được liên tục bắn lên từ khu giải trí nổi danh này. Căn nhà nhỏ khá xinh và ở trong một khu an toàn, cô con gái út rất thích. Nhưng chỉ sau vài hôm, cứ đến một hai giờ khuya thì cả nhà phải thức giấc, bởi tiếng lục đục ở căn nhà tầng trên. Âm thanh của một vật cứng nào đó gõ xuống nền nhà. Không đều đặn, năm ba phút một lần, dù nhẹ nhưng cũng đủ làm buốt trong đầu.

Sáng hôm sau, cô con gái nhờ tôi lên nói chuyện với chủ nhà, yêu cầu chấm dứt các tiếng gõ khó chịu vào giữa khuya ấy, để chúng tôi không bị mất ngủ, đặc biệt cô con gái phải đi làm khá sớm.

Sau hai lần bấm chuông, một người đàn ông mở hé cửa, gật đầu chào. Rất may, lại là một đồng hương. Chưa nói chuyện với chủ nhà, nhưng tôi đã thoáng hiểu được nguyên nhân gây ra tiếng động. Ông ta chống hai cây nạng gỗ. Mọi bực tức trong tôi bỗng dưng biến mất, những lời “cảnh cáo” tôi dự định sẽ nghiêm mặt nói với ông cũng tan biến theo. Tôi lễ phép chào ông, bảo là tôi ở tầng dưới, muốn đến thăm và làm quen với người đồng hương láng giềng. Ông nở nụ cười, làm rạng rỡ phần nào khuôn mặt khắc khổ, đã có nhiều vết nhăn, một phần được che phủ bởi mái tóc dài bạc trắng. Ông mở rộng cửa mời tôi vào nhà. Tôi hơi khó chịu với mùi khói thuốc lá và cả mùi rượu.

-Anh ở đây một mình? Câu đầu tiên tôi hỏi.

-Vâng, thỉnh thoảng có cô con gái đến thăm. Cháu ở trên Riverside, cách đây khoảng gần một giờ lái xe.

Căn nhà nhỏ một phòng ngủ, phòng khách trưng bày đơn giản. Điều làm tôi chú ý là hai tấm ảnh treo trên vách, phía sau bàn ăn. Một tấm là chân dung của một người lính, tấm kia là ảnh gia đình. Thấy tôi chăm chú nhìn, anh cười, bảo là ảnh của anh và vợ con anh lúc xưa. Anh chống nạng đứng lên, như có ý mời tôi đến xem.

Tôi tròn mắt ngạc nhiên, tấm ảnh chân dung là một sĩ quan trẻ, mang cấp bậc thiếu tá, trông khá đẹp trai, phảng phất nét hào hùng. Trên ngực mang khá nhiều huy chương. Tấm ảnh kia anh chụp với người vợ xinh đẹp và hai đứa con kháu khỉnh. Lòng tôi bỗng chùng xuống, như vừa chạm vào một vết thương cũ. Tôi bất giác quay người lại, đứng nghiêm đưa tay chào:

– Xin chào niên trưởng

Anh tròn mắt bất ngờ, rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Sau này, tôi được biết tấm ảnh chân dung này anh chụp sau khi được thăng cấp thiếu tá tại măt trận Quảng Trị tháng 10 năm 1971, khi anh đang là tiểu đoàn phó, thay vị tiểu đoàn trưởng bị trọng thương, chỉ huy đơn vị phá vòng vây địch, tạo một chiến thắng lẫy lừng.

Chúng tôi trở nên đôi bạn thân thiết kể từ hôm ấy. Hình như giữa chúng tôi có điều gì đó cùng “tần số” với nhau. Trước đây anh sống rất âm thầm, khép kín, không muốn gặp gỡ tiếp xúc một ai, kể cả những người quen biết cũ. Anh cũng từ một tiểu bang xa, vừa mới theo cô con gái chuyển về đây. Sau này, cứ mỗi lần đến nhà cô con gái tôi đều ghé thăm anh, mang theo cho anh một ít nem chua Ninh Hòa mà anh rất thích. Anh say sưa kể cho tôi nghe một thời hào hùng trong binh nghiệp. Anh nức nở khi nhắc tới những vị đàn anh, những đồng đội hào hùng đã phải hy sinh oan khiên tức tưởi, đặc biệt trong trận chiến Hạ Lào – Lam Sơn 719. Người được anh nhắc đến nhiều nhất, ngưỡng phục và thương tiếc nhất là Cố Đại Tá Lê Huấn, một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi, sớm nổi danh, tốt nghiệp Khóa 18 VBĐL mà có một thời anh được phục vụ dưới quyền.

Anh bảo tôi vào phòng ngủ để anh cho xem một kỷ vật. Anh bật đèn lên tôi ngạc nhiên khi thấy một bộ quân phục. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đây là một bộ quân phục tác chiến đã cũ, có những vết sờn rách, được giặt ủi cẩn thận và treo trong một cái tủ kính nhỏ. Loại tủ để trưng bày. Anh mở cửa tủ và cẩn thận lấy bộ quân phục, ôm vào người một cách trang trọng. Đôi mắt mơ màng như đang tìm về một quá khứ xa xăm nào đó. Anh thốt ra môt giọng trầm buồn. Dường như là để nói với chính anh hơn là với tôi, người đang đứng ngay trước mặt anh:

Đây là bộ đồ trận của anh ấy, anh Lê Huấn.

Sau chiến thắng lẫy lừng tại Căn Cứ O’Reilly, khi tiểu đoàn anh dưới tài chỉ huy của Trung Tá Lê Huấn đã đánh tan một lực lượng địch cấp trung đoàn của Sư Đoàn 304 BV, tháng 8/1970 tiểu đoàn lại đánh một trận khốc liệt với một đại đơn vị khác cũng của Sư Đoàn 304 BV này tại Hải Lăng, Quảng Trị. Khi ấy anh đang là đại đội trưởng thâm niên nhất của tiểu đoàn. Cả hơn một trung đoàn địch, sau nhiều đợt tiền pháo kinh hoàng đã đồng loạt xung phong nhằm tràn ngập vị trí đóng quân của tiểu đoàn 4/1. Trung Tá Lê Huấn rời khỏi hầm chỉ huy, đích thân điều động đơn vị quyết chiến trước một cuộc thư hùng sinh tử. Từng đợt địch quân bị đốn ngã ngay trước giao thông hào, nhưng bọn chúng như là những con thiêu thân lao vào lửa, lớp này ngã lớp khác lại xông tới. Nhờ sự chiến đấu kiên cường của đơn vị anh, và đặc biệt dưới sự chỉ huy tài tình và gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng lừng danh, đã ngăn chặn, tiêu hao và cầm chân địch trước khi được những phi vụ không yểm, đánh trên đầu địch. Những trận không kích gây thiệt hại nặng nề cho địch nhưng cũng làm bị thương một số binh sĩ của đơn vị, vì khoảng cách giữa ta và địch quá gần. Anh là một trong những người bị trọng thương hôm ấy. Trời tối, lưới phòng không dày đặc, trời lại mưa, không tản thương được, anh Lê Huấn ra lệnh ban quân y mang anh vào nằm trong hầm chiến đấu của anh Huấn để được tương đối an toàn và băng bó chữa trị cấp thời. Thấy máu và bụi bặm thắm đầy bộ chiến y ướt đẫm của anh, vị tiểu đoàn trưởng bảo người lính cận vệ lấy bộ áo quần trong ba-lô của mình mang đến thay cho anh. Khi tản thương về quân y viện Nguyễn Tri Phương, nhiều bác sĩ cứ tưởng anh là Trung tá Lê Huấn, bởi bảng tên và cả cái lon trung tá còn nguyên trên ngực và cổ áo.

Vết thương chưa lành, nằm trong quân y viện mà lòng anh rất nôn nao khi biết tin đơn vị tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Một kế hoạch qui mô với sự tham chiến của hầu hết các đơn vị chiến đấu thuộc Vùng I: Sư Đoàn 1BB, các đơn vị Thiết Giáp, Biệt Động Quân, cùng với các Sư Đoàn Nhảy Dù và TQLC. Sư Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn 1BB của anh được chọn làm những nỗ lực chính. Anh khao khát được có mặt cùng đơn vị trong trận chiến đặc biệt này, nhưng vết thương ở chân phải là trở ngại chính để bắt anh phải nằm lại ở đây.

Anh theo dõi từng ngày từ khi cuộc hành quân bắt đầu. Các tin tức không vui từ chiến trường, những tổn thất nặng nề của quân ta sau khi các căn cứ 31, 30 lần lượt thất thủ. Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù cùng nhiều cấp chỉ huy của ta bị lọt vào tay giặc. Một số đã tự sát để giữ tròn khí tiết.Từ các kế hoạch hành quân tồi tệ mà địch quân gần như biết trước để chuẩn bị trận địa đến việc thiếu thống nhất ở các cấp chỉ huy đã góp phần cho sự thảm bại.

Điều đau đớn nhất đã làm tim anh thắt lại khi nghe tin Tiểu Đoàn 4/1 của anh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, làm lực lượng chặn hậu để cho Trung Đoàn rút lui khỏi căn cứ Lolo trong tình trạng bị bao vây nguy khốn. Anh bật khóc khi nghe tin Trung Tá Lê Huấn, vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi tài năng đã lẫm liệt hy sinh, và cả tiểu đoàn chỉ còn 32 binh sĩ sống sót trở về! Anh nghĩ từ nay sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại người chỉ huy mà anh ngưỡng phục và hằng mong được tiếp tục phục vụ dưới quyền. Anh nhớ tới bộ quân phục mà Trung Tá Lê Huấn đã đưa cho anh thay khi anh bị trọng thương cách đây vài tháng, anh còn chưa kịp trả lại, và bây giờ thì không còn có cơ hội để trở về khổ chủ. Anh quyết định giữ lấy bộ quân phục này như một kỷ vật thiêng liêng trong cuộc đời mình. Và sau đó dù phải trải qua bao nhiêu thăng trầm, khốn khổ, nhất là sau ngày nước mất nhà tan, anh vẫn luôn trân trọng bộ quân phục mà anh nghĩ có mang hồn thiêng của anh Lê Huấn và của cả những đồng đội đã hy sinh.

Sau khi xuất viện, anh được bổ sung đến một trung đoàn khác giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Tháng 10/ 1971 anh thăng cấp Thiếu tá tại mặt trận. Cuối năm anh lên nắm tiểu đoàn thay thế vị tiểu đoàn trưởng bị thương, sau khi xuất viện được theo học khóa quân chánh. Một thời gian sau đó, vết thương cũ ở chân phải tái phát. Sau khi chữa trị anh đi khập khiễng. Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp anh vào loại 2, không chiến đấu được. Được đề nghị bổ sung về Phòng 3 Quân Đoàn, nhưng anh xin đi làm chi khu phó cho anh tiểu đoàn trưởng cũ, bây giờ là quận trưởng của một quận miền núi. Quận lỵ là một tiền đồn chiến lược, nằm tại một vị trí trọng yếu khống chế cả con đường tiếp liệu của Cộng quân, nên bọn chúng tìm mọi cách để san bằng. Gần cuối năm 1974, Cộng quân mở nhiều đợt tấn công biển người nhằm chiếm quận lỵ, vị quận trưởng bị thương nặng. anh đã phối hợp với các đơn vị bạn tăng cường, trực tiếp chỉ huy điều động cuộc phản công rất oanh liệt giữ vững được phòng tuyến qua nhiều cuộc tấn công qui mô của địch. Nhưng tổn thất của ta khá nặng và đạn dược dần dà cạn kiệt, trong lúc Cộng quân luôn được tăng cường, cuối cùng anh phải mở đường máu, rút lui trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Anh bị thương nặng ở chân do đạn pháo kích, điều kỳ lạ là ngay tại vết thương cũ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường và hai chú em nghĩa quân rất trung thành và khôn ngoan tận tình giúp đỡ, luân phiên cõng anh thoát khỏi vòng vây truy lùng của địch. Anh được đề nghị thăng cấp đặc cách lên trung tá, nhưng sau đó bị cưa mất chân phải. Nỗi đau đớn vì phải mất đi một phần thân thể chưa nguôi, thì cái đau đớn tột cùng cũng vừa ập đến: Tháng 3/75, cả Vùng I bỗng chốc lọt vào tay Cộng sản, Sư Đoàn 1BB, đơn vị nổi danh mà anh luôn hãnh diện phục vụ trong gần cả một đời binh nghiệp cũng tan tành, rồi cả miền Nam mất vào tay giặc. Những đồng đội từng chiến đấu, một thời sống chết cùng anh bỗng dưng tan tác như chỉ sau một cơn ác mộng.

Mất một cái chân, nhưng anh vẫn bị tù đày nghiệt ngã trên bảy năm trong nhiều trại tù của bọn Cộng sản man rợ. Ra khỏi tù anh lại mất cả gia đình. Người vợ xinh đẹp ngày nào đã gởi đứa con gái lớn, năm tuổi, cho bà nội già, bồng theo đứa con trai ba tuổi, lẳng lặng sang sông về một nơi nào đó. Gia tài một đời binh nghiệp của anh giờ chỉ còn mỗi một bộ đồ trận, chiến y của người chỉ huy mà anh từng kính yêu đã hy sinh. Trước khi vào tù, anh căn dặn mẹ anh phải giữ kỹ bộ quân phục này cho anh với bất cứ giá nào, bởi đó là một kỷ vật quý giá nhất còn lại của đời anh. Theo đề nghị của mẹ, anh để cho bà tháo ra và đốt đi bảng tên cùng cấp bậc may trên áo.

Có lẽ từ lâu lắm mới có người chăm chú ngồi nghe, nên anh say sưa kể cuộc đời mình. Đôi lúc sụt sùi, nước mắt tưởng đã khô cằn, bỗng ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ già nua, và từng giọt rơi xuống bộ quân phục anh đang ôm ấp trong lòng mình.

-Sau này anh có dịp nào gặp lại chị nhà và đứa con trai? Tôi hỏi.

-Bà đã có chồng khác từ lâu rồi, đang sống ở Âu Châu. Tôi buồn nhưng không trách. Ngại đụng chạm tới hạnh phúc riêng của bà, và cả vết đau trong lòng mình nên không muốn liên lạc. Còn đứa con trai có sang thăm tôi vài lần, nhưng cháu vẫn nhìn tôi xa lạ lắm. Cũng phải thôi, vì khi tôi vào tù thì cháu chỉ mới lên ba, trong ký ức của cháu có lưu lại một chút hình ảnh gì của tôi đâu. Riêng con gái tôi thường sang thăm mẹ và em cháu.

Nói dứt câu, anh cúi xuống như muốn giấu riêng nỗi xúc động.

– Anh có thường cảm thấy cô đơn và tiếc nuối những ngày xưa?

– Cũng có chứ, nhưng lâu rồi đã thành quen và gần như không còn muốn nhớ tới nhiều chuyện cũ.

Tôi đưa tay nắm chặt bàn tay anh thay cho một lời an ủi khó nói thành lời. Bỗng anh ngước lên, mở to đôi mắt:

-Điều buồn của tôi bây giờ là thấy một số trong đám anh em mình mất đi khá nhiều sĩ khí, có thằng còn khốn kiếp đã vì chút lợi lộc mà bị dụ dỗ, chạy hùa theo giặc, nịnh bợ thô bỉ, quên mình từng hãnh diện là sĩ quan Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến. Nhìn bọn chúng múa may khóc lóc làm trò trước mặt đám cộng sản mà tôi muốn buồn nôn!

Tôi cười:

-Anh bận tâm tới những kẻ ấy làm gì. Trong tập thể nào lại không có những con sâu, tồi tệ, bán rẻ linh hồn. Nhưng đó cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt. Cũng như nước Mỹ vừa có thằng phản quốc Edward Snowden, đang trốn ở Nga Sô. Theo tôi, đại đa số anh em mình vẫn còn giữ được tấm lòng, danh dự, tình huynh đệ và trách nhiệm với quê hương đất nước chứ!

Bỗng đôi mắt anh sáng lên:

-Điều vui và an ủi tôi nhiều nhất là các tổ chức gây quỹ giúp anh em thương phế binh sống khốn khổ ở quê nhà. Đặc biệt là các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh thành công tốt đẹp. Thấy anh em nhà binh mình cùng bà con tham gia hưởng ứng nhiệt tình, tôi mừng và cảm động lắm. Ở bên nhà các cha thuộc

Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn cũng đã can đảm, hết lòng an ủi và làm sống dậy niềm tự hào của những anh em thương binh bất hạnh của mình, tôi cảm phục vô cùng. Có bao nhiêu tiền dành dụm tôi đều nhờ cô con gái gởi về phụ với các cha.

Tôi cười, biểu lộ sự đồng tình. Định nói thêm đôi điều về những đóng góp phần mình, bỗng nghe anh hỏi:

– Bạn ở Âu Châu, sang Mỹ một thời gian, chắc đã thấy trong đám anh em mình bây giờ cũng có lắm người bon chen danh lợi. Mà tội nghiệp thay toàn chỉ là danh hão! Có ông giành hội này, bám tổ chức kia, mâm nào cũng có mặt. Thấy mà phát ngượng! Nhiều ông tướng ông tá có danh thời trước, sang đây lại đầu quân làm tướng phường tuồng cho mấy cái chính phủ tự xưng tự diễn. Trong đó có cả những ông ngày xưa là cấp chỉ huy lớn của mình. Ngán ngẫm thật. Giấy rách mà cũng chẳng còn cái lề nào để mà giữ nữa!

Tôi cười. Chưa kịp nói một lời an ủi, bỗng thấy anh sa sầm nét mặt:

-Một điều đáng buồn hơn là ở Mỹ này thiên hạ lạm dụng bộ quân phục một cách đến lố bịch. Đám cưới, sinh nhật, ca hát tiệc tùng nhảy nhót mà cũng có người mặc quân phục. Có lần tôi thấy một ông mặc quân phục, mang cả lon lá và huy chương lên truyền hình để quảng cáo thuốc cho một ông thầy thuốc Nam. Tôi xấu hổ và giận đến tím cả mặt. Tối hôm ấy, tôi ôm bộ quân phục này của anh Lê Huấn mà thấy lòng xót xa vô hạn.

Nhớ lại một câu chuyện liên quan tới bộ quân phục đã xảy ra tại đất nước Na-Uy, nơi gia đình tôi đang định cư, tôi kể cho anh nghe:

Tháng 11 năm 2004, bà Kristin Krohn Devold, Bộ Trưởng Quốc Phòng Na Uy, đến viếng thăm binh sĩ thuộc các đơn vị quân đội Na Uy tham chiến tại Afghanistan trong lực lượng NATO. Bà được ca ngợi là một nữ bộ trưởng can đảm đã đến thăm binh sĩ khi chiến trường đang ác liệt nhất. Nhưng sau khi tin tức và hình ảnh về chuyến viếng thăm này được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Na Uy (NRK), bà bị nhiều sĩ quan và binh sĩ Na Uy phàn nàn, phản đối khi thấy bà mặc quân phục từ một chiếc trực thăng bước xuống thăm một đơn vị tác chiến Na Uy, và cả khi được Thủ Tướng Afghanistan, Hamid Kazai tiếp đón tại thủ phủ Kabul. Báo chí cũng góp phần tranh luận và tỏ ra bất bình về sự kiện này. Hầu hết cho rằng bà chưa hề ở trong quân đội, nên không được phép sử dụng quân phục, dù trong bất cứ chức vụ hay hoàn cảnh nào. Những quân nhân cho rằng bộ quân phục còn có tính thiêng liêng, bởi nhiều chiến binh đã hy sinh trong bộ quân phục này. Mặc dù bà và một số cơ quan chính phủ lên tiếng biện minh, viện lý do vì sự an toàn cho bà trong một hoàn cảnh đặc biệt, nhưng vẫn không được chấp nhận. Cuối cùng bà phải bắt buộc lên tiếng chính thức xin lỗi quân đội và cả dân chúng Na Uy về điều này.

Nghe tôi kể xong, anh đưa bộ quân phục đang cầm trong tay lên như để khẳng định một điều gì.

-Đúng như thế, bộ quân phục đối với tôi luôn là một kỷ niệm thiêng liêng. Có biết bao đồng đội của tôi hy sinh đã được liệm với bộ quân phục thấm đẫm máu đào của họ. Xin đừng lạm dụng và làm đau lòng họ.

Sau lần gặp gỡ đầu tiên này, tôi còn đến thăm anh một vài lần nữa, và bảo cô con gái, “bác ấy là người tốt, một sĩ quan đáng kính, con nên thường thăm nom và giúp đỡ bác những điều cần thiết”. Hôm đến chào từ giã anh để trở về lại Na-Uy, tôi mang biếu anh hai chai rượu đỏ loại tốt. Tôi khuyên anh, khi nào buồn thì uống vài ly cho nguôi ngoai, không nên uống nhiều rượu mạnh và hút thuốc lá, có hại cho sức khỏe. Anh nở nụ cười, nhưng bỗng trở nên buồn bã:

-Anh đi rồi, tôi lại cô đơn, chẳng còn ai tâm sự.

Hôm đó, tôi ở lại với anh tới hơn một giờ khuya. Chống nạng tiễn tôi ra cửa, anh bắt tay từ giã nhưng giữ khá lâu, không muốn tôi đi. Tôi cười, bảo nhỏ:

-Anh cố dỗ giấc ngủ, đừng thức dậy nửa đêm, uống rượu chống nạng đi quanh trong nhà. Bọn tôi ở tầng dưới cũng mất ngủ với anh luôn.

Anh gật đầu, cười thông cảm.

Sáu tháng sau, khi trở lại Mỹ, tôi liền đến thăm anh. Bấm chuông mấy lần không ai mở. Tôi không còn nghe tiếng động của đôi nạng gỗ gõ xuống nền nhà như mọi khi. Buổi chiều, cô con gái đi làm về, cho tôi biết là anh ấy bị ung thư gan ở thời kỳ cuối. Con gái của anh đã đưa anh vào bệnh viện Fountain Valley từ tuần trước. Tôi lái xe xuống ngay bệnh viện thăm anh. Anh nằm bất động. Khi tay tôi chạm vào anh, anh mở hé mắt nhìn tôi và miệng cố nở nụ cười, méo mó. Thấy anh cười mà tôi muốn khóc. Trông anh tiều tụy và hốc hác quá. Nhưng anh rất bình tĩnh, như ngày xưa khi đối diện trước quân thù.

Anh muốn ngồi dậy, nhưng không còn đủ sức. Tôi ngồi bên cạnh, đưa tay xoa trên ngực anh, bảo anh cứ nằm nghỉ.

-Bác sĩ bảo tôi không còn nhiều thời gian nữa, ngày mai phải xuất viện về nhà để gia đình lo hậu sự – Anh nói bằng một giọng thì thào, yếu ớt.

Khi nhắc đến hai chữ gia đình, anh lại cười, chua chát:

-Lại gia đình…!

Hiều ý anh, tôi nói đùa cho anh vui:

-Phải nói là đại gia đình, vì ngoài cô con gái của anh, anh còn có chúng tôi nữa. Cứ yên tâm mà đi. Nhớ dọn sẵn một bãi đáp cho ngon lành, chờ tôi, một ngày nào đó sẽ đáp xuống sau anh.

Chiều hôm sau anh được xe bệnh viên đưa về nhà. Cô con gái túc trực bên anh. Tôi cũng luôn có mặt. Anh ra dấu bảo tôi đỡ anh ngồi dậy và ngỏ ý muốn uống với tôi một ly rượu đỏ. Cô con gái ngần ngừ, nhưng thấy tôi ra dấu gật đầu, cô rót hai ly rượu, một ly mời tôi và một ly cô cầm đưa vào miệng cha cô.

Cuối cùng chúng tôi cũng cạn ly. Không ngờ đó là ly rượu biệt ly. Tôi bỗng nhớ tới lời của một bài ca cũ: “bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã… đã đi xa rồi…”

Khuya hôm đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo: “Nhớ liệm ba bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe con.”

Đám tang thật đơn giản theo ý muốn của anh. Mấy lần anh dặn dò cô con gái không được đăng cáo phó hay báo tin cho ai biết. Tại nhà quàn, ngoài cô con gái của anh và cậu bạn trai người Mỹ, chỉ có vợ chồng tôi cùng cô con gái út. Một nhà sư già tụng một thời kinh trước khi đậy nắp quan tài. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào anh. Anh nằm uy nghiêm trong bộ quân phục, khuôn mặt ánh lên nét hào hùng. Tôi có cảm giác như anh vừa chết tại chiến trường. Không có bất cứ một nghi lễ nào, nhưng tai tôi như đang văng vẳng tiếng kèn truy điệu và khúc nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ.

Đứng nghiêm chào anh một lần nữa, khi quan tài đưa vào lò thiêu. Mọi thứ đều trở về với cát bụi. Lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui bất chợt, khi nghĩ anh sắp được gặp lại anh Lê Huấn và những đồng đội cũ đã hy sinh, những chiến sĩ đích thực đã rất xứng đáng với bộ quân phục oai phong của QLVNCH.

Họ đã tạo cho bộ chiến y một điều gì đó rất thiêng liêng.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Hội Ngộ Gia Đình Sư Đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH
(VienDongDaily.Com - 20/10/2015)

Bài THANH PHONG


LITTLE SAIGON - Gia đình Sư Đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH vừa tổ chức hai ngày hội ngộ tại Little Saigon, Nam California. Tiền hội ngộ vào thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015 tại Phòng Hội trong khu Del Amor, 9573 Bolsa Ave, Westminster, và ngày hội ngộ chính thức diễn ra tại nhà hàng Seafood Palace, 6731 Westminster Ave, từ 11 giờ trưa đến 3 giờ chiều ngày Chủ Nhật hôm sau.

Đặc biệt lần hội ngộ này có sự hiện diện của phu nhân Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và người anh cả của Sư Đoàn 18, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn.
Image
Trong giây phút cảm động nhất trong lễ truy điệu anh linh các chiến sĩ SĐ 18 BB, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo rót rượu mời đàn em về uống.
(Thanh Phong/Viễn Đông)


Trong hàng ngũ quan khách, ngoài vị thượng khách là phu nhân Tổng Thống còn có sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Chuẩn Tướng Lê Văn Tư, Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu (TQLC), Đại Tá Lê Văn Sang (Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn III), cựu Bộ Trưởng Lâm Lễ Trinh, Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn (Hội Trưởng Hội H.O.) cùng một số niên trưởng các Khóa 10 Đà Lạt, Khóa 5/68 Thủ Đức, Khu 33 Chiến Thuật, Các Phi Đoàn 223, 225 thuộc Không Lực VNCH, một số sĩ quan Tổng Hội Trưởng, Hội Trưởng các đơn vị quân đội như Trường Võ Bị Quốc Gia, Thủy Quân Lục Chiến.và Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Trung Học Châu Văn Tiếp Phước Tuy cùng đông đảo chiến hữu, thân hữu và giới truyền thông.

Pháo thủ Nguyễn Hữu Nhân, Tiểu Đoàn 181 Pháo Binh điều hợp chương trình, Trước khi cử hành nghi thức khai mạc, ông mời mọi người đứng lên chào đón phu nhân Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB. Sau đó, nghi thức khai mạc diễn ra thật long trọng. Quốc kỳ VNCH, Hoa Kỳ, Quân Kỳ QL/VNCH và Hiệu kỳ Sư Đoàn 18 BB được toán quân danh dự rước vào trước lễ đài với tiếng kèn khai quân hiệu và mọi người nghiêm chỉnh chào kính.

Gia trưởng Gia Đình SĐ 18, chiến hữu Đặng Văn Phúc lên chào mừng phu nhân Tổng Thống, Thiếu Tướng Tư Lệnh, quý quan khách cũng như thân hữu và các chiến hữu.
Image
Nghi thức chào cờ khai mạc ngày hội ngộ gia đình SĐ 18 BB. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Trước đó, người điều hợp chương trình, Pháo thủ Nguyễn Hữu Nhân tuyên bố: “Sư Đoàn 18 BB Quân Lực VNCH, những người lính đã từng chiến đấu bảo vệ tổ quốc Việt Nam và tuyến thép Xuân Lộc. Ngày hôm nay chúng tôi có cơ hội để gặp lại vị niên trưởng của chúng tôi cũng như được gặp lại quý vị quan khách trong ngày lễ kỷ niệm 40 năm. Ngày hôm nay rất là quan trọng, vì có sự tham dự của vị Tư Lịnh Sư Đoàn 18 BB cho nên chúng tôi tổ chức một buổi lễ Truy Điệu long trọng để tưởng nhớ đến tất cả những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua.” Và cũng theo lời vị điều hợp, Lễ Truy Điệu là phần chính trong buổi hội ngộ nên được ban tổ chức chuẩn bị hết sức chu đáo, trang nghiêm và cảm động. Trước tiên, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo Tư Lệnh SĐ 18, Đại Tá Hứa Yến Lến Tham Mưu Trưởng Hành Quân Sư Đoàn 18, và Gia Trưởng Gia Đình SĐ 18 Đặng Văn Phúc lên đặt vòng hoa trước bàn thờ Tổ Quốc.

Trung Tá Cao Xuân Lê đọc bài điều văn thật cảm động, trong đó có đoạn: “Sư Đoàn 18 một thời oanh liệt, chiến thắng khắp miền Đông, trận Xuân Lộc quyết tử sau cùng làm nức lòng chiến hữu, thơm trang quân sử. Thế mà, một sớm một chiều đành rút bỏ. Trời ơi! Làm sao không tủi nhục, đau lòng! Tội nghiệp bao oan hồn chiến sĩ trận vong đã hy sinh mà không yên lòng nhắm mắt! Hỡi anh linh chiến sĩ trận vong. Hôm nay ngày 18 tháng 10, 2015, trên đất khách quê người, chúng tôi, cựu chiến binh Sư Đoàn 18 và bạn bè họp mặt, không phải để chén thù, chén tạc, bởi đời vong quốc nào có ai vui? Cùng nhau để vinh danh, tưởng niệm những chiến sĩ một thời đã hy sinh từ trận chiến đầu tiên khi Sư Đoàn mới thành lập đến trận sau cùng, tuyến thép Xuân Lộc lừng danh. Hỡi anh linh chiến sĩ trận vong! Dù đang lang thang nơi chân trời góc biển hay còn lãng đãng trên những chiến trường xưa, hãy về đây, uống vài ly rượu. Chuông trống hôm nay để rước vong linh người đâu lưng chiến đấu; nhang trầm hôm nay đã cuộn lấy hình hài người đã vượt thác trèo non...”

Trong lúc mọi người xúc động nghe bài điếu văn, trên lễ đài, phía bên phải bàn thờ tổ quốc, bốn chiếc nón sắt úp xuống mặt bàn phủ khăn tang trắng cùng bốn ngọn nến cháy sáng, bên cạnh lá cờ Tổ Quốc đã nhuốm máu bao chiến sĩ QL/VNCH, bốn chiến hữu SĐ 18 đứng nghiêm trang cúi đầu dâng bốn chén cơm, bốn đôi đũa như mời vong linh các anh hùng tử sĩ Sư Đoàn 18 về tận hưởng!

Dứt bài điếu văn, vị anh cả của Sư Đoàn bước lên trước chiếc bàn vừa nói, ông cúi đầu xúc động, đưa tay đón lấy chai rượu từ tay một trong bốn người lính Sư Đoàn trao, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, người hùng của mặt trận sau cùng, tuyến thép Xuân Lộc, một thời khi cộng quân nghe danh ông và Sư Đoàn 18 đã phải khiếp vía kinh hồn, thế mà nay, tay cầm chai rượu, ông cố mím môi giữ cho nước mắt khỏi tràn ra, nhưng không được.

Đứng gần ông, chúng tôi thấy những giọt nước mắt và gương mặt vô cùng đau khổ của một vị Tướng, khi nghĩ đến bao đàn em của mình đã hy sinh ngã gục, nghĩ đến nỗi oan ức, tủi nhục của một Sư Đoàn phải chấp nhận buông súng dù tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Sư Đoàn không hề nao núng! Tay cầm chai rượu, ông mở nắp đưa lên trước bốn chiếc nón sắt thầm thì cùng đàn em đã ra đi rồi dốc miệng chai xuống, từng giọt rượu màu vàng rải trên bàn, trên bốn chiếc nón sắt, thật bùi ngùi, xúc động.



Sau đó, vị Tư Lệnh có lời tâm tình cùng các chiến hữu của mình. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã nhắc lại những trang sử oai hùng của Sư Đoàn 18, và ông nói, trong tiền hội ngộ, ông và anh em chiến sĩ Sư Đoàn 18 đã khóc, đã cười với nhau. Dù cá nhân ông và toàn thể chiến sĩ Sư Đoàn 18 được ca ngợi là những người lính chiến đấu anh dũng tại tuyến thép Xuân Lộc để bảo vệ thủ đô Saigon trong những ngày sau cùng của cuộc chiến, nhưng vị Tư Lệnh vẫn khẳng định rằng, những chiến thắng oai hùng của Sư Đoàn 18 có được, không phải chỉ do Sư Đoàn 18 mà còn có sự tiếp tay của các binh chủng, các đơn vị bạn.

Để trấn an các chiến sĩ, vị Tướng tư Lệnh nhắn nhủ: “Các anh em chiến sĩ Sư Đoàn 18, anh em đừng bao giờ mặc cảm mình là người thua trận. Chúng ta không thua, tất cả chỉ là sự sắp xếp của ngoại bang. Chúng ta chỉ buông súng vì không còn đạn dược chứ chúng ta không đầu hàng. Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam đã phải chấp nhận một điều không thể chấp nhận được, phải chịu đựng một điều không thể chịu đựng được, phải sống khổ sở, lầm than. Nhưng chúng ta vẫn còn tương lai xán lạn; tương lai đó là thế hệ con em chúng ta, chúng đang làm rạng danh cho nòi giống Việt, và chúng sẽ nối tiếp những gì cha anh chúng còn dang dở cho một quê hương Việt Nam tự do, dân chủ và không còn chế độ cộng sản bạo tàn cai trị..

Sau đó, các chiến sĩ Sư Đoàn 18 lên trước sân khấu cùng hợp ca những nhạc phẩm như “Sư Đoàn 18 Hành Khúc - Cờ Bay, Cờ Bay...” làm không khí trầm buồn trong ngày truy điệu bỗng trở nên hừng hực khí thế đấu tranh.

Trong cuốn Lược Sử QL/VNCH do Đại Tá Trần Ngọc Thống, Thiếu Tá Hồ Đắc Huân và cố Trung Úy Lê Đình Thụy biên soạn ghi: “Sư Đoàn 18 BB thành lập ngày 16 tháng 5, 1965 tại Xuân Lộc, Long Khánh. Danh xưng ban đầu là Sư Đoàn 10 BB, được hình thành từ các Trung Đoàn 43, 48 và 52 biệt lập cùng cac đơn vị yểm trợ và tác chiến kỹ thuật cùng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh và các Tiểu Đoàn Pháo Binh. Ngày 1 tháng Một,1967, Sư Đoàn 10 BB được cải danh thành Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Sư Đoàn chịu trách nhiệm Khu 33 Chiến Thuật bao gồm Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Đặc Khu Vũng Tàu. Với các chiến công lẫy lừng, các chiến sĩ SĐ 18 được tưởng thưởng mang dây biểu chương màu Quân Công Bội Tinh. Kể từ ngày thành lập đến tháng 4/1975, các vị Tư Lệnh Sư Đoàn theo thứ tự thời gian gồm: Đại Tá Nguyễn Văn Mạnh, Chuẩn Tướng Lữ Lan, Đại Tá Đỗ Kế Giai, Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ, Đại Tá (sau lên Thiếu Tướng) Lê Minh Đảo.”
dailien
Posts: 2462
Joined: Sun Jun 03, 2007 3:37 am
Contact:

Post by dailien »

Image

TRÊN ĐỒI CAO

Khuất Đẩu

Họ chưa là gì của nhau. Anh, vẫn gọi nàng bằng cô và xưng tôi. Cô, tuy gọi bằng anh nhưng cũng không xưng em. Cứ như hai kẻ xa lạ mới gặp nhau lần đầu.

Nhưng họ đã quen biết nhau khá lâu.

Anh là sĩ quan pháo binh, trông coi hai khẩu pháo 155 ly đóng tại sân vận động quận lỵ, sát cạnh trường của cô.

Cả hai không có duyên cớ gì gặp nhau, nếu không có những lá đơn thưa kiện của trường. Cứ mỗi lần, hai khẩu pháo thi nhau nhả đạn, cả thầy và trò đều phải tháo chạy ra khỏi lớp. Bao nhiêu ngói đều lần lượt rơi xuống đất, tường thì nứt, cửa thì xệch xạc. Đó là chưa kể cái mùi thuốc mồi nồng nặc đến cả tiếng đồng hồ sau vẫn chưa chịu tan.

Nắng, trông thấy cả trời xanh. Và mưa, nước lênh láng như ngập lụt.

«Trường học mà như thế, kiện là phải!».

Đó là kết luận của anh. Nhưng anh bảo, «tôi đâu có muốn thế. Quận bảo đóng ở đâu thì đóng ở đó. Cả năm, đóng cạnh trường cô, tôi biết ai cũng khó chịu. Nhiều lúc thấy thầy trò leo lên mái che chắn bằng bao nilon, tôi thực áy náy. Chiến tranh là vậy, nhiều cái thật phi lý!»

«Không phải nhiều cái mà là tất cả», cô nói cay nghiệt.

«Có lẽ là vậy, nhưng biết làm sao được. Tôi đâu có muốn đi lính. Cũng như cô đâu có muốn giảng bài trong mùi thuốc súng. Chúng ta bị cuốn vào cuộc chiến chết tiệt này, không biết đến bao giờ!»

Cuộc chuyện trò của họ cứ như thế, nhàn nhạt, chan chán. Anh cố giải bày, còn cô vẫn cứ cố chấp. Làm như thể bao nhiêu tai họa là tự anh gây ra. Vậy nên, chẳng bao giờ thấy họ ngồi thân mật với nhau trong một quán ăn hay một quán cà phê não nuột những bài ca phản chiến. Một chút gì đó nghe ra có vẻ tình cảm, thì chỉ là mùi hương kín đáo trong những trang sách.

Anh thường cho cô mượn mà không bao giờ muốn đòi lại: những Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh, Giã từ vũ khí, Một thời để yêu và một thời để chết…

Toàn là những sách về chiến tranh. Cứ tưởng cô sẽ ném vào một góc nào đó, không ngờ cô lại đọc say sưa. Cuộc chiến ở Tây Ban Nha, ở Đức thật khốc liệt, tàn bạo nhưng nó không bẩn thỉu và hèn hạ như ở đây, một nơi, người ta sẵn sàng giết cả đàn bà và trẻ con để lên án lẫn nhau là tàn ác!

Dần dần cô cũng nhận ra thấp thoáng bóng dáng anh trong đó, một kẻ lạc lõng, cô độc, mang trên lưng một nỗi buồn dài.

Lúc này, hai khẩu pháo đã dời ra khỏi phố quận, đặt trên một ngọn đồi cheo leo.

Anh bảo: «ở đó tha hồ mà ngắm mặt trời lặn. Đẹp thì có đẹp, nhưng buồn quá!». Một lúc, anh lại nói: «nhất là ngồi ngắm một mình!» Lúc ấy, cô mới chịu cười, một nụ cười đối với anh là dịu dàng quá đỗi.

«Thế thì anh giống như hoàng tử bé rồi. Tôi chỉ ao ước một lần thôi mà chẳng được!»

«Sao vậy?», anh hỏi.

«Chẳng sao cả, lên một mình thì có mà điên!»

«Tôi sẽ đưa cô lên!»

«Lại để nhìn hai con quái vật ấy à?»

«Đâu có sao. Giờ nó hiền lắm. Mỗi đêm bắn vài chục quả vào các mật khu để các cụ ở quận ngủ ngon, vậy thôi.»

«Nó hiền với các anh chứ không hiền với tôi!»

«Thế thì hết chiến tranh tôi sẽ đưa cô lên.»

«Chừng đó cả tôi và anh đều chống gậy, lên sao nổi!»

«Không lâu đến thế đâu. Mỹ rút, Đại Hàn rút, cũng sắp hòa bình rồi. Có điều Bắc Việt không rút, chẳng biết hòa bình kiểu gì: trong chiến thắng hay chiến bại!»

«Kiểu gì thì cũng không giống như «nước thanh bình ba trăm cũ»

Khi hàng trăm khẩu pháo dấu kín trong núi rừng Buôn mê thuột cùng lúc nhả đạn, cứ tưởng khẩu đội pháo của anh phải gấp rút lên trấn giữ ở đèo Dốc cao để khống chế con đường tiến quân của địch, thì được lệnh kéo vào Phan Rang. Rồi lại vào Phan thiết, Long Khánh…Sau cùng bỏ cả pháo cả xe, chạy bộ, rồi lại phải tháo cả giày, vứt cả mũ để khỏi bị bắt sống.

Một cuộc tháo chạy lạ lùng và kỳ quái nhất trong lịch sử chiến tranh. Còn hơn quân Napoléon khi rút khỏi Moscow, quân Anh chết dí ở Dunkerque!

Trong cơn hoảng loạn đương nhiên họ chẳng thể nào nghĩ đến nhau. Họ còn có cả cha mẹ, anh em. Nhưng những lúc một mình trong cô đơn và cơ cực, người nọ nhớ tới người kia với bao nhiêu điều hối tiếc.

Anh, trong trại cải tạo, càng khổ nhục lại càng nhớ tới ngọn đồi quạnh hiu và anh cứ tiếc là không được ngồi với cô dù chỉ một lần để xem mặt trời lặn. Khi cô bảo anh giống như hoàng tử bé, quả thật anh sướng ran, chiều nào anh cũng ngồi trên chiếc ghế và cứ dịch chuyển mãi cho đến khi mặt trời khuất hẳn.

Còn cô, sau khi bị đuổi khỏi trường, không biết làm gì hơn, chỉ ngồi dài lưng ra coi quán cho mẹ, cũng ao ước phải chi ngày đó đừng kiêu ngạo khép kín, đừng cố chấp thì đã ít ra là một lần, theo anh lên đồi, đưa tay để anh dắt qua những gộp đá…!

Ôi chao, sao mà sến và cải lương quá, (đọc tới đây chắc có người kêu lên như vậy), nhưng nếu không cải lương và sến như thế, thì bốn mươi năm sau, khi người đàn bà đã trên sáu mươi và người đàn ông đã bảy mươi, làm sao có thể gặp nhau được.

Và cũng lẩn thẩn làm sao khi ta thấy họ gặp nhau trên đồi.

Họ chưa phải chống gậy. Ông vẫn còn đủ sức nắm tay dắt bà bước qua những gộp đá chông chênh và bà, một đôi lúc quá đà tưởng sắp ngã vào ông. Trên đỉnh đồi toàn đá sỏi, chẳng còn để lại chút gì dấu vết của hai khẩu pháo. Những vỏ đạn, ngay cả những viên thuốc mồi, những bao cát, những vòng dây thép gai đã được dân chúng quanh vùng nhặt nhạnh đào bới mang đi. Giờ, chỉ còn có bầu trời, vẫn cao và xanh ôm lấy ngọn đồi bé nhỏ giống như tinh cầu của hoàng tử bé.

Họ ngồi xuống bên nhau. Và, như hai đứa nhỏ cùng chơi một trò chơi bí mật, họ ngắm mặt trời đang lặn. Trời và đất như cũng đang ngỡ ngàng. Xanh hơn, cao hơn. Mặt trờì tưởng chừng không chỉ một lần lặn, mà đến cả chục lần. Cứ lặn xuống rồi lại trồi lên, có vẻ như muốn bù đắp chọ họ những gì đã mất.

Như chàng chăn chiên xứ Provence, ông kể cho bà nghe những câu chuyện lưu lạc ở xứ người, những vùng đất ông đã qua, những sa mạc nắng cháy hoang vu, những con sông dài bất tận, những ngôi nhà chạm tới lưng trời và nỗi buồn lạc lõng, đất và người của ai chứ đâu phải của mình, những hàng cây cổ thụ râm mát, những cây cầu rực sáng trong đêm, đẹp ngời ngời như thế nhưng sao không bằng bụi chuối sau hè, cây cầu khỉ bắc qua một con lạch, và những lúc tan trường bao nhiêu tà áo bay bay như cánh chim, trong khi cô giáo kiêu kỳ đủng đỉnh gõ từng bước trên hè phố như một nàng quận chúa …

Đó là bản trường ca ngọt ngào, êm ái, mà bà được nghe, dù muộn. Và khi sương đêm đã thấm lạnh, bà gục đầu lên vai ông mà ngủ. Cũng là lúc, ông nói một câu, lẽ ra phải nói những bốn mươi năm trước: «Tôi yêu em xiết bao!»

Giả sử trước kia ông nói như vậy, thì sao nhỉ? Thì hai người sẽ lấy nhau, sẽ sinh ra những đứa con, bà sẽ một thân một mình vừa nuôi con vừa nuôi chồng trong tù, sau đó họ sang Mỹ theo diện HO, bà gọt khoai, rửa bát trong nhà hàng, ông cắt cỏ, đẵn cây, rồi cố học để có thể ngoi lên, làm đến hai job, cứ chồng về thì vợ đi, chồng đi thì vợ về, ngay cả gặp nhau trên giường cũng khó huống gì là rủ nhau lên đồi, họ dốc sức nuôi con, lo cho chúng vào đại học, hãnh diện khi chúng tốt nghiệp, rồi chúng có nhà riêng để lại căn nhà mênh mông chỉ có hai người, ông thì tìm vui trong internet, bà ngồi xem phim bộ.

Đến một lúc nào đó ngôi nhà chỉ còn một người. Rồi chẳng còn người nào nữa!

Vậy thì, mất bốn mươi năm nhưng còn được một đêm như đêm nay, cho dù có vì cảm lạnh mà hai người không bao giờ thức dậy nữa, thì cũng giống như một câu vọng cổ đang xuống xề, xin hãy cứ vỗ tay như thường lệ!

4/2014
Khuất Đẩu
Nguồn: Tác giả gửi
tramthaiha
Posts: 453
Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
Contact:

Post by tramthaiha »

Trách chi người đem thân giúp nước...

Giao Chỉ, San Jose mở lại hồ sơ Kháng Chiến

Thế giới đang chuyển động vì cuộc chiến chống khủng bố từ Trung Đông qua Âu Châu đến Mỹ châu. Thế giới Người Việt hải ngoại cũng đang bàn tán về vụ nghi án các nhà báo bị thanh toán 35 năm về trước. Là người lên tiếng đầu tiên về cuốn phim phóng sự Terror in Little Saigon, chúng tôi đã nhận được nhiều câu hỏi tiếp theo. Căn cứ vào sự hiểu biết và nhận định riêng, chúng tôi sẽ lần lượt trả lời. Nhưng trước hết, xin gửi đến quý vị độc giả thân hữu một tài liệu hơn 10 năm trước. Tôi viết về cuốn sách của tác giả Phạm Hoàng Tùng do Đỗ Thông Minh xuất bản. Bài báo này viết để giới thiệu thiên hồi ký của một kháng chiến quân đã đi theo thầy Minh cho đến những giờ phút cuối, bị bắt, bị tù, được trả tự do, đã vượt biên hiện ở bên Cam Bốt. Sách của anh không được Kháng Chiến và Việt Tân sau này nhìn nhận, nhưng tôi vẫn đọc và tổ chức ra mắt tại San Jose. Ngày xưa khi cô gái hậu phương trách anh trai tiền tuyến, có nhạc sĩ đã khuyên rằng: Trách chi người đem thân giúp nước...Tôi muốn dùng câu này để gửi đến thân hữu trong niềm thông cảm. Từ vị tướng quân cho đến đoàn viên vô danh. Họ đã cùng đi vào cõi chết. Chúng ta còn sống đến giờ này. Nhân danh điều gì mà phê phán. Và sau đây là câu chuyện viết cho thiên bút ký để quý vị hiểu rõ phần nào những gì đã xảy ra ở miền 3 biên giới vào thập niên 80. Bài viết này đã có phần bổ túc và sửa chữa tài liệu, nhưng nội dung và tình cảm không thay đổi.


Nhân mùa lễ Tạ Ơn 2015 viết lại chuyện cũ.

Giới Thiệu Hồi Ký Kháng Chiến

Cuốn sách đặc biệt ra đời mang tên ‘Hành Trình Người Đi Cứu Nước,’ hồi ký của một kháng chiến quân viết về cuộc chiến phục quốc do tướng Hoàng Cơ Minh lãnh đạo. Xin giới thiệu cùng bạn đọc sau đây lời bạt viết về cuốn hồi ký kháng chiến nói trên


Ghi chú của nhà xuất bản:

Giao Chỉ là bút hiệu của cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc, hiện là Giám Đốc Trung Tâm Định Cư IRCC, Inc. tại San Jose, USA.
Bài này đã được phổ biến rộng rãi trước khi phát hành sách, chúng tôi xin phép tác giả in vào đây như ghi nhận từ một độc giả



Lời Bạt của Giao Chỉ, San Jose.

Bài viết về cuốn hồi ký của một kháng chiến quân.
“Này em, anh sẽ về bên kia biên giới.
Đèn nhà ai hay đốm lửa quê người...”

Tháng 3/1975, tôi gặp tướng Hoàng Cơ Minh lần đầu tiên tại Cam Ranh, một vị Phó Đề Đốc Hải Quân nóng nảy, bồn chồn vừa nhận toàn bộ trách nhiệm tư lệnh cuộc triệt thoái từ duyên hải. Trong số rất nhiều tướng lãnh của 2 quân khu, ông Thiệu chỉ còn đặt hy vọng vào vị phó đề đốc trẻ tuổi của hải quân thuộc dòng họ Hoàng Cơ. Sau lễ chào cờ lần cuối, hạm đội chở phần còn lại của cả 2 quân đoàn suôi Nam. “Trùng khơi vạn lý, như chưa vừa ý, lắc lư con tàu đi,” bài ca vui tươi ngày nào bây giờ chuyên chở biết bao nhiêu cay đắng. Tôi có mặt trên một chiến hạm của đoàn tầu đau thương đó. Hai tháng sau, tháng 5/1975, tôi gặp lại ông Hoàng Cơ Minh trong trại Barrigada trên đảo Guam. Gần 30 vị tướng tá của một đạo quân tan hàng nằm chờ phi vụ vào Mỹ. Ông Nguyễn Cao Kỳ được đem đi trước, rồi đến ông Ngô Quang Trưởng. Tôi nằm bên trung tướng Đồng Văn Khuyên, mặt dài như chiều đông.
Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III xuống sân đánh bóng chuyền cho quên ngày tháng. Tướng Không Quân Phan Phụng Tiên lâu lâu lại buông lời cay đắng. Tướng Trần Văn Minh im lặng, chửi thề không thành tiếng. Không một tướng tá nào còn được chút dũng khí của những ngày chinh chiến. Riêng ông Hoàng Cơ Minh là người duy nhất nói đến chuyện trở về. Những ý kiến rời rạc, mơ hồ dường như đã bắt đầu hình thành. Con đường trở về sẽ vô cùng khốc liệt và ý ông Hoàng Cơ Minh nói là phải dùng tất cả các phương pháp của cộng sản để đánh cộng sản. Chuyện đó sau này thành sự thật. Giấc mơ về đường mòn Hoàng Cơ Minh, áo bà ba đen, quấn khăn rằn Nam bộ đã được nghĩ đến. Nắm tay giơ cao, tiếng hô giải phóng hay là chết, đã hiện ra trong giấc ngủ trại Barrigada, giữa tiếng ồn ào của phi trường đảo Guam.

Sau cùng, chuyến bay cuối tháng 5/1975 từ hải đảo đã đưa vào lục địa Hoa Kỳ một vị tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa duy nhất quyết tâm trở về với tấm lòng hết sức sắt đá. Đó là Phó Đề Đốc Hải Quân Hoàng Cơ Minh. Năm 1980 ông Minh và ông Liễu đến San Jose gặp riêng vài anh em để kết nạp đoàn viên. Tôi có mặt đêm hôm đó, tuy không chính thức gia nhập nhưng hứa chắc rằng sẽ ủng hộ. Đến nay vẫn giữ lời.
Bẩy năm sau, vào ngày 28/8/1987, vị Phó Đề Đốc một thời Tư lệnh hành quân biển của Hải Quân VNCH đã nằm chết bên bờ suối, giữa rừng già miền Nam Lào. Hôm nay, khi ghi lại chuyện này năm 2015, chợt thấy các niên trưởng của tôi thời kỳ nằm chờ ở Guam, chẳng ông nào còn sống. Nhưng tôi vẫn còn phải nhắc lại chuyện xưa...

Người lãnh đạo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, đảng trưởng đảng Việt Tân với hơn100 kháng chiến quân vượt sông Mekong trong các chiến dịch Đông Tiến tìm đường về Việt Nam. Đến vùng Xalavang trên đất Lào, đạo quân kháng chiến bị săn đuổi bởi số địch quân đông đảo nên đã hoàn toàn tan rã. Các kháng chiến quân bị bắt đã kể lại với nhau trong tù về những cái chết đau thương và hào hùng. Vị Tư Lệnh và các cấp chỉ huy Kháng Chiến đều tử thương hay tự sát sau khi bị thương.

Vào đầu thập niên 80, cộng sản Hà Nội và thế giới Mác Xít đang ở trên đỉnh cao của chiến thắng. Không thể có con đường nào khác gọi là đấu tranh chính trị. Chỉ còn giấc mơ trở về gây dựng cơ sở chiến đấu trong lòng địch. Cả một ước mơ dù đội đá vá trời nhưng vẫn có người cố thực hiện.

Từ Úc châu, Võ Đại Tôn lập Chí Nguyện Đoàn Phục Quốc và tìm đường về vào năm 1981. Ông đã bị bắt và xuất hiện trong cuộc họp báo hết súc anh hùng tại Hà Nội ngày 13/7/1982. Trong chốn trần ai tri kỷ tôi hiểu rằng ông Tôn bỏ vợ con bên Úc lên đường qua Thái vào đất Lào chẳng hề ngây thơ nghĩ rằng đi về là lấy lại quê hương. Với dòng máu biệt động quen thuộc, ông chỉ muốn dò đường tìm đến chiến khu của nhà cách mạng quen biết trên đất Lào là tướng Van Pao. Từ đó sẽ tính bước kế tiếp. Nhưng mộng lớn không thành...

Từ Paris, Pháp, Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam thuộc nhóm Lê Quốc Túy phát động, với Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và hàng chục người… đã xâm nhập bằng đường biển Cà Mau, bị bắt và xử ngày 18/12/1984. Trong Chí Hòa, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị xử bắn ngày 8/1/1985, máu đỏ bức tường khám lớn. Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy là các cựu sĩ quan Không Quân VNCH. Sau này ông Hạnh được chính tổng thống Pháp can thiệp, Hà Nội trả tự do. Mấy năm trước ông qua Mỹ thăm bạn, không may bị tử vong. Đám tang ngưới anh hùng kháng chiến gốc không quân VN hết sức cô đơn giữa cộng đồng Việt Bolsa. Chỉ duy có bạn vàng Vũ Văn Ước lẽo đẽo đi sau quan tài. Bác Ước ngày nay cũng lại theo bạn Mai Văn Hạnh về miền vĩnh cửu.
Và sau cùng, từ Mỹ, Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh đã tìm đường về suốt 10 năm từ 1981 đến 1990 qua 4 giai đoạn. Tất cả đều lấy đất Thái Lan làm bàn đạp. Năm 1985, hai nhóm cán bộ chính trị Tiền Phương Kháng Chiến đã đi xuyên qua Cam Bốt để dò đường về nước nhưng đều bị bắt tại Nam Vang.
Cũng năm 1985, Đông Tiến I, vượt sông Mekong, qua Nam Lào do Đại Tá Dương Văn Tư chỉ huy đến gần biên giới Việt Nam phía Bắc Kontum thì bị Pathet Lào và Việt Cộng đánh đuổi và tan rã, 20 kháng chiến quân hy sinh. Số còn lại trở về Thái Lan.

Năm 1986, Đông tiến II lần thứ nhất với 130 kháng chiến quân tiến về phía Đông-Nam nhưng vượt sông Mekong tại Pác Xế bất thành nên đành phải rút. Trước khi lên đường, Mặt Trận đã triệt tiêu toàn thể căn cứ trên đất Thái, nên khi rút về lại phải sống tạm ngoài trời trong rừng già gần 1 năm chờ tái xuất quân.

Năm 1987, với 110 kháng chiến quân cuộc Đông Tiến II lần thứ hai khởi sự, vượt sông Mekong và bị quân địch quá mạnh đánh tan. Toàn bộ chỉ huy và Tư Lệnh Hoàng Cơ Minh tự sát, một số lớn tử trận và bị bắt.
Đặc biệt là sau khi Đông Tiến II lần thứ hai hoàn toàn thất bại, thành phần còn lại tại hậu cứ Thái Lan và Tổng Vụ Hải Ngoại tại San Jose, Cali, Mỹ cũng không biết rõ tin tức. Nên chiến dịch Đông Tiến III vẫn tiếp diễn với người chỉ huy hậu cứ là một sĩ quan Dù, ông Đào Bá Kế đi vào đất chết muộn màng năm 1990 với số thành phần khỏe mạnh còn lại, những tân kháng chiến quân mới tuyển từ trại tị nạn... đều chấp nhận lên đường chuyến chót. Tất cả xóa xổ căn cứ tại Thái Lan tiếp tục đi theo con đường Đông Tiến I, vượt sông Mekong tìm về biên giới Lào-Việt ở phía Bắc Kontum.

Trong giai đoạn này thật sự không còn sự hiện diện của Tướng Minh và vòng đai kỷ luật sắt đá. Nhưng lạ lùng thay, những phần tử còn lại của Kháng Chiến không tan hàng mà lại đồng lòng lên đường. Không ai thật sự biết rõ tâm tư của anh em, nhưng có thể họ đi tìm “ông thầy”.

Thêm một lần sau cùng, toán quân này cũng bị chặn đánh, bị giết, bị bắt. Người chỉ huy Đông Tiến III là Đào Bá Kế bị án tù chung thân, cho đến năm 2000 còn bị giam tại nhà tù miền Bắc. Sau đó ông Kế được trả tự do về Hậu Giang. Chúng tôi có liên lạc tìm cách lập hồ sơ đoàn tụ qua Mỹ nhưng còn nhiều khó khăn. Tin sau cùng, Đào Bá Kế đã qua Thái Lan nhưng đã mất liên lạc. (Rất mong biết tin.. )

Tất cả các anh hùng kháng chiến suốt 10 năm (1981-1990), tuy hoàn cảnh mỗi người một khác và đôi khi việc tuyên truyền quá cường điệu phóng lên con số hàng ngàn tay súng nhưng riêng sự gian khổ và khốc liệt hoàn toàn có thật. Ông Đỗ Thông Minh tham dự từ những ngày đầu nói rằng khi họp với tướng lãnh Thái ông Minh phóng đại con số tổ chức và quân số để được yểm trợ và trang bị. Anh em lại nói rằng ông Minh trông cậy vào số người đông đảo trong trại tỵ nạn sẵn sàng ghi danh theo kháng chiến. Dù sao thì cũng là sự phóng đại sai lầm.

Vào những năm 80, bài hát bất hủ được ban hợp ca Thùy Dương cất lên vừa hùng tráng vừa bi thảm: “Này em, anh sẽ về bên kia biên giới, đèn nhà ai hay đốm lửa quê người.”.
Hơn 100 kháng chiến quân đã hy sinh trên đường tìm về bên kia biên giới. Vượt con sông Mekong, thấy ánh sáng leo lắt đêm khuya, tưởng là ánh đèn của thôn xóm trên đất nước thân yêu, ngờ đâu vẫn chỉ là đốm lửa quê người. Chiến hữu chung quanh Tướng Hoàng Cơ Minh chẳng còn được mấy người, sức cùng lực kiệt, trải qua bao nhiêu gian khổ và cô đơn, ông đã tự chọn cái chết, nằm lại bên bờ suối.

Bên kia bờ đại dương, cả một Tổng Vụ Hải Ngoại đang trầm kha xâu xé làm cho lòng tin tan vỡ! Khi lên như sóng trào dâng, khi xuống như nước vỡ bờ. Bên này tiền tuyến chỉ có trên dưới 200 tay súng bị săn đuổi suốt những năm tháng dài. Thái Lan bắt đầu đổi thái độ, không còn muốn cho đóng quân, Lào Cộng hợp lực với Việt Cộng truy kích. Kháng chiến quân bị thương phải tự sát hoặc đã bị các chiến hữu hạ sát để khỏi rơi vào tay địch. Không còn đường nào khác.

Con đường giải phóng là con đường một chiều: “Giải phóng hay là chết”. Những người thân tín của ông Minh trong hàng ngũ lãnh đạo không còn nữa, Đại Tá Dương Văn Tư đã hy sinh, Trung tá Lê Hồng đã qua đời. Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh với một đời hành quân biển đã bỏ quân phục đại lễ mầu trắng và biển cả màu xanh, để tìm về bộ quần áo đen, khăn rằn Nam Bộ nằm chờ đợi giây phút cuối cùng ở giữa rừng núi Hạ Lào.

Ông đã dùng chiêu thức của cộng sản để đánh cộng sản và đường lối này cũng đã tạo ra bao nhiêu sóng gió. Sau cùng, giải phóng hay là chết, khi không thành công thì chết là giải thoát. Và một phát súng cuối cùng đã nổ, Tướng Hoàng Cơ Minh đã chết. Nhưng tiếng súng của ông tự sát phải chờ đến 14 năm sau mới chính thức nghe được tại San Jose vào tháng 7/2001. Chờ đợi lâu như thế cũng lại là một sai lầm.

Tất cả các câu chuyện kể trên và còn nhiều chi tiết hết sức đặc biệt, hầu hết đều được giãi bày trong cuốn Hồi Ký của Kháng Chiến Quân Phạm Hoàng Tùng trong tác phẩm 2 cuốn tựa đề “Hành Trình Người Đi Cứu Nước”.
Tôi được học giả Đỗ Thông Minh từ Đông Kinh gửi riêng cho đọc bản in thử từ máy điện toán. Tập hồ sơ tổng cộng 900 trang là một tài liệu hết sức quan trọng để các nhà nghiên cứu và toàn thể thế hệ Việt Nam sau này hiểu rõ câu chuyện tìm đường về của những năm 80.

Với bản danh sách khá đầy đủ các kháng chiến quân đã hy sinh, đã bị tù đày và cả những người hiện còn sống xót đều là nhân chứng của một giai đoạn anh hùng và cũng hết sức bi thảm.
Riêng câu chuyện về cuộc đời của tác giả Phạm Hoàng Tùng năm nay trên dưới 60 tuổi đã trải qua 14 năm (1984 - 1997) đi kháng chiến và chịu rất nhiều hệ lụy.
Phạm Hoàng Tùng cũng như hàng trăm ngàn thuyền nhân khác đã lên đường tìm tự do vào đầu năm 1982, từ Sài Gòn đi thuyền rồi qua đường bộ đến Nam Vang lần thứ 1.

Năm 1983, lại vượt biển vào Thái, được đưa tới trại tị nạn Sikhiu. Anh trở thành 1 trong số 964.000 thuyền nhân mà thống kê của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ghi nhận tổng số 5 đợt trong 20 năm từ 1975 đến 1995. Phạm Hoàng Tùng đã không chết trên biển Đông, anh cũng không đi Mỹ định cư. Nếu Phạm Hoàng Tùng đi Mỹ vào khoảng 1984 - 85, thì bây giờ cũng đã thành người Mỹ trên 30 năm ở San Jose… trong số hơn 100.000 dân Việt tại Thung Lũng Điện Tử.

Nhưng phần số con người đã thay đổi khi anh chấp nhận trả hết giấy tờ tị nạn để đi theo Kháng Chiến. Vào khu chiến năm 1984, làm việc trong đài phát thanh. Tháng 9/1986, tham dự Đông tiến II lần 1, tháng 7/1987, tham dự Đông tiến II lần 2, rồi bị bắt giải về Sài Gòn. Năm 1990, cải tạo lao động ở Phú Yên. Năm 1993, trốn trại về Sài Gòn rồi vượt biên đến Nam Vang lần thứ 2.

Bây giờ Phạm Hoàng Tùng cô thế, ở lại làm người Việt lưu vong trên đất Cam Bốt, lập gia đình, có vợ và đã trải qua 30 năm (1982 - 1987 và từ 1993 tới nay) trên đất khách quê người. Lấy tin tức từ chiến hữu kháng chiến khi gặp lại nhau trong trại giam và từ kinh nghiệm bản thân, tác giả viết lại hành trình của một người đi cứu nước.

Anh đã dâng hiến tất cả tương lai, hy vọng và tuổi thanh niên cho lý tưởng. Anh tìm thấy ở Kháng Chiến cả mộng lẫn thực. Bình tĩnh và công bình, tác giả ghi lại những đau thương dằn vặt của từng chiến binh và người lãnh đạo không phải bằng lời nói mà bằng các hành động.

Đặc biệt chỉ cần sơ lược về hoàn cảnh hết sức tuyệt vọng hàng ngày, hết sức khó khăn, căng thẳng mỗi ngày, ta có thể hình dung được tâm trạng của người lãnh tụ Kháng Chiến ra sao. Tướng Hoàng Cơ Minh dưới ngòi bút của tác giả hiện thân của sự quyết đoán, cao ngạo, không tin người và hết sức tàn nhẫn. Nhưng rõ ràng là không có đường lối nào khác, ít nhất là vào thời điểm của các cuộc Đông Tiến.


“Một lần đi là một lần vĩnh biệt, một lần đi là hết lối quay về.”

Tác giả đã kể lại những vụ xử tử kháng chiến quân muốn đào ngũ, những vụ thi hành kỷ luật sắt đá trong chiến khu. Toán cận vệ trung thành của lãnh đạo xuống tay hết sức lạnh lùng, tàn nhẫn và dứt khoát không tha thứ bất cứ ai. Ngay cả với ông Nguyễn Hữu Nhiều, vị bác sĩ duy nhất của khu chiến.
Xem ra trước sau chỉ có trên dưới 200 tay súng, đủ mọi thành phần, có thể nói là một toán quân ô hợp. Với kỷ luật sắt đá, lãnh đạo đã tôi luyện thành các du kích quân bắt đắc dĩ, ngày đêm học tập. Người từ hải ngoại về rất ít, đa số từ trại tỵ nạn. Quân đội VNCH có, mà bộ đội đào ngũ cũng có. Người vì lý tưởng, người căm thù cộng sản và có cả những thành phần ảo tưởng, chỉ muốn thoát ra khỏi trại tỵ nạn vì chờ đợi mòn mỏi không thấy tương lai. Tất cả đều được đưa vào vòng cương tỏa chặt chẽ để dứt khoát không thể thoát ra được. Chỉ cần một người trốn về là tất cả huyền thoại vỡ lỡ và những câu chuyện khắc nghiệt đau thương ở khu chiến sẽ làm đổ vỡ tổ chức toàn thế giới.
Tác giả kể lại nhưng không một chút oán hận, đôi khi còn có vẻ phân trần cho hoàn cảnh.
Toàn thể tác phẩm là một bản liệt kê những cái chết. Bắt đầu là những vụ lên án và xử tử các âm mưu đào ngũ. Tiếp theo là những nhu cầu đôn đốc tạo thành áp lực bừng bừng lửa dậy tại hải ngoại đòi hỏi tiền tuyến phải làm một cái gì.
Cuộc Đông Tiến bắt đầu mặc dù chỉ có vài trăm tay súng. Chỉ biết tìm cách vượt sông Mekong đi mãi về phía Đông, không có một lệnh hành quân rõ ràng. Lần đầu bị thất bại. Lần sau trước khi lên đường phá sạch trại để hết đường về, nhưng rồi chưa đi được, lại phải trở về sống bờ sống bụi chờ chuyến sau.
Mỗi lần Đông Tiến là một lần thương vong. Trận chiến hoàn toàn không cân xứng. Đi vào đất địch với quân số ít ỏi, không có phương tiện liên lạc. Địch không đánh quân ta cũng có thể chết đói, chết khát. Địch tấn công với quân số gấp 10 lần. Quân ta chết là may mắn, bị thương là không có phương tiện cứu chữa. Không thể để lọt vào tay địch, bị tra tấn lộ tin tức rồi cũng bị giết chết.
Vì vậy quân bạn ra tay trước, Kháng Chiến tự giết hết thương binh của ta, hoặc là thương binh phải tự sát. Kháng chiến quân tài hoa là nhạc sĩ Trần Thiện Khải, người sáng tác bài Trăng Chiến Khu… đã tự sát sau khi bị thương trên đường Đông Tiến lần 2.
Đoàn quân Đông Tiến như Hốt Tất Liệt ngày xưa dẫn quân Thát Đát tiến về phía mặt trời. Cứ phương Đông mà đi cho đến khi ngựa hết nước, người hết sức, nhưng rồi quân Mông Cổ còn có đường về. Kháng Chiến thì tan hàng ngay tại Hạ Lào. Đi như thế không bị địch đánh thì cũng chết. Dù về đến đất Kontum thì cũng không thể mở được đầu cầu. Cho dù mở được đầu cầu thì làm gì có đại binh theo sau.
Những cuộc hành quân gian khổ, điên cuồng như thế mang ý nghĩa gì" Ông Minh rõ ràng chỉ muốn tìm về chết tại quê hương!
Ba trăm chín tư năm trước, con tàu Mayflower của Âu Châu nhổ neo đi về phương Tây với 102 người. Một nửa là di dân và một nửa là thủy thủ đoàn, cũng là một hành trình vô vọng. Con tàu tả tơi đến miền Đông Hoa Kỳ năm 1620, mùa Xuân đầu tiên chết 52 người vì đói khát và bệnh tật. Còn lại 50 người sống xót và các dòng họ hậu duệ của con tàu “Hoa Tháng Năm” ngày xưa trải qua 4 thế hệ bây giờ đã có đến 35 triệu người trong số trên 300 triệu dân Hiệp Chúng Quốc. Một cuốn sách biên khảo vừa xuất bản đã ghi lại vào ngày Lễ Độc Lập năm nay.
Trên chuyến khởi hành đến Mỹ và sau khi sống những năm đầu đầy thử thách ở Tân Thế Giới, di dân đã có lúc hung bạo, tàn nhẫn với nhau. Sử sách đều có ghi lại. Tuy nhiên, Mayflower đã thành công, nhưng con tàu Đông Tiến của Hoàng Cơ Minh đã không nở hoa “Kháng Chiến”.
Khi Tướng Minh tổ chức đại hội tại San Jose để khai trừ người phụ tá số một là Đại Tá Phạm Văn Liễu, thì tại Nam California cũng có đại hội của ông Trần Minh Công tổ chức để đặt vấn đề với ông Minh.
Đó là vào ngày 29/12/1984.
Cùng vào thời gian đó, tiền đồn Hải Vân của Kháng Chiến trên đất Thái bị địch vượt sông Mekong qua tấn công. Sau đó, đơn vị Kháng Chiến tiền tuyến phải triệt thoái.
Sau khi Mặt Trận bể làm đôi, Tướng Hoàng Cơ Minh trở lại khu chiến chuẩn bị và đích thân tổ chức, chỉ huy Đông Tiến II lần 1, rồi lần 2. Thời kỳ đó ông Minh được Thái Lan cho biết chỉ cấp Visa lần cuối. Yêu cẩu ông vào dọn dẹp để giải tán chiến khu rồi phải ra khỏi đất Thái. Tình hình chính trị Đông Nam Á gió đã đổi chiều. Thái và Việt Nam xuống thang căng thẳng. Kháng chiến cũng chẳng còn tiền thuê đất trả cho các tư lệnh Thái Lan. Chính lúc đó nếu ông Minh rút về Nhật sẽ bỏ rơi chiến hữu trên đất Thái. Ông chọn giải phàp tiếp tục lên đường qua Lào để tìm bằng được ngọn đèn đêm hiu hắt trong thôn xóm Việt Nam, nhưng khi nằm chết bên con suối Hạ Lào, ông chỉ thấy xa xa đốm lửa quê người.
Khi xuất bản tác phẩm của Phạm Hoàng Tùng, ông Đỗ Thông Minh có lẽ chỉ muốn cho tác phẩm có cơ hội trình bày sự thật. Khi người Kháng Chiến viết về 14 năm oan nghiệt, tác giả cũng chỉ đơn giản kể lại những gì đã trải qua.
Độc giả đọc tác phẩm chắc có thể mang nhiều suy tư. Kẻ chống đối hận thù Kháng Chiến sẽ tìm thấy nhiều chứng cớ để buộc tội.
Nhưng riêng phần tôi, với tình cảm dành cho người đi cứu nước, tôi hết sức đau thương và trân trọng cái chết của Tướng Hoàng Cơ Minh. Tấm lòng thương cảm của tôi không phải chỉ dành cho chủ tướng mà cho tất cả đoàn viên của ông. Những người ông tuyên án xử tử, những người theo ông đi vào chỗ chết, hay những người vì theo ông mà suốt một đời tù đày cho đến ngày nay vẫn còn lưu vong. Xem ra, tác giả đi một vòng tròn trên 4 xứ Đông Nam Á khoảng thời gian vừa đúng một con giáp (1981 - 1993), Phạm Hoàng Tùng lại là người Kháng Chiến hưởng hạnh phúc sau cùng.
Tướng Hoàng Cơ Minh với cái chết của chính ông, ông đã làm trọn lời thề nguyền từ khi xuống tàu bỏ nước ra đi. Ông đã giữ vẹn lời thề, khi đứng trên khán đài hô hào kháng chiến phục quốc ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, ở Orange County và ở San Jose…
Cái chết của Tướng Hải Quân Hoàng Cơ Minh, của Đại Tá Bộ Binh Dương Văn Tư, của Trung Tá Nhảy Dù Lê Hồng… và ngay cả các kháng chiến quân đào ngũ bị xử tử hình đều góp phần cho Kháng Chiến và Việt Tân tồn tại. Đông Tiến là chuỗi dài của những thất bại nhưng học được bài học thất bại là lấy được chìa khóa của thành công.
Trong công cuộc đấu tranh cho Việt Nam bây giờ và sau này, dù bằng chính trị hay bằng những phương thức khác, dù giải phóng rồi canh tân hay dù canh tân rồi giải phóng, dù đúng hướng chính thống hay chệch hướng hòa giải thì điều quan trọng là phải tồn tại. Bất cứ với giải pháp nào, ta không thể cứu nước nếu ta không tồn tại và tiếp tục hoạt động.

Cái chết của một lãnh tụ chỉ có thể mang ý nghĩa để cho thế hệ đấu tranh tiếp nối tồn tại. Với ý nghĩa đó, một đóa “Hoa Tháng Năm”, một Mayflower mới của người Việt sẽ nở hoa trong cộng đồng của chúng ta.
Đối với những dư luận về công cuộc kháng chiến phục quốc, chúng tôi xin có đôi lời hơn thiệt.
Hơn 30 năm trước, Giao Chỉ đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Võ Đại Tôn, Trần Văn Bá và Hoàng Cơ Minh. Thân hữu nói rằng, ông quá cả tin nên dễ bị lừa. Đã xin thưa rằng, tôi muốn ngày nào cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông.
Ba mươi năm sau, thân hữu lại nói rằng, ông đã yêu lầm tướng cướp. Bèn trả lời rằng: Tình yêu vốn mù quáng. Bây giờ đã già rồi, không thể thay đổi được nữa. Đành xin chịu mù lòa để giữ lấy tình yêu.
Đối với riêng tôi, mọi công cuộc kháng chiến phục quốc từ Lực Lượng Đặc Biệt Võ Đại Tôn, đến Không Quân Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và của Hải Quân Hoàng Cơ Minh đều là những nỗ lực thần thánh, chúng tôi có tràn đầy đức tin tuyệt đối.
Ngày xưa, cụ Nguyễn Bá Trác lưu lạc bên Tàu, mang nặng mối sầu phục quốc không thành đã viết nên vần thơ bất hủ trong bài Hồ Trường:
“Chí ta ta biết, lòng ta ta hay.”
Bây giờ lòng dạ đó vẫn là tâm can của các đoàn viên cách mạng, chắc chắn rằng tôi hiểu tấm lòng các bạn. Khi thiên hạ sắp ném đá người đàn bà tội lỗi, Chúa nói rằng, ai không có tội thì ném trước, tất cả đều bỏ đi. Ngày nay, người lương thiện bỏ đi, người tội lỗi đứng lại lấy chuyện ném đá để mua vui đời luân lạc. Từ “Võ Đại Bịp” đến “Kháng Chiến Phở Bò”... còn chữ nghĩa nào tàn nhẫn hơn để làm đau đớn người đi cứu nước. Bây giờ là thời của người biết không nói, kẻ không biết nói càn. Nếu ta biết mà không nói, ai nói ?. Bây giờ không nói, bao giờ ?
Tôi đã đọc và giới thiêu bộ Hồi Ký Một Đời Người của cụ Phạm Ngọc Lũy do nhà xuất bản Tân Văn ở Đông Kinh, Nhật Bản phát hành nói về cuộc công yểm trợ của hải ngoại. Tôi đã đọc và tổ chức ra mắt sách bộ Hành Trình Người Đi Cứu Nước cũng của nhà xuất bản này về khu chiến của kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng.
Cả hai tác phẩm này xem ra anh em Việt Tân đều không nhìn nhận. Kháng chiến mở đường tôi viết bài Đường mòn Hoàng cơ Minh. Kháng chiến bể làm đôi và bị luật pháp Hoa Kỳ làm khó. Tôi than thở với bài: Tìm đường gai góc mà đi. Khi bác sĩ Trấn Xuân Ninh từ giã tôi viết bài an ủi: Chia tay hoàng hôn. Khi ông Liễu qua đời tôi gửi vòng hoa văn hóa.Tôi là người mãi mãi ủng hộ các phong trào kháng chiến phục quốc và không quên bao gồm cả tổ chức Phục Hưng Việt Nam. Dù là võ trang ngày xưa hay đấu tranh chính trị ngày nay, các anh đánh cách gỉ tôi cũng ủng hộ. Câu nói mãi mãi ghi trong lòng. Mình không làm thì để anh em làm. Làm đúng làm sai cũng là làm việc lớn. Tôn trọng và thông cảm.


Terror in Little Saigon


Bây giờ đến lúc anh phóng viên tây ba lô làm phim đầu voi đuôi chuột, chẳng hề có ai yêu cầu, xem xong phim là tôi lên tiếng mắng cho cậu này mấy mắng. Thằng cha nầy dứt khoát là muốn nổi tiếng với cuộc đời truyền thông. Chẳng phải đi tìm công lý thương yêu gì các nạn nhân của 35 năm về trước. Đây là anh chàng không hề có lương tâm báo chí. Dứt khoát làm công tố viên buộc tội xong rồi mới đi tìm chứng cớ. Theo kiểu chuyên viên tra tấn cho ra tội. Anh chàng lại gạ gẫm để các nhân chứng Việt Nam bịt mắt mà khai, như vậy anh muốn mô tả cộng đồng Việt ngày nay vẫn còn sợ Mafia Kháng chiến nên dù uất ức muốn nói sự thực mà vẫn sợ bị thủ tiêu nên dấu mặt.

Qua vụ này, các bạn hỏi tôi là phải chăng Hoa Kỳ đã nuôi dưỡng bao che cho các phong trào Kháng Chiến 35 năm trước và bây giờ lại muốn dẹp đi. Sao bạn lại đi tìm mặt trời buổi trưa như vậy. Suy nghĩ tào lao. Chính phủ Hoa kỳ chẳng hề có chủ trương như vậy. Nuôi dưỡng cũng không phải mà dẹp bỏ cũng không. Giữa buổi trưa, đi tìm đông tây nam bắc không thấy mặt trời. Các ông quên rằng mặt trời ngay trên đỉnh đầu. Đây chỉ đơn thuần là một anh phóng viên đói bài làm phóng sự chuyện ngày xưa đem cờ vàng và Sài Gòn nhỏ hôm nay để gây sóng gió. Các cơ quan truyền thống quốc gia và quốc tế Hoa Kỳ chẳng hề quan tâm. Toàn cầu còn đang theo đuổi chuyện chiến tranh với khủng bố Hồi Giáo, ai quan tâm đến đề tài của chúng ta. Các cơ sở chiếu phim cũng chẳng phải là những tiếng nói lớn lao của dư luận Mỹ. Chỉ là các cơ quan Media thuộc loại bất vụ lợi không có gì chứng tỏ là đề tài quan trọng của cơ sở truyền thông quan trọng.Thiên hạ lại đem những bài mắng chửi từ bao năm qua ra phổ biến. Bạn đọc hôm nay lâm trận hỏa mù chẳng rõ đầu đuôi? Thật là đáng tiếc.

* * *
Tuy nhiên, cuốn phim Terror giả hiệu này cũng là dịp chúng tôi muốn chân thành kể lại câu chuyện xưa để quý độc giả được rõ. Thời kỳ 1980 chúng tôi đã sống và đấu tranh ra sao. Dù chẳng phải là đoàn viên nhưng anh em hết lòng ủng hộ anh em. Mỗi độ Xuân Về, chúng tôi tổ chức hội Tết Fairgrounds tại San Jose. Hai bên cổng chính lối vào khu triển lãm là các gian hàng của Kháng Chiến và Phục hưng Việt Nam. Những hình ảnh, những lá cờ vàng. Anh em Phục Hưng lo gian hàng Việt Ngữ và phụ trách bãi gửi xe bên ngoài. Anh em Kháng Chiến đi treo cờ trên các khu thương mại. Anh em Người Việt Tự do dặn nhau rằng, mai nầy ta cùng về Việt Nam. Anh em Kháng chiến nói rằng Ăn bát phở Hoà rút ngắn đường về. Trên khắp nẻo đường đất khách quê người, chiến hữu mặc áo đen đứng dưới trời mưa phát báo. Trên sân khấu văn nghệ có cả Kiều Chinh Phạm Duy cùng các thanh niên thiếu nữ cất tiếng ca. Năm 1993 Giao Chỉ tôi cũng lần mò đi theo anh em Phục Hưng qua dự đại hội nhân quyền tại thủ đô Mạc tư Khoa lúc cờ đỏ đã không còn trên công trường đỏ. Những cán bộ của Phục Hưng, của chí nguyện đoàn, của kháng chiến 30 năm trước, ngày nay gặp lại, tóc xanh đã phai màu. Có ông tóc bác phơ. Nhiều ông tóc đã rụng hết. Ông cha ta có câu. Một cái tóc là một cái tội. Tóc đã rụng hết rồi mà sao ngày nay lại còn mang tội khủng bố làm cho Sài gòn nhỏ thân yêu phải mang hình ảnh kinh hoàng. Nghe nói có người chửi tôi rằng tên đại tá nghĩa địa. Tôi lại chịu đấy. Chắc tôi không phải là người cuối cùng thương các anh chị em tìm đường về quê hương.

Cảm ơn....
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.


Giao Chỉ - San Jose,


Nhân mùa lễ hội cuối năm 2015 tôi viết lại chuyện này đề gửi cho quý vị; Bà Hoàng Cơ Minh và các cháu ở Cali. Anh chị Võ Đại Tôn bên Úc. Các con gái của anh Mai Văn Hạnh bên Pháp. Anh chị Đỗ Thông Minh bên Nhật. Anh Phạm Hoàng Tùng bên Cam Bốt. Anh Đào Bá Kế bên Thái Lan. và các bạn tôi khắp mọi nơi. Xin ông bà chuyển cho thân hữu và trả lời đã nhận

Từ Mayflower trên biển đến con tầu Kháng chiến trong rừng
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Image

Tô Phạm Liệu: Người trở lại Charlie

Phạm Anh Dũng

Lật qua tờ nhật báo Người Việt ngày 5 Tháng Mười 1997, một tin cáo phó làm tôi giật mình chú ý đọc ngay: “...Tô Phạm Liệu (1941-1997), Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù... đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 Tháng Chín 1997...”

Vậy là anh Liệu đã từ giã cõi đời này!

Hình ảnh của Tô Phạm Liệu trở về từ dĩ vãng xa xưa.

Lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu đã lâu lắm rồi, đã hơn 27 gần 28 năm trước đây.

Ngày đó, vừa học xong lớp Y Khoa Năm Thứ Nhất ở trường Ðại Học Y Khoa Sài Gòn, tôi đã có một số khá đông bạn bè cùng lớp rủ nhau nộp đơn, đi thi và đỗ vào trường Quân y.

Một ngày Tháng Giêng 1970, ngày nhập ngũ, chúng tôi rủ nhau nao nức đi trình diện ở trường Quân Y. Một đám sinh viên Y Dược Nha đến và được tập trung ở cổng trường chỗ gần trạm kiểm soát ra vào. Chúng tôi là những tân sinh viên Quân Y. Người đầu tiên ra gặp chúng tôi là một sinh viên sĩ quan Quân Y. Anh mặc quân phục xanh bộ binh, đeo lon trung úy có hai bông mai vàng trên một nền nhung đỏ thẫm ở trên vai với dấu hiện con rắn vàng, của ngành quân y, và dấu hiệu một cánh dù màu xám, bằng nhảy dù, trên ngực áo. Thoáng gặp anh, chúng tôi cũng phải để ý ngay, vì anh là một người to lớn, vừa to vừa cao trông như là một “ông hộ pháp.”

Không cười đón niềm nở chút nào cả, với giọng nói to, vang vang trong buổi chiều nắng gió, anh tự giới thiệu. Tôi nhớ đại khái rất ngắn và gọn. Anh cho biết tên là Tô Phạm Liệu, sinh viên sĩ quan Quân Y năm thứ sáu và anh được cấp trên đề cử làm Sinh Viên Sĩ Quan Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Tân Sinh Viên.

Anh Liệu dẫn khoảng bốn năm chục người chúng tôi vào một sân rộng lớn của trường Quân Y, nơi có một cột cờ với lá cờ vàng ba sọc đỏ khá cao. Ðó là Vũ Ðình Trường của trường Quân Y và ở đó đã có thêm sẵn hai sinh viên sĩ quan quân y khác đứng chờ sẵn từ lâu. Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ba ông đàn anh dẫn chúng tôi chạy vòng quanh sân cờ cho đến khi tất cả hết sức lực và có một người phải ngất xỉu.

Ðó là kinh nghiệm đầu tiên của đa số chúng tôi đối với quân đội. Ðó là lần đầu tiên hành xác để mở đầu cho Tám Tuần Lễ Huấn Nhục của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Sĩ Quan Quân Y. Ðối với những “thư sinh trói gà không chặt” mà còn “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm,” chỉ biết việc sách đèn, đây quả là một thử thách khá lớn lao.

Và đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu. Trong tám tuần lễ của “mồ hôi, nước mắt” chúng tôi đã được các đàn anh của các khóa trước “chỉ dạy”một cách rất tận tình bằng mọi cách. Chúng tôi được học qua căn bản quân sự, căn bản thao diễn. Và mọi người được thay nhau tập hít đất, tập thở, tập chạy, tập cười... theo lệnh các huynh trưởng!

Các đàn anh chia ra từng toán ba người. Anh Tô Phạm Liệu đích thân làm trưởng một toán. Mỗi toán có nhiệm vụ hướng dẫn các tân sinh viên một ngày. Riêng anh Liệu hình như ngày nào cũng có mặt để quan sát các hoạt động, tiến triển trong việc huấn luyện các tân sinh viên Quân Y. Anh Tô Phạm Liệu rất tận tâm bỏ khá nhiều thì giờ vào việc dẫn dắt đàn em mới nhập ngũ. Những người nào mà có vẻ lười biếng công việc tập tành là khó qua khỏi mắt của đàn anh. Ai đau thật hay chỉ ốm giả anh cũng biết. Hình như anh biết rõ về bản chất, tính tình của từng người một. Anh là người gần gũi với chúng tôi nhất trong những ngày đầu tiên khi mới gia nhập quân ngũ.

Sinh hoạt với anh một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy ngay ngoài “cái vỏ” lạnh lùng nghiêm nghị của anh còn có một bề trong khác hẳn với một tâm hồn đầy tình cảm và hiểu biết. Anh Liệu thường thấu hiểu gần như mọi chuyện xẩy ra trong đại đội tân sinh viên quân y và thường giải thích hay giải quyết, thường là bằng tình cảm, những vấn đề khó khăn hay khó nói nhất. Nhiệm vụ chỉ huy hướng dẫn đôi khi làm anh có vẻ khó khăn và khô khan nhưng những lúc nói chuyện với anh Liệu trong khi rảnh rang đã làm chúng tôi thấy anh là một người rất nhiều tình cảm, rộng lượng và rất thương mến những anh em trong gia đình Y Dược Nha trong ngành Quân Y. Một điều đặc biệt nhất là Tô Phạm Liệu nói chuyện rất hay, rất lôi cuốn người nghe, nhất là khi anh đứng trước hàng quân. Tôi được biết anh đã còn là một huynh trưởng trong ngành Hướng Ðạo Việt Nam. Sự việc anh giỏi về diễn thuyết hay chỉ huy là đã có kinh nghiệm từ lâu.

Nhiệm vụ khó khăn của anh là cho chúng tôi được có những khái niệm ban đầu về Quân Ðội rồi cũng thành công. Tất cả đám tân sinh viên Y Nha Dược đều qua khỏi tám tuần lễ huấn nhục gian lao. Chúng tôi được tổ chức lễ gắn alpha và trở thành những sinh viên Quân y hiện dịch thực thụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ðêm hôm gắn alpha, anh có nói chuyện riêng khá cảm động với một vài người chúng tôi. Anh cho biết rất hài lòng với kết quả và nhắn nhủ công chuyện tương lai. Tô Phạm Liệu có nói ngày nào đó chúng tôi sẽ hiểu rõ đàn anh hơn khi đứng ra hướng dẫn những đàn em sau này. Riêng tôi về sau này rất thông cảm anh vì chính bản thân tôi lại “được” cử ra làm nhiệm vụ của anh, dẫn dắt các tân sinh viên Quân Y, khi khóa sinh viên sĩ quan của chúng tôi trở thành khóa đàn anh lớn nhất trong trường Quân Y.

Năm chúng tôi vào Quân Y cũng là năm khóa 16 Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y ra trường. Anh Tô Phạm Liệu chọn binh chủng Nhảy Dù và nhiệm sở đầu tiên là một tiểu đoàn Nhảy Dù. Tô Phạm Liệu đã chính thức trở thành y sĩ của một tiểu đoàn tác chiến của binh chủng nhảy dù.

Những ngày sau đó tôi rất ít gặp anh Liệu. Chúng tôi ở lại hậu phương hoàn tất công chuyện học hành ở những trường Y Nha Dược. Anh Liệu và các anh khác tản mác trong những đơn vị của quân đội khắp bốn vùng chiến thuật. Và tôi chỉ gặp lại anh Liệu một hai lần gì đó trong một khoảng thời gian gần hai năm trời khi anh về ghé thăm trường quân y trong những dịp nghỉ phép giữa những ngày ở mặt trận. Những ngày đó anh vẫn cao lớn và mặc quần áo rằn ri nhẩy dù trông rất oai hùng. Chúng tôi cũng chỉ có dịp nói chuyện chào hỏi chút ít và tôi chỉ biết là anh đã trải qua khá nhiều thử thách ngoài mặt trận nhưng không có nhiều chi tiết.

Và đến một ngày tháng, ở một nơi... của định mệnh.

Thời điểm là năm 1972, vào mùa Hè nắng cháy.

Ðịa điểm là Charlie, Cao Nguyên Nam Việt Nam.

Tôi được nghe đến, được biết đến, được hiểu... Tô Phạm Liệu nhiều hơn.

Bốn năm trước đó, năm 1968, năm bầu cử tổng thống Mỹ là khi Bắc Việt cho tổng tấn công và thất bại trên các chiến địa Tết Mậu Thân nhưng phải nói họ đã có ảnh hưởng trong việc tuyên truyền chính trị. Hình ảnh chiến tranh Việt Nam tràn ngập trên đất Mỹ theo vào từng nhà riêng của dân Mỹ bằng máy vô tuyến truyền hình. Dân chúng Hoa Kỳ đã bắt đầu chán sợ cuộc sống chiến tranh đẫm máu và dai dẳng cách xa một nửa trái đất. Ðầu óc thực tế của họ đã đếm nhiều đến số tiền trang trải cho cuộc chiến. Hình ảnh quan tài những người Mỹ chết ở Việt Nam đem về Mỹ được chiếu rõ trên truyền hình làm nao núng cả quốc gia. Các phong trào phản chiến Mỹ hoạt động mạnh hơn. Ứng cử viên Tổng thống Mỹ đều biết rõ tầm quan trọng của việc cần phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Năm 1972, một lần nữa là năm bầu cử tổng thống Mỹ. Do đó, một lần nữa, cũng là lúc Bắc Việt cần có tiếng vang vọng với bất cứ giá nào. Ðại Tướng Bắc Việt Võ Nguyễn Giáp còn nghĩ là có thể chiếm đoạt miền Nam vào lúc này.

Cũng như Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân năm 1968, Tướng Giáp đã lại “thí quân” và lần này quyết định tấn công với ba mặt trận lớn được bùng nổ vào mùa Hè 1972.

Thứ nhất: Mặt Trận Giới Tuyến tại vùng Phi Quân Sự. Việt Cộng đã bất chấp tất cả mọi ký kết của chính họ ở Hiệp Ðịnh Genève 1954. Họ đã cho hai sư đoàn 304 và 308 tăng phái bởi bốn Trung Ðoàn Ðặc Công với hơn 200 chiến xa của Trung đoàn 203 và 204 và thêm ba Trung đoàn Pháo Binh vượt khu Phi Quân Sự đánh chiếm Quảng Trị.

Thứ hai: Mặt Trận Biên Giới chiếm đánh Lộc Ninh, An Lộc do các sư đoàn Cộng Sản 5, 7 và 9 cùng với hơn 200 xe thiết giáp. Trong khi Sư Ðoàn 1 Bắc Việt quấy rối vùng Ðồng Bằng Cửu Long để cầm bớt quân đội Việt Nam lại vùng IV chiến thuật.

Thứ ba: Mặt trận Cao Nguyên thì có hai Sư đoàn 2 và 320v ới cùng một trung đoàn chiến xa đánh chiếm vùng Kontum, Pleiku. Trong khi Sư đoàn 3 Cộng Sản đánh vùng Bình Ðịnh.Tại Cao Nguyên, Tướng Võ Nguyên Giáp mưu định cắt Miền Nam thành hai mảnh.

Thời điểm là Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972.

Ðịa điểm là Charlie của chiến trường Cao Nguyên.

Trong quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam “Mùa Hè Ðỏ Lửa,” Phan Nhật Nam đã viết trong đoạn đầu tiên “Charlie, tên nghe lạ quá”:

“Quả tình nếu không có trận chiến mùa Hè 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie hay Cải Cách hay ‘C’ đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Poko và đường 14, Ðông Bắc là Tân Cảnh, với 12 cây số đường chim bay, Ðông Nam là Kontum thị trấn cực Bắc của Tây Nguyên... Charlie lọt giữa bị bao vây bởi căn cứ 5, căn cứ 6, ở phía Bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngõ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa Hè, mùa ‘mưa rào,’ báo chí hằng ngày trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống miền núi non xương sườn cực Tây của quê hương Việt Nam...”

“Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa của năm 1971 qua đầu xuân của 1972, Bắc Quân vẫn không vượt qua hai cửa ngỏ. Căn cứ 5, Căn cứ 6... Cộng quân đổi hướng tiến lòn sâu xuống phía nam của hai căn cứ trên để tiếp tục sự nghiệp ‘giải phóng’ với mục tiêu cố định: Tân Cảnh, cắt đường 14...”

Lữ đoàn 2 Nhảy Dù được cử đến lập một vòng đai để giữ những yếu điểm trong vùng quanh Quốc Lộ 14 và Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù có nhiệm vụ đóng giữ Charlie. Tô Phạm Liệu, người y sĩ trưởng của Tiểu đoàn, một người sĩ quan Nhảy Dù, đã được thả đến Charlie cùng với Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, Tiểu đoàn Nhảy Dù mới nhất của Sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, vào ngày 2 Tháng Tư.

Sau đó, tại Charlie, một trận đánh oai hùng và bi thương của người lính Nhảy Dù đã xẩy ra. Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù là Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo tốt nghiệp khóa 14 Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Trung Tá Bảo có tính tình giản dị và là người chỉ huy rất giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ông gia nhập Nhảy Dù ngay sau khi ra trường võ bị, dự nhiều trận chiến khốc liệt chiến thắng nhiều và đã bị thương hai lần ở mặt trận.

Tuy vậy, lần này Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù bị bao vây bởi cả một sư đoàn Bắc Việt, Sư Ðoàn 320 có mang danh là Sư Ðoàn Ðiện Biên và cũng được gọi là Sư Ðoàn Thép tăng phái thêm Trung Ðoàn 64 của Sư đoàn Sao Vàng Cộng Sản. Không phải đoán cũng thấy ngay là một chiến thuật thí quân lấy thịt đè người. Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù và Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo bây giờ có lẽ giống như một con hổ trong lồng.

Ngày 11 Tháng Tư là lúc Cộng Sản sửa soạn tấn công. Hàng trăm quả pháo rót vào Charlie kể cả đại pháo 130mm với đạn xuyên phá “delay.” Ðây là loại đạn đặc biệt nguy hiểm, không nổ ngay khi chạm đất mà sẽ nổ sau khi đã xuống dưới mặt đất khoảng hơn một thước để tàn phá những hầm trú ẩn.

Ngày 12 Tháng Tư, Cộng Quân tiến đánh. Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù kể cả Bác Sĩ Quân Y Tô Phạm Liệu đã quần thảo với lính Cộng của Sư Ðoàn Ðiện Biên tranh thủ từng thước đất. Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo, nhiều sĩ quan và binh sĩ nhảy dù đã hy sinh tại mặt trận.

Ngày 15 Tháng Tư 1972, Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù tan rã. Chính bản thân Tô Phạm Liệu cũng bị thương ở chân. Tô Phạm Liệu và thiếu tá tiểu đoàn phó đã dẫn một nhóm nhỏ còn lại và các thương binh rút khỏi Charlie. Và nhóm này cuối cùng được trực thăng “bốc” đi thoát. Một số khác chạy bộ băng rừng về. Xác chết của nhiều quân nhân và của Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo đã không đem được về và đã để lại ở Charlie.

Nhiều chiến sĩ nhảy dù đã anh dũng “ở lại” Charlie.

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sau này đã cảm hứng vì sự hy sinh của Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo và những chiến sĩ nhảy dù khác tại mặt trận Charlie mà đã sáng tác “Người - Lại Charlie,” một bản nhạc khá hay và cảm động:

“Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh!
Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí.
Vâng chính anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng.
Này anh!
Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh!
Vâng, chính anh là loài chim quí.
Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý, một lần dậy cánh bay, người để cho người nước mắt trên tay...”

Sự kiện Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Charlie khi bị hơn một sư đoàn bộ đội Bắc Việt tấn công với đại pháo và chiến xa là chuyện dĩ nhiên phải xảy ra. Nhưng điều quan trọng hơn là sự hy sinh dũng cảm của những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã gây tổn thất nặng cho đối phương và ảnh hưởng đến tinh thần của cán binh Bắc Việt.

Tuy là ngay sau đó, Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù phải bỏ cả Tân Cảnh về Kontum. Tuy là các sư đoàn Bắc Việt kiểm soát được Quốc lộ 14. Tuy là họ đã bao vây thành phố cao nguyên Kontum. Tuy là họ dốc toàn lực đánh Kontum hai lần ngày 14 và 25 Tháng Năm. Nhưng họ vẫn thất bại. Cuối cùng Cộng Sản Việt Nam vẫn không đạt được mục tiêu vào năm 1972 và phải rút lui tại mặt trận miền cao nguyên.

Mặt trận biên giới nổ lớn tại An Lộc-Bình Long. Bộ đội Cộng Sản hàng hàng lớp lớp biển người được yểm trợ bởi hàng trăm chiến xa tối tân và đại bác hỏa tiễn hùng hậu đã tràn ngập mặt trận. Nhưng họ đã phải đứng khựng lại ở quận An Lộc, cứ điểm quan trọng ngăn cản đường tiến của Bắc Quân đến Quốc lộ 13 để về “giải phóng” Sài Gòn. Trong khoảng 100 ngày gần 60 ngàn quả đại bác đã bắn vào độ một cây số vuông của quận lỵ nhỏ bé An Lộc. Năm lần Việt Cộng đã mở những cuộc tấn công. Cả năm lần Bắc Quân phải chùn bước. Người hùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng và các lực lượng phòng thủ với sự phụ lực của Ðại Tá Lê Quang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ với sự phụ lực của Ðại Tá Lê Quang Lưỡng và Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã cho Bắc Việt một bài học cay đắng, họ cho tướng Võ nguyên Giáp biết thế nào là “tử thủ.” Ngày 8 Tháng Sáu 1972, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù tiến vào thành phố, đã “bắt tay” được với tiểu đoàn Nhảy Dù “bạn,” Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù là đơn vị đã được trực thăng vận đến An Lộc mấy ngày trước.

An Lộc hoang tàn. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững.

An Lộc đẫm máu. An Lộc đầy lửa khói. Nhưng An Lộc vẫn còn.

Cuối cùng Bắc Quân phải rút lui.

Mặt trận Vùng Hỏa Tuyến. Ngay những ngày đầu tiên Việt Cộng đã tràn ngập Quảng Trị và Sư Ðoàn 3 Bộ Binh Việt Nam sau đó phải tan rã chạy về phía Nam. Dân chúng Quảng Trị ghét sợ cộng sản chạy theo quân. Hỗn loạn! Kinh hoàng! Máu đổ nhiều! Quân dân chạy giặc dưới làn đạn làm hàng ngàn người chết ở Ðại Lộ Kinh Hoàng. Bắc Quân tràn lan đánh chiếm khắp nơi.

Nhưng họ đã bị chận đứng ở sông Mỹ Chánh. Nơi đây ngày 2 Tháng Năm, Lữ Ðoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã bắn hạ 17 chiến xa Bắc Việt. Cùng một lúc Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng được cử ra giữ chức tư lệnh Quân Ðoàn I. Thế cờ được lật ngược.

Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Tân Cảnh nhưng không biến mất mà đã phối trí lại. Và chỉ độ một tháng sau ngày tan rã ở Charlie, Tô Phạm Liệu và Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù đã có mặt ở miền Hỏa Tuyến. Tháng Sáu 1972, sư đoàn Nhảy Dù, sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư Ðoàn 1 Bộ Binh cùng với sự yểm trợ của Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã mở chiến dịch tổng phản công.

Cuộc chiến đẫm máu kéo dài đến Tháng Chín 1972 khi lá cờ vàng ba sọc đỏ được những người lính Thủy Quân Lục Chiến dựng lại tại Cổ Thành Quảng Trị và khi tàn quân Bắc Việt chạy ngược trở về bên phía Bắc dòng sông Thạch Hãn.

Giấc mơ chiếm đoạt miền Nam vào mùa Hè 1972 của Tướng Võ nguyên Giáp đúng là “chỉ là một giấc mơ thôi.” Có lẽ nhiều ngàn hay có thể đến hàng chục ngàn người đã “sinh Bắc” và được “tử Nam” trong mùa Hè này.

Y Sĩ Ðại Úy Tô Phạm Liệu đã được sư đoàn Nhảy Dù trao tặng danh hiệu “Quân Nhân Xuất Sắc Nhất Của Sư Ðoàn Nhẩy Dù.”

Tô Phạm Liệu, tên tuổi hào hùng của ngành Quân Y “con rắn” chúng tôi, cũng lừng danh trong những đơn vị Nhảy Dù “mũ đỏ” của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó.

Chiến dịch mùa Hè 1972 đã làm Bắc Việt tổn thất nặng. Phải một thời gian khá lâu họ mới hồi phục lại được sức mạnh. Những ngày tháng ngay sau đó họ đã không tạo thêm được tiếng vang gì đáng kể. Ngoại trừ một cố gắng khác, nhưng vẫn thất bại, ở Sa Huỳnh ở vùng Quảng Ngãi-Bình Ðịnh đầu năm 1973.

Nhưng năm 1973 cũng là năm của Hiệp Ðịnh Paris ký kết bởi Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ. Năm của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam. Hiệp Ðịnh Paris đã đẩy Việt Nam Cộng Hòa vào con đường cùng. Hoa Kỳ dần dần rút khỏi Việt Nam. Viện trợ quân sự Mỹ cho Quân đội Việt Nam cũng giảm dần theo. Ðạn dược, súng ống của quân đội Việt Nam trở thành thiếu thốn. Xe tăng lỗi thời. Máy bay cũng ít dần và cũ kỹ dần. Bắc Quân ngày càng nhiều khí giới tối tân. Nga Xô và Trung Cộng cùng các nước Cộng Sản trên thế giới vẫn tiếp tục ủng hộ tiếp tế Hà Nội một cách tích cực. Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu hầu như một mình với Cộng Sản Bắc Việt và cả một thế giới Cộng Sản đứng đằng sau. Ðó là kết quả của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam, chính sách của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon.

Hiệp Ðịnh Hòa Bình Paris 1973 và giải Nobel được trao tặng cho Lê Ðức Thọ và Henry Kissinger chỉ là những trò hề. Bắc Quân tiếp tục xâm phạm những gì họ ký kết. Ðường mòn Hồ Chí Minh “đông người như đi chợ”chuyển quân và vũ khí thiết giáp vào miền Nam.

Tô Phạm Liệu tốt nghiệp Khóa 16 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch gia nhập Nhảy Dù năm 1970. Khóa 21 Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y, khóa cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, khóa của chúng tôi ra đơn vị năm 1975.

Năm năm sau tình hình đã đổi khác hoàn toàn. Những tân trung úy Y Nha Dược ra đơn vị đúng lúc ngày tàn của cuộc chiến. Tỉnh Phước Long đã rơi vào tay Cộng Sản Tháng Hai 1975.

Chuyện gì đã xẩy ra đã xẩy ra. Chuyện mất miền Nam vào tay Cộng Sản ngày 30 Tháng Tư 1975 đã đến. Có điều chuyện xẩy ra hơi sớm, một cách rất ngạc nhiên, ngoài sự dự liệu của tất cả mọi người trong và ngoài cuộc. Lịch sử sẽ cho dần những câu trả lời. Nhưng làm sao có ai, có những lý do nào... mà có cho đủ được những câu trả lời cho chuyện bỏ chạy một cách nhanh chóng như vậy?

Ða số chúng tôi Khóa 21 Quân Y chỉ đến đơn vị được một, hai tháng thì cuộc đời nhà binh cũng chấm dứt.

Ðể sửa soạn dư luận cho cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1976, Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng đã bắt đầu Chiến Dịch Mùa Xuân năm 1975. Nhưng chính những người cầm đầu Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thể biết có kết quả nhanh và bất ngờ ngoài dự liệu như vậy.

Miền Nam Việt Nam sụp đổ dần như một căn nhà không có nền móng trong khoảng 55 ngày.

Ngày 10 Tháng Ba 1975, Bắc Quân bắt đầu tiến đánh Ban Mê Thuột.

Ban Mê Thuột mất ngày 17 Tháng Ba 1975.

Theo đó là Quảng Trị mất 20 Tháng Ba.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ Huế 23 Tháng Ba.

Rồi Ðà Nẵng di tản ngày 29 Tháng Ba...

Bắc Việt tiến chiếm dễ dàng dần dần từ Bắc xuống Nam. Bắc Quân vào nhiều thành phố bỏ trống như chỗ không người. Tình hình thật là hỗn loạn. Những câu chuyện cười ra nước mắt được kể lại. Như là một thành phố ở miền Trung được di tản đến cả ba, bốn ngày sau một đơn vị quân đội nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa quay lại cũng vẫn còn y nguyên vì Cộng Sản cũng không đến kịp vào để tiếp thu! Hoặc là có những thành phố được phát ngôn viên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã di tản nhưng sự thật dân quân vẫn còn nguyên tại chỗ! Hầu như tất cả mọi người đều không làm được gì cả.

Chúng tôi bất lực. Chúng tôi không làm được gì ngoài việc chỉ cố tránh né để mái nhà hay bức tường vỡ khỏi rơi vào người.

Ngày 20 Tháng Tư 1975, tiền đồn cuối cùng ở Xuân Lộc bị phá vỡ. Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo và Sư Ðoàn 18 phải rút quân. Sài Gòn hầu như rối loạn hoàn toàn. Nhìn trước ngó sau chỉ thấy nhiều người tìm cách đi khỏi nước Việt Nam hơn là tìm cách chống trả giữ Sài Gòn.

Sài Gòn coi như đã mất. Thành phố như là một thành phố đang chết! Chỉ còn vấn đề thời gian. Một thời gian ngắn thôi.

Những ngày cuối của tôi ở thành phố Sài Gòn là như vậy. Ngày ngày nghe được những tin tức những người nào đã đi, những người nào sắp đi.

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Trong diễn văn gửi đến các nước ông Thiệu đã không hết lời trách móc “đồng minh” Hoa Kỳ. Trung Tướng Thiệu tuyên bố “...sẽ trở lại quân đội khoác áo nhà binh cùng các anh em chiến đấu...” Vài ngày sau thì được tin “người” đang ở Ðài Loan!

Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố đại khái là: “...nhất định ở lại Việt Nam ăn cà, tương, mắm...vì qua Mỹ ăn phó mát và uống sữa tươi sẽ đau bụng!” Vài ngày sau “người” cũng bay mất!

Tân Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Trung Tướng Vĩnh Lộc cho phát thanh một nhật lệnh đến toàn thể Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa hùng dũng kêu gọi “...mọi người hãy bỏ ý định chạy trốn như những đàn chuột nhắt...” Nhưng khi bài nói chuyện được phát thanh trên đài thì “người”đã ngồi ở trên một chiến hạm ngoài khơi trên đường ra ngoại quốc!

Mỗi ông “tuyên bố một câu xanh rờn.”

Toàn là những lời câu nói “để đời”!

Ðông phương đã dạy làm tướng thì phải biết cách tự xử khi mất thành. Tây phương cũng có viết làm thuyền trưởng khi tầu chim thì phải ở lại chìm theo tầu. Tôi không hy vọng những “người trên đây làm được như những Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ... là những vị tướng đáng kính phục tự xử khi mất nước. Nhưng phải chi những “người đó” cứ im lặng mà “đi” thì cũng chả có mấy ai cay đắng mỗi khi nghĩ đến chuyện những người ở lại hy sinh mạng sống hay nằm trong những trại cải tạo của Cộng Sản Việt Nam hằng bao năm trời.

Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, Tân Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.

Tôi may mắn thoát được lên chiến hạm Hải Quân Việt Nam HQ 1. Chỉ độ mười phút sau đó tầu rời bến Bạch Ðằng cùng cả những chiến hạm còn lại ở bến của Hạm đội Hải Quân Việt Nam sau khi binh sĩ Hải Quân chặt cầu vì không đủ chỗ cho hàng người đang đứng đợi lên tầu.

Thế là hết! Vĩnh biệt Sài Gòn! Vĩnh biệt Việt Nam!

Tầu Việt Nam đến Subic Bay ở Phi Luật Tân thì chúng tôi được chuyển ngay sang một tầu Hoa Kỳ rộng lớn hơn để đi đến đảo Guam.

Bước lên chiếc tầu Hoa Kỳ đầy người. Ðủ loại người. Dân sự có, quân sự có. Người nằm, kẻ đứng ngồi. Hỗn loạn. Tôi tìm đến một góc nhỏ để tránh né phiền phức - đây tôi thấy một người khá to lớn nằm trên một chiếc võng mắc vào những cái cột của tầu. Lại gần nhận ra đó là huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Tôi không ngờ gặp nhau trong hoàn cảnh này.

Tôi buồn nhớ lại những ngày xưa người anh từ chiến trường về thăm trường Quân Y với binh phục nhảy dù oai hùng. Bây giờ Tô Phạm Liệu vẫn mặc binh phục nhảy dù Việt Nam, nhưng bẩn và nhầu nát. Anh Liệu không giống anh Liệu những ngày trước khi anh trở về từ những chiến thắng nữa. Tô Phạm Liệu nằm trên võng, anh vẫn tỉnh giấc nhưng mắt nhắm như để quên đi những hình ảnh nào đó. Anh Liệu hình như muốn ngủ triền miên. Nhưng làm sao mà ngủ được? Rồi sau đó Tô Phạm Liệu cũng mở mắt ra. Anh kể lại những lúc cuối cùng.

Tô Phạm Liệu nói rất ít. Tôi cũng chả nói nhiều. Ðau khổ đã làm tê liệt con người.

Nhưng thật ra còn có gì khác để đáng nói đến nữa đâu?

Anh em nhìn nhau thẫn thờ! Bàng hoàng! Sững sờ! Giọt lệ nào đó hình như vòng quanh khóe mắt làm mờ mắt của cả hai chúng tôi!

Ngày hôm sau tôi trở lại chỗ cũ không thấy anh đâu cả.Chiếc võng cũng biến mất. Tôi để ý tìm mà không gặp.Tô Phạm Liệu chắc cũng chả muốn gặp lại ai nữa. Tôi cũng không muốn tìm thấy người quen nào nữa.

Những ngày đầu tiên đến đất Mỹ là những lúc vật lộn với cuộc đời mới cũng như các bạn bè khác trong giới Y khoa để tìm đường trở về nghề cũ. Và cũng như đa số bạn bè y khoa tôi cuối cùng cũng trở lại nghiệp Y.

Thỉnh thoảng tôi cũng được nghe đến anh Tô Phạm Liệu. Tôi được biết anh đã quay lại hành nghề ở một nhà thương điên (state hospital) nào đó ở Kansas. Tôi được biết anh uống rượu nhiều, rất nhiều. Tôi muốn nhưng chả bao giờ có dịp liên lạc.

Năm 1989, tôi đi dự cuộc họp Hội Y Sĩ Quốc Tế Việt Nam Tự Do ở một khách sạn lớn ở Little Saigon, California. Ðang đi vớ vẩn trong khách sạn thì có tiếng gọi tên. Tôi nhìn ra thấy huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Anh em gặp nhau mừng ứa nước mắt.

Anh dẫn tôi vào ngồi ở một quầy rượu. Anh uống rượu mạnh liên miên. Tô Phạm Liệu lần này nói chuyện nhiều hơn, nói khá nhiều. Có khi là người nói, có khi là “rượu nói.” Anh nhìn tôi và nói, và nhắc nhở đến Ðoàn Trung Bửu (Biệt Ðộng Quân, chết trên đường ra đơn vị 1975), Vũ Ðức Giang (Thủy Quân Lục Chiến, tự tử chết trong trại học tập 1976)... Ðó là những bạn cùng lớp Khóa 21 Quân Y của tôi, những đàn em của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Quân Y 19 năm trước của anh, đã hy sinh trong những ngày vừa qua.

Anh Tô Phạm Liệu bây giờ ốm hơn trước. Anh Liệu cho biết là anh đang bị bệnh đái đường (diabetes mellitus). Nhưng anh vẫn uống rượu liên miên. Anh cho biết “có lẽ” đã bị chứng đau thần kinh vì đái đường (diabeticneuropathy). Tô Phạm Liệu bảo những cơn đau rất gần nhau và khá nặng. Nhưng anh vẫn không uống thuốc giảm đau. Tôi hiểu anh muốn có đau thể xác đó để cho mất cái đau tinh thần.

Tô Phạm Liệu nói là cảm thấy lẻ loi ở cái Ðại Hội Y Sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và”ăn to nói lớn,” thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say anh nói là phải chi trước kia mười mấy năm trước anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.”

Tô Phạm Liệu chỉ thích uống rượu và “không muốn làm gì nữa cả.”

Tôi không uống được nhiều rượu nhưng cũng uống hai ba ly rượu để làm vừa lòng anh. Tôi chú ý nghe anh nói. Anh nói chuyện vẫn hay và hấp dẫn. Mười chín năm trước đó, khi anh đang huấn luyện tân sinh viên Quân Y, mỗi lần nghe anh nói chuyện tôi hầu như thấy anh nói đều có lý cả. Lúc này thì khác. Có nhiều chỗ tôi thấy anh nói đúng. Có nhiều lúc tôi nghĩ là anh nghĩ sai. Nhiều lúc là “rượu nói” chứ không phải anh nói nữa. Nhưng tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều.

Giữa tiệc rượu của hai anh em, sau 15 năm mới gặp gỡ, Tô Phạm Liệu làm tôi ngạc nhiên khi nói là muốn đọc thơ cho tôi nghe. Anh nói là anh chả có thích thơ và cũng chả nhớ bài thơ nào nhưng chỉ thích và nhớ một đoạn trong bài thơ “Nhớ Rừng” của Thế Lữ:

“...Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi dứng uống ánh trăng tan
Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới...”

Tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều hơn. Tôi vẫn kính trọng anh. Tôi vẫn thương mến anh như những ngày xưa, và cót hễ là hơn những ngày xưa nữa.

Nhưng vẫn có những điểm tôi không đồng ý với anh Liệu.

Lần gặp gỡ đó là lần sau cùng tôi gặp người anh lớn của khóa tân sinh viên sĩ quan Quân Y ngày nào của chúng tôi.

Sau này tôi được biết anh đã dọn về ở tiểu bang Lousiana và làm việc ở một nhà thương nào đó.

Và đến bây giờ huynh trưởng Tô Phạm Liệu đã vĩnh viễn ra đi.

Tờ cáo phó của tờ báo Người Việt trên tay tôi trở thành mờ nhạt:

“Vô cùng thương tiếc bạn chúng ta, Tô Phạm Liệu (1947-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù... đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 Tháng Chín năm 1997... Cầu Anh Linh bạn quên phiền hà, coi như trở lại Charlie...”

Tôi nhìn qua khung cửa sổ.

Xa xa trên bầu trời trong xanh, gần những đám mây trắng ở trên thật cao, hình như mờ ảo có một cánh dù nhỏ bé...

Anh trở lại tìm Nguyễn Ðình Bảo và những anh em nhảy dù khác, những đồng đội đã “ở lại Charlie.”

Tô Phạm Liệu: Người Trở Lại Charlie.

(Tháng Mười 1997, Santa Maria, California)
MatVit
Posts: 1315
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image

Biệt Đoàn Văn nghệ Trung Ương (Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị)
Dạ Lý

Gần suốt cuộc chiến chống Cộng Sản xâm lược, ngoài sự chiến đấu và hy sinh của bao chiến sĩ thuộc các Quân Binh Chủng, Lực Lượng Bán Quân Sự của Việt Nam Cộng Hoà, có một đơn vị cũng đã từng sát cánh, từng đi khắp tiền đồn trên 4 Vùng Chiến Thuật, từ miền hoả tuyến đến tận cùng của đất nước Việt Nam, mang lời ca tiếng hát, kịch nghệ đến với các đơn vị tiền tuyến hầu sưởi ấm, khích lệ phần nào tinh thần của các chiến sĩ ngày đêm băng mình vào lửa đạn, chấp nhận mọi hiểm nguy để giữ một hậu phương được những năm tháng dài yên ấm.

Trên những bước đường lưu diễn, đơn vị đó với danh xưng khiêm nhường của nó đã từng đến tận cầu Hiền Lương, trên dòng sông Bến Hải, thuộc vĩ tuyến 17 ngăn đôi 2 miền đã trở thành 2 đất nước thực thể, rồi từ cao nguyên đến vùng duyên hải, từ miền đông đến vùng châu thổ sông Cửu Long… đến những vùng mà các chiến sĩ VNCH trấn đóng, chiến đấu và gìn giữ. Thời đó, chỉ trừ đa số các đơn vị trong quân đội biết đến, nghe tới tên, kỳ dư lại là một đơn vị thầm lặng. Nhưng trong nhu cầu cần thiết để yểm trợ tiền tuyến phải đối phó với cuộc chiến chống xâm lăng từ phương Bắc do Cộng Sản phát động, đơn vị này được Quân Đội chú tâm nâng cao tầm vóc mà cả Quân và Dân đều biết. Đó là: Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương.

Cốt lõi của Biệt Đoàn này là từ Ban Văn Nghệ của Tiểu Đoàn 1 Chiến Tranh Tâm Lý trước đó. Thập niên 60, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thành lập thì đơn vị này được phát triển và cải danh là Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương để đảm nhận công tác quy mô hơn trong vai trò của những người chiến sĩ Tâm Lý Chiến để trải rộng địa bàn hoạt động đến khắp các tiền đồn, đơn vị; tổ chức văn nghệ trình diễn trong những cuộc liên hoan chiến thắng, khao quân khắp các vùng đất nước.
Công tác này từ đơn phương sau đến phối hợp với các vùng khi Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cho lập ra mỗi Vùng Chiến Thuật có 1 Tiểu Đoàn CTCT với các danh xưng Tiểu Đoán 10, 20, 30 và 40 CTCT. Riêng tại Biệt Khu Thủ Đô gồm Sài Gòn và Gia Định thì có Tiểu Đoàn 50 CTCT và đơn vị này trú đóng cùng doanh trại với Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương ở Sài Gòn. (cùng khu vực với Cục Tâm Lý Chiến, Đài Phát Thanh Quân Đội, Cục An Ninh Quân Đội).

Tưởng cũng cần nhắc lại là ngoài Biệt Đoàn Văn Nghệ trung Ương, còn có một Ban Văn Nghệ của Bảo An (sau này là Địa Phương Quân) hoạt động song song. Nhưng sau đó, vì để dễ dàng phối hợp trong công tác thống nhứt phục vụ mọi Quân Binh Chủng, nên Ban Văn Nghệ này được sát nhập vào Tiểu Đoàn 50 CTCT và cũng từ đó một đơn vị hình thành với danh xưng cũng được nhiều người biết đến là… Ban Văn Nghệ Hoa Tình Thương. (còn một số được tăng cường qua Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương).

Vị chỉ huy đầu tiên của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương là Đại Uý Lê Văn Tạo (sau này là Trung Tá Chánh Văn Phòng của Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia), kế tiếp là Đại Uý Ngô Cẩm Đại (sau này là Trung Tá thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh), rồi Nguyễn Đình Tân, Hoạ sĩ Tạ Tỵ, Phan Gia Lân và vị chỉ huy cuối cùng là Đại Uý Lê Bá Tân.

Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương được tổ chức rất quy mô, quy tụ được rất nhiều nghệ sĩ nổi danh thời đó gồm cả Quân Nhân cùng Dân Chính. Biệt Đoàn có nhiều bộ môn như Ca, Vũ, Nhạc, kịch, Cải Lương, Ảo Thuật, … với các nghệ sĩ như:

- Nhạc Sĩ: Anh Bằng, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Ngọc Chánh, Cao Phi Long, Y Vũ, Nguyễn Hữu Sáng, Sáo Thần Nguyễn Đình Nghĩa, Harmonica Tòng Sơn, …

- Ban Kích Động Nhạc Huỳnh Hoa: Huỳnh Hoa (thổi kèn), Huỳnh Hồng (đánh trống), Lê Tăng (đàn guitar) cùng các ca sĩ Kiều Loan, Bích Ly, Tony Hiếu.

- Ban AVT: Lữ Liên, Vân Sơn, Tuấn Đăng.

- Ban Tam Ca Sao Băng: Thanh Phong, Duy Mỹ, Phương Đại.

- Ban Tam Ca 3 Con Mèo: Mỹ Hoà, Kim Anh, Uyên Ly (Minh Xuân).

- Ban Tam Ca Đông Phương: Tuyết Hằng, Thu Hà, Hồng Vân.

- Ban Kịch và Hài Hước: Vũ Huyến, Thanh Việt, Phi Thoàn, Khả Năng, Thuý Liễu, Bích Huyền, Lệ Huyền, Ba Bé, Xuân Dung, Diễm Kiều, Duy Chức, Mỹ Chi…

- Ban Ảo Thuật: Lê Hảo Tâm, Mạc Can, Hoàng Biếu.

- Ban Vũ: Vũ sư Nguyễn Thống ( Ngọc Hương, Ngọc Hân, Kim Sang, Kim Chương, Kim Điệp, …

Vũ sư Trịnh Toàn ( Thu Thuỷ, Tuyết Hồng, Khánh Hồng, Mỹ Hoá, Thuỳ Linh, Kim Xuân, Kim Thu, Minh Phương, Kim Thư, …

Vũ sư Lưu Hồng…

- Ca sĩ Tân Nhạc: Duy Khánh, Elvis Phương, Tuyết Mai, Dạ Lý, Giao Linh, Phương Hồng Quế, Trang Kim Yến, Thiên Trang, Bích Thuỷ, Xuân Sơn, Trúc Ly, Kim Oanh, Hồng Chi, Phương Linh, Phương Bích Hằng, Kiều Lệ Xuân, Thanh Xuân, Hạnh Dung, Mỹ Dung, Giang Thanh, Trang Mỹ Dung, Lệ Minh, Thu Liễu…

- Ca Sĩ Cổ Nhạc: Thành Được, Thanh Sang, Minh Phụng, Tấn Tài, Hương Sắc, Hương Huyền, Kim Tuyến, Kiều Mỹ Loan, Hoài Thu…

- MC: Trần Quang, Ngọc Phu.

Sau những trận đánh kinh hồn đã ghi danh vào chiến sử như Hạ Lào, Dakto, Pleime, Cổ Thành Quảng Trị, Bình Long, An Lộc… Những buổi tiệc khao quân, gắn huy chương tưởng thưởng được tổ chức không thể nào vắng mặt những chiến sĩ Tâm Lý Chiến của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Vết chân những chiến sĩ này từng in dấu trên các tiền đồn từ Gio Linh, Đông Hà, Thạch Hãn cho đến Bạc Liêu, Năm Căn ở tận mủi Cà mau, qua đến Thiện Ngôn (Tây Ninh), Neakluong (Campuchia).

Không những chấp nhận gian nan nguy hiểm ở những nơi đạn bay súng nổ, lăn thân vào các hầm trú ẩn khi bị pháo kích, các nghệ sĩ Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương của QLVNCH còn đem chuông đi đánh xứ người tại Hội Chợ Osaka ở Nhật Bản, Hội Chợ Tháp Luông (Lào), trong các cuộc tiếp tân ngoại giao của các toà Đại Sứ VNCH ở Lào, Campuchia, Thái Lan…

Sau ngày Quốc hận 30 tháng Tư, anh chị em nghệ sĩ của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương bị lưu lạc tứ tán khắp nơi. Những nghệ sĩ quân đội còn ở lại trong nước đã bi tù tội, trù dập rất khốn cùng, như trường họp danh hài Khả Năng vượt biên bằng đường bộ đã chết mất xác ở Campuchia vì anh với anh Phi Thoàn có chương trình chống cộng ( Binh Méo Cai Tròn ) trên làn sóng đài phát thanh quân đội. Những người còn lại phải sống cuộc đời lưu vong như bao người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới. Người nghệ sĩ cao tuổi nhất là nhạc sĩ Lữ Liên, năm nay đã ngoài 90 tuổi, đang mang chứng bịnh mất trí nhớ và đang nằm viện dưỡng lão ở thành phố Garden Grove, California. Những chiến sĩ đã qua đời như Vân Sơn (AVT) Duy Mỹ (Sao Băng), Thanh Việt, Khả Năng, Phi Thoàn (Hài Hước), vũ sư Trịnh Toàn, vũ sư Nguyễn Thống, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, sáo thần Nguyễn Đình Nghĩa, ca sĩ Duy Khánh, kịch sĩ Ba Bé…

Giờ dù đa số tuổi đời đã cao, tóc đã ngã màu, đang ở mọi nơi, nhưng những nghệ sĩ Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương vẫn thường xuyên liên lạc với nhau để có những dịp họp mặt, quy tụ lại để thăm hỏi an ủi trong những dịp quan hôn tương tế qua hai chị em ca sĩ Dạ Lý và Kim Oanh.

Chúng tôi, những người Nghệ Sĩ Quân Đội, những chiến sĩ Tâm Lý Chiến xin kính lời thăm hỏi thân ái đến các anh chị em chiến sĩ VNCH mà chúng ta từng sát cánh bên nhau trong cuộc chiến chống Cộng Sản, hy sinh suốt tuổi thanh xuân trên tinh thần Hậu Phương – Tiền Tuyến, luôn gắn bó để gìn giữ màu cờ sắc áo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

Chúng tôi xin kính chúc quý anh chị em Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà luôn nhiều sức khoẻ với ước mong sớm có ngày quang phục quê hương, chúng ta sẽ trở về nhìn lại một Giang Sơn gấm vóc Việt Nam không Cộng Sản, để toàn dân được sống trong Tự Do, Dân Chủ và Thái Bình.

Dạ Lý
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests