Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Image

Địa Phương Quân và Nghĩa Quân QLVNCH

Long Ðiền

Mục đích:

Bài này viết để vinh danh những “Anh Hùng Vô Danh” Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân trong cuộc chiến 1954-1975, họ là những người chịu nhiều đau thương nhất, tổn thất cao nhất so với các binh chủng khác trong QLVNCH, đồng thời họ chịu nhiều sỉ nhục từ phía cộng sản.

Vì chính CSVN xem họ là kẻ thù nguy hiểm nhất qua 2 câu vè tuyên truyền của VC thời đó:

“Ngàn hai bắt được thì tha.
Chín trăm bắt được đem ra chặt đầu”

(1200 đồng là lương hàng tháng của quân dịch Chủ Lực Quân, 900 là lương của Dân Vệ/Nghĩa Quân) thực tế CSVN chỉ tuyên truyền vậy thôi, thời kỳ chiến tranh 1945-1975 chúng bắt được ai thì hầu hết đều bị thủ tiêu chớ làm gì có tha ai đâu.

*Giới thiệu sơ lược:

Ðịa Phương Quân, thời kỳ đầu được gọi là Bảo An Ðoàn, là lực lượng vũ trang địa phương của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.

Bảo An Ðoàn được thành lập năm 1955 trên cơ sở thống nhất các lực lượng Bảo Chính Ðoàn, Nghĩa Dũng Ðoàn, Việt Binh Ðoàn do Pháp bàn giao lại, thu nạp thêm một bộ phận các tín đồ Thiên Chúa giáo Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Trong thời gian từ năm 1955 đến 1964, lực lượng Bảo An Ðoàn trực thuộc Bộ Nội Vụ Việt Nam Cộng Hòa, làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự trị an ở từng địa phương.

Từ 1964, Bảo An Ðoàn được chuyển sang trực thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa và đổi tên thành Ðịa Phương Quân. Ðịa Phương Quân tổ chức thành các đại đội (khoảng 100 người). Trong thời gian từ 1968 đến 1972, lực lượng này phát triển mạnh từ 895 lên 1,823 đại đội, tương ứng với số quân 132,000 lên 301,000. Cuối 1972, một số đại đội Ðịa Phương Quân được gộp lại thành tiểu đoàn. Phần lớn các đồn lớn là của Ðịa Phương Quân do tiểu khu và chi khu điều khiển. Các đồn nhỏ do phân chi khu (xã), giao cho Nghĩa Quân phụ trách. Bộ Chỉ Huy quận hay còn gọi là chi khu thông thường do lực lượng Nghĩa Quân bảo vệ.

Chi khu trưởng và Ban Tham Mưu chi khu là những cấp chỉ huy xuất sắc của Chủ Lực Quân đưa sang nên họ đã huấn luyện, hướng dẫn các đơn vị ÐPQ/NQ những phương thức hữu hiệu để tiêu diệt cộng sản mà họ đã có được kinh nghiệm khi còn chỉ huy các đại đơn vị tinh nhuệ như Nhảy Dù, Biệt Ðộng, Thủy Quân Lục Chiến, v.v... Do đó có nhiều trung đội Nghĩa Quân đánh giặc hữu hiệu không thua gì các đơn vị chủ lực. Chính hai thành phần này mới là những người bám rễ giữ đất, chịu nhiều gian khổ và thương vong nhất trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ.

Phía cộng sản xem họ là kẻ thù nguy hiểm, nhưng báo chí Miền Nam Việt Nam thời đó cũng tỏ ra có nhiều ngộ nhận không ít về họ. Có báo thì cho là lính ma, lính kiểng, có báo thì cho là binh chủng lạc hậu và đặt tên là “con rùa chậm tiến” chỉ vì họ không được trang bị hiện đại bằng các binh chủng khác, luôn luôn được trang bị chậm và thiếu các loại vũ khí tối tân như M16, M79 phóng lựu và thông thường phương tiện di chuyển hay hành quân họ thảy đều dùng đôi chân của mình chớ không có phương tiện cơ hữu như quân xa, máy bay. Họ đánh giặc theo kiểu nhà nghèo. Lương thì ít ỏi không đủ sống, vì vậy đôi khi NQ còn được trợ cấp thực phẩm, có 2 câu thơ truyền miệng:

“Dân Vệ Ðoàn vì dân trừ bạo
Hai bao gạo một thùng dầu.”
(Chú thích: Gạo của Hoa Kỳ trợ cấp loại 10 ký/bao, dầu là loại dầu ăn hột cải 4 lít.)

Nhận định về người lính ÐPQ/NQ thuộc QLVNCH xin đơn cử một số nhận định sau đây:

1- Quân lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975 (bài của nhà nghiên cứu về Việt Nam Bill Laurie):

Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc Ðại Học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006.

Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm, song song với những ý kiến không quanh co che đậy về giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này dịch thuật nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày lại, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ.

Sử gia Bill Laurie đã có nhận định như sau về ÐPQ và NQ:

“Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Ðịa Phương Quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội.

“Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Ðịa Phương Quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến,... Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh.”

2- Bài “Xác Ðịnh Giá Trị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” của Tiến Sĩ Lewis Sorley (phần nói về ÐPQ/NQ)

Tiến Sĩ Lewis Sorley tốt nghiệp cử nhân năm 1956 tại U.S. Military Academy, West Point; M.A. năm 1963 tại University of Pennsylvania; M.P.A năm 1973 tại Pennsylvania State University; và tiến sĩ (PhD) năm 1979 tại Johns Hopkins University ông đã trình bày về những nhận xét ÐPQ/NQ như sau:

“Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là ‘Tôi đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xã. Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Ðó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc bình định.’

“Tháng Năm 1967, khi Ðại Tướng Abrams đến Việt Nam thì Quân Lực VNCH gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân. Ngoài ra còn có những lực lượng diện địa bao gồm Ðịa Phương Quân (ÐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) phụ trách an ninh lãnh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Ðịa Phương Quân còn Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phương của họ và thực hiện mục tiêu ‘càn quét và giữ đất’. Vào năm 1970 đã có 550,000 quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.

“ÐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết trình WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, ‘Ðiều tôi quan tâm nhất là vai trò của ÐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lãng. Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH trong khi đã lâu nay ÐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đã giáng cho quân địch nhiều đòn chí tử... Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh cho dân thì đây mới là phần việc lớn!’”

Cùng một lúc, ông nói rõ ràng về thành tích của các đơn vị này, “Tôi không biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không? Nếu có thêm nhân số thì tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa (ÐPQ/NQ) này có lợi hơn.”

Cuối năm 1969, khi nhìn biểu đồ tình hình trong ba tháng vừa qua ghi rõ ai đã đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đã nói: “Thật rõ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, v.v... thì QLVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Ðồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương và đã xẩy ra từ Tháng Tám vừa qua.”

Một người trong cử tọa nói lớn, “Ðó là tính chất của cuộc chiến!”

Tướng Abrams trả lời ngay, “Ðúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào? Như vậy hả? Vâng ta đã bắt đầu thấy kết quả”!

Ông Bill Colby cũng nhận xét rằng trong Tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương cũng bảo vệ được súng của mình. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn tình trạng năm năm trước đây.

Tướng Abrams nói thêm: “Các lực lượng địa phương, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một tình trạng đã được duy trì lâu nay là ÐPQ và NQ đã gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh.” “NQ đã lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh sĩ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”!

Các sĩ quan cao cấp Việt Nam cũng nhìn nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng:

“Các ÐPQ và NQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng và đã được các nhân vật bình luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng: “Họ là mũi nhọn trên chiến trường”!

Ưu điểm:

Sở trường của ÐPQ/NQ là đánh du kích, là triệt tiêu hạ tầng cơ sở địch, trong chiến dịch Phượng Hoàng họ là binh chủng cung cấp tin tức tình báo nhiều nhất, chính xác nhất, đồng thời cũng là đơn vị trực tiếp triển khai hành quân, thanh lọc, phục kích để tiêu diệt du kích Việt Cộng và lực lượng địa phương huyện, xã của địch. Vì sống gần dân (ÐPQ) trong dân (NQ) nên họ nhận được nhiều tin tức tình báo quý giá, những báo cáo về sự thâm nhập của quân CS vào trong xã ấp, những thói quen di chuyển của VC nên các cuộc đột kích, phục kích của ÐPQ/NQ rất dễ thành công.

- Trong thế phòng thủ đôi khi đối đầu với chủ lực CS, các chiến sĩ NQ/ÐPQ cũng đã đánh nhiều trận ngoạn mục bẻ gãy các cuộc tấn công bằng xe tăng có pháo binh yểm trợ của chủ lực CS Bắc Việt.

- Trong công tác Bình Ðịnh Phát Triển họ là thành phần xuất sắc góp phần trong các chính sách của Quốc Gia như rào ấp Chiến Lược, ấp Tân Sinh, Luật Người Cày Có Ruộng, v.v...

- Trong quốc sách Chiêu Hồi mà kết quả trên 200,000 cán binh VC về hồi chánh để trở về với đại gia đình dân tộc thì ÐPQ/NQ là có thành tích cao nhất trong việc kêu gọi cán binh VC trở về với chính nghĩa Quốc Gia.

- Trong công cuộc trường kỳ kháng chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ miền Nam chống lại sự xâm lăng ồ ạt của quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt cũng như sự phá rối trị an của du kích cộng sản còn gọi là Việt Cộng (VC). Lực lượng Diện Ðịa bao gồm Ðịa Phương Quân (ÐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) đảm nhận trọng trách lớn lao là bảo vệ làng, xã, thị xã, tỉnh lỵ, đô thị, trường học, cầu cống, quốc lộ, tỉnh lộ, trục lộ giao thông nông thôn, đường sắt, các công trình quan trọng (như đập thủy điện Ða Nhim, Nhà Ðèn Chợ Quán, v.v...)

Có bảo vệ an toàn nơi tuyến đầu là nông thôn thì chốn hậu phương thành thị mới yên ổn để phát triển và xây dựng, thất bại ở nông thôn là mất hậu cứ căn bản sẽ bị Cộng Sản bao vây và khủng bố. Chúng ta thử nghĩ hậu cứ của các đại đơn vị của QLVNCH tại thủ đô Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, v.v... sẽ ra sao nếu không có vành đai nông thôn do lực lượng ÐPQ/NQ bảo vệ an toàn bao bọc.

Ngoài ra hàng ngàn công trình xây dựng của Quốc Gia sẽ ra sao nếu không có sự bảo vệ ngày đêm của lực lượng diện địa ÐPQ/NQ để cho Chủ Lực Quân rảnh tay hành quân lưu động tảo trừ quân chính quy CS xâm nhập miền Nam. Nhưng thật bất công cho họ trước 1975 báo chí VNCH gần như quên lãng họ, báo chí hải ngoại sau 1975 cũng vậy, xem họ như con ghẻ, hay nhẹ hơn là xem họ như những đơn vị thứ yếu trong Quân Lực VNCH!!!

Hãy nghe lời nhận định của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Ðoàn 5 BB/ QLVNCH (lúc đó đang là đại tá trung đoàn trưởng TR.Ð 8/ SÐ5BB) trả lời phỏng vấn của Chuẩn Tướng Haig/ QÐ Hoa Kỳ ngày 24 tháng 1, 1970: “Ông giải thích sự sắp xếp này chỉ cho thấy cần yểm trợ thêm cho NQ/ÐPQ trong các cuộc hành quân của các đơn vị này vì hiện giờ pháo binh của QLVNCH phải yểm trợ cho các đơn vị chính quy và địa phương quân trong vùng hành quân của Trung Ðoàn 8...

...“Chỉnh đốn lại cấu trúc của tất cả các vị trí phòng thủ của NQ/ÐPQ theo tiêu chuẩn của SÐ 1 BB HK để loại bỏ mọi yếu điểm hiện có trong các vị trí này. Rất nhiều vị trí hiện hữu, lô cốt và công sự phòng thủ được thiết kế và xây cất một cách yếu kém và sẽ không chống nổi bất cứ một loại tấn kích nào.”

“Nhưng ông nói nếu NQ/ÐPQ không chu toàn được phận vụ bảo toàn an ninh cho các trung tâm đông dân cư, các đơn vị QLVNCH sẽ buộc phải rút về bảo toàn an ninh cho các vùng đó và rồi các đơn vị QLVNCH trở lui lại vị thế của năm 1966”...

“Cần có yểm trợ pháo binh trực tiếp cho NQ/ÐPQ.”

Nhiệm vụ của ÐPQ/NQ thật nặng nề đó là bảo vệ an ninh cho đồng bào sống an lành trong các thôn ấp, đồng thời bảo vệ các thành thị, tỉnh lỵ, quận lỵ, được an bình và chống lại những vụ pháo kích bừa bãi của Cộng Nô vào các vùng đông dân cư. Trong khi đó thì chủ trương của Cộng Sản Việt Nam là dùng nông thôn bao vây thành thị, phá hoại an ninh tại nông thôn bằng hàng trăm hình thức khủng bố, sát hại, thủ tiêu, bắt cóc, bắt thanh niên từ 14, 15 tuổi trở lên bổ sung cho lực lượng VC, cho các mật khu, du kích và chủ lực tỉnh, huyện. ÐPQ/NQ đã triệt hạ các ý đồ của Cộng Quân là làm cho nông thôn bị mất an ninh để đồng bào chạy về khu thành thị, để từ đó chúng dùng nông thôn bao vây thành thị trong chiến lược thôn tính Miền Nam theo chủ trương của quốc tế cộng sản.

Nhược điểm:

- Một khi đã chấp nhận nhiệm vụ diện địa thì phải có mặt thường xuyên trên địa bàn cố định, đồng thời phải liên tục tuần tiễu xa và gần để bảo vệ cứ điểm như đồn bót, chợ búa v.v... Lực lượng diện địa thường cố định quân số, ví du bảo vệ cầu trên quốc lộ thì từ cấp tiểu đội đến trung đội (từ 10 đến 30 quân nhân). Quân số ít thay đổi do đó dễ bị CS điều nghiên đem lực lượng mạnh gấp 3, 5 lần để tấn công. Quân dụng thiếu thốn, nhất là vật liệu để xây dựng hệ thống phóng thủ, hầm hố rất thiếu thốn so với chủ lực quân nên khó có thể cầm cự khi bị địch ồ ạt tấn công.

- ÐPQ/NQ sống trong quần chúng, nhận nhiều tin tức tình báo từ dân cư địa phương nhưng đồng thời cũng dễ bị rò rỉ thông tin cho cộng sản tấn công, dễ bị cài nội tuyến đánh úp đồn bót.

- Gánh nặng trách nhiệm, huấn thị phối hợp của Bộ Tổng Tham Mưu đã minh định rõ ràng là ÐPQ/NQ lực lượng bảo vệ lãnh thổ (cố định), nhưng lại được trang bị yếu kém so với Chủ Lực Quân.

Ðó là 3 yếu tố căn bản giải thích lý do tại sao lực lượng này chạm địch thường xuyên và chịu tổn thất gấp rưỡi hay gấp 2 lần so với Chủ Lực Quân (bao gồm các sư đoàn Bộ Binh và TQLC, Nhảy Dù, BÐQ cộng lại) theo bảng thống kê tổn thất sinh mạng hàng năm do Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đúc kết.

- Trong khi đó nhiệm vụ của Chủ Lực Quân là hành quân lưu động lùng và tiêu diệt chủ lực quân của CSVN, nhờ yếu tố di động thường xuyên nên họ ít bị địch tập trung tấn công hơn so với ÐPQ/NQ. Ngoài ra lực lượng Tổng Trừ Bị gồm các sư đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến thường hành quân lưu động với quân số từ cấp tiểu đoàn, trung đoàn trở lên, đây là các đai đơn vị tinh nhuệ, có hỏa lực không quân và pháo binh cơ hữu cũng như tăng phái yểm trợ tối đa khi lâm chiến nên CSVN thường tránh né các đại đơn vị này mà tìm cách đánh các đơn vị nhỏ của ÐPQ/NQ. Chứng tỏ trong cuộc chiến VN áp lực địch luôn đè nặng lên ÐPQ/NQ. Ngoài ra tấn công vào các vị trí như tỉnh lỵ, đô thị thì CSVN dễ dàng cướp đoạt tài sản dân chúng, chứ tấn công các đơn vị chủ lực thì vừa dễ bị thiệt hại và chẳng có tài sản gì để cướp ngoài vũ khí.

Những trận đánh chưa ai kể đến của ÐPQ/NQ trong cuộc chiến Việt Nam:

Có thể nói rất nhiều kể sao cho hết những chiến công hiển hách của anh em chiến sĩ ÐPQ/NQ trên toàn thể Miền Nam từ 1954-1975, tôi chỉ lược ra đây một số những chiến công của ÐPQ/NQ chưa hề được ai nhắc tới:

- Trần Văn Tựu một chiến sĩ Nghĩa Quân quận Long Ðiền, chức vụ trung đội trưởng, trước kia là một đại đội trưởng du kích huyện Long Ðất, nhưng sau khi trở về với chính nghĩa Quốc Gia, anh đã lập nhiều chiến công hiển hách. Từng hướng dẫn lực lượng Quận vào đột kích mật khu Tam Phước, Minh Ðạm như chỗ không người. Ðánh giặc đối với Tựu là một cái thích thú, không hề than van cực nhọc, được đi hành quân là vui, không thích nhiệm vụ canh gác. Tỉnh Ðội Bà Rịa, huyện đội Long Ðất từng bao lần treo giá anh Nghĩa Quân này còn cao hơn sĩ quan trong Chi Khu. Vì tất cả thói quen, đường đi nước bước của VC trong vùng anh thảy đều thuộc nằm lòng.

Trên đường đột kích mật khu Minh Ðạm năm 1965, xuất phát lúc nửa đêm, trung đội của anh nhận nhiệm vụ dẫn đường, lực lượng quận khoản 4 trung đội NQ theo sau. Anh là trung đội trưởng vừa là khinh binh đi đầu... Còn độ 500 thước nửa đến mật khu. Nhìn dấu chà chôm (chổi bằng cành cây trong rừng) vừa mới quét, anh biết ngay là sắp vào mật khu, ra lệnh cho anh em dừng lại để anh đích thân bò đi đầu tháo gỡ mìn bẫy. Anh đã áp sát và hạ thủ tên du kích canh gác dễ dàng không tiếng động, kế đó 1 tên vừa ra suối đánh răng cũng bị anh hạ thủ nhẹ nhàng. Ra thủ hiệu cho thuộc cấp bò theo, lần lượt mỗi anh NQ đứng kế bên mỗi chiếc võng của kẻ thù, bằng 1 thủ hiệu kế tiếp tiểu đội anh đã đồng loạt thanh toán gọn trên 10 tên VC còn đang ngủ trên võng bằng lưỡi lê mà không hề nổ 1 phát súng. Sau đó cắt người canh gác thay cho VC, lục soát các hầm trú ẩn, xong rồi mới báo cáo cho quận đem quân vào thanh toán phá hủy căn cứ địch.

Có đi bên cạnh anh thì mới biết khả năng tác chiến trong rừng của anh rất cao, đầy khôn khéo. Mỗi hành động đều có tính toán nhanh như sao xẹt, phản ứng rất nhanh và chính xác. Một lần đang đi cùng tiểu đội đi đến điểm phục kích đêm, anh vô tình đi ngang qua một cửa sổ có 1 tên du kích đang về thăm nhà, ngoài ra còn có 2, 3 đồng bọn canh gác ngoài xa. Tên du kích thoáng thấy dáng anh la lên hỏi: “Ai?” Anh bình tĩnh đi chậm lại, không quay đầu, không hấp tấp trả lời: “Mình đây mà!” rồi tiếp tục đi bình thường. Tên du kích mắc lừa tưởng đồng bọn, không nổ súng. Vừa qua khỏi vách nhà, anh xoay ngang trả lời bằng 1 tràng tiểu liên Thompson kết liễu tên VC trong nhà. Bởi vì nếu anh tỏ ra hấp tấp hay chạy thì tên này sẽ nổ súng trước anh và sẽ hạ anh dễ dàng.

Còn hàng trăm chuyện lớn, chuyện nhỏ của anh trong đời lính đẹp như ciné, lính trong quận thi nhau kể về anh như thế! Nhưng hễ có tài thì lại có tật, trong bất kỳ cuộc hành quân nào, dù cấp chỉ huy có ra lịnh, lục soát bi đông của anh cẩn thận đến đâu, hễ đi ngang qua xóm nhà dân thì anh chàng mua bidon rượu đế lúc nào không ai biết, rồi vừa đi vừa lén uống từ từ!

Một lần đi hành quân qua vùng An Ngãi, ta và địch chạm súng bất ngờ, địch khai hỏa trước làm cho ta bị thương 2 NQ, địch có cây cối bao che, bên ta trống trải nên đành nằm bẹp để chịu trận. Quân ta dàn hàng ngang chờ đợi vì địch đang có chướng ngại vật bao che, có gốc cây lớn làm điểm tựa, địch bắn sẻ chứ chưa dám xung phong vì hai bên ngang ngửa. Thình lình anh chàng Tựu nổi nóng vì nãy giờ phải mọp bên bờ ruộng, từ từ cởi súng, đạn ra để 1 bên chỉ đeo dây ba chạc đầy lựu đạn M26, không nói 1 lời, không xin phép cấp chỉ huy. Ðứng dậy vụt chạy cực nhanh thẳng vào vị trí địch, trong khi đồng đội thảy đều bất ngờ.

Anh ta chạy có kỹ thuật chữ chi hẳn hoi, hai tay 2 quả lựu đạn, còn cách khẩu thượng liên 10 mét, tông 2 quả lựu đạn xong rồi nằm chờ. Hai tiếng nổ long trời vừa nổ chưa hết khói là lúc anh ta phóng mình chạy vô lượm súng và thanh toán địch bằng chính AK của địch. Tới đó thì Trung Ðội còn lại mới giật mình mà xung phong theo anh. Trận đụng độ chớp nhoáng này ta hạ sát được 4 tên VC, số còn lại hoảng quá chạy hết. Anh chàng Tựu đứng lên cười ha hả làm cho chúng nó nín thở mà chạy, bỏ lại khẩu thượng liên và 2 khẩu AK. Diễn tả thì dài dòng mà diến tiến ngoài mặt trận thì nhanh như chớp mắt, không ai ngờ anh Tựu lại thanh toán địch nhanh đến như vậy!

Tức mình vì anh này làm càn không xin phép, sĩ quan Chi Khu kêu anh lại quở trách. Anh chàng trả lời tỉnh bơ: “Thiếu úy ơi, em đâu có ngu, em bỏ súng lại, chạy mình không vô tụi nó, chơi cho tụi nó 2 quả, lỡ thời tụi nó bắn giỏi thì cùng lắm là chết mình em, chúng nó đâu lấy được súng em đâu!” Rồi cười hề hề làm sao mà nổi nóng với anh chàng ba gai này được!

Một lần VC phát loa, gần bên hông dinh quận chừng trăm thước, có lẽ tiểu đội du kích bò vô, phát loa tuyên truyền chừng 5, 10 phút rồi sẽ bỏ chạy, trong quận thì chưa biết phản ứng ra sao vì VC đang nấp bên nhà dân, bắn ra thì sợ trúng dân, không bắn thì cũng kẹt. Anh chàng Tựu giơ tay tình nguyện: “Xin ông thầy cho em ra lấy cái loa, đừng bắn ra tui nó, coi chừng trúng em, em hứa bắt gọn lấy cái loa nộp ông thầy mà.”

Với cây tiểu liên bá xếp anh bò ra ngoài bằng cổng hậu rồi lần mò ra tới nơi tên phát loa, đứng dậy bắn 1 phát lấy cái loa chạy vô quận, tụi du kích còn lại bắn theo nhưng không kịp với con sóc nhanh nhẹn này. Diễn tiến chưa đầy 10 phút thì anh đã thanh toán xong mục tiêu! Với kích thước nhỏ con độ chừng 1m55 thôi nhưng anh chàng NQ gan dạ này làm cho bọn VC trong vùng kinh hồn táng đởm.

- Ở chi khu Ðất Ðỏ cũng có vài anh NQ gan cóc tía, y hệt anh Tựu. Anh này tên gì tôi quên rồi, chỉ còn nhớ sự việc như vầy:

Khoảng năm 1967, VC bao vây Chi Khu Ðất Ðỏ ngay giữa ban ngày, vòng vây chưa thắt lại gần, chúng đã xâm nhập vào 2 xã Phước Thạnh và Phước Hòa Long cách BCH Chi Khu độ 2 cây số đường chim bay. Chúng bắn cầm chừng nhưng lực lượng thâm nhập vô Quận lỵ rất đông, có lẽ để chờ đánh lực lượng tiếp viện của tỉnh. Quân số chúng độ khoản trung đoàn. Những toán quân tuần tiễu của ta đụng độ lẻ tẻ với địch nhưng phải rút về chi khu vì quân số địch quá đông.

Ðược tin tình báo của dân và vợ lính cho biết VC đang đóng quân nhiều nơi, trong đó có 1 chỗ đặt Bộ Chỉ Huy gần nhà dân, muốn phối kiểm tin tức để có thể sử dụng pháo binh đánh chính xác địa điểm vì sợ lầm nhà dân, ông chi khu trưởng đích thân tập hợp Trung Ðội NQ Thám Báo Chi Khu để tìm 1 người tình nguyện đi ra ngoài, vào tận nơi để xem xét tình hình. Cuộc đi này muôn vàn nguy hiểm vì vậy ông chi khu trưởng cần 1 người tình nguyện. Trong vòng 5 phút giải thích lý do, có đến 3 anh NQ tình nguyện! Anh chàng được chọn vì anh viện cớ có vợ chưa có con, có gì thì nhờ 2 bạn kia lo giùm vợ con.

Anh giả trang người đi cày vác cuốc, mặc áo bà ba, lận lựu đạn trong người. Lấy cớ đang cày bừa, nghe nổ súng nên chạy về nhà. Anh qua mặt du kích gác dễ dàng, xăm xăm đi vào vùng địch kiểm soát, đi về hướng BCH Trung đoàn địch với cây cuốc trên vai! Qua mấy xóm nhà dân, gần đến BCH thì địch khả nghi, hô đứng lại, anh vụt chạy thẳng vô căn nhà VC đóng BCH nên chúng chưa dám nổ súng sợ trúng cấp chỉ huy. Anh xông tới gần, ném 2 quả lựu đạn rồi chạy ra ngoài sau khi nổ xong, tiêu diệt trọn ổ BCH Việt Cộng. Sau đó anh chạy thoát được ra ngoài vì chúng hoảng loạn, mãi gần 4 giờ đồng hồ sau anh mới về đến được Chi Khu, hoàn thành nhiệm vụ tình báo!!! Nhờ tin tức chính xác, Chi Khu sau đó đã bắn pháo binh vào đúng tọa độ anh NQ này cho, đồng thời lợi dụng lúc địch đang bối rối vì BCH bị thiệt hại nặng, Chi Khu đã nhanh chóng điều động lực lượng ÐPQ phối hợp NQ giải tỏa vòng vây. Ðịch bỏ chạy, rút hết vì đã lộ kế hoạch.

- Ðồn Bờ Ðập thuộc xã Hội Mỹ, quận Ðất Ðỏ, do 1 trung đội thuộc Ðại Ðội 612 ÐPQ đảm trách, tối đi phục kích 2 tiểu đội, còn 1 tiểu đội ở nhà giữ đồn. Vợ lính cũng cắt gác 1 vọng vì thiếu quân số. Ðêm đó (khoảng năm 1967) VC sử dụng 1 tiểu đoàn chính quy, có súng phun lửa, DKZ, B40 cộng thêm dân công ước độ vài trăm người tấn công biển người với cái đồn nhỏ chỉ độ 10 người lính với 15 bà vợ lính, 2 tiểu đội đi phục kích bên ngoài cũng không về tiếp ứng được. Các bà vợ lính đã chiến đấu dũng cảm, con nít thì tiếp tế đạn, lựu đạn, họ đã cầm cự đến sáng Chi Khu mới đưa quân đến tiếp ứng kịp thời, sau đó thu gom xác VC chết chung quanh đồn gần 60 tên, mượn xe pulldozer ủi 1 cái hố chôn chung mấy tên “sinh Bắc tử Nam” này chung 1 hố có cấm bảng lớn ghi rõ ràng: “Mồ chôn Cộng Phỉ.”

Không hiểu sau 75, VC có đào đi cải táng không thì không rõ. Phần này chắc chúng không dám ghi vào quân sử vì tủi hổ quá 10 đánh 1, mà một lại thắng! Mấy bà vợ lính sau đó có được tỉnh tặng bằng khen, có truyền hình từ Sài Gòn đến quay phim làm lại trận giả, quay lại trận đánh để đời này, không rỏ chiếu được mấy lần!

Sau trận này có 1 chi tiết đứng tim. Ðó là khi trên tiểu khu đến nghiên cứu trận liệt có 2, 3 sĩ quan cấp tá đến xem xét, suýt chút nữa là to chuyện, vì có 1 tên VC quá sợ trốn trong bụi cây ôm khẩu AK, trời sáng bét mới giơ khẩu AK đứng lên đầu hàng, làm ai nấy một phen hú hồn vì nó mà còn can đảm quơ 1 băng AK chắc phải có 2, 3 sĩ quan chết vì tên này!

Lính NQ ở các quận nói chung rất gan dạ, chiến đấu trường kỳ không hề than van, họ có ưu điểm sống gần nhà, gần quê quán nên không dám làm gì sai quấy sợ bà con chê cười. Trong khi đó lực lượng chủ lực xa nhà, xa quê, nếu cấp chỉ huy không kiểm soát kỷ dễ có tình trạng kiêu binh làm mất lòng dân. Anh em ÐPQ/NQ rất sợ mất lòng dân nên họ giữ gìn kỷ luật rất giỏi. Ðây chỉ là nhận xét chung chung, không có ý so sánh với các binh chủng đàn anh. Bởi vì các trận đánh lớn binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, v.v... xứng đáng bậc đàn anh vang lừng trong quân sử còn NQ/ÐPQ chỉ sở trường những trận nhỏ không tên mà thôi.

- Trong trận chiến sau cùng tại Chi Khu Long Thành ngày 24 tháng 4 năm 1975, tôi đã mục kích những người lính Nghĩa Quân Long Thành, bắn cháy 4, 5 chiếc T-54 qua những màn xáp lá cà còn hay hơn phim ảnh Mỹ!!! Ai có dịp đi ngang quốc lộ 15 đoạn quận lỵ Long Thành sau ngày 30 tháng 4, 1975 chắc đã thấy 5, 7 xác T-54 của VC cháy còng queo trước quận lỵ Long Thành, đó là chiến công của Nghĩa Quân Long Thành đánh tăng T-54 bằng M.72 và M.79 chống tăng rất giỏi. Trung Tá Sáu, quận trưởng kiêm chi khu trưởng, đã đánh một trận khiến cho Cộng Quân nhớ đời.

Trung Tá Sáu trong trận đánh đã đi từng vị trí của NQ để động viên binh sĩ, đồng thời ông cầm nón sắt đi xin các binh sĩ nào còn lựu đạn để đính thân ông đem ra cổng chánh cho binh sĩ ném vào các chiến xa địch đang tràn vào. Một chiếc T54 bị đứt xích 1 bên vì trúng M72 quay vòng vòng trước cổng Chi Khu sau đó đã bị 1 chiến sĩ NQ phóng lên thảy 1 trái lựu đạn vào buồng lái kết thúc cuộc đời của “con cua” gãy càng này. Hành động can đảm này của anh NQ đã trả giá bằng chính bàn tay của anh, vì thế Trung Tá Sáu đã xin trực thăng tản thương anh chiến sĩ can trường này trong khi 2 bên còn đang đánh nhau dữ dội! Sau này nghe kể lại còn có 1 Trung Ðội NQ đồn trú trên Quốc lộ 15 gần quận lỵ Long Thành, hết ngày 2 tháng 5, trung đội NQ này vẫn kiên trì chống CS tới viên đạn cuối cùng, vừa bắn nhau vừa kéo chuông nhà thờ kêu gọi quyết tử!!!

Tổng kết:

ÐPQ/NQ là lực lượng “sinh sau đẻ muộn” của QLVNCH, có nhiều sở trường cũng như nhiều sở đoản, nhiệm vụ được giao thì nặng nề, nhưng trang bị, yểm trợ lại yếu kém do đó có nơi thì hoàn thành xuất sắc, có nơi thì chỉ trung bình. Tuy nhiên qua những điều vừa phân tích có nhiều bất công đối với họ, kể cả những bất công chung của QLVNCH bị nhóm truyền thông bất lương bôi bẩn có mục đích thương mại và chính trị, bị đồng minh xem thường và phản bội, vậy phải trả lại “Công Ðạo” cho họ. Họ là những anh hùng vô danh, không có ai cậy nhờ để phục hồi danh dự, nhưng họ cũng không xin xỏ và luôn ngẩng cao đầu mà đi vì xét cho cùng họ đã đóng góp xương máu của mình nhiều nhất cho quốc gia và dân tộc.

Vì tôi chỉ quanh quẩn trong vùng III Chiến Thuật nên chỉ mục kích những sự việc trong khu vực, nhưng chắc chắn còn nhiều, nhiều lắm những tấm gương can đảm, những trận đánh để đời của binh chủng khiêm nhường này. Người viết được biết trong các vùng chiến thuật, các tiểu khu, các chi khu còn rất nhiều đơn vị ÐPQ/NQ xuất sắc nhưng chưa được ai biết đến. Kính mong quý chiến hữu viết nhiều bài về các đơn vị ÐPQ/NQ anh hùng để mai sau lịch sử còn biết đến các đơn vị vô danh đã góp nhiều máu xương trong công cuộc bảo vệ Miền Nam Việt Nam trong suốt 20 năm trường chiến đấu gian khổ.

Trong thời điểm từ 1972 đến 1975, sự sai lầm về chiến lược trong việc sử dụng các sư đoàn Bộ Binh và các sư đoàn Tổng Trừ Bị vào nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ, thay vì sử dụng lực lượng ÐPQ/NQ là nỗ lực chánh trong phòng thủ diện địa để các sư đoàn Bộ Binh và các lực lượng tổng trừ bị Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến rảnh tay hoàn toàn lưu động 100% để tiếp ứng chiến trường bất cứ nơi nào cần. Khốn thay cuối năm 1974 và đầu năm 1975 chúng ta đã không còn lực lượng tổng trừ bị nào cả khi Cộng Sản dốc toàn lực tấn công!

Nhưng trận chiến 1975 chưa phải là trận chiến sau cùng. Những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và toàn dân Việt Nam kiêu hùng sẽ dành lại quyền tự quyết, lật đổ bạo quyền để xây dựng lại quê hương và bảo vệ biên cương trước mưu đồ xâm lược của kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc và thái độ hèn hạ dâng đất, dâng biển cho Tàu Cộng của bè lũ Cộng Sản Việt Gian.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Vai Trò Thông dịch viên Quân Đội VNCH với Đồng Minh
Đào Tiến Tứ

Cuộc chiến tranh VN là một cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử của nhân loại, Hoa kỳ đã viện trợ ồ ạt cho chính phủ VNCH cũng như gởi quân trực tiếp tham chiến, hoạch định và điều khiển các chiến lược chiến tranh. Tổng số kinh phí lên tới 686 tỷ Mỹ kim với khoảng 2,7 triệu người tham chiến trong các đơn vị của VNCH, Mỹ và Đồng Minh. Năm (5) nước Đồng Minh gởi quân sang VN tham chiến là Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Thái Lan và Phi luật Tân. Phía Hoa Kỳ đã có 58,220 người thiệt mạng, 305,000 người bị thương trong đó có 153,330 bị tàn phế vĩnh viễn. Quân Đồng Minh tử thương khoảng 6,000 người. QLVNCH có 316,000 người tử trận. Quân Cộng Sản có 800,000 chết, 300,000 người mất tích bị thương khoảng 600,000 người.

Lữ Đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ đến Đà Nẵng ngày 8 tháng 3/1965 là đơn vi bộ chiến của Mỹ đầu tiên tham chiến tại Nam VN. Vì nhu cầu của chiến trường, ngành Thông Dịch Viên (TDV) QLVNCH được thành lập với quân số khoảng 4,000 người. Các TDV đều là các thanh niên tình nguyện tuổi từ 18 đến 30, có học lực từ trung học đệ nhất cấp trở lên, tuy nhiên có một số (không nhỏ) TDV có bằng tú tài hay đại học, vì không muốn đi học các lớp sĩ quan, đã tham gia ngành TDV Quân Đội.
Image
Các ứng viên phải qua kỳ khám sức khỏe tổng quát do các bác sĩ quân y giám định, sau đó phải qua một cuộc thi Anh văn do Sĩ quan Việt Nam của Trương Sinh Ngữ Quân Đội và cố vấn Mỹ khảo hạch. Nếu thi đậu trên 80 điểm trở lên sẽ được mang cấp bậc và qui chế lương Trung sĩ Đồng Hóa tương đương với lương của 1 Chuẩn úy vì có bằng CC 1 Anh ngữ (phụ khoản chuyên môn 3). Sau đó các tân TDV được gởi sang trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung học căn bản quân sự 3 tuần (sau này 3 thán)g và về Trường Sinh Ngữ Quân Đội tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, Sài Gòn học Anh Văn các danh từ quân sự. Tùy theo khả năng Anh văn các TDV được chia vào các lớp Anh Ngữ khác nhau.

Mỗi khóa học Anh Văn kéo dài khoảng 3 tháng. Tháng 5 năm 1968 tôi tốt nghiệp khóa 5/68 TDV, khóa này có tới 144 TDV ra trường được bổ xung về các đơn vị Mỹ, Đồng Minh, các toán cố vấn Tỉnh, Quận, các sư đoàn của VNCH trên 4 Vùng Chiến Thuật. Trong thời gian này Trung tá Phan thông Tràng là Chỉ Huy Trưởng, Đại Úy Gẫm là Sĩ Quan An Ninh Trường Sinh Ngữ Quân Đội. Tùy theo số điểm thi ra trường các tân TDV theo thứ tự được chọn đơn vị mình thích.

Nhóm chúng tôi gồm 10 TDV chọn về Tiểu Đoàn 6 Tâm lý Chiến HK. Bộ chỉ huy trú đóng tại thành phố Biên Hòa. Vì không có Sĩ quan Liên lạc, do đó chúng tôi về trình diện Đại Đội Tổng Hành Dinh Quân Đoàn III tại Biên Hòa để làm thủ tục quân bạ và sổ lương, sau đó Mỹ cho xe đến đón về đơn vị. Các đơn vị lớn của Hoa Kỳ như TQLC, các sư đoàn Bộ binh, Nhảy dù, Phi Luật Tân Úc, Đại Hàn, Tân tây Lan, Thái, đều có các Phòng Liên lạc cho TDV, do các sĩ quan VN biệt phái điều hành.
Image
Riêng các TDV chọn về đặt quyền xử dụng của Quân Đoàn I,II,III,IV sẽ về trình diện các Bộ chỉ huy Quân Đoàn tại Đà Nẵng, Pleiku, Biên Hòa, Cần Thơ, sau đó sẽ được bổ nhiệm về các toán MACV tỉnh, các toán cố vấn của các Sư Đoàn QLVNCH.
Việt Nam Hóa Chiến Tranh (1968-1972) là chiến lược của Hoa Kỳ vào thời Tổng Thống Richard Nixson trong chiến tranh VN. Hoa Kỳ rút quân dần khỏi VN, gíúp VNCH xây dựng quân đội theo kiểu Mỹ với vũ khí tối tân và các cơ sở tiếp liệu chiến tranh mà quân đội Mỹ đã xử dụng. Hoa Kỳ giúp hỏa lực không quân tối đa cho QLVNCH trong các trận giao tranh với VC.
Image
Sau trận Mậu Thân 1968, quân VC bị thiệt hại nặng chưa phục hồi, đã hạn chế không mở những trận đánh lớn nhằm mục đích thúc đẩy việc rút quân của Mỹ, sự yên lặng của chiến trường đã tạo điều kiện dễ dàng cho Mỹ rút quân mà không gây ảnh hưởng xấu nào đối với dân chúng Hoa Kỳ. Ngày 31 tháng 8 năm 1969, 2 Lữ Đoàn của Sư Đoàn 9 Bộ binh là đơn vị Mỹ đầu tiên rời VN. Ngày 28 tháng 3 năm 1973, các đon vị Quân Cảnh và Quân Báo của MACV là những quân nhân Mỹ cuối cùng rời VN.

QLVNCH được trang bị hiện đại hơn tỏ ra tự tin và nắm quyền chủ động trên phần lớn chiến trường. Các lực lượng cơ động như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, TQLC thường xuyên mở những cuộc hành quân đánh phá các căn cứ, hệ thống tiếp vận của VC. Các lực lượng lãnh thổ làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh nội địa, bình định xây dựng nông thôn.

Cuối năm 1972 quân số của QLVNCH tăng gần 1.050.000 người. Các đơn vị chủ lực được bổ xung thêm quân số, sư đoàn bộ binh có 12 tiểu đoàn, một trung đoàn có 4 tiểu đoàn. Các trại Biệt kích Quân (CIDG) do Mỹ thành lập đóng cửa được chuyển thành 37 tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng VNCH.

Trong 3 năm, QLVNCH được trang bị thêm 700,000 súng tiểu liên M-16 hiện đại nhất của quân đội Mỹ, tăng thếm 1,300 khẩu pháo binh, 10,000 súng cối đủ loại, 30,000 súng phóng lựu M-79, 10,000 súng đại liên đủ loại. Thiết giáp tăng từ 1,037 năm 1968 lên tới 1879 chiếc năm 1972. Nhảy Dù và TQLC năm 1968 chỉ có 50 tiểu đoàn năm 1970 tăng lên tới 90 tiểu đoàn. Hải quân đến năm 1972 có 39,000 quân với 1,611 tàu đủ loại. Không Quân năm 1968 có 35,000 người, năm 1971 tăng lên tới 50,000 người với tổng cộng 1,500 phi cơ đủ loại chia thành 6 Sư Đoàn, 1 Phi đoàn Vận tải, 5 Phi đoàn Trực thăng, 3 Phi đoàn Khu trục, 1 Phi đoàn Phản lực.

Chương trình phát triển và bình định nông thôn được phát triển mạnh mẽ và tốt đẹp. Năm 1968 có 2,192 các cuộc hành quân càn quét, năm 1970 tăng lên 23,758 vụ. VNCH dần dần kiểm soát hầu hết lãnh thổ. Ngoài ra, Chương Trình Phượng Hoàng do CIA Mỹ tài trợ đã tiêu diệt một số lớn cán bộ VC nằm vùng và phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng của VC tại địa phương.

Sau đây là lịch trình rút quân của của quân đội HK và Đồng Minh khỏi Miền Nam Việt Nam kể từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 3 năm 1973:
Image
- Sư Đoàn 9 Bộ Binh HK (9th Infantry Division): Quân số 16,153 người, đến VN ngày 18 tháng 12 năm 1966, hành quân vùng Long thành, Biên Hòa ,Đồng Tâm, Mỹ Tho cùng với các đơn vị Người Nhái Navy SEAL của Hải Quân HK, TQLC VNCH và Sư Đoàn 7 VNCH tại các vùng sình lầy vùng III và IV Chiến Thuật. Trong trận chiến Tết Mậu Thân, Sư Đoàn 9 hành quân tảo thanh VC tại các vùng ven đô Sài Gòn, sau đó dời BCH Sư Đoàn về Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Ngày 27 tháng 8 năm 1969 hai Lữ đoàn 1 và 2 rời VN. Lữ đoàn 3, Sư đoàn 9 rời VN ngày 1 tháng 11 năm 1970.

- Lữ Đoàn 3, Sư Đoàn 82 Nhảy Dù HK (3rd Brigade 82nd Airborne Division) quân số 3,659 người, gồm 3 tiểu đoàn: 1/505, 2/505 và 1/508, đến Chu Lai, VN ngày 16 tháng 2 năm 1968 không vận bằng 133 máy bay C-141 và 6 C-130, rời VN ngày 11 tháng 12 năm 1969. Hành quân vùng Chu Lai, Huế chung với Sư đoàn 101 Nhảy Dù HK, di chuyển về vùng III Chiến Thuật tháng 9 năm 1968 để bảo vệ thành Phố Sài Gòn chống VC tấn công và pháo kích các vùng ven đô Sàigon.

- Đoàn Dân sự vụ Phi Luật Tân (1st Philippine Civic Action Group,Vietnam) đến VN ngày 14 tháng 9 năm 1966 rời VN ngày 13 tháng 12 năm 1969. Quân số gồm khoảng 4 tiểu đoàn: 1 tiểu đoàn Bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn Công binh và 1 tiểu đoàn Quân y, hoạt động vùng Tây Ninh, căn cứ chính tại Trảng Lớn, quận Thanh Điền.

- Sư Đoàn 1 Bộ Binh HK (1st Infantry Division) quân số 17,339 người, gồm 3 Lữ đoàn 1, 2 và 3 đến VN ngày 2 tháng 10 năm 1965, rời VN ngày 15 tháng 4 năm 1970. Bộ Chỉ Huy đóng tại Biên Hòa, Dĩ An, Lai Khê, hành quân vùng Chiến Khu D, Bình Long và Phước Long.

- Lữ Đoàn 199 Khinh Binh HK (199th Light Infantry Brigade) quân số 4,215 người gồm 4 tiểu đoàn: 2/3, 3/7, 4/12 và 5/12, đến VN ngày 10 tháng 12 năm 1966 rời VN ngày 11 tháng 10 năm 1970. Bộ Chỉ Huy đóng tại Long Bình. Hành quân vùng Biên Hòa, Gia Rai, Long Khánh. Trong trận đánh Tết Mậu Thân, ngày 31 tháng 1 năm 1969 tiểu đoàn 3/7 được trực thăng vận về Saigon tảo thanh VC vùng Chợ Lớn.
Image
- Sư Đoàn 25 Bộ Binh HK (25th Infantry Division) quân số 17,666 người gồm 3 lữ đoàn: 1,2 và 3, đến VN ngày 28 tháng 3 năm 1966, rời VN ngày 8 tháng 12 năm 1970. BCH Sư đoàn đóng tại Củ Chi tỉnh Hậu nghĩa, hành quân vùng Tây Ninh, Đức Hòa, Đức Huệ. Tháng 1 năm 1967 Sư Đoàn 25 tấn công vào Chiến Khu C và vùng Tam Giác Sắt của Quân Khu 4 VC tại tỉnh Tây Ninh. Tham dự các trận đánh chống VC trong trận Tết Mậu Thân và tháng 4 năm 1970 một số đơn vị của Sư đoàn 25 tấn công sang Cam Bốt tiêu diệt một số lớn căn cứ “hậu cần” của VC tại Miên.

- Sư Đoàn 4 Bộ Binh Mỹ (4th Infantry Division) quân số 19,042 người gồm 3 lữ đoàn 1,2 và 3 đến VN ngày 25 tháng 9 năm 1966 rời VN ngày 7 tháng 12 năm 1970. Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, hành quân vùng Pleiku, Kontum. Từ ngày 14 tháng 9 năm 1966 đến ngày 24 tháng 11 năm 1966. Một số đơn vị của Sư đoàn phối hợp với Sư đoàn 25 Bộ Binh HK hành quân tấn công vào Chiến khu C của VC, tại tỉnh Tây Ninh. Tháng 6 năm 1970 Sư đoàn 4 tấn công vào các căn cứ “hậu cần” của VC tại Miên gần vùng 3 biên giới Việt-Miên-Lào.

- Trung Đoàn 11 Kỵ Binh HK (11th Armored Calvary Reg) quân số 4331 người đến VN ngày 7 tháng 9 năm 1966, rời VN tháng 2/1971. BCH đóng tại căn cứ Long Giao, cách thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh khoảng 6 cây số. Tham dự các cuộc hành quân Cedar Falls tại vùng Tam Giác Sắt, Junction City, Quick Silver, Operatin Fargo tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Long. Trong trận đánh Tết Mậu Thân Lữ Đoàn 11 có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Long Bình và Bộ chỉ huy Quân Đoàn III tại Biên Hòa. Từ ngày 26 tháng 3 năm 1970 đến cuối tháng 6 năm 1970 Lữ Đoàn 11 phối hợp với các đơn vị của Sư đoàn 1 Không Kỵ HK tấn công sang thị trấn Snoul, Cam Bốt theo ngã Quốc lộ 13, Lộc Ninh, tỉnh Bình Long.
Image
- Thủy Quân Lục Chiến HK (III Marines Aphibious Forces) hoạt động vùng I Chiến Thuật VNCH gồm Sư Đoàn 3 TQLC, Sư Đoàn 1 TQLC và Không Đoàn 1, TQLC (1st Marines Aicraft Wing).

- Sư Đoàn 3 TQLC HK (3rd Marines Division) đến Đà Nẵng, VN ngày 6 tháng 5 năm 1965 rời VN ngày 30 tháng 11 năm 1969, là đơn vị bộ chiến HK đến VN đầu tiên gồm 3 trung đoàn 3,4 và 9. Tháng 10 năm 1967 BCH Sư Đoàn dời ra Đông Hà, Quảng Trị thành lập các căn cứ Carroll, Rockpine, Ca Lu, Khe Sanh. Sư đoàn 3 TQLC hành quân vùng giới tuyến, nhiều lần đụng độ với các đơn vị của Sư đoàn 320 và 324B của quân Bắc Việt. Ngày 14 tháng 11 năm 1967 Thiếu tướng Bruno Hochmuth, Tư lệnh Sư đoàn 3 TQLC, HK tử trận khi trực thăng của ông bị quân Bắc Việt bắn hạ gần Huế.
Image
- Sư Đoàn 1 TQLC HK (1st Marines Division) đến Chu Lai, Quảng Ngãi, VN ngày 23 tháng 2 năm 1966, rời VN ngày 14 tháng 4 năm 1971, gồm 3 lữ đoàn: 1, 5 và 7 cộng thêm Lữ đoàn 26 và 27 của Sư đoàn 5 TQLC. Tháng 6 năm 1966 Sư đoàn 1 TQLC di chuyển về Quảng Trị, từ tháng 10 năm 1966 đến tháng 7 năm 1967 Sư đoàn 1 TQLC đã tham dự 44 cuộc hành quân tại vùng Quảng Trị. Tết Mậu Thân Sư đoàn 1 TQLC tham dự các trân đánh với quân VC tại thị xã Huế. Tháng 4 năm 1971 Sư đoàn 1 rút về HK trú đóng tại Camp Pendleton, miền Nam California và sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Camp Pendleton đã mở cửa cung cấp lương thực, chỗ ở tạm trú cho một số đông đồng bào tỵ nạn VN di tản sang Mỹ.

- Lữ Đoàn 9 Xung Kích TQLC HK (9th Amphibious Marines Brigade). Lợi dụng một số lớn đơn vị chiến đấu của Mỹ đã rút quân khỏi VN và muốn đo lường sức mạnh của QLNVCH trong chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, ngày 30 tháng 3 năm 1972 quân BV đã tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công QLVNCH vùng Quảng Trị. Do đó lữ đoàn 9 TQLC, HK đang có mặt tại Đệ thất Hạm Đội Mỹ ngoài khơi VN được tái phối trí với quân số 5,200 người và 50 trực thăng chờ ngoài khơi nhưng chỉ có 893 TQLC Mỹ đã đổ bộ vào đất liền với nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho các tòa Đại Sứ và phòng vệ các phi trường lớn như Đà Nẵng, Nha trang Biên Hòa. Ngày 31 tháng 7 năm 1972 các đơn vị TQLC này rút quân trở về Đệ Thất Hạm Đội Mỹ.

- Lực Lượng I Dã Chiến (I Field Forces, Vietnam) đến VN ngày 15 tháng 3 năm 1966, rời VN ngày 30 tháng 4 năm 1971. Có nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị Mỹ và cố vấn các dơn vị VNCH tại quân Khu II. Bộ Chỉ Huy đóng tại Nha Trang gồm các đơn vị: Tiểu Đoàn 8 Tâm Lý Chiến, Pháo Đội 1 Pháo Binh, Tiểu Đoàn 54 Truyền Tin, Đại đội 41 Dân sự Vụ, Đại đội 272 Quân Cảnh, Đại đội 297 Quân Vận, Đại đội 55 Quân Báo.

- Lực Lượng II Dã Chiến HK (II Field Forces, Vietnam) đến VN ngày 15 tháng 3 năm 1966, rời VN ngày 2 tháng 5 năm 1971. Có nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị Mỹ và cố vấn các đơn vị VNCH tại Quân Khu III. Bộ Chỉ Huy đóng tại căn cứ Long Bình, Biên Hòa gồm các đơn vị: Pháo Đội II Pháo Binh, Tiểu Đoàn 6 Tâm Lý Chiến, Tiểu đoàn 53 Truyền Tin, Đại đội 552 Quân Cảnh, Đại đội 9 vận tải, Đại đội 219 Quân báo.
Image
- Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù, HK (173rd Airborne Brigade ) quân số 5,513 người đến VN ngày 7 tháng 5 năm 1965, rời VN ngày 25 tháng 8 năm 1971 gồm 4 tiểu đoàn: 1/503, 2/503, 3/503, 4/503 và tiểu đoàn 3/319 Pháo Binh. Từ tháng 5 năm 1965 đến tháng 10 năm 1967 hành quân tại vùng Biên Hòa, Bình Dương thuộc Quân Khu III trong các chiến dịch Junction City tại Chiến khu C và chiến dịch Attleboro. Tháng 11/67 di chuyển về Quân Khu II, hành quân vùng An Khê, Pleiku và tỉnh Bình Định.

- Lữ Đoàn 1, Sư Đoàn 5 Bộ Binh Cơ Giới HK (1st Brigade, 5th Infantry Division (Mecnanized ).Đến VN ngày 25 tháng 7/1968 rời VN ngày 27 tháng 8/1971 gồm; Tiểu đoàn 1/77 Xe tăng, Tiểu đoàn 1/11 Cơ giới, Tiểu đoàn 1/61 Cơ giới và Tiểu đoàn 5/4 Pháo binh 155 ly . Hoạt động vùng Khe Sanh, Đông Hà, Quảng Trị, tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tháng 1 năm 1971.
Image
- Liên Đoàn 4 Tâm lý Chiến HK (4th Psyops Group) đến VN ngày 01 tháng 12 năm 1967 rời VN ngày 01 tháng 10 năm 1971, gồm 4 tiểu đoàn: tiểu đoàn 6 TLC trú đóng tại thành phố Biên Hòa hoạt động tại vùng III Chiến Thuật. Tiểu đoàn 7 TLC, trú đóng tại Nha Trang hoạt động trong vùng II Chiến Thuật. Tiểu đoàn 8 TLC trú đóng tại Đà Nẵng, hoạt động tại vùng I Chiến Thuật. Tiểu đoàn 10 TLC trú đóng tại Cần Thơ hoạt động trong vùng IV Chiến Thuật. Liên đoàn 4 TLC có nhiệm vụ cung cấp các toán TLC cho các đơn vị Mỹ và Đồng Minh trên toàn 4 Vùng Chiến Thuật, phóng thanh Chiêu Hồi, rải truyền đơn bằng trực thăng, in các loại truyền đơn.

- Sư Đoàn 23 Bộ Binh HK (23rd Infantry, AMERICAL Division quân số 15,825 người gồm 3 Lữ đoàn: 11, 196 và 198. Đến VN ngày 25 tháng 9 năm 1967 rời VN ngày 29 tháng 11 năm 1971. Sư Đoàn AMERICAL hành quân vùng Quảng Nam và Quảng Ngãi, BCH trú đóng tại căn cứ Chu Lai.
Image
- Lực Lượng Đặc Biệt Quân Đội HK (U.S Army Special Forces) .Một số ít các Cố vấn LLĐB Mỹ đã có mặt tại VN từ 24 tháng 6 năm 1957 với mục đích huấn luyện các toán biệt kích VNCH tại Nha Trang và thành lập các trại Biệt Kích (Civilian Irregular Defense Group). Trại Biệt Kích Mỹ tại Ban Mê Thuộc là trại đầu tiên được thành lập trong năm 1961. Đã có 99 trại Biệt kích được thành lâp dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào nhằm mục đích thám sát, hành quân và tảo thanh các đơn vị Bắc Việt xâm nhập từ Bắc vào Nam theo ngã đường mòn HCM. Các trại Biệt kích do CIA và LLĐB Mỹ tổ chức và điều hành, tháng 10 năm 1964 chỉ có 951 lính LLĐB Mỹ và 19,000 lính CIDG địa phương tháng 10 năm 1969 số cố vấn Mỹ tăng 3581 người và khoảng 45.000 lính CIDG tổng số này bao gồm các lính CIDG tại các trại Biệt kích, các toán Thám sát cùa Quận, Tỉnh (Region Forces RF,PF và các tóan Xung kích Mobile Strike Forces). Đa số các lính CIDG địa phương đều là các sắc dân thiểu số như Bahna, Bru, Cham, Cua, Halang, Hre, Hroi, Jarai, Jeh, Katu, Khmer, Koho, Ma, Mèo, M'nong, Mường, Nùng, Raghei, Rengao, Rhade, Sedang, Steng và một số thanh niên VN. Các lính Biệt kích được CIA Mỹ trả lương, cung cấp ẩm thực, quân trang vũ khí tối tân hơn các đơn vị Bộ binh VNCH do đó khả năng chiến đấu của họ rất cao. Liên Đoàn 5 LLĐB HK đến VN ngày 1 tháng 10 năm 1964 rút quân khỏi VN ngày 3 tháng 11 năm 1971 và nắm quyền điều hành tổ chức các trại Biệt kích. Tháng 12 năm 1971 các trại Biệt kích đóng cửa chỉ giữ lại 39 căn cứ thành lập thành các Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng do Quân Lực VNCH điều hành.

- Quân Đội Thái Lan: Trung Đoàn Mãng Xà (Royal Thai Army Regiment-Queen's Cobras ) đến VN ngày 19 tháng 9 năm 1967 rời VN ngày 15 tháng 8 năm 1968 hoạt động vùng Long Bình, Biên Hòa. Sư Đoàn Hắc Báo (Royal Thai Army Expeditionary Division- Black Panthers) đến VN ngày 25 tháng 7 năm 1968 rời VN ngày 2 tháng 3 năm 1972 gồm 3 lữ đoàn Bộ binh, 4 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh và truyền tin. Bộ chỉ huy tại Saigon nhưng căn cứ chính tại Bearcat, Long Thành.
Image
- Sư Đoàn 101 Nhảy Dù HK (101st Airborne Division) quân số 15,222 người, đến VN ngày 19 tháng 07 năm 1965 rời VN ngày 10 tháng 3 năm 1972, gồm 3 lữ đoàn với các tiểu đoàn Bộ binh: 3/187, 1/327, 2/327, 1/501, 1/502, 2/502, 1/506, 2/506, 3/506 cộng thêm 7 tiểu đoàn pháo và 4 tiểu đoàn trực thăng. Lữ đoàn 1 đến VN tháng 7 năm 1965 hành quân vùng Phú Yên, Kontum. Lữ đoàn 2 và 3 đến VN tháng 12 năm 1967 hành quân vùng III Chiến Thuật. Tháng 3 năm 1968 toàn bộ Sư Đoàn 101 Nhảy Dù di chuyển về vùng I Chiến Thuật, hành quân vùng Huế và Quảng Trị. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tòan bộ các tiểu đoàn trực thăng của Sư Đoàn 101 yểm trợ tực thăng vận cho các đơn vị của Sư Đoàn Bộ Binh VNCH tấn công sang Lào.

- Quân Đoàn XXIV (XXIV Corps). BCH đóng tại Phú Bài (1968), sau 1970 dời về Đà Nẵng. đến VN ngày 15 tháng 8 năm 1968 rời VN ngày 30 tháng 6 năm 1972. Chỉ huy các đơn vị HK tại Vùng I Chiến Thuật. Các đơn vị trực thuộc gồm: Pháo đội XXIV, Tiểu đoàn 7 TLC, Biệt đội 204 Quân Báo, Đại đội 29 Dân Sự Vụ, Đại đội A, 504 Quân Cảnh, Đại đội 108 Vận chuyển, Đại đội 62 Không Hành.
Image
- Sư Đoàn 1 Không Kỵ HK (1st Calvary Division) quân số 18,336 người đến VN ngày 11 tháng 9 năm 1965, rời VN ngày 26 tháng 6 năm 1972, gồm 3 lữ đoàn 1,2 và 3 với các tiểu đoàn bộ binh không kỵ như; 1/5, 2/5, 1/7, 2/7, 5/7,1/8, 2/8, 1/12, 2/12 cộng với 3 tiểu đoàn trực thăng và 6 tiểu đoàn pháo binh. Sư đoàn 1 KK là đơn vị chiến đấu cơ động hành quân khắp 4 Vùng CT.Từ tháng 9 năm 1965 đến tháng 1 năm 1966, BCH của Sư đoàn 1 KK trú đóng tại căn cứ Radcliff, An Khê, Pleiku. Từ ngày 14 tháng 11 năm 1965 đến ngày 18 tháng 11 năm 1965, Tiểu đoàn 1/7 KK với quân số 450 người bị 2000 quân chính qui BV thuộc Sư đoàn 304, Quân Khu 3 VC tấn công dữ dội tại LZ X-Ray vùng Ia Drang, không xa với trại Biệt Kích Pleime, cách thành phố Pleiku khoảng 35 cây số. Đây là trận chiến đầu tiên giữa quân Mỹ và quân chính qui BV tại Nam Việt Nam. Từ tháng 2 năm 66 đến tháng 1 năm 1968 Sư đoàn 1 KK hành quân vùng tỉnh Bình Định, phối hợp với Lực Lượng Nam Hàn và QLVNCH chống lại Sư đoàn 610 VC tại vùng này. Tháng 1 năm 1968 toàn bộ Sư đoàn 1 KK dời về Quân Khu I tham chiến trận Tết Mậu Thân tại Huế.

Từ tháng 4 năm 1968 đến tháng 5 năm 1968 hành quân vùng Khe Sanh với các đơn vị TQLC Mỹ. Tháng 10 năm 1968 toàn bộ Sư đoàn 1 KK di chuyển về vùng III Chiến Thuật. BCH Sư đoàn đóng tại căn cứ Phước Vĩnh, tỉnh Bình Dương, hành quân các tỉnh Biên Hòa,Tây Ninh, Bình Long, Phước Long và Long Khánh. Ngoài ra một số đơn vị của Sư đoàn 1 KK tăng phái về vùng IV Chiên Thuật hành quân với các giang đoàn của Hải Quân HK trong các Chiến Dịch Thủy Không Vận (NAV-CAL Operations).

Tháng 5 năm 1970 Sư đoàn 1 KK tấn công các căn cứ của VC tại Miên qua ngả Lộc Ninh và Phước Long và vào sâu trong đất Miên khoảng 30 cây số. Ngày 26 tháng 4 năm 1971 Lữ đoàn 1 và 2 rút quân về nước. Chỉ còn Lữ đoàn 3 ở lại trong Chiến dịch Garry Owen. Lữ Đoàn 3 gồm có các tiểu đoàn 2/5,1/7, 2/8,1/12 cộng thêm tiểu đoàn 229 trực thăng và 2 tiểu đoàn Pháo Binh. BCH Lữ đoàn đóng tại Biên Hòa, tiếp tục hành quân tại Quân Khu III và rút về Mỹ ngày 26 tháng 6 năm 1972.
Image
- Quân Đội Tân Tây Lan (New Zealand "V" Forces) cấp số 3890 người khoàng 2 tiểu đoàn, đến VN ngày 21 tháng 7/1965, rời VN ngày 2 tháng 6/1972. Hành quân vùng Phước Tuy.

- Quân Đội Úc (Australia Army Forces, Vietnam): Tháng 5 năm 1962 chính Phủ Úc gởi 30 quân nhân Úc sang VN với nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện. Ngày 31 tháng 1 năm 1973 quân đội Úc hoàn toàn rút khỏi VN. Trong suốt hơn 10 năm tham chiến tại VN đã có gần 60,000 quân nhân Úc thay phiên phục vụ tại VN với khoảng 9 tiểu đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp cơ giới và nhiều đơn vị không, hải quân yểm trợ. Khác với quân đội Mỹ với sở trường yểm trợ phi pháo tối đa và tổ chức các cuộc hành quân lớn, quân đội Úc chuyên đánh du kích và phòng thủ, do đó số tổn thương ít hơn, chỉ có 521 quân nhân Úc tử trận, 3,128 bị thương và 6 mất tích. Quân Úc hành quân vùng Biên Hòa, Phước Tuy, căn cứ chính tại Núi Đất, tỉnh Phước Tuy còn Bộ Chỉ Huy chính tại Sài Gòn.

- Quân Đội Nam Hàn (Republic of Korean Force,Vietnam): đến VN ngày 29 tháng 9 năm 1965 rời VN ngày 17 tháng 3 năm 1973. Quân số khoảng 58,282 người, đã có 5,099 quân nhân Nam Hàn tử trận,11,232 bị thương, 4 mất tích. Quân Nam Hàn gồm các đơn vị:

- Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn (Republic of Korean Capital Division, Tigers): đến VN ngày 29 tháng 9/1965, rời VN ngày 10 tháng năm 1973, quân số gồm 1 trung đoàn không kỵ, 2 trung đoàn bộ binh 4 tiểu đoàn pháo binh. Hành quân vùng tỉnh Bình Định.
Image
-Sư đoàn Bạch Mã Đại Hàn (Republic of Korean 9th Infantry Division, White Horses) với 3 trung đoàn bộ binh (28,29,30 ) và 4 tiểu đoàn pháo binh, đến VN ngày 27 tháng 9 năm 1966 rời VN ngày 16 tháng 3 năm 1973.

- Lữ Đoàn Thanh Long TQLC Đại Hàn (Republic of Korean 2nd Marines Corps Brigade- Blue Dragons), đến VN ngày 19 tháng 19 năm 1965 rời VN tháng 2 năm 1972 với 4 tiểu đoàn bộ binh (1,2,3 và 5 ) và 1 tiểu đoàn pháo binh.

- Liên Đoàn 525 Quân Báo, HK (525th Millitary Intelligence Group), đến VN ngày 28 tháng 11/1965, rời VN ngày 3 tháng 3 năm 1973, gồm 8 Tiểu đoàn Quân báo: Tiểu đoàn 1 (1st MI Bn, Provisional), đến Đà nẵng từ 20 tháng 11 năm 1967 đến tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 (2nd MI Bn, Provisional) đến Nha trang từ ngày 1 tháng 12 năm 1967, rời tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 3 (3rd MI Bn, Provisional) đến Biên Hòa từ ngày 1 tháng 12 năm 1967 rời tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 4 (4th MI Bn, Provisional) đến Cần Thơ từ ngày 1 tháng 12 năm 1967 rời tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 5 (5th MI Bn, Provisional) đến Sai Gòn từ ngày 1 tháng 12 năm 1967, rời tháng 2 năm 1972, Tiểu đoàn 6 (6th MI Bn, Provisional) Tân Sơn Nhứt, đến Saigon từ ngày 1 tháng 12 năm 1967, rời 15 tháng 1 năm 1969, Tiểu đoàn 1 Không ảnh (1st MI Bn Air Reconnaissance Support) đến Saigon ngày 23 tháng 12 năm 1965, rời 19 tháng 4 năm 1971 và Tiểu đoàn 519 (519th MI Bn Consolidated) Saigon từ ngày 23 tháng 10/1965 đến ngày 3 tháng 3 năm 1973. Tiểu đoàn 519 điều hành các Trung Tâm Quân Báo Hỗn Hợp Việt- Mỹ(Combined Intelligence Center,Vietnam), Thẩm vấn Hỗn hợp (Combined Millitary Interrogation Center, Vietnam) Tài liệu (Combined Document Exploitation Center, Vietnam), Quân dụng (Combined Material Exploitation Center, Vietnam).



- Lữ Đoàn 1 Không Vận HK (1st Aviation Brigade), đến VN tháng 4 năm 1965. Liên Đoàn 12 Không Vận (12th Aviation Group) với 4 tiểu đoàn 13, 14, 52 và 145 đến VN. Vì nhu cầu của chiến trường Lữ đoàn 1 Không Vận HK được thành lập ngày 25 tháng 3 năm 1966 với quân số khoảng 23,000 người gồm 641 máy bay cánh quạt đủ loại, 441 trực thăng võ trang Cobra, 311 CH-47, 635 OH-6A, 2202 trực thăng UH-1. Lữ đoàn 1 Không vận có nhiệm vụ cung cấp tất cả phương tiện di chuyển, tiếp tế bằng máy bay và trực thăng cho các đơn vị Mỹ và Đồng Minh trên khắp chiến trường Miền Nam Vietnam. Từ năm 1965-1966 BCH đóng tại Phi trường Tân Sơn Nhất, từ năm 1967-1972, BCH dời ra căn cứ Long Bình sau đó 1973 di chuyển lại Tân Sơn Nhất. Lữ đoàn 1 Không Vận có 7 Liên đoàn Không Vận như sau: Liên đoàn 11(11th Aviation Group) với 3 tiểu đoàn 227,228 và 229 biệt phái cho Sư đoàn 1 Không Kỵ HK đến VN tháng 8 năm 1965 rời VN ngày 14 tháng 3 năm 1973. Liên đoàn 12 (12th Aviation Group) trú đóng tại Tân Sơn Nhất phục vụ vùng III và IV Chiến Thuật đến VN ngày 28 tháng 8 năm 1965, rời VN ngày 16 tháng 3 năm 1973. Liên đoàn 16 (16th Aviation Group) hoạt động tại vùng I Chiến Thuật trú đóng tại Đà Nẵng, đến VN ngày 20 tháng 12 năm 1967, rời VN ngày 13 tháng 11 năm 1971. Liên đoàn 17 (17th Aviation Group) trú đóng tại Tuy Hòa, Nha Trang hành quân vùng II Chiến Thuật đến VN ngày 15 tháng 12 năm 1965, rời VN ngày 16 tháng 3 năm 1973.

Liên đoàn 160 (160th Aviation Group) trú đóng tại Biên Hòa và Phú Bài, đến VN
ngày 1 tháng 7 năm 1968, biệt phái cho Sư đoàn 101 Nhảy Dù HK , ngày 25 tháng 6 năm 1969 Lữ đoàn 160 đổi tên thành Liên đoàn 101 (101st Aviation Group) hành quân tại Vùng I Chiến Thuật, rời VN ngày 18 tháng 1 năm 1972. Liên Đoàn 164 (164th Aviation Group) trú đóng tại Cần Thơ hành quân Vùng IV Chiến Thuật, đến VN ngày 20 tháng 12 năm 1967, rời VN ngày 14 tháng 3/1973. Liên Đoàn 165(165th Aviation Group) trú đóng tại căn cứ Long Bình đến VN ngày 17 tháng 2 năm 1969, rời VN ngày 30 tháng 1 năm 1972 hành quân vùng III Chiến Thuật.

- Lữ Đoàn 18 Quân cảnh HK (18th Military Police Brigade ), đến VN ngày 8 tháng 9 năm 1966, rời VN ngày 29 tháng 3 năm 1973, phục vụ khắp 4 vùng Chiến Thuật gồm các tiểu đòan Quân Cảnh: 8,16,89,92,93,95,97,504,716 và 720.
Image
- Phái Bộ Viện Trợ Quân Sự ( MACV Military Assitance Command, VN)
Ngày 17 tháng 9 năm 1950 Phái Bộ Phái Bộ Viện Trợ HK tại Đông Dương (MAGG, Indochina) đến VN ngày 31 tháng 10 năm 1955. Ngày 1 tháng 11 năm 1955 Cơ Quan Military Assitance Advisor Group,Vietnam (MAAG,VN) được thành lập để cố vấn huấn luyện QLVNCH. Ngày 6 tháng 2 năm 1962 Cơ quan MACV chính thức được thành lập và được coi như Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Hoa Kỳ tại VN. Cơ Quan MACV trực tiếp điều hành các đơn vị Mỹ và Đồng Minh, U.S Naval Forces, Vietnam, Seven U.S Air Forces, các toán cố vấn tại các đơn vị tác chiến VNCH, các toán cố vấn Tỉnh, Quận trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam, Chương Trình Bình Định Phát Triển Nông Thôn (CORDS, Civil Operation and Rural Development Supports) và các toán MACV-SOG (các toán này có nhiệm vụ rải các toán biệt kích tại Bắc Việt, Lào, Cam bốt, đường mòn HCM. Giải cứu các tù binh Mỹ và các phi công Mỹ bị rớt máy bay. Thiết lập các đài phát thanh phản tuyên truyền). Cơ quan MACV rời VN ngày 29 tháng 3 năm 1973.

Cuối tháng 3 năm 1973, các đơn vị HK hoàn toàn rút khỏi VN, cơ quan DAO (Defense Attáche Office) trực thuộc Tòa Đại sứ HK được thành lập thay thế cơ quan MACV điều hành bởi 50 quân nhân HK, 1200 nhân viên dân sự HK và khoảng 16,000 nhân viên dân chính người Việt Nam. Cơ quan DAO chỉ có những văn phòng chính tại Đà Nẵng, Huế, Pleiku, Qui Nhơn, Nha trang, Biên Hòa, Cần Thơ. Do đó nhu cầu của ngành Thông dịch viên Quân đội không còn cần nữa, các TDV được thuyên chuyển về các đơn vị của QLVNCH. Đợt đầu vào khoảng cuối năm 1970, một số đông TDV được thuyên chuyển về Hải Quân QLVNCH, đa số được thăng cấp Thượng sĩ giữ chức vụ quản kho, tiếp liệu. Lần lượt các TDV được chuyển ngành về các ngành như: Truyền tin, Quân y,Quân cụ, Quân báo, Pháo binh và một số theo học các khóa Sĩ quan Trừ Bị. Một số ít TDV được biệt phái ngoại ngạch về Bộ Giáo Dục dạy học, Nha quan thuế, Quốc Gia Hành Chánh, Phủ Thủ Tướng, Phủ Tổng Thống, Cơ Quan DAO… Số tử vong của TDV rất thấp so sánh với các ngành khác theo thống kê chỉ trên dưới 100 người.

Sau 30 tháng 4 năm 1975 một số ít TDV may mắn được di tản, vượt biên hay đoàn tụ gia đình theo diện ODP nhưng còn một số lớn HSQ TDV vẫn còn kẹt tại VN. Họ không may mắn được chính phủ HK chấp nhận di dân sang Mỹ như các cựu nhân viên dân chính của cơ sở Mỹ.

Đào Tiến Tứ (6th Psyop Bn.)

Lake Forest, California.
Jan 23, 2013
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Nhớ về đồng đội cũ

Bảo Tuấn
Tôi là một quân nhân hiện dịch. Tôi yêu quân đội và chọn quân đội làm binh nghiệp. Tôi gia nhập quân đội lúc tuổi đời còn rất trẻ. Tôi rời xa bạn bè, mái trường, thầy cô rất sớm nên học vấn chẳng bằng ai. Tôi là người hiếu động, thích không khí sôi động nơi chiến trường. Công việc an nhàn ở văn phòng, bộ tham mưu không thích hợp với tôi. Thuở còn bé, tôi thích xem phim chiến tranh. Ước ao khi lớn lên sẽ là một tướng lãnh anh hùng, điều khiển ba quân ngoài mặt trận. Thần tượng của tôi lúc ấy là Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, Hoàng đế Nã Phá Luân. Nã Phá Luân vốn là sĩ quan Pháo Binh lúc trẻ sau này trở thành một danh tướng làm rúng động cả trời Âu.

Giữa năm 1960, sau khi tốt nghiệp khóa Pháo Binh Trung Cấp ở trường Pháo Binh và Hỏa Tiễn Hoa Kỳ (Fort Sill- Oklahoma), một lần nữa tôi được thuyên chuyển ra miền Trung! Hầu hết người miền Nam như tôi rất ngại ra Trung, vì ở đó không tìm đâu ra ánh đèn màu ở các vũ trường hay các phòng trà ca nhạc về đêm. Tôi bất hạnh sinh ra trong một gia đình nghèo, thuộc loại “bần cố nông,” vả lại cũng không phải là một thanh niên ham vui, bay bướm, nên tôi bất cần các chuyện lặt vặt đó.

Vả lại tôi nghĩ đã là một quân nhân, nhất là một quân nhân hiện dịch như tôi, thì bổn phận chính là phục vụ cho quân đội, còn địa phương là vấn đề thứ yếu.

Tôi được điều động về đơn vị Pháo Dã Chiến, đồn trú nơi địa danh lịch sử, Cổ Thành Quảng Trị. Tôi nhấn mạnh đến từ “lịch sử,” vì nơi đó chúng ta và Cộng Sản đã đổ biết bao máu xương trong hai lần lấn chiếm và tái chiếm khiến Cỗ Thành Quảng Trị hoang tàn, không còn hình dạng như xưa, đầy rẫy hố bom, đạn! Và từ đó, địa danh Cỗ Thành Quảng Trị đã đi vào lịch sử. Nơi đó cũng là lịch sử của đời tôi, vì ngày thành hôn năm 1961, vợ chồng tôi thết đãi tiệc cưới cho các sĩ quan trong đơn vị, nơi câu lạc bộ sĩ quan cũng tại địa danh này.


Tôi sinh ra thuộc “cung” khổ cho nên những cuộc hành quân nào nguy hiểm và vất vả, tôi đều được chỉ định đảm trách. Thuở ấy tôi mới lập gia đình, bỏ vợ mới cưới đi hành quân hoài, để nàng ngủ một mình, sợ ma! Tội nghiệp đêm đêm nàng phải nhờ cháu bé con của sĩ quan trong cư xá qua nhà ngủ chung cho đỡ cô đơn! Ðôi lúc cũng bực, nhưng kỷ luật nghiêm minh của quân đội đã ấn định rõ “thi hành trước, khiếu nại sau.” Nhiều khi tôi cũng tự an ủi, mình được cấp chỉ huy tín nhiệm là một vinh dự được giao cho những công tác khó khăn, nhưng tội nghiệp cho các thuộc cấp của tôi, họ cũng khổ lây theo tôi.

Suốt cuộc đời binh nghiệp, trải dài hơn 20 năm chiến đấu không ngừng, tôi đã nhiều lần đối diện với cái chết. Cái chết đến đột ngột với các chiến binh ngoài mặt trận. Sự sống và sự chết chỉ cách nhau một tích tắc đồng hồ, may thì thoát, không may thì vĩnh viễn nằm xuống trở về với cát bụi!

Tôi xin lược kể ra đây vài trường hợp thoát chết mà tôi đã đối diện.


* * * *


Thoạt đầu, tôi được đề cử làm Pháo Ðội Trưởng một Pháo Ðội tác xạ đại bác 105 ly. Thời gian đó, Pháo Binh QLVNCH chưa phát triển. Mỗi Sư Ðoàn Bộ Binh có một Tiểu Ðoàn Pháo Binh đại bác 105 ly và một Tiểu Ðoàn Súng Cối 106 ly cơ hữu. Mỗi Pháo Ðội tác xạ 105 ly có 4 khẩu đại bác. Nhiệm vụ chiến thuật của Pháo Ðội tôi lúc ấy là yểm trợ trực tiếp cho Trung Ðoàn 3 Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Thời gian ấy Trung Ðoàn 3 BB đang hành quân tại thung lũng Ashau - Alưới. Thung lũng này nằm dưới chân dãy Trường Sơn sát biên giới Lào. Thung lũng này là con đường xâm nhập thuận tiện nhất của quân Cộng Sản từ Bắc vào Nam.

Pháo Ðội tôi được chia đôi: 2 khẩu đóng ở Ashau và 2 khẩu đóng ở Alưới. Khoảng cách giữa Ashau và Alưới quá xa, không yểm trợ hỗ tương được cho nhau, cho nên Bộ Tư Lệnh SÐ 1 thiết lập một căn cứ phụ, nhỏ hơn nằm ở giữa. Ðó là căn cứ Tà Bạt. Căn cứ này được yểm trợ bởi một khẩu pháo 25 pounder - loại pháo cỗ của Pháp để lại trước khi rút về nước. Như thế cả ba căn cứ đều có pháo binh hiện diện, có thể yểm trợ hỗ tương lẫn nhau.

Hè năm 1962, thời tiết thuận tiện, ít mưa và ít sương mù nên BTL Sư Ðoàn mở cuộc hành quân ở vùng Cokawa. Ðịa danh này nằm ở Bắc Alưới. Vì Trung Ðoàn 3 BB án ngữ tại thung lũng Ashau - Alưới nên địch không hoạt động được, đành phải rút lên Cokawa để thiết lập mật khu.

Trung Ðoàn 3 BB đảm nhiệm hành quân càn quét mật khu này và di chuyển toàn bộ BCH lên sát vùng hành quân để dễ chỉ huy. Tại căn cứ Ashau lúc bấy giờ tôi là người có cấp bậc cao nhất, dù là pháo thủ, tôi cũng bị Ðại Tá Ðỗ Cao Trí lúc bấy giờ là Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng căn cứ! Dưới quyền tôi lúc bấy giờ ngoài quân số của bán Pháo Ðội tác xạ còn có quân số của 1 Ðại Ðội Trọng Pháo Trung Ðoàn 3 BB, 1 Trung Ðội Bộ Binh phụ trách canh gác và giữ an ninh phi trường, 1 Tiểu Ðội Bộ Binh hàng ngày hoạt động bên ngoài để phát hiện sự hiện diện của địch. Tình hình tổng quát tại Ashau lúc ấy cũng không căng thẳng lắm, chỉ có hoạt động du kích lẻ tẻ. Thỉnh thoảng, BTL/ SÐ biệt phái cho tôi một phi cơ L.19 để sử dụng bay quan sát khu vực chung quanh căn cứ để phát hiện hoạt động địch.

Vào những dịp thuận tiện, tôi cũng đi thăm các anh em pháo thủ bên Alưới và Tà Bạt, kiểm soát huấn luyện và trao dồi kỹ thuật. Một hôm tôi theo chuyến bay tiếp tế Caribou - loại phi cơ có khả năng đáp và cất cánh trên phi đạo ngắn - để thanh tra anh em bên căn cứ Tà Bạt.

Tà Bạt cách Ashau trong tầm pháo 105 ly, chừng 5 phút bay. Khi đến vùng trời Tà Bạt, phi cơ lượn vài vòng để xem hướng gió. Trong khi phi công cho hạ thấp cao độ chuẩn bị đáp thì một chú du kích hay thượng cộng nào đó tác xạ một phát vu vơ nhắm vào phi cơ. Hậu quả của phát đạn đó lại gây một tai họa. Thay vì phi công giảm bớt tốc độ và cao độ, điều khiển phi cơ đáp từ đầu phi đạo, phi công lại liều lĩnh đáp ở giữa phi đạo! Vì lẽ căn cứ nhỏ, phi đạo ngắn, Caribou không làm sao dừng lại ở cuối phi đạo được. Kết quả phi cơ đâm thẳng vào mép rừng cuối phi đạo, bốc cháy! Phi công trưởng và phụ tử nạn.

Tôi với tính cẩn thận khi lên phi cơ đã gài nịt an toàn, chỉ bị shock trặc xương sống và sây sát hai tay, kịp thoát ra ngoài, vô sự!

Lần thứ hai gặp nạn cũng trên một chuyến bay hành quân. Ðầu Xuân 1971, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh vào Hạ Lào, Trung Ðoàn 1 và Trung Ðoàn 3/ SÐ1BB được lệnh tấn công song hành.
Trung Ðoàn 1 BB thiết lập căn cứ Hỏa Lực Alpha cách biên giới Lào khoảng 20 cây số và Trung Ðoàn 3 BB thiết lập căn cứ hỏa lực Delta xa hơn, nằm giữa Tchepone và Khe Sanh. Mục tiêu của Sư Ðoàn là sử dụng các đơn vị cơ hữu luân phiên (alternate) tiến công chiếm cho được Tchepone là mục tiêu tối hậu.

Những ngày đầu của cuộc hành quân, địch chưa tập trung kịp nên lực lượng ta đã phá vỡ nhiều căn cứ hậu cần và ống dẫn dầu của địch, thu nhiều chiến lợi phẩm.
Sau đó thì Tiểu Ðoàn 2/3 Sư Ðoàn 1 BB do Thiếu Tá Hoàng Mão chỉ huy chạm địch nặng, gần như bị bao vây, đạn dược gần hết! Xin cần nói thêm là trong cuộc hành quân này, lực lượng bộ chiến Hoa Kỳ không tham dự, cũng không có cố vấn Mỹ đi theo do lệnh cấm của Ngũ Giác Ðài. Mỹ chỉ yểm trợ trên không như tiếp tế, tản thương, trực thăng vận, yểm trợ tiếp cận với những phi vụ từ Ðệ Thất Hạm Ðội và phi vụ chiến lược B.52 theo yêu cầu.

Hôm đó tôi bay trên trực thăng chỉ huy C+C (Command and Control) với Ðại Tá Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 3 BB, tìm cách cứu TÐ 2/3 ra khỏi vùng hành quân. Phi công trực thăng là Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn Trực Thăng Hoa Kỳ.

Ðến khu vực TÐ 2/3 BB, chúng tôi yêu cầu ở dưới đánh dấu vị trí. Khói màu vàng được nhận thấy từ trực thăng của chúng tôi. Phi công trưởng dọ dẫm thăm dò cho hạ thấp cao độ, lướt nhẹ trên vị trí khói vàng. Trên trực thăng nhìn xuống, tôi thấy nhiều quả đạn súng cối nổ gần vị trí đánh dấu đồng thời một loạt AK cũng bắn theo trực thăng. Tôi nghe rõ tiếng đạn lướt qua ngang đầu và phi công điều khiển trực thăng vọt nhanh lên cao, lấy lại cao độ. Rồi thì đèn báo động đỏ trên trực thăng chớp liên hồi, báo hiệu hệ thống cánh quạt bị trúng đạn, trực thăng sắp rớt.

Phi công khẩn cấp rời vùng hành quân, đồng thời báo cáo về Khe Sanh. Nơi đây liền gửi toán tiếp cứu (rescue) thuộc Ðại Ðội Hắc Báo với thang dây, kẹp theo sát chúng tôi. Còn ở bên này biên giới Lào, trực thăng phải đáp khẩn cấp bất chấp hiểm nguy! Rồi một trực thăng khác đến kịp thời, thay thế chiếc hỏng. Chúng tôi lại tiếp tục bay, tìm cách để trực thăng vận cứu nguy cho TÐ 2/3 BB. Cuối cùng thì TÐ 2/3 BB dưới tài chỉ huy xuất sắc của Thiếu Tá Hoàng Mão cũng thoát được vòng vây, di chuyển bộ về căn cứ hỏa lực Delta. Ông ta là niên đệ cùng trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt (khóa 20?) với tôi.

Trên đây là hai lần tôi may mắn thoát chết, thoát trong đường tơ kẽ tóc. Và trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, tôi cũng chứng kiến những cái chết đau lòng của anh em thuộc cấp, những người không may mắn như tôi, đã vĩnh viễn nằm xuống vì chính nghĩa Quốc Gia. Tôi xin kể lại dưới đây những trường hợp mà tôi còn nhớ rõ.
* * * * *

Ba Lòng là một quận lỵ nằm trong thung lũng dưới chân dãy Trường Sơn. Ðất phì nhiêu dân cư thưa thớt, nhưng Ba Lòng là một vị trí chiến lược. Nếu không chiếm giữ Ba Lòng, thì từ đây địch sẽ thiết lập căn cứ địa, gây bất ổn cho Quảng Trị và Ðông Hà. Vì là một vùng xa xôi, hiểm trở, nên có thời các chiến sĩ Ðại Việt đã thiết lập chiến khu nơi này để chống lại chính quyền Ngô Ðình Diệm.

Trước đó, quận lỵ Ba Lòng đã hai lần bị địch tràn ngập và cả hai lần Pháo Ðội tôi được trực thăng vận vào yểm trợ cho lực lượng giải tỏa. Vì không có đường giao thông và thuở ấy chưa có trực thăng Chinook - loại trực thăng khổng lồ có khả năng câu được cả đại bác 155 ly - nên trực thăng vận Pháo Binh lúc ấy rất nhiêu khê phiền phức! Một khẩu pháo được tháo rời thành 5 bộ phận: nòng, liên hệ đàn hồi, giàn súng (gun assembly), 2 bánh, 2 càng. Từng bộ phận được câu bằng trực thăng “quả chuối” H.21, đến vị trí hành quân mới ráp lại.

Ba Lòng nằm ở vị trí không tiếp viện bằng đường bộ được, ngoài tầm yểm trợ pháo binh nên BTL/SÐ quyết định thiết lập một căn cứ quân sự tại đây. Lúc ấy thì dân chúng không còn một ai, một số thì về Quảng Trị, một số thì về Cam Lộ, Ðông Hà sinh sống.

Căn cứ được thiết lập theo hình tam giác để dễ yểm trợ lẫn nhau. Pháo Ðội của tôi được tách ra hai khẩu yểm trợ cho một Tiểu Ðoàn BB trong thời gian thiết lập căn cứ.

Thiếu Úy Nguyễn Văn Tố, Khóa 8 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, chỉ huy hai khẩu trên. Thời gian đó không có chức vụ Trung Ðội Trưởng. Trường hợp Pháo Ðội chia đôi như vậy, thì Pháo Ðội Trưởng chỉ huy hai khẩu và Sĩ Quan Tác Xạ phụ trách hai khẩu. Vì là một vị trí “yết hầu” gây trở ngại, ngăn cản địch, không cho địch mở rộng hoạt động xuống đồng bằng Quảng Trị và Ðông Hà nên địch quyết định nhổ cái gai ấy với bất cứ giá nào.

Căn cứ được thiết lập gần xong thì địch mở cuộc tấn công, một cuộc tấn công được thiết kế và phối hợp rất tỉ mỉ. Ðịch dùng một bộ phận tấn công cầm chân Ðại Ðội tiền đồn cách căn cứ khoảng một cây số, không cho tiếp viện, một bộ phận khác tấn công quấy rối vị trí Pháo Ðội 155 ly đóng ở vị trí hành quân Bao Căng để bịt pháo. Lực lượng tấn công chính vào Ba Lòng là lực lượng đặc công tinh nhuệ.


Mặc dù chung quanh căn cứ có rào mìn phòng thủ nhưng địch điều nghiên, biết rõ cách thức đặt mìn của Công Binh. Thông thường giữa các dãy mìn đều có khe hở (gap) ở mỗi góc cạnh. Ðịch cho đặc công điều nghiên kỹ cách bố trí phòng thủ vào những đêm trước cuộc tấn công. Vào thời điểm tấn công, lợi dụng sương mù và đêm tối vùng rừng núi ban đêm, chúng cho toán đặc công kinh nghiệm bò sát, len lỏi vào khe hở (gap) bãi mìn, tên đi trước kéo theo một băng vải trắng đánh dấu lối xâm nhập, các tên đi sau cứ lần mò hàng một theo tên đi trước. Ðến khi toán đầu xâm nhập vào được căn cứ thì chúng dùng lựu đạn và bộc phá, hiệu quả hơn là vũ khí cá nhân.

Khi lính gác phát hiện được một số địch đã lọt vào căn cứ, Thiếu Úy Tố liền rời Ðài Tác Xạ, chạy từ khẩu đội này đến khẩu đội kia thúc đẩy các khẩu đội tác xạ cận phòng với yếu tố nạp 1, thỏi nổ 1.5 giây. Vì trách nhiệm và quá hăng say với nhiệm vụ, không ngại hiểm nguy, Thiếu Úy Tố bị một tên đặc công sát hại trên bờ giao thông hào!

Gần sáng, không thắng được, địch rút lui, để lại một số chết trong căn cứ, một số trong bãi mìn, chết hàng một vì đạn đại liên bắn xâu táo, và nhiều vết máu với băng cứu thương vì đạn pháo binh cận phòng.

Sáng hôm đó tôi theo trực thăng tản thương, đem một số nhân viên lên để chấn chỉnh lại Trung Ðội. Nhân viên tác xạ khiêng xác Thiếu úy Tố trên cáng tản thương ra trực thăng để chuyển về hậu cứ ở La Vang. Tôi ra dấu anh em dừng lại, ngậm ngùi nhìn thân xác lạnh của anh, trìu mến vuốt má anh lần cuối.

Phải chi anh ở trong đài tác xạ lúc bị tấn công thì anh đã không chết!

Ba hôm sau tôi trở về Huế dự lễ truy thăng cho anh. Ðám tang nào mà không có nước mắt? Ngoài nước mắt sụt sùi của người vợ trẻ, tôi cảm thương cho đứa con gái của anh. Mặt cháu bé kháu khỉnh, đôi mắt tròn, đầu đội khăn tang, ngơ ngác vì số người đông đúc trong lễ truy thăng. Cháu sinh ra hơn tuần thì Tố theo Trung Ðội lên Ba Lòng. Chắc Tố cũng không có dịp hôn con nhiều trước khi xa con.

Ôi chiến tranh! Chiến tranh đã cướp đi biết bao thanh niên ưu tú, đã biến biết bao người đàn bà thành quả phụ và bao trẻ thơ bỗng dưng mồ côi cha! Tôi không nén được xúc động quay mặt đi chỗ khác, nước mắt lưng tròng trong lúc thượng cấp làm lễ truy thăng Trung Úy cho anh.

* * * *

Căn cứ Gio Linh nằm trên đồi cao so với địa thế chung quanh. Trên đài quan sát Gio Linh, bằng ống nhòm ta cũng nhìn thấy rõ Cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải. Về phía Tây là đồi Cồn Thiên nằm ở phía bắc quân lỵ Cam Lộ. Trên đỉnh đồi này cũng có đài quan sát pháo binh để theo dõi địch bên kia sông Bến Hải. Nơi đây cũng xảy ra những trận chiến đẫm máu giữa Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và quân Cộng Sản sau này.

Thiếu Úy Nguyễn Văn Hòe thuộc Khóa 7 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức thuyên chuyển về Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh và làm Sĩ Quan Tác Xạ cho Pháo Ðội tôi. Ðược một thời gian thì tôi được thăng cấp Ðại Úy sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963, sau hơn 7 năm ở cấp bậc Trung Úy thực thụ. Và cũng từ ngày ấy, tôi rời chức vụ Pháo Ðội Trưởng để giữ chức vụ cao hơn.

Không ai biết rõ lai lịch của anh Hòe. Nghe phong thanh cha anh chết lúc anh còn bé, mẹ anh tái giá và không còn liên lạc với anh. Anh nhờ bà con bên nội nuôi ăn học cho đến khi khôn lớn, do đó anh không được hưởng tình mẫu tử! Như tôi trình bày ở phần trên, khi Pháo Ðội tách ra làm đôi thì Sĩ Quan Tác Xạ cũng là Trung Ðội Trưởng và Hòe lúc đó chỉ huy Trung Ðội Pháo Binh đóng ở Gio Linh.

Trong thời gian đơn vị đồn trú ở La Vang, anh có quen một cô nữ sinh trường Trung Học Nguyễn Hoàng ở thành phố Quảng Trị. Quen nhau một thời gian thì anh xin phép cưới.

Trong ngày hợp hôn của anh, mẹ và bên cha anh không ai có mặt. Anh nhờ vợ chồng tôi thay mặt họ nhà trai làm chủ hôn. Thật là một lễ cưới đơn giản trong thời chiến. Chú rể không có được một bộ đồ suit, chỉ có một áo sơ mi trắng với một cà vạt không lòe loẹt, phai màu! Một đám cưới không có dâu phụ, rể phụ! Và như trong bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan, có câu “cưới nhau xong là đi,” rất trùng hợp với đám cưới của anh.

Tiểu Ðoàn cấp cho anh 7 ngày phép để cưới vợ! Nào có tuần trăng mật gì đâu, chỉ lẩn quẩn trong thành phố Quảng Trị nhỏ bé trong thời gian đó. Hết 7 ngày phép, chưa hưởng hết hương vị ái ân với người vợ mới cưới thì anh trở lại Gio Linh. Tạo hóa quá ác nghiệt! Một tuần sau, căn cứ Gio Linh bị địch tràn ngập! Cũng như Tố, anh chết ở giao thông hào trong lúc thúc đẩy anh em kháng cự cuộc tấn công.

Tội nghiệp người vợ trẻ của anh, mới tháng trước đây còn là cô nữ sinh ngây thơ, bỗng nay trở thành góa phụ!

Thân xác anh được chôn trên đồi La Vang trước ngôi chùa Phật Giáo địa phương. Ngày đưa tiễn thân xác anh ra phần mộ, chỉ có tiếng khóc nức nở của người vợ trẻ mới cưới với sự bùi ngùi của các sĩ quan trong đơn vị. Ngày hợp hôn của anh đơn giản bao nhiêu thì ngày mà thân xác anh ra nghĩa địa cũng đơn giản bấy nhiêu. Không có người thân hay họ hàng bên anh đưa tiễn!

Chiến trận ngày thêm khốc liệt, mộ anh thiếu khói hương, không người thăm viếng. Không biết ngày nay xương cốt anh có còn nguyên dưới huyệt mộ lúc chôn hay cũng bị bom đạn cày nát như Cỗ Thành Quảng Trị. Luôn luôn tôi vẫn nhớ đến anh, thương cho phần số nghiệt ngã của anh và ngậm ngùi gửi đến anh hai chữ “Tiếc Thương.”

Tượng Thương Tiếc trước Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa trước và sau ngày Quốc Hận 30 tháng 4, 1975 đã bị Việt Cộng kéo đổ tiêu hủy.

* * * *

T-bone là một căn cứ hỏa lực kiểu mẫu nằm về phía Tây thành phố Huế, bên trái Quốc Lộ 1, hướng về phương Bắc, khoảng giữa cây số 17 và Huế. Tbone là tên của quân đội Hoa Kỳ đặt cho căn cứ này, vì hình thể của nó trên không nhìn xuống không khác gì lát thịt bò T-bone. Căn cứ có hai Pháo Ðội, một Pháo Ðội 155 ly và một Pháo Ðội 105 ly chiếm vị trí ở hai nhánh triền đồi. Sau này căn cứ được đổi tên Việt với địa danh là An Ðô. Vì là căn cứ kiểu mẫu nên hàng ngày những phái đoàn quan trọng từ Mỹ cũng như từ Sài Gòn ra Huế đều được hướng dẫn đến viếng thăm.

Thời tiết mùa Hè ở miền Trung rất nóng và oi bức, lại thêm cơn gió Lào -bắt nguồn từ Lào thổi qua- gió mạnh từng cơn, cuốn bụi và cát bay mù trời! Vào khoảng thời gian này, ăn cơm toàn trộn chung với cát!

Một buổi chiều sau khi dùng cơm xong, tôi ra đứng trước Ðài Phối Hợp Hỏa Lực đặt cạnh BCH Trung Ðoàn 3 BB vu vơ nhìn về hướng Ashau Alưới, nơi tôi đã từng ở đó một thời gian với núi non trùng điệp.

Bỗng tôi thấy bốn luồng khói xanh nhạt nối đuôi nhau, tiếp theo 4 tiếng nổ khởi hành (depart) của hỏa tiễn ở một đường thông thủy, cách căn cứ khoảng 3 cây số. Ðịch sử dụng hỏa tiễn 122 ly không phải pháo kích chúng tôi mà lại pháo kích về hậu cứ của Trung Ðoàn 3 BB và hậu cứ Tiểu Ðoàn chúng tôi. Phản ứng tự nhiên, tôi chạy vụt qua Pháo Ðội 105 ly, thúc đẩy anh em tác xạ, dập pháo địch. Vì vị trí hỏa tiễn để lộ quá rõ, nên các Khẩu Trưởng Pháo Binh 105 ly và 155 ly tự động chỉ huy trực xạ.

Kinh nghiệm chiến trận có thừa, anh em thi hành trực xạ rất chính xác. Khói súng đại bác bay mù trời, cộng với tiếng nổ khởi hành trực xạ của hai Pháo Ðội gây nên một náo động kinh khủng! Bỗng nhiên tôi thấy một quả súng cối nổ cách Pháo Ðội 105ly chừng 200 thước, sau đó quả thứ hai gần hơn, 100 thước và quả thứ ba sát gần hơn nữa. Nhận định mình đang bị súng cối điều chỉnh, tôi quát to “Vào hầm núp.” Lệnh của tôi không ai nghe được vì quá náo động lúc bấy giờ và quả cối sau cùng rơi ngay vào vị trí khẩu 6-105 ly. Kết quả Khẩu Trưởng và Xạ Thủ chết ngay tại chỗ, số còn lại bị thương. Ðại Úy Ðải (Khóa 8 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức) người nhỏ, thấp, bị một mảnh đạn súng cối xước qua đầu, tôi cao hơn đứng trước ông ấy lại may mắn an toàn!

Lúc đó tôi mới nhận biết địch dùng hỏa tiễn đặt một nơi, lừa chúng tôi ra phản pháo đoạn dùng súng cối đặt ở một nơi khác pháo kích chúng tôi dễ đạt được kết quả hơn. Phải nhìn nhận địch thành công với mưu chước này.

Sau quả cối rơi ngay vào vị trí khẩu 6 thì địch cũng ngừng pháo kích vì vị trí của chúng cũng bị phát hiện. Anh em khiêng những pháo thủ bị thương vào Ðài Tác Xạ để y tá săn sóc.

Tôi bước qua mình một pháo thủ bị thương đang nằm dài trên nền Ðài Tác Xạ pháo đội, cầm điện thoại định báo cáo về Pháo Binh Sư Ðoàn. Tôi nghe một giọng nói nhỏ nhẹ: “Trung Tá cứu em với!” Tôi quay người lại, quỳ thấp xuống, vỗ nhẹ vào má anh như dỗ dành và an ủi: “Không nặng lắm đâu, đừng sợ, em.” Ðó là Ðính, cấp bậc Hạ Sĩ Nhất, nhắm viên khẩu 6. Dáng người anh vạm vỡ, da sạm đen, bắp thịt rắn chắc, chắc đã trải qua nhiều mưa nắng với đồng ruộng trước khi nhập ngũ. Nhìn bề ngoài cũng đủ biết anh là người có thừa can đảm. Anh bị thương ở bụng, một mảnh súng cối cắt đứt ruột!

Tôi biết anh đau đớn lắm nhưng can đảm chịu đựng, không rên rỉ! Chắc anh cũng linh cảm điều không may sẽ đến với anh, khó thoát khỏi cái chết nên tha thiết khẩn nài: “Trung Tá cứu em với! ”

Trực thăng tản thương đến kịp thời. Ðính và vài người bạn trong khẩu đội được tản thương về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương trong thành nội Huế. Ðêm đó tôi cầu nguyện cho Ðính thoát khỏi tay tử thần. Sáng hôm sau, tôi chỉ thị cho Sĩ Quan Trợ Y Tiểu Ðoàn vào bệnh viện theo dõi tình trạng của Ðính thì được báo cáo là Ðính đã chết khi chưa đến bệnh viện!

Anh Ðính ơi! Tôi đã giã từ vũ khí trên 33 năm, nay tuổi cũng đã xế chiều, may mắn thoát chết mấy lần, còn sống ở thế giới bên này, còn anh ở thế giới bên kia! Tuy chúng ta ở hai thế giới cách biệt, nhưng hình ảnh của anh trước giờ anh chết và ba tiếng ngắn ngủi “Cứu em với!” vẫn sống mãi trong tim tôi cho đến tận ngày hôm nay. Tôi khẳng định không sợ sai lầm, đó là những lời nói cuối cùng với cấp chỉ huy trực tiếp của anh là tôi trước khi anh vĩnh viễn rời xa thế giới bên này để qua thế giới bên kia. Tôi cảm thương anh, một thuộc cấp của tôi, chỉ nói được vài lời ngắn ngủi trước khi chết với cấp chỉ huy của mình. Anh đâu có dịp nói những lời trăng trối cuối cùng với vợ con anh, với cha mẹ anh, phải không?

Ðời chiến binh sống đó rồi chết đó! Chiến tranh thật ác nghiệt!

* * * *

Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, lực lượng Sư Ðoàn 1 BB rút về để chỉnh trang.

Thừa dịp đó địch ồ ạt chuyển quân và tiếp liệu phẩm theo đường mòn Hồ Chí Minh xuống thung lũng Ashau Alưới. Gọi là đường mòn chứ ở vào thời điểm này không còn là đường mòn nữa mà là đường đất rộng rãi chạy được hai chiều. Ban đêm từng đoàn convoy với đèn sáng rực thong dong chạy tự do. Pháo Ðài Bay chiến lược B.52 từ căn cứ Utapao (Thái Lan) và Guam hoạt động thưa thớt(?).

Giai đoạn đầu năm 1972, Hoa Kỳ thử nghiệm Việt Nam hóa chiến tranh. Các căn cứ Mỹ ở cận dãy Trường Sơn được rút bỏ. Thung lũng Ashau Alưới bỏ ngỏ. Ðịch gia tăng áp lực phía Tây Huế để chuẩn bị cho chiến dịch Hè 1972. Nhận định tình hình cộng thêm tin tức tình báo chiến thuật, BTL/SÐ 1 BB tổ chức hành quân Lam Sơn 729 để giải tỏa áp lực địch.

Bãi đổ quân trực thăng vận được chọn là Ðộng A Tây. Ðịa điểm này là một núi trọc, cao độ 500 thước, cách lăng vua Minh Mạng về hướng Tây khoảng 20 cây số.
Sáng sớm hôm đó, sau khi họp phối hợp hành quân với lực lượng Hoa Kỳ ở căn cứ hỏa lực Birmingham, tôi, Trung Tá Nguyễn Bùi Quang, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 3 BB và Trung Tá Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn tiến về trực thăng chỉ huy (C&C) đang chờ để khởi đầu cuộc đổ quân. Chúng tôi lướt nhanh qua toán quân đang đứng chờ trực thăng vận. Thiếu Úy Bằng, Tiền Sát Viên Tiểu Ðoàn, biệt phái cho đơn vị BB và ba pháo thủ trong toán đứng nghiêm chào tôi. Tôi chào trả lại theo quân kỷ và vắn tắt nói, “Cố gắng nhe.” Bằng cũng lễ phép đáp “Dạ.”

Bằng với tên họ là Lê Văn Bằng, xuất thân khóa 7/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Anh là người miền Nam, ăn nói nhỏ nhẹ, rất đẹp trai; mà đẹp trai thì thường hay đa tình! Nhiều cô gái đẹp thành phố Huế chết mê chết mệt vì anh. Cũng vì anh mà nhiều cô mất tình bạn vì ghen tị!

Tôi là một người rất nhiều tình cảm nhưng bề ngoài tôi rất khô khan, lạnh lùng. Tôi không bao giờ bắt tay nhân viên dưới quyền kể cả Sĩ Quan Phụ Tá. Tôi quan niệm như vậy để giữ cái “uy” của cấp chỉ huy, để cấp dưới khỏi “giỡn mặt, khó làm việc.” Tôi đối với Bằng cũng không ngoài thông lệ đó, chỉ vắn tắt nhắn nhủ và khuyến khích: “Cố gắng nhé.”

Trực thăng chỉ huy cất cánh trước, rời căn cứ hỏa lực Birmingham. Trực thăng lượn vài vòng trên bãi đổ quân, thỉnh thoảng hạ thấp cao độ để thăm dò. Cũng may, khoảng thời gian đó, địch chưa có hỏa tiễn cầm tay Ðịa Ðối Không SA 7, nên phi công hơi liều.

Ðúng thời điểm ấn định, L.19 phóng một hỏa tiễn khói trắng đánh dấu bãi đổ quân. Rồi từng chiếc, từng chiếc trực thăng vũ trang (gunship) nối tiếp oanh kích bãi đáp bằng hỏa tiễn. Dứt đợt oanh kích của trực thăng vũ trang, tôi liền điều khiển tác xạ tập trung nổ đồng thời (time on target) với Pháo Ðội B cơ hữu đóng ở căn cứ Bastogne và Pháo Ðội 155 ly của Hoa Kỳ đóng ở căn cứ Birmingham. Dứt loạt đạn pháo binh cuối cùng, tiếp theo là từng chiếc trực thăng chuyển quân tuần tự đáp xuống bãi đáp.

Trung Ðội bộ binh đầu đáp an toàn. Bỗng Phi Công Trưởng báo cho chúng tôi biết là “bãi đáp nóng” (hot landing zone) và cuộc chuyển quân tạm dừng. Trên trực thăng chỉ huy nhìn xuống, tôi thấy một chiếc trực thăng thay vì lấy cao độ vòng lại điểm khởi hành như các trực thăng khác, lại lảo đảo như người say, lết sát theo một đường thông thủy, đâm vào sườn núi bốc cháy!

Tôi mục kích sự kiện xảy ra rất rõ ràng, từ đấu đến cuối. Ðau đớn thay, khi biết được trên chiếc trực thăng định mệnh đó có Ðại Ðội Trưởng Bộ Binh và Bằng, Tiền Sát Viên của đơn vị. Tôi sững sờ, tim nhói đau, tự nhiên đôi dòng nước mắt lăn tròn trên má! Nào ai ngờ tôi vừa nói mấy lời vắn tắt với anh cách đây chừng nửa tiếng, thì bây giờ anh đã chết thê thảm, chết không toàn thây!

Trên trực thăng chỉ huy, không ai biết tại sao trực thăng lại lâm nạn như vậy. Giả thuyết có thể là phi công thiếu bình tĩnh, hoảng hốt, cho trực thăng cất cánh khi vòng quay của cách quạt chưa đủ tua (turn) nên trực thăng không thể cất cao lên khỏi mặt đất. Cũng có thể phi công bị thương khi có vài tên địch còn sót lại bắn sẻ nên không còn đủ khả năng điều khiển.


Bằng chết quá đột ngột và tôi là người duy nhất trong đơn vị, cấp chỉ huy trực tiếp mà anh còn nhìn được lần cuối cùng trước khi vĩnh viễn rời bỏ anh em!
Tôi rất ân hận là tại sao khi anh chào tôi, tôi lại không đến siết chặt tay anh dù không biết được là anh sẽ chết. Ðiều này làm tôi ray rứt mãi đến tận hôm nay.
Khoảng một tuần sau khi Bằng chết mất xác, người yêu của Bằng có ra hậu cứ, khẩn khoản xin phép được xem những di sản lặt vặt của Bằng còn để lại, và tìm một di vật để lưu giữ làm kỷ niệm của mối tình đầu.

Tôi bận hành quân, không có mặt ở hậu cứ, nhưng nghe anh em kể lại, nàng xin giữ một áo lót của Bằng. Nàng đưa áo lót lên mặt, hôn khẻ, như để tìm lại hơi hướm của người yêu còn sót lại đâu đây và khóc nức nở.

Thời gian sau, tôi nghe tin nàng rời xứ Huế lên Ðà Lạt và tu ở một tu viện kín nào đó. Tôi không rõ bây giờ nàng có còn giữ kỹ áo lót của Bằng, một kỷ vật của người yêu vắn số để đêm đêm đem ra nhìn, nhớ lại kỷ niệm xưa hay không?

Tôi kính trọng sự đau khổ của nàng với mối tình đầu dang dở. Mong nàng chóng quên chuyện tình ngày xưa, chuyện tình buồn của thời con gái. Chúc nàng sớm thực hiện được trọn vẹn ước nguyện, quên hẳn những nghiệt ngã, đắng cay, phong ba bão táp trên cuộc đời ô trọc này, và hiến dâng hết cuộc đời còn lại cho Chúa!

* * * * *

Chiến tranh nào mà không có chết chóc, tang thương! Hậu quả chiến tranh đã để lại biết bao nhiêu người đàn bà bỗng chốc trở thành góa bụa. Chiến tranh đã biến những trẻ thơ bỗng mồ côi cha. Chiến tranh đã để lại những vết thương lòng không sao hàn gắn được của mối tình đầu, để cuối cùng hiến dâng cuộc đời còn lại trong tu viện, dưới bóng thánh giá của giáo đường. Chiến tranh đã cướp mất đi một mạng người biết mình gần kề với cái chết nên khẩn nài trong tuyệt vọng “Cứu em với.”
Những trường hợp trên vẫn ám ảnh tôi cho đến tận ngày hôm nay. Thỉnh thoảng trong cơn ác mộng, tôi vẫn gặp lại hình ảnh của các bạn đồng ngũ ngày xưa đã vĩnh viễn nằm xuống!

Tôi không oán trách những người đã cấm súng giết những người bạn của tôi, vì châm ngôn của một chiến binh khi xung trận là “giết hoặc bị giết”!

Khách quan mà nói thì những người nằm xuống ở bên kia chiến tuyến cũng là những anh hùng, nhưng... rất tiếc, “những anh hùng không cùng lý tưởng.” Các người đã bị lừa gạt quá nhiều, nào cách mạng, nào giải phóng, nào giành độc lập, nào chống đô hộ ngoại bang v.v... những từ ngữ rất kêu.

Sau Thế Chiến Thứ Hai, chế độ thực dân thuộc địa đã lỗi thời. Nhìn vào các nước láng giềng chung quanh như Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân và cả Ấn Ðộ khổng lồ khi Bangladesh và Pakistan chưa tách ra; các quốc gia này có tốn một giọt máu nào đâu mà cũng lần lượt được trao trả độc lập. Thậm chí các hòn đảo tí hon mà sau này tôi mới nghe và biết được, cũng được độc lập nốt.

Thánh Gandhi chỉ tranh đấu ôn hòa, bất bạo động mà nước Anh cũng khiếp sợ, trao trả độc lập cho Ấn.

Thánh người ta thì khôn ngoan, còn “thánh Hồ” (sic) sao lại quá ngu si, bị Cộng Sản quốc tế xúi dại chơi trò “chiến tranh giải phóng.” Hết chiến tranh “chống Pháp” ( sic), rồi lại “chống Mỹ” ( sic), chiến tranh triền miên cho đến năm 1975 mới chấm dứt.

Hậu quả là đất nước hoang tàn, trên 3 triệu người chết ở cả hai miền Nam Bắc; với một nền kinh tế kiệt quệ, dân gần như phải cạp đất mà sống!

Khách quan mà nhận xét, không có Hồ Chí Minh thì Việt Nam cũng độc lập và thống nhất từ lâu, không phải đợi đến năm 1975!

Do đó, tôi kết luận Hồ Chí Minh có tội rất lớn với tổ quốc và nhân dân Việt Nam. Tội của Hồ Chí Minh ngập trời! Khi ông ta đi theo Karl Marx, trong lúc oan hồn của 3 triệu người chết vì chiến tranh chưa kịp kết tội và kéo ông ta xuống địa ngục thì bọn trâu, bò, chó ngựa ở dương gian đã đúc tượng xây lăng ướp xác. Rõ đồ khỉ!
buikiem
Posts: 504
Joined: Sat Sep 22, 2012 12:45 am
Contact:

Post by buikiem »

Sao Hôm, Sao Mai...

Vương Mộng Long (K20)
Giữa Tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng Tây Nam. Trong hai ngày 14 & 15 Tháng Tư 1974, Tiểu Ðoàn 82 BÐQ/ QLVNCH bị hai trung đoàn 48/SÐ320 & 64/ SÐ320/ CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người.

Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 Tháng Tư 1974, Cộng quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu Ðoàn 82/BÐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn Bộ Binh, Tiểu Ðoàn 82/BÐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Ðộng Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Ðồi Thịt Bằm.”

Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như một cơn giông mùa Hè. Rồi, tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân thời Tam Quốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của mình để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình.

Tôi biết rõ Sư Ðoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Ðịch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư Ðoàn 320/Ðiện Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, Chính ủy Sư Ðoàn 320/Ðiện Biên, đã cảnh giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu.” Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TÐ82/BÐQ là “Thằng Hai Nâu.”

Một ngày, giữa Tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng Nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó...” điện văn này của Bộ Tư Lệnh SÐ320/CSBV ra lệnh cho Trung Ðoàn 48/SÐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi.

Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quách Cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng Nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Ðại Úy Bình, thì từ biên giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái đại bác vào trại.

Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi tình hình lại yên...

Cuối Tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng Bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh trừ (-) và Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Trung Tá Nguyễn Thanh Danh (k19 VB), Trung Ðoàn Phó Trung Ðoàn 42 Bộ Binh, đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng Bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung Tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đã gặp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông (k16 VB), Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 42/SÐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu Ðoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên Trưởng Thông.

Niên Trưởng Thông hỏi:

- Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?

Ðứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên Trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị,

- Niên Trưởng nới thêm cho tôi một click về Bắc, để tôi dễ bề xoay trở.

Ðại Tá Thông đồng ư ngay:

- Okay, Làm đi! Chắc tên vi-xi này tới số nên mới gặp chú...

***

Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách Cơ Bình (TÐ phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Ðại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn, vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Ðại Ðội 1/82.

Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Ðại Ðội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.

Tôi chọn “vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngă ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình chữ “W.” Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn chéo của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm Vương đã gọi.

Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự.

Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự.

Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu...

Binh Nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi:

- Thiếu tá! Có tiếng xe!

- Tao có nghe gì đâu?

Tôi quay sang hỏi chú Chi:

- Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?

Trung Sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,

- Dạ không. Em không nghe gì cả!...

Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu:

- Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Ðó! Ðó! Nghe rõ chưa?

- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm...

Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng Tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Ðoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.

Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh:

- Chuẩn bị đánh tank! Ðánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!

Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Ðộng Quân, bố trí trên bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!). Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ...

Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!.. Ì...Ì...Ì...Ỉm!...” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”

Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhơm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc.

Chú Ba lầm bầm:

- Ðồ phá thối!

Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn Bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Ðám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong câu lạc bộ tiểu đoàn.

-Tôi là người quen của Trung Tá Danh...

Bà chủ xe be khoe với tôi.

- Tại sao xe của bà bị Việt Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng Sản à?

- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.

- À ra thế!

Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.

***

Ngày kế tiếp...

Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên.

“Oách! Oách! Oách!... Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!...” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.

“K'rọc!... K'rọc!...” - “Hừm!...Hừm!..”

Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá!

Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng.

Tiếng “K'rọc! ...K'rọc! ...” - “Hừm!... Hừm!...” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân giẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.

“K'rọc!... K'rọc ...” -“Hừm!... Hừm!...” Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!...Hừm!..” Còn tiếng “K'rọc!... K'rọc!...” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng.

Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O... o... o...” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nổi ngứa dày vò, không dám găi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.

Chợt rừng chiều xào xạc...

“Oách! Oách! Oách!...Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!...” Hướng Tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn ră, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, “Lộp cộp!... Lộp cộp!... Lộp cộp!...”

Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.

“Lộp cộp!... Lộp cộp!... Lộp cộp!...” một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc dòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.

Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc.

“K'rạch!”

Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mòn không nổ!

Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời.

“Hí!... Hí!... Hí!...í!...í!...í!...” Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí.

Một cái bóng đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường.

“Oành!” quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá găy. Tiếp đó, “Rẹt! Rẹt! Rẹt!...” bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.

Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe be, miệng phì phì sùi bọt.

Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ Sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong vòng bán kính một trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích của chủ nó. Ðại Ðội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt đang hoạt động vùng Tây Bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.

Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi tìm được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã thoát thân thẳng về hướng Bắc.

Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến dòng điện bị ngắt, trái mìn câm.

Chú Chi càm ràm:

- Chắc thằng “cội” này có bùa!...

***

Ít lâu sau...

Trung Ðoàn 42/SÐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về Bình Ðịnh, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên Ðoàn 24 BÐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TÐ 82 BÐQ được thu hẹp lại về hướng Nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TÐ81/BÐQ. Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân đã đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu Ðoàn 81 BÐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngã ba làng Xổm.

Trưa 27 Tháng Bảy 1974, chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung Ðoàn 64/SÐ320 CSBV hướng bắc, Trung Ðoàn 48/SÐ320 CSBV hướng Nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đã được các đơn vị Cộng Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ Binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt Cộng đã chặt đầu Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TÐ81/BÐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đã bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TÐ81/ BÐQ là Thiếu Tá Trần Văn Ngọc (k18 VB).

Trong khi đó, tại mặt trận phía Nam, Trung Ðoàn 48/SÐ320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 Tháng Bảy 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày đặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở đường của TÐ82/BÐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dă ngoại đặc biệt lạ lùng này của TÐ82/BÐQ đã khiến Trung Ðoàn 48/SÐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.

Những ngày sau đó, tiền đồn Plei Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung Ðoàn 48/SÐ320 đến Trung Ðoàn 64/SÐ320, rồi tới Trung Ðoàn 26 Ðịa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ Plei Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư đoàn Ðiện Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hăm Plei Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đã chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây Nguyên, Tiểu Ðoàn 82/Biệt Ðộng Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung Ðoàn 48/SÐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.

Tới đầu năm 1975, Trung đoàn 48/Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Lúc đó Tiểu Ðoàn 82/BÐQ đã chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng Ðức. Vì thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SÐ320/Ðiện Biên CSBV không còn dịp nào chạm mặt nhau nữa...

***

Sài Gòn, ngày 7 tháng 5, 1975.

Hai chiếc xe con của Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sài Gòn. Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng Sản Bắc Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của quân đội Nhân Dân Việt Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa chỉ.

Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi:

- Phải nhà này có Vương Mộng Long không?

Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban Mê Thuột để tìm kiếm vợ con tôi.

- Phải! Các ông cần gì?

- Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.

Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời:

- Tôi đây!

- À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?

- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.

Ông thượng tá quân đội Bắc Việt quan sát tôi vài giây rồi nói:

- Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?

- Vâng, mời ông vào nhà.

Ðể hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng Du Bắc Việt, ông ta mở lời,

- Anh Long có nhận ra tôi không?

- Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp ông lúc nào.

- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây Nguyên cách đây một năm.

- À...

- Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?

- Ư...ư... ông cứ tự nhiên...

Ðôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?

Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của mình không có ý tầm thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.

Người sĩ quan Bắc Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Ðiện Biên Phủ, ở Quảng Trị, ở Tây Nguyên.

Ông khách thao thao:

- Tớ là con quan Lang xứ Cao Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư Ðoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Ðánh Ðiện Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy hòa bình...

Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945, ông học trường Tây ở Hà Nội. Ông sắp thi “Diplôme” thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Ðiện Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư Ðoàn 320/Ðiện Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường Bình Ðịnh, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng Tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đã thua tôi (TÐ82/BÐQ).

Khi kể tới trận vây đồn Plei Me 34 ngày đêm (Tháng Bảy-Tám năm 1974) ông ta la lớn:

- Ðúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!

Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nhìn tôi, tán dương:

- Lì thật! Tớ khen cậu đó!

Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột Tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Ðoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.

Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã ba lần, ông ta thắc mắc:

- Ðộng cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, lì lợm như thế?

Tôi chỉ trả lời thật gọn:

- Vì chữ hiếu!

Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.

Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về.

Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm:

- Tôi còn ở Sài Gòn ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai lần trên Tây Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.

- Cám ơn ông.

Vào lúc người sĩ quan Cộng Sản cất bước, tôi cố với theo:

- Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông.Thế là hòa. Còn trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban Mê Thuột, tôi công nhận, ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban Mê Thuột không phải là tôi.

- Anh nói đúng. Trong trận Buôn Ma Thuột không có “Thằng Hai Nâu.” Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh...

Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.

Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam và người khách không mời rời con hẻm.

***

Ðầu năm 1988, tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm Tân, Thuận Hải.

Tháng Mười Một năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa Kỳ tỵ nạn.

Từ Tháng Giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Ðỗ Dũng (KQ), Lư Ngọc Châu (BÐQ) vân vân, đều đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (k19VB) và Lê Văn Ðể (BÐQ) vẫn bặt vô âm tín.

Tháng Tám năm 1990, tôi tới Sở Công An Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của mình thì được biết, cô Huyền, người nữ công an phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc Không Quân đã giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại Vụ. Anh Danh và anh Ðể cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà Nội nộp cho Phòng Xuất Cảnh Bộ Ngoại Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.

Hà Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một vòng quanh Sài Gòn, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 22/Biệt Ðộng Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con dì con già của tôi cũng giúp tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà Nội.

Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990...

Tôi xuống ga Hàng Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, giơ tay ngoắc:

- Tìm nhà trọ phải không?

- Phải...

- Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa...

Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.

- Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn...

Tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn.

- Bên kia đường... theo tôi...

Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá:

- Nhà tôi đây...

Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:

- Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi...

Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U.” Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ...

- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về?

Ông chủ nhà gợi chuyện.

- Hải Dương.

- Hải Dương xe chạy cả đêm, sao không về?

- Tôi có việc phải ở Hà Nội vài ngày...

- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?

- Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam...

- Có thường ghé Sài Gòn không?

- Chuyến nào mà chẳng ghé...

- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sài Gòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?

- Vâng, đông lắm, vui lắm... vậy chứ bác đã ở Sài Gòn hở? Bác làm gì trong đó?

- Tớ dạy học. Tớ dạy Ðại Học Khoa Học...

- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư...

- Tớ dạy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hưu...

- Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?

- Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau... chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn...

- Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?

- Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ Học Yếu Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Ðảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng miền Nam xong, Ðảng ủy yêu cầu tớ dạy lý thuyết Ðảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Ðảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng... học sinh nghe theo răm rắp...

- Rồi sau đó...

- Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên Xô, Tiệp Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ... tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm...

- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?

- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!

Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi:

- Tìm cái gì đấy hở?...

- Phố Hàng Bài...

- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!

Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười khì khì:

- Chú em đi buôn đường Sài Gòn, Hà Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ Tướng...

Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:

- Tôi là sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà Nội để nộp đơn đi Mỹ...

- Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sài Gòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Ðời chú như thế là may mắn lắm rồi...

Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,

- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai...

Ðêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà Nội, Tô Lan Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông.” Giọng cô ca sĩ nhân dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.

Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở đầu sông, em cuối sông...” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.

***

Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng... leng keng...” làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi ...

- Chè đỗ đen đi chú em...

- Cho tôi một bát.

Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:

- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?

Tôi giựt mình, “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”

Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:

- Bát to đấy nhá! Ðể lấy sức cuốc một ngày.

- Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Ðiện Biên, Tây Nguyên lấy sức đánh... xích lô.

Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Ðưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở:

- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ...

- Ðại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá...

- Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu... Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó duỗi mình ra, nó ăn cả, đồ chó má!

Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích,

- Ông đại tá một đời theo Ðảng. Anh hùng Ðiện Biên, Tây Nguyên đấy! Ðáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp quá!

Người phu xe già thở dài:

- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như... một vì sao rụng.

Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi... Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi,

- Xích lô! Xích lô!

Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:

- Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên...

- Ðược mà! Khách quen, mai giả cũng được mà...

Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (Tháng Năm 1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sài Gòn thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Ðiện Biên, anh hùng Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam có đôi vai ngang, người phu xe già... cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao Bằng.

Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ. Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ ví như... một vì sao rụng.”

***

Ðêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng Cỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải Dương, ngày tôi tròn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác Hồ chí Minh hơn chúng em...”

Bố bịt mồm tôi lại:

- Con ơi! Ðừng hát bài này, bài hát không hay... Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!

Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Ðứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay. Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đã giết bố tôi...

Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Ðêm nay, trước ga Hàng Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt:

- Bố ơi! Bố ơi!... Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!...

Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sài Gòn. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.

Sáng mùa Thu Hà Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Ðiện đường lập lòe. Quán hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay.”

Ðứng trên sân ga Hàng Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông...
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Thân phận người lính gãy súng

Vĩnh Khanh

(Viết cho những người đã âm thầm ngã xuống.)
Ðoàn xe Motolova chở đám tù cải tạo bắt đầu đi vào khu rừng tre rậm rạp thì chạy chậm lại. Con đường đất lồi lõm đầy những ổ gà. Chốc chốc những người ngồi sau và đồ vật bị xóc nhảy tung lên khi xe vấp phải một ổ gà lớn... Hùng vén tấm bạt che hai bên thân xe nhìn ra bên ngoài. Ánh đèn của cả đoàn xe quét ngang dọc tạo thành những vệt sáng nhấp nháy phía trước đủ để anh thấy khá rõ. Ðoàn xe đi được một khoảng nữa thì ngừng lại nhưng máy xe vẫn để nổ. Ðám tù cải tạo được cho phép xuống xe từng hai người một thay phiên nhau đi tiểu. Nhờ đèn xe Hùng có thể thấy rõ hai bên đường san sát những bụi tre gai, phía trên cao những tàn tre đan vào nhau dày đặc thành hình một cái vòm lớn, đoàn xe đi lầm lũi trong cái vòm này có vẻ như đi vào một khu âm u, tử địa không lối ra. Âm thanh của những nhánh tre đu đưa trên cao theo gió tạo ra một nhạc điệu buồn như tâm trạng lo lắng, hoang mang của những người tù trên đường đến nơi lưu đày mới chưa biết là đâu?

Buổi chiều hôm nay, từ Ðồng Pan tất cả tù cải tạo ở trại nhốn nháo lên hết với những lệnh lạc hò hét từ các cán bộ quản giáo hối thúc mang hết đồ đạc ra ngoài sân tập họp khẩn cấp. Những tên sĩ quan bộ đội lạ mặt cầm sổ sách lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người điểm danh. Kinh nghiệm của lần chuyển trại trước từ Trảng Lớn, đám tù đứng trong hàng sầm xì: “Chuyển trại rồi. Chuyển đi chỗ khác nữa rồi.”

Hùng quay qua nói nhỏ với mấy người bạn thân:

“Tụi mình nhớ đứng sát bên nhau nghe chưa? Nếu có lập thành tổ, thì cũng ráng chen chung vô một tổ. Lạng quạng là tụi nó tách rời ra mỗi thằng đi một nơi đó.”

Sau một hồi điểm danh tới điểm danh lui, tất cả đám tù tập họp trên sân bị chia ra làm hai nhóm. Nhóm của Hùng khoảng gần 200 người bị lùa lên những chiếc xe Motolova phủ vải bạt hai bên hông và sau đó di chuyển ngay. Còn nhóm kia cũng khoảng gần 200 không biết sẽ bị đưa đi đâu? Một điều an ủi là nhóm bạn bè thân của Hùng là Cương, Tân, Cường, Khỏe, Hoàng và Thu không bị tách rời và cùng đi chung trong một nhóm. Nhìn gương mặt lo âu, căng thẳng của những người bạn đồng cảnh ngộ, Hùng thở dài. Không cần nhìn vào gương, anh cũng đoán biết bộ mặt của mình lúc này ra sao rồi!

Từ sau ngày miền Nam bị bức tử một cách tức tưởi. Những sĩ quan cấp úy chế độ cũ đã bị chính quyền CS lừa dối với chính sách gọi là “khoan hồng nhân đạo” và việc tập trung đi “học tập 10 ngày.” Thế rồi như những sĩ quan khác, Hùng và các bạn đã trình diện với hy vọng sau 10 ngày sẽ được trở về đoàn tụ với gia đình, làm lại cuộc sống mới. Nhưng hỡi ơi! Kể từ ngày đó tất cả đã bị giam giữ triền miên. Ở Trảng Lớn khoảng một năm rưỡi, sau đó bị chuyển trại đưa lên Ðồng Pan lao động cũng hết 7, 8 tháng nữa, và bây giờ lại sắp bị đưa đến một nơi nào khác chưa biết được!

Xe ra tới địa phận Tây Ninh, trong khi đoàn xe chậm lại ở ngã ba rẽ ra đường quốc lộ thì thật là bất ngờ, bánh kẹo thuốc lá... được dân chúng từ hai bên đường quăng lên xe cho đám tù như mưa. Mặc cho mấy tên bộ đội vệ binh hò hét xua đuổi, những người dân mua gánh bán bưng, những bà mẹ, những đứa em... vẫn chạy theo đoàn xe ném lên đó những món quà tình nghĩa như tỏ chút lòng của người dân còn có thể làm được, đưa tiễn những đứa con của đất nước đang trên đường ra nơi đày ải. Ðám tù cải tạo thật xúc động với những món quà bất ngờ đầy tình người này. Như vậy cũng đủ an ủi cho người lính đã một thời đổ xương máu ra bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào.

Hùng nhìn xuống đường qua kẽ hở của tấm bạt che bên hông xe. Dân chúng hai bên đường vẫn còn chạy theo cố gắng quăng cho hết mấy món bánh trái cuối cùng còn trong thúng rổ... Một vài người đàn bà kéo vạt áo chậm nước mắt, tay còn vẫy vẫy khi đoàn xe đã chạy khuất từ xa. Hùng xúc động lẩm bẩm: “Cám ơn mẹ, cám ơn chị. Cám ơn các em... chúng tôi không làm tròn trách nhiệm bảo vệ các người được, thật là có lỗi với các người.”

Bên ngoài trời bắt đầu sụp tối. Những người tù ngồi chen chúc chật ních phía sau lòng xe, hoang mang nhìn qua những kẽ hở, cố định phương hướng xem mình đang bị đưa về đâu, nhưng cuối cùng cũng chỉ có thể đoán già đoán non xe đang chạy về hướng Bình Dương mà thôi. Ðoàn xe tiếp tục lầm lũi đi trong đêm tối, tránh né sự tò mò chú ý của dân chúng. Sau một lúc hoang mang nhốn nháo, sự yên tĩnh trở lại trong lòng xe. Ðám tù mệt mỏi, thích nghi dần với vị thế chật hẹp, bắt đầu ngủ gà ngủ gật theo nhịp lắc lư và tiếng máy xe nổ đều đều, mặc cho số phận đưa đẩy tới đâu thì tới.

***

Sau một lúc dừng lại nghỉ ngơi trong khu rừng tre, đoàn xe lại tiếp tục chạy. Trời bắt đầu mờ mờ sáng thì đến ngã ba đường 10. Từ đây rẽ vào không bao lâu thì tới một nơi gọi là Trại 3148. Trại còn rất thô sơ chưa được xây cất gì nhiều, chung quanh chỉ lèo tèo vài ba căn nhà dùng làm bộ chỉ huy doanh trại với mái lợp bằng vỏ tre lồ ô. Ðám tù bị hò hét hối thúc xuống xe tập họp. Mấy tên vệ binh cầm súng đứng chung quanh giữ trật tự với khí thế đằng đằng, trong khi mấy tay cán bộ quản giáo lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người phân ra từng tổ. Hùng đứng trong hàng, ngao ngán nhìn khung cảnh chung quanh:

“Tao thấy chỗ này coi bộ hắc ám hơn ở hai trại trước rồi, tụi bây thấy sao?”

Không ai trả lời câu hỏi của Hùng, nhưng cả bọn ai nấy đều có cảm giác như vậy. Khung cảnh hoang vắng thô sơ nơi đây hứa hẹn với đám tù cải tạo mới tới sẽ đổ nhiều công sức, mồ hôi trong những ngày sắp tới! Sau khi sắp xếp xong Hùng và các bạn Tân, Thu, Khỏe, Cương, Hoàng, Cường lần này bị phân tán ra ở những tổ khác nhau. Cũng may mấy anh em cũng chỉ ở rải rác trong một cùng một khu vực gần đó thôi.

Trại 3148 này là tên của một tiểu đoàn bộ đội trú đóng ở đây. Nhưng mọi người đều quen gọi là trại Bù Gia Phúc lấy theo địa danh ở nơi này. Dọc theo con đường 10, cứ cách khoảng 2, 3 cây số lại có một trại tương tự như: Trại 3146, trại 3149, trại 3150,... Trại Bù Gia Mập nơi có sóc Bom Bo nổi tiếng của dân tộc thiểu số, cũng ở cách đó không xa. Những trại này nằm trong khu vực của hai huyện Bù Ðăng, Bù Ðốp thuộc tỉnh Phước Long. Mỗi trại ở đây đều có cấp số tiểu đoàn. Trước đây chỉ chuyên về mặt quân sự trấn giữ biên phòng, nhưng nay kiêm thêm nhiệm vụ quản lý các sĩ quan chế độ cũ từ cấp đại úy trở xuống. Cho tới thời điểm này, bộ đội thuộc Ủy Ban Quân Quản vẫn còn cai quản đám sĩ quan tù cải tạo. Mới đầu họ còn có vẻ dễ chịu, nhưng vì tình hình ngày càng lộn xộn, con số tù cải tạo trốn ngày một nhiều, nên sự quản lý của bộ đội đối với các sĩ quan tù cải tạo bị siết lại gắt gao hơn trước nhiều. Mỗi lần đi ra ngoài làm việc lúc nào cũng có hai vệ binh súng ống kè kè canh chừng hoặc khi đi đốn cây, gánh tranh, chặt tre cũng có vệ binh đi theo hướng dẫn. Tuy nhiên, cứ hễ sơ sểnh ra là lai rai cũng có người trốn hoài.

Quả đúng như đám tù mới tới dự đoán, những ngày tháng đầu ở trại Bù Gia Phúc họ đã chịu sự quản lý rất nghiêm ngặt. Hễ làm không xong công việc được giao trong ngày là bị kiểm điểm, hoặc bị nhiều hình thức kỷ luật khác ngay. Chỗ ở chưa có gì cả nên việc xây dựng nhà ở, doanh trại được đặt ra gấp rút vì mùa mưa sắp đến. Ngay sau ngày đến trại, đám tù cải tạo phải làm việc cật lực từ sáng sớm đến tối mịt để khai phá, xây cất thêm doanh trại, khu nhà ở, bếp núc,... mấy đám cán bộ quản giáo suốt ngày cứ hò hét đốc thúc: “Nếu không cố gắng cất nhà kịp, mùa mưa đến các anh sẽ phải ngủ ngoài mưa.”

Ðiều này thấy rõ không phải là điều hù dọa suông. Bởi vì từ khi mới tới trại đến nay, đám tù cải tạo đã phải ngủ võng rồi! Chưa làm xong nhà thì phải chịu tiếp tục ngủ võng ngoài gió mưa là cái chắc. Do đó không cần đợi cán bộ quản giáo hò hét đốc thúc, với tình hình này mấy người tù cải tạo cũng phải tự mình làm gấp rút để có chỗ che nắng mưa. Từ từ chung quanh trại Bù Gia Phúc nơi Hùng ở, rừng tre và cây cối dần dần được phát quang hết để khai thác đất trống cất nhà ở, doanh trại,... và trồng trọt hoa màu. Cứ thế dưới bàn tay của đám tù khốn khổ, rừng càng lúc càng bị lấn thụt lùi sâu về phía sau.

Trại Bù Gia Phúc này là một trong nhiều doanh trại san sát nhau giữa những vùng rừng núi bạt ngàn của hai tỉnh Bình Long, Phước Long. Rừng núi ở đây đa số là những khu rừng tre lồ ồ khổng lồ xen kẽ với rừng già trùng trùng điệp điệp kéo dài cho tới giáp ranh biên giới Campuchia. Trước đây những khu rừng này là mật khu của Việt Cộng. Thỉnh thoảng đi lao động, Hùng và các bạn vẫn còn thấy dấu vết của những hố bom B52 để lại. Tuy nhiên bom đạn trước đây hình như đã không làm suy suyển gì được những cánh rừng già bát ngát ở đây. Phải đợi đến khi tù cải tạo chuyển về thì rừng mới chịu lép vế, nhượng bộ và bị đẩy lùi vào một phần! Số lượng khai thác gỗ, tre và cỏ tranh mang về xây cất doanh trại, nhà ở cho tất cả các trại ngày một nhiều.

Vì thế cây cối đúng kích thước, những trảng tranh lớn và những đám tre đúng tiêu chuẩn... ở những nơi gần bị đám tù cải tạo của tất cả các trại từ từ khai thác hết. Càng lúc Hùng và các bạn phải đi thật xa mới có thể tìm được tre, cỏ tranh hoặc cây đúng kích thước tiêu chuẩn được giao. Ði từ sáng sớm, nhưng mang được những thân cây lớn, những bó tranh khổng lồ hoặc những cành tre dài ngoằn về tới doanh trại thì trời đã bắt đầu sụp tối rồi! Ðã vậy Nguyễn Văn Thu, người bạn tù cùng khóa Thủ Ðức trước đây với Hùng, là một người nhỏ con yếu đuối, không vác nổi những cây lớn được giao phó. Hai đứa lại ở cùng tổ thường được phân công đi lao động chung, Hùng không giúp cho anh ta thì ai giúp bây giờ. Cứ mỗi lần nhận công việc đốn cây, Hùng luôn luôn vác ở phần gốc, để cho bạn mình vác khúc ngọn nhẹ hơn. Suốt thời gian ở đây, Hùng lúc nào cũng giành làm phần nặng nhọc hơn để bạn vẫn hoàn thành công tác mà không bị rắc rối với đám cán bộ quản giáo. Mãi tới bây giờ Nguyễn Văn Thu vẫn nhớ ơn và nhắc hoài về người bạn Diệp Phi Hùng tốt bụng này.

Công việc phân phối trong ngày nặng nề, cực nhọc hơn ở hai trại trước, tuy nhiên khẩu phần ăn được phân phối không thấm đâu vào đâu. Chưa bao giờ người tù “cải tạo” hiểu ý nghĩa chữ “đói” một cách sâu sắc và thấm thía như khoảng thời gian ở những trại tù cải tạo như thế! Anh em nào có gia đình thăm nuôi, tiếp tế hàng tháng còn đỡ. Những ai kém may mắn không có ai thăm viếng, tuy được bạn bè san sẻ giúp đỡ, nhưng chắc chắn cũng không bao giờ đủ no được.

Người tù cải tạo bị cấm hoặc hạn chế tối đa những liên lạc với người dân bên ngoài và cả những người bạn tù ở khác trại. Nhiều lần đám tù cải tạo của Hùng ra ngoài lao động gần khu dân chúng cũng chỉ được phép ghé mua vội ít bánh trái, đồ dùng lặt vặt ở những quán ven đường rồi đi ngay chứ không nói được gì nhiều. Hoặc đôi khi đi vào rừng đốn cây, gặp những anh em đồng cảnh ngộ ở các trại khác lao động gần đó, canh lúc vệ binh lơ đễnh hai bên lén trao đổi vội vàng với nhau những câu thăm hỏi tin tức những người mình quen biết xem có ở cùng trại bên kia hay không? Rồi thôi! Ai nấy đều phải quay lại tiếp tục công việc nặng nhọc của mình để còn lo về kịp trong ngày...

Sự tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài của người tù cải tạo một cách chính thức hầu như chỉ qua những chuyến thăm nuôi hàng tháng mà thôi. Những cái siết tay, nụ cười méo mó, vòng tay trẻ thơ của đứa con thiếu cha... nụ hôn vội vàng trên môi người vợ hiền hay ánh mắt thương cảm của người yêu... cùng món quà chứa đầy tình thương của mẹ già... một vài tin buồn, năm ba tin vui trao đổi nhau... tất cả gói ghém hết trong những lần thăm nuôi gặp mặt đó. Ðối với người tù cải tạo, đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời của họ vào lúc bấy giờ. Ðôi khi có một số tin tức do người thân bên ngoài mang vào đã trở thành những đề tài để anh em bàn tán sôi nổi, hoặc những suy đoán, bàn luận thời cuộc căn cứ vào những tin đồn mơ hồ không biết xuất phát từ đâu, tuy nhiên nhờ đó ít nhiều cũng đã giúp hun đúc niềm tin của đám tù cải tạo và làm tinh thần mọi người phấn chấn hơn lên.

Cứ thế người tù cải tạo vẫn lầm lũi sống, lầm lũi chịu đựng với một hy vọng mong manh không lấy gì làm chắc lắm... Và cứ thế ngày tháng âm thầm trôi... Người tù cải tạo mệt mỏi, hy vọng lụi tàn dần theo những lần nhìn cây rừng thay lá!

***

Với điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ từ dinh dưỡng đến thuốc men. Bệnh tật không thể nào tránh khỏi. Nhất là bệnh sốt rét rừng, căn bệnh đáng sợ nhất ở vùng rừng núi Phước Long này! Những ai bị vướng vào căn bệnh này, thì cầm như chết chắc. Vừa đến trại không bao lâu, đã có một vài người bị dính ngay sốt rét và chết ngay trong trại. Khiến cho những người còn lại không khỏi rúng động. Một đôi lần, Hùng cũng bị bệnh nhưng chỉ là cảm mạo nên lướt qua được hết. Tuy nhiên nghĩ tới đến cơn bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo này, anh cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai rồi sẽ ra sao?Chứng bệnh Hùng lo sợ cuối cùng đã may mắn không xảy ra cho anh, nhưng lại rơi ngay vào một trong những người bạn thân trong nhóm của anh. Ðó là Cương. Thiếu Úy Mai Xuân Cương. Tiểu Ðoàn16 TQLC. Xuất thân khóa 4/71 SVSQTB Thủ Ðức. Người chiến sĩ đã trải qua biết bao trận đánh lớn nhỏ kể cả lần nhận nhiệm vụ tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Xông pha biết bao trận đánh dữ dội như vậy mà anh cũng không hề hấn gì. Nay trong lúc buông tay súng, cam phận làm tên tù cải tạo, số phần lại không tha cho anh!

Giữa núi rừng Phước Long, chứng sốt rét rừng đã quật ngã người sĩ quan kiêu hùng ngày nào dễ dàng! Sau hơn một tuần nằm liệt ở trại với tiêu chuẩn được phát để chống lại cơn bệnh nguy hiểm này là 1 viên ký ninh mỗi ngày không thấm thía vào đâu cả! Bệnh tình càng lúc càng trầm trọng hơn! Mai Xuân Cương tuy thấp người nhưng rất to con, thế mà chỉ qua một tuần lễ, người anh gần như chỉ còn phân nửa so với lúc trước, cộng thêm làn da vàng vọt và một thể chất bạc nhược không tả được. Anh em trong trại quyên góp nhau lại những viên thuốc ký ninh hiếm hoi của gia đình gởi vào để mong cứu sống anh, nhưng cũng không được nhiều.

Nguyễn Minh Hoàng đã đưa cho bạn hết tất cả mấy viên thuốc chống sốt rét để dành phòng ngừa cho riêng mình, hy vọng cứu được mạng sống bạn, nhưng cũng chỉ giúp Mai Văn Cương cầm cự chống đỡ thêm được mấy ngày!
Bệnh tình của Mai Xuân Cương suy nhược đến nỗi anh không còn đứng vững nữa. Hễ đứng lên bước mấy bước là té xuống liền. Cuối cùng ban quản giáo trại chấp thuận cho anh lên bệnh xá điều trị. Tiếng là nằm bệnh xá cho có vẻ, nhưng thực ra thuốc men cũng chẳng có gì nhiều nên anh cũng không hồi phục được. Thấy tình thế không xong, trưởng trại mới cho phép Mai Xuân Cương viết thơ nhắn gấp về gia đình mang thuốc lên cấp cứu.

Mấy ngày anh nằm trên bệnh xá, Hùng có tìm cách lén lên thăm được 2 lần. Nhìn thân hình của bạn, Hùng không khỏi mủi lòng. Thân thể tráng kiện của Mai Xuân Cương ngày nào giờ đây chỉ là một xác thân gầy yếu, mệt mỏi nằm một chỗ chờ chết với chút hy vọng mong manh là thuốc từ nhà sẽ gởi đến kịp. Không còn biết phải nói gì để an ủi bạn trong lúc này. Hùng chỉ còn biết nắm chặt tay bạn như muốn truyền hết sức mạnh của mình vào thân thể gầy gò để mong bạn có đủ nghị lực vượt qua cơn bệnh quái ác này. Những lúc tỉnh táo nhìn thấy Hùng gần bên, Mai Xuân Cương cứ luôn miệng nhắn nhủ: “Tao muốn về nhà. Ðừng để tao ở đây. Tao muốn về với gia đình. Mày nhắn giùm gia đình tao mang tao về nghe?” Nghe bạn trong cơn hấp hối lập đi lập lại nhiều lần như vậy, Hùng chỉ biết ứa nước mắt gật đầu, hứa cho bạn yên lòng.

Thời gian Mai Xuân Cương nằm bệnh xá, mưa lớn liên tục suốt ngày. Nước lũ từ rừng đổ về ngập lênh láng. Lần chót Hùng tìm cách lên bệnh xá thăm anh cũng là ngày nước lụt bắt đầu dâng lên khắp các con đường từ thị trấn đi vào. Từ trong trại nhìn ra ngoài bìa rừng xa xa đã có thể thấy nước ngập loang loáng trên mặt những trảng tranh rộng lớn. Tù nhân không thể đi công tác xa bên ngoài như thường lệ, đa số chỉ làm những việc lặt vặt trong trại. Nhân cơ hội này, Hùng lén lên bệnh xá thăm Mai Xuân Cương. Lần này nhìn bạn, Hùng biết là đã quá trễ rồi! Trước mặt Hùng giờ chỉ là một thân xác còn thoi thóp với chút hơi thở yếu ớt. Sự chết đã hiện ra trên gương mặt vàng vọt, méo mó và hai con mắt của người tù khốn khổ đã lạc hết thần khí!! Mai Xuân Cương nằm đó chờ cái chết đến với mình từ từ. Trong một khoảng im lặng thật lâu, Hùng đứng nhìn bạn với cái cảm giác đau đớn và bất lực vì không biết làm gì giúp được bạn trong lúc này.

Mai Xuân Cương trở mình, giương cặp mắt lạc thần lên nhìn Hùng một hồi mới nhận ra được bạn. Giọng của anh yếu ớt đến độ Hùng phải nghiêng đầu, cúi sát tai vào miệng bạn mới có thể nghe được tiếng thì thào đứt quãng. Bệnh sốt rét rừng này quả đáng sợ thật. Trong vòng một thời gian ngắn, chứng bệnh quái ác này đã làm thay đổi bề ngoài của con người đến độ nếu không gặp người bệnh trong vòng một tuần lễ chắc khó lòng nhận ra được! Ngay cả những cử động của người bệnh cũng rất khó khăn. Với tất cả sinh lực còn sót trong thân thể bạc nhược của mình, Mai Xuân Cương cố gắng thều thào:

“Tao... không xong rồi... Hùng ơi!... Mày cho tao... gởi lời thăm... mấy anh em. Ráng giữ gìn... sức khỏe. Ðừng giống... như tao...”

Mai Xuân Cương giật giật tay Hùng nói thêm:

“Mày nhớ... nhắn gia đình... mang tao về... Bao lâu cũng được... nhưng ráng... mang tao về nghe.”

Hùng chỉ biết nhìn bạn gật đầu, ứa nước mắt. Người nhà của Mai Xuân Cương cũng đã nhận được tin nhắn, cấp tốc mang thuốc lên. Nhưng đúng là trời trêu lòng người. Những nẻo đường từ Phước Long đi vào trại đều bị lụt lội khắp cả. Khi từ Saigon lên, mẹ và em của Mai Xuân Cương không cách gì vào trại được đành phải tìm nơi tá túc qua đêm ở bên ngoài thị trấn, qua hôm sau chờ nước rút bớt mới mướn người đưa đi. Ðến nơi hai mẹ con cũng chỉ được phép gởi thuốc vào chứ không cho gặp mặt người thân, mặc cho mẹ và em của Cương khóc lóc van xin mấy cũng không được. Sau một hồi năn nỉ khóc lóc không kết quả, hai mẹ con tuyệt vọng đành gởi ít quà và thuốc vào cho Mai Xuân Cương rồi lủi thủi ra về. Nhưng hỡi ơi! Người Mẹ và người em tội nghiệp đó có biết đâu anh đã qua đời ngày hôm trước rồi!

Mai Xuân Cương mất ngay đêm sau khi Hùng lên thăm anh lần cuối. Nghe người ở bệnh xá kể lại, nửa đêm khát nước anh ráng đứng dậy đi lấy nước uống thì bị vấp té không gượng dậy nổi nữa và nằm đó chết luôn. Anh ra đi chắc còn tức tưởi lắm. Trong khi mẹ và em đang ở bên ngoài thị trấn đêm hôm đó, nôn nóng chờ nước rút để kịp mang thuốc vào cứu, thì anh đã không thể chờ được nữa! Anh ra đi mà mẹ và em cuối cùng vào được đến nơi cũng không thể nhìn thấy mặt anh lần cuối! Thân xác anh nằm đó trong khi hai người thân ở ngay ngoài cổng trại vẫn tưởng anh còn sống và cả hai vẫn nuôi hy vọng thuốc mang lên kịp sẽ cứu được mạng anh!

Một buổi sáng khoảng giữa năm 1978, một ngày như mọi ngày ở trại tập trung cải tạo. Khi những bạn tù khác nhận dụng cụ và công việc được giao, chuẩn bị phân tán khắp nơi đi ra ngoài lao động, thì có một số người giơ tay tình nguyện nhận một công tác bất thường: Mai táng người chết! Những người tình nguyện được chia làm hai toán:

Toán thứ nhất trong đó có Ðại Úy Hải Quân Phạm Thanh Tân và một số người nữa, được giao cho công việc đào huyệt.

Toán thứ hai lo việc tẩn liệm và khiêng người chết gồm 6 người: Th/Úy Diệp Phi Hùng (TQLC), Th/Úy Trần Văn Khỏe (TQLC), Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng (Nhảy Dù), Th/Úy Ngô Văn Cường (Nhảy Dù), Th/Úy Hoàng Lập Thành (TQLC) và một Tr/Úy Hải Quân tên Hoàng (Khóa 20 HQ, không nhớ họ)

Những thớ đất trên ngọn đồi nơi Mai Xuân Cương sẽ yên nghỉ còn ẩm nước và khá mềm nhờ vào mấy trận mưa lớn vừa qua, đã giúp cho toán đào huyệt mộ hoàn thành nhiệm vụ không khó khăn lắm. Buổi sáng sớm rừng núi Phước Long vẫn còn sót lại cảm giác lành lạnh của hơi sương đêm rồi. Gió mang đến những tiếng lao xao đều đều từ cánh rừng xa xa nghe như một điệu nhạc trầm buồn tiễn đưa người tù vắn số. Ðám bạn chống xẻng nhìn huyệt mộ có vẻ an ủi lắm. Không nói ra nhưng chắc ai nấy đều nghĩ thầm:
“Ít ra đây là những gì tụi tao còn có thể làm được cho mày lần cuối đó Mai Xuân Cương ơi!”

Xác Mai Xuân Cương được bó trong một cái áo mưa quân đội cũ, bên trong liệm chung với mấy món vật dụng cá nhân ít ỏi của anh. Hùng và đám bạn còn cẩn thận viết tên Mai Xuân Cương trên một mảnh giấy, bỏ vào cái lọ thủy tinh đậy nút thật kỹ liệm chung với xác anh ta, để sau này dù có bị mối đục khoét hết đồ vật, vẫn còn có thể nhận dạng được. Trước khi đặt anh nằm vào trong bọc áo mưa, Hùng không quên đeo sợi dây có cây thánh giá vào cổ bạn. Ðây là món quà mẹ anh gởi vào theo thuốc chống sốt rét vừa rồi. Ðó cũng là điều an ủi cho Mai Xuân Cương, còn mang được món quà của người mẹ thân yêu theo bên mình trước khi đi vào lòng đất.

Xác anh được khiêng từ bệnh xá ra, đặt xuống lòng huyệt mộ một cách nhẹ nhàng bởi những người bạn tù thân thiết. Trước khi lấp đất, không ai bảo ai tất cả đám tù hiện diện cùng đứng cúi đầu trang nghiêm thầm cầu nguyện trước cặp mắt của tên bộ đội vệ binh và cán bộ quản giáo đứng nhìn lom lom gần đó. Cặp mắt của họ hôm nay hình như cũng biểu lộ chút dễ chịu hơn mọi ngày. Dầu gì thì người cũng đã nằm xuống rồi! Ðâu ai nỡ khó khăn với người chết làm chi.

Hùng nhìn quanh, gần nơi huyệt mộ của bạn mình đã có từ hồi nào 11 ngôi mộ của những người tù cải tạo khác không may nằm xuống trước đó. Tất cả các ngôi mộ đều không có một tấm bia nào khắc ghi tên tuổi, ngày tháng để lại sau này cả! Trong khi xúc đất phủ lên xác bạn, Hùng không ngớt suy nghĩ. Không biết phải làm sao để có thể ghi dấu lại ngôi mộ của bạn sau này? Làm cách nào để nhiều năm sau còn hy vọng kiếm lại được?

Trước đó Hùng có nghe mấy tay quản giáo nói chuyện với nhau, trong tương lai người ta sẽ khai phá những khu rừng chung quanh ngọn đồi này để trồng cao su. Với sự thay đổi như vậy, việc nhận dạng lại dấu vết nhiều năm sau này sẽ càng khó khăn hơn. Ðám bạn tù bàn với nhau tìm một cành cây dài với hình thù đặc biệt dễ nhớ và cố gắng chôn cây đó càng sâu càng tốt trước ngôi mộ. Tất cả đồng ý lấy cây cổ thụ thật lớn nổi bật ở bìa rừng làm chuẩn và từ đó nhắm hướng đếm bước đến nơi chôn vùi bạn. Ðám bạn còn cẩn thận đếm bước hai ba lần để chắc chắn có được con số chính xác nhất định. Sau đó họ cố gắng ghi nhớ địa thế ngọn đồi cùng vị trí của các ngôi mộ khác để phân biệt với nơi bạn nằm.

Ðâu đó xong xuôi trước khi từ giã trở về trại, tất cả đứng bùi ngùi van vái thầm: “Mai Xuân Cương ơi! Số mày không may ra đi sớm, tụi tao cũng chỉ biết cầu xin vong hồn mày hãy yên nghỉ. Như vậy cũng yên ổn phần mày rồi. Còn số phần tụi tao chưa biết mai đây sẽ ra sao? Nếu mày có linh thiêng hãy về phù hộ cho tụi tao chống chọi được tất cả các khó khăn, bệnh tật. Phù hộ cho tụi tao luôn khỏe mạnh và sớm được thả về với gia đình. Tụi tao hứa sẽ báo tin và chỉ dẫn chỗ nằm của mày để gia đình mang mày về. Thôi mày hãy an nghỉ, tụi tao đi đây!”

Hôm đó trời đã ngừng không mưa nữa, nhưng mây vẫn còn u ám lắm. Cả bầu trời hình như chỉ có mỗi một màu xám, nên mặc dù chưa trưa khung cảnh chung quanh trông có vẻ như đã xế chiều lâu lắm rồi vậy! Xuống tới dưới chân đồi Hùng ngoái nhìn lên chỗ bạn nằm. Cành cây lớn cả bọn cắm trước mộ bạn làm dấu, nhìn từ xa hình dáng nó trông giống y như một cây súng gãy cắm ngược xuống đất. Hùng thở dài. Phải rồi! Trông nó thật là giống một cây súng đã gãy, đang đứng chơ vơ một mình giữa nền trời u ám.

***

Cái chết của Mai Xuân Cương đã để lại trong lòng những người bạn tù nhiều thương cảm và suy nghĩ về số phận mong manh của kiếp tù đày. Không lâu sau đó, một số tù cải tạo tìm cách trốn trại. Trong số mấy người ít ỏi thoát được từ trại 3148 Bù Gia Phúc có Th/Úy Trần Văn Khỏe, người bạn thân cùng đơn vị với Mai Xuân Cương và Diệp Phi Hùng. Tin trốn trại loan ra dấy lên làn sóng xôn xao trong đám tù còn lại, đồng thời càng làm cho ban quản giáo siết chặt kỷ luật gắt gao hơn. Nhưng có khó khăn gì nữa thì cũng thế thôi. Người tù cải tạo không phải hàng ngày vẫn đối diện với khó khăn từ sáng sớm đến tối mịt đó sao? Chỉ tiêu lao động đưa ra nhiều hơn ư? Ðàng nào thì người tù cải tạo cũng quen với sự chịu đựng rồi. Ráng thêm chút nữa, rồi cũng xong thôi.Tuy thế tận trong đáy lòng, Hùng cảm thấy nỗi buồn chất chứa thêm lên. Trong một thời gian ngắn, hai người bạn thân thiết nhất đã xa rời: Một ra đi vĩnh viễn, một chưa biết số phận thế nào sau khi trốn trại. Những ray rứt dằn vặt, lòng buồn nhớ thương bạn, nỗi cảm khái cho chính thân phận của mình và gia đình bên ngoài... khiến Hùng suy tư nhiều và trở chứng mất ngủ hồi nào không hay. Nhiều khi đốn cây, róc vỏ xong chờ vác về. Hùng và các bạn ngồi nghỉ mệt. Nhìn thân cây đã bị đốn ngã nằm trên mặt đất chờ khiêng về, Hùng không khỏi cảm khái nhớ tới một bài thơ được người tù nào đó làm ra và được một người khác phổ nhạc. Tác giả nhìn thân cây bị đốn ngã, ví von với thân phận của mình và làm ra bài thơ sau đây mà các người tù cải tạo lúc bấy giờ gần như ai cũng thuộc lòng:

Thân Phận
Rừng hoang... xào xạc...
Một thân cây đốn ngã.
Như đời mình.
Buông thả tương lai.
Này đây là tóc là tai.
Cành khô nằm đó.
Ai mang anh về?
Thân anh khốn nỗi ê chề
Tháng năm vẫn đợi.
Lời thề còn chăng?
Lòng anh khốn nỗi giá băng
Anh ray rứt mãi vết hằn khổ đau.
Thôi em. Vơi bớt ưu sầu.
Bước đi bước nữa, tan mau nửa đời.
Rừng hoang chôn chặt một thời.
Tương lai đâu có lời nào cho em.
Mắt sâu hun hút đêm trường,
Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn
Rừng hoang kết lá úa tàn
Thân cây đốn ngã.
Anh thương phận mình.
(Không rõ tên tác giả)

Lời thơ bình dị mà cảm động quá. Ðã nói lên được tâm trạng chung của tất cả anh em tù cải tạo. Mặc dù Hùng chưa có gia đình, nhưng anh cũng có người yêu nên hiểu rõ những suy tư khắc khoải của những bạn tù khác có vợ con, gia đình ở nhà. Người tù cải tạo giờ đây có khác gì một thân cây đã bị đốn ngã. Nhưng cây bị đốn ngã còn có người đưa về, còn người tù cải tạo nếu chẳng may nằm xuống giữa rừng già này, thì ai sẽ đưa anh về? Vợ và người yêu ở nhà, có còn bền chặt lời thề ngày xưa hay chăng? Thôi thì em ơi. Hãy vơi đi bớt ưu sầu. Cứ bước đi bước nữa đi em. Bước đi bước nữa cho nửa đời còn lại của em tan mau. Em không cần phải chờ đợi anh đâu... Sao mà thấm thía và chua xót quá! Lần đâu tiên Hùng và các bạn được nghe một bạn tù ôm đàn hát bài này. Ai cũng ứa nước mắt. Ðúng rồi! Thận phận của người tù cải tạo bây giờ đâu còn gì để hứa hẹn mai sau cho người mình yêu thương nữa!!... Từ đó nhiều lần trong đêm khuya, nơi trại tù im vắng giữa núi rừng Phước Long, mỗi khi buồn không ngủ được, anh thường nhớ tới bài hát này và hay khe khẽ hát một mình: “...Mắt sâu hun hút đêm trường. Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn. Rừng hoang kết lá úa tàn. Thân cây đốn ngã. Anh thương phận mình!”

Giọng hát nghe đã buồn!

Lời nhạc nghe sao còn não lòng hơn!

***

Ở trại 3148 Bù Gia Phúc đến cuối năm 1978 thì tất cả lại bị chuyển trại một lần nữa. Lần này nhóm bạn thân của Hùng bị phân tán ra, đi đến những trại tù cải tạo khác nhau. Hai năm sau, khoảng cuối năm 1980, Diệp Phi Hùng, Nguyễn Minh Hoàng, Phạm Thanh Tân, Nguyễn Văn Thu và Ngô Văn Cường lần lượt được thả về hết. Sau những ngày vui mừng đoàn tụ với gia đình. Nhớ đến lời hứa với Mai Xuân Cương trước đây. Hùng rủ Cường đến nhà Mai Xuân Cương thăm viếng, đồng thời kể chi tiết về cái chết và lời trối trăn trước giờ lâm chung của anh. Gia đình Mai Xuân Cương đã biết tin về cái chết của con mình lâu rồi, nhưng những chi tiết thì chưa biết được rõ ràng. Nay nghe Hùng kể lại, cả nhà anh khóc như mưa. Ba của Mai Xuân Cương nói qua dòng nước mắt:

“Các cháu đã là bạn của thằng Cương thì cũng như con cháu của bác thôi. Nay em nó không may vắn số mà xác thân còn lưu lạc giữa núi rừng như vậy, quả thật bác đau lòng quá. Bác xin các cháu vì tình bạn ngày xưa với nó mà chỉ dẫn cho bác chỗ để bác đưa cháu nó về với gia đình, ngày nào nó chưa về được thì bác không thể ăn ngon ngủ yên được. Bác muốn tận tay mình mang hài cốt của con về. Bác chỉ cần các cháu hướng dẫn cho bác đến chỗ của nó nằm là bác đã mang ơn lắm rồi. Ðêm nằm bác cứ thấy nó mà chảy nước mắt hoài.” Ông nói xong lại khóc nức nở...

Hùng và Cường nhìn thấy cảnh đó cũng cảm động vô cùng. Cả hai hứa sẽ hướng dẫn Ba của bạn đi tìm mộ và mang hài cốt anh về. Thời điểm đó tính từ ngày chôn cất Mai Xuân Cương thì mới chỉ khoảng gần 2 năm mà thôi. Nhiều người bà con của Cương bàn với gia đình anh là thời gian 2 năm còn quá sớm, phải đợi đến khoảng ít nhất từ 3 đến 5 năm sau, xác thịt tiêu hủy hết thì hốt cốt mới tốt hơn. Nghe ai cũng nói như vậy nên gia đình Mai Xuân Cương đồng ý nán lại đúng 5 năm mới thực hiện chuyện đó.

Nhưng xưa nay người tính là một chuyện, còn trời tính lại là một chuyện khác! Trong khoảng thời gian chờ đợi đó Ba Mẹ của Mai Xuân Cương phần vì nhớ thương con, phần vì lớn tuổi nên đau yếu hoài. Ðến khi đúng 5 năm kể từ ngày anh chết thì cơn bệnh của Ba anh bị trở nặng không đi được, cuối cùng đành phải hoãn việc này lại.

Bẵng đi mấy năm sau, bệnh tình của người cha cũng cứ như vậy hoài, không thuyên giảm chút nào. Khổ nỗi ông cứ nằng nặc yêu cầu ráng đợi ông hết bệnh sẽ đích thân đi lo cho con mình mới thỏa lòng! Trong khi đó Hùng và các bạn bè thân thuộc lo chuyện trốn đi vượt biên nhiều lần vẫn không thành, ngoài ra còn lo chuyện sinh kế gia đình nên đầu óc đâu còn để ý gì tới những chuyện khác nữa. Mãi đến khi bệnh tình Ba của Mai Xuân Cương trở nặng, ông biết là không xong, hết hy vọng tự tay mang con về như tâm nguyện được nên cho người mời Hùng và Cường đến. Ông nắm tay hai người vừa khóc vừa nói:

“Tâm nguyện của các chưa hoàn thành được, chắc là các chết không nhắm mắt được hai cháu ơi.”

Nói xong ông lại ngậm ngùi khóc. Hùng và Cường nhìn ông rất thương cảm nhưng không biết phải nói làm sao. Cuối cùng ông nói với hai người bạn của con mình:

“Bác biết là yêu cầu này hơi quá đáng, nhưng ngoài hai cháu ra, bác bây giờ không biết phải cầu xin ai nữa cả.”

“Thưa bác. Xin bác đừng nói vậy. Bác có điều gì yêu cầu, nếu trong khả năng làm được, hai cháu sẽ cố gắng làm cho bác.”

“Xin hai cháu hãy thương cho thằng Cương của bác mà thay bác mang nó về với gia đình giùm bác. Bác tâm nguyện sẽ tự tay lo cho nó, nhưng với tình hình sức khỏe như thế này, chắc là bác không qua khỏi để làm chuyện đó rồi. Thôi thì xin hai cháu hãy cố gắng giúp cho em Cương lần nữa, coi như hai cháu làm phước cho gia đình bác vậy. Bác thật không dám quên ơn sâu này.”

Hai người bạn không cầm được nước mắt, cả hai nắm tay người cha tội nghiệp và hứa với ông:

“Bác cứ yên tâm. Hai đứa cháu sẽ ráng làm hết sức để đưa anh ấy về với gia đình. Cháu chỉ sợ sau nhiều năm, nhiều chuyện thay đổi, không biết tụi cháu có tìm được đúng chỗ anh ấy nằm xuống hay không, nhưng hai cháu sẽ cố gắng.”

Ba của Mai Xuân Cương qua đời sau đó không lâu. Khi đưa đám của ông, nhìn người mẹ bệnh tật và những đứa em còn lại của bạn. Hùng và Cường bảo nhau nhất quyết thực hiện lời hứa mang hài cốt Mai Xuân Cương về nằm kề bên ba anh ấy cho bằng được.

Cuối năm 1990, mười hai năm sau khi Mai Xuân Cương mất. Sau khi sắp xếp mọi việc đâu đó xong xuôi, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường cùng một em rể và một em ruột của Cương chở nhau trên hai chiếc Honda đi ngay lên Phước Long. Mục đích chuyến đi lần này chỉ là dò đường tìm lại ngọn đồi năm xưa và cố gắng tìm vị trí ngôi mộ bạn trước. Nếu tìm được thì chuyện hốt cốt không thành vấn đề nữa. Ðiều lo sợ nhất của hai người là trải qua bao năm tháng, vật đổi sao dời chỉ sợ ngôi mộ thất lạc không thể tìm thấy được nữa thì đúng là phụ đi tâm huyết của nhiều người. Riêng Hùng, nếu không làm tròn được ước nguyện của bạn và người cha trước khi chết thì anh thật sự đau lòng lắm.

Ðến Phước Long, thì trời đã chiều lắm rồi. Trời lại mưa quá lớn. Những con đường đất dẫn vào rừng đều ngập nước hết cả. Lượng mưa ở vùng rừng núi Phước Long này hình như quá nhiều, lúc nào cũng có thể mưa được. Ðã vậy nạn khai thác rừng lấy gỗ một cách bừa bãi, vô tổ chức mấy năm sau này đã khiến cây rừng không còn giữ được nước. Lũ từ các nơi đổ về mỗi khi có cơn mưa lớn gây lụt lội khắp nơi. Bốn người không còn cách nào khác hơn là vào nhà dân ở thị trấn tìm chỗ trọ qua đêm, đợi hôm sau hỏi thăm đường vào trại cũ.

Tất cả bây giờ đã đổi thay hoàn toàn. Những cánh rừng ngày xưa thụt sâu ở hai bên đường và những trảng tranh lớn còn nhớ trong ký ức của Hùng, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó là những cánh rừng cao su bát ngát. Hùng và Cường không còn nhận ra đâu là đâu. Hỏi thăm dân chúng về những trại tù cải tạo Bù Gia Phúc, Bù Gia Mập, Trại 3148, trại 3146... thì nhiều người không biết. Cuối cùng hai người đến bến xe đò hỏi thăm những tài xế và lơ xe, hy vọng ngày xưa những thân nhân đi thăm nuôi tù đã sử dụng phương tiện xe đò, như thế chắc phải có người biết chỉ dẫn giùm. Quả nhiên lần này gặp được mấy tài xế và lơ xe kỳ cựu ở đó biết đường đi vào những trại cải tạo cũ.

Sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời chỉ dẫn, hai chiếc Honda lại lên đường theo những con đường đất lầy lội do trận mưa lớn hôm qua còn để lại, cộng với những ổ gà lởm chởm càng làm cho khó đi thêm. Mấy khu rừng Hùng nhớ mang máng trước đây nay đã bị khai phá thụt sâu vào bên trong nhường chỗ cho hàng dãy đồn điền cao su chạy dài đến mút mắt. Thỉnh thoảng gặp một vài chiếc xe bò, Hùng dừng lại hỏi thăm. Sau nhiều lần lạc lên lạc xuống và hỏi thăm đường như thế... cuối cùng bốn người cũng đến được ngã ba đường 10 và nơi quẹo vào trại 3148, Bù Gia Phúc cũ.

Ðứng trước doanh trại, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường nhìn nhau cảm khái vô cùng. Không ngờ có ngày hai người lại trở về chốn này. Giờ đây doanh trại này không còn là nơi chứa tù cải tạo nữa, mà đã trở thành một doanh trại thuần túy do bộ đội biên phòng trú đóng.

Hỏi thăm dân chúng ở những ngôi nhà bên phía ngoài xem có ai biết ngọn đồi nơi chôn những người tù cải tạo bị chết ngày xưa thì không ai biết cả. Tuy nhiên có người chỉ giùm đường cho bốn người của Hùng đi vào rừng tìm một người đàn ông đang cất nhà chòi làm rẫy trong đó, người này chắc chắn biết tin tức bọn Hùng muốn tìm.

Lần theo sự chỉ dẫn, bốn người lại lên xe Honda men theo con đường mòn dân chúng thường đi làm rẫy, cuối cùng cũng tìm gặp được người muốn gặp. Ðó là một người đàn ông trạc độ 55-60 tuổi, là bộ đội từ Bắc vào, trước đây đã từng là cán bộ quản giáo trong trại Bù Gia Phúc. Sau nhiều năm phục vụ, ông này lên đến cấp bậc đại úy và đã giải ngũ mấy năm gần đây. Ông ta lập gia đình với một người địa phương và lập nghiệp luôn ở nơi này, ngày ngày cùng gia đình làm rẫy sinh sống. Khi biết được ý định của bốn người. Ông cựu đại úy bộ đội này sốt sắng nhận lời chỉ đường giúp đến nơi chôn cất tù cải tạo trước đây.

Thật không còn gì mừng rỡ hơn đối với bọn Hùng lúc này. Lúc đó ngay trong rẫy, không có hàng quán Hùng định trở ra ngoài khu dân cư mua nhang đèn, nhưng ông cựu đại úy bộ đội này kiếm được một bó nhang cho bọn Hùng luôn. Trong khi đi đường, ông ta cho biết thỉnh thoảng khi làm rẫy gần ngọn đồi, ông có ra thăm và thắp nhang trên những phần mộ vô chủ đó. Ông nói rằng người đã nằm xuống rồi thì không còn hận thù gì nữa. Cả bốn người của Hùng đều rất cảm động với lời nói chân tình xuất phát từ một sĩ quan bộ đội mà ngày xưa có lúc đã là kẻ đối nghịch với họ. Phải rồi! Người đã nằm xuống rồi, hãy để họ yên nghỉ. Không nên nói hận thù với người đã chết nữa!

Khi lên đến ngọn đồi ngày xưa nơi hai người đã tự tay chôn cất bạn, Hùng và Cường ngơ ngác không thể nào nhận ra đây là đâu! Tất cả đã hoàn toàn thay đổi và khác hẳn với những gì còn sót trong ký ức của hai người. Kể cả những cánh rừng xa xa trước đây bây giờ cũng trồng toàn cao su! Không có dấu tích gì về những ngôi mộ ngày xưa. Mười hai năm qua rồi còn gì nữa!! Cũng may nhờ có người đàn ông dẫn đến ngay chỗ trước đây chôn những người chết trong trại. Tuy mặt đất trông có vẻ như bằng phẳng, nhưng khi đến nơi nhìn kỹ cây cỏ mọc ở bên trên những ngôi mộ, thì thấy nơi đó vẫn hơi nhô cao lên một chút nếu so với các nơi bằng phẳng khác. Ðiều này mang lại cho Hùng và Cường một tia hy vọng.

Nhưng trước đây khi chôn bạn, chung quanh có 11 ngôi mộ thì bây giờ đã có thêm nhiều người nằm xuống ở đây nữa rồi! Việc tìm đúng ngôi mộ của bạn không phải là một chuyện dễ. Hùng đứng quan sát kỹ chung quanh cố nhận dạng một điểm quen thuộc nào đó có thể gợi nhớ cho mình. Ðầu óc của anh thật là mơ hồ, không một điểm nào có thể làm cho anh nhớ lại được hết! Cành cây có hình thù giống cây súng gãy mà trước đây cả đám cố gắng chôn sâu trước mộ bạn đã biến mất không để lại một dấu tích nào! Còn cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng dùng làm chuẩn, nay cũng bị đốn đâu mất tiêu! Hỏi ý kiến của Cường thì cũng thế, anh ta cũng không nhớ được điều gì rõ ràng cả!

Hai người hỏi thăm ông cựu đại úy bộ đội về sự thay đổi khi người ta khai phá rừng để trồng cao su, thì được biết con đường đất ven khu rừng ngày trước cũng vẫn còn đó và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay không thay đổi. Hùng hỏi ông ta về cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng thì ông cựu đại úy bộ đội này nhớ ra ngay. Lúc đó cả vùng chỉ có cây cổ thụ đó là lớn nhất nên hầu như ai ở khu này cũng đều biết nó cả. Ông ta chỉ hướng nơi có cây cổ thụ trước đây. Hùng mừng quá cùng với Cường đi ngay về phía bìa rừng cao su tìm kiếm dấu vết; thì quả nhiên dù cây cổ thụ đó đã bị đốn đi, nhưng vì gốc của nó quá lớn, người ta không thể nào bứng đi hết gốc rễ của nó được. Trên mặt đất vẫn còn nhô lên dấu tích một vài phần rễ khổng lồ còn sót lại như một xác nhận cho sự hiện diện của cây cổ thụ trước đây.

Cả bọn mừng quá, thầm cám ơn Phật Trời và cầu nguyện vong hồn của Mai Xuân Cương và Ba anh hộ độ cho bốn người tìm được đúng nơi anh nằm. Sau đó từ điểm chuẩn vừa tìm được, hai người nhắm ngược về hướng những ngôi mộ đếm đều bước. Cả hai muốn chắc ăn nên đếm từng bước như vậy 2, 3 lần và đều đến cùng một nơi. Cả bọn xúm lại lấy một cành cây dài đóng xuống thật sâu dò thử, thì sau khi qua khỏi lớp đất cứng, cành cây sụp xuống dễ dàng có vẻ như trúng ngay vào một lỗ hổng. Mọi người biết nơi đây đúng là một ngôi mộ rồi. Tuy nhiên có đúng là mộ của bạn hay không thì chỉ còn biết cầu nguyện thôi. Sau đó để y nguyên cành cây dài cắm trong mộ làm dấu. Bốn người cám ơn và từ giã người cựu bộ đội tốt bụng đi về để lo bước kế tiếp làm thủ tục xin giấy phép hốt cốt Mai Xuân Cương.

Mấy ngày sau, khi có được giấy tờ hợp lệ đầy đủ. Bọn Hùng trở lại chỗ cũ trình giấy tờ xin phép hốt cốt thân nhân với trưởng trại của đơn vị bộ đội đang trú đóng. Họ hỏi bọn Hùng về những di vật khi tẩn liệm Mai Xuân Cương, làm sao có thể nhận dạng chắc chắn đó là hài cốt của anh ta sau khi quật mồ lên... Hùng khai rõ những gì mình còn nhớ được khi tẩn liệm cho bạn với trưởng trại. Sau đó họ chấp thuận cho phép mấy người của Hùng được quật mồ. Một số bộ đội được cử đi theo giám sát.Hùng hồi hộp van vái không ngừng khi mộ huyệt được đào lên: “Mai Xuân Cương ơi Mai Xuân Cương! Hôm nay tụi tao lên mang mày về với gia đình đây. Mày có linh thiêng thì giúp tụi tao đào đúng chỗ. Mày sắp được về nằm gần Ba mày rồi. Ráng linh thiêng hướng dẫn cho tụi tao đào đúng chỗ nghe.” Hùng cứ lẩm bẩm khấn vái như vậy liên tục. Ðến khi những nhát xẻng đầu tiên xúc hết đất lòi ra một khoảng nylon lớn mầu olive sậm của chiếc áo mưa quân đội, thì Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường thấy hy vọng lắm. Cái áo mưa còn y nguyên. Sau khi khiêng lên trên, mở áo mưa ra thì không còn nghi ngờ gì nữa. Bộ đồ bà ba đen khi tẩn liệm cho Cương tuy mục nát vài chỗ nhưng hình thù vẫn còn.

Cây thánh giá của Mẹ Cương mà Hùng đeo vào cho bạn khi tẩn liệm cũng kiếm ra được, cộng thêm lúc còn sống Cương có một vết thẹo khá lớn trên trán, bây giờ xương sọ của anh vẫn còn một vết mờ nhạt ngay vị trí vết sẹo đó. Ngoài ra cái lọ thủy tinh chứa mảnh giấy để tên anh còn đó đã xác nhận rõ ràng.

***

Hài cốt của Mai Xuân Cương sau mười hai năm, cuối cùng được đưa về nhà đúng như ước muốn của anh trước giờ lâm chung. Sau đó được hỏa thiêu và mang vào nằm cạnh Ba anh trong ngôi nhà thờ họ Ðạo của gia đình. Sự ra đi tức tưởi của anh là một điều đau đớn cho riêng anh và gia đình cũng như bạn bè thân thuộc. Tuy thế vẫn có cái kết cuộc may mắn là anh có được những người bạn tốt như Diệp Phi Hùng, Trần Văn Khỏe, Nguyễn Minh Hoàng, Ngô Văn Cường, Phạm Thanh Tân, Hoàng Lập Thành... đã lo lắng cho anh vào những giây phút cuối. Ðặc biệt là Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường đã hết lòng hoàn thành ước muốn của anh. Cũng như may mắn có được một gia đình thương yêu, quyết tâm mang anh về cho dù sau bao năm tháng. Vấn đề sức khỏe của Ba anh có làm trì hoãn chuyện này, nhưng quyết tâm đó vẫn được nung đúc và cuối cùng vẫn thực hiện được. Anh lại còn có cái may mắn xui khiến các bạn anh gặp được một cựu đại úy bộ đội tốt bụng, biết chỗ hướng dẫn đến đúng nơi anh nằm, từ đó mới có thể đưa anh về nhà được.

Nhưng khắp chiều dài đất nước, chúng ta còn biết bao Mai Xuân Cương khác đã âm thầm ngã xuống. Thân xác còn chôn vùi đâu đó nơi rừng sâu núi thẳm mãi cho đến giờ này vẫn không được biết và không ai đoái hoài tới. Ðất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhưng phải nói chưa có giai đoạn lịch sử nào lại bi thương bằng giai đoạn vừa qua! Thân phận của hàng trăm ngàn người tù cải tạo và gia đình của họ sau cuộc chiến sao mà đau đớn quá!! Công lý nào, quyền lực nào mai sau sẽ có thể đòi lại công bằng cho họ được đây?

Tôi đã xúc động vô cùng khi nghe người bạn cùng khóa và cũng là người trong cuộc, anh Diệp Phi Hùng, kể lại câu chuyện thương tâm trên. Cái thân phận của người lính gãy súng như Mai Xuân Cương và biết bao sĩ quan VNCH khác trong những trại tù cải tạo rải rác khắp mọi miền đất nước sao mà bi thảm quá! Bài viết này được viết qua cảm xúc đó để kính dâng lên các anh, những người đã bỏ mình âm thầm trong những trại tù cải tạo xa xôi, như chút tâm tình riêng của một cựu quân nhân VNCH tưởng nhớ đến những chiến hữu của mình đã âm thầm ngã xuống tức tưởi ở một nơi nào đó. Các anh đã ngã xuống không phải trong một trận đánh kiêu hùng, mà ngã xuống chỉ vì ốm đau, bệnh tật... kết quả của sự đày ải và lòng hận thù hèn mọn.Với ý nghĩ đó, cá nhân tôi xin được vinh danh và chào kính các anh.

(Phố Ðá Tròn, giữa tháng 11 năm 2006)

Những nhân chứng có tên trong câu chuyện trên đây:

1. Cựu Th/úy Diệp Phi Hùng, TÐ16/TQLC hiện đang định cư tại Austin, Texas.
2. Cựu Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng, TÐ3 Nhảy Dù hiện định cư tại Virginia
3. Cựu Th/Úy Ngô Văn Cường, TÐ8 Nhảy Dù hiện định cư tại Philadelphia
4. Cựu Ðại Úy Phạm Thanh Tân, Hải Quân hiện định cự tại Houston, Texas
5. Cựu Th/Úy Trần Văn Khỏe TÐ16/TQLC, hiện định cư tại San Jose, California
6. Cựu Th/Úy Hoàng Lập Thành, TÐ6/TQLC hiện định cự tại San Diego, California
7. Cựu Th/Úy Nguyễn Văn Thu, Ðịa Phương Quân/PCK hiện định cư tại Houston, Texas.8. Cựu Tr/Úy Hoàng (không nhớ họ), Khóa 20 Hải Quân, hiện định cư tại San Jose, CA (?)
... Và người nằm xuống nơi núi rừng Phước Long, Trại 3148, Bù Gia Phúc: Cựu Th/Úy Mai Xuân Cương, TÐ16/TQLC.
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

Mùa Tạ Ơn

Chính Biên
Mùa Tạ Ơn, những cựu chiến binh VNCH xin tạ ơn những gì.

Trước hết, là một người tị nạn CS Việt Nam, người lính gẫy súng xin được tạ ơn những đất nước đã đón nhận mình trên đường tị nạn như Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu và nhiều nước tại Âu Châu. Sự tạ ơn này cụ thể là đến những người dân ở những nước đó. Nhớ lại những ngày đầu tiên được đặt chân trên phần đất tự do, chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu ân huệ, giúp đỡ đến độ có một số người đã lợi dụng sự giúp đỡ đó để mưu lợi ích cá nhân.

Thứ đến là những anh em đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua từng làm nên những chiến tích oai hùng khiến chúng ta khỏi phải cúi mặt khi nhận chịu sự thua cuộc. Cụ thể là năm vị tướng lãnh và hàng chục hàng trăm chiến binh VNCH vô danh đã tuẫn tiết để bảo toàn danh dự người lính VNCH như người lính Cảnh Sát Quốc Gia tự vẫn trước nhà Quốc Hội và những chiến binh nhẩy dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền, ngã tư Hàng Xanh...

Thứ đến nữa là những người tù bất khuất trong các trại tù cải tạo của CS sau 30 tháng 4, 1975. Họ đã làm rạng danh người lính VNCH trong khi ngã ngựa như cựu Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại viết trong cuốn hồi ký “Can trường trong chiến bại.” Họ đã cho chúng ta niềm kiêu hãnh khi đi tị nạn ở nhiều nơi trên thế giới.

Và thứ đến nữa là những người lính già đã gần đất xa trời vẫn còn đội mưa đạp gió dấn thân trong các cuộc đấu tranh chống CS để bị mang tiếng là quá khích đối với nhiều người. Chính những người lính già đấu tranh này đã là những yếu tố để ngọn cờ Vàng chính nghĩa của người Việt tị nạn CS đang tung bay trên khắp thế giới. Chính họ đã tạo nên một VN tự do, nhân bản trước mắt nhân loại khi nhân loại bừng tỉnh nhận ra cái họa Cộng Sản đối với con người.

Và sau chót là tạ ơn đến những người đàn bà Việt Nam, những người vợ lính. Sự hy sinh của họ trong cuộc chiến VN và thời hậu chiến tranh so ra cũng không kém giới tu mi nam tử. Chính họ là những người gìn giữ được nếp sống truyền thống VN cho con em suốt trong thời gian chiến tranh và nhất là sau ngày chiến tranh chấm dứt, họ đã thay chồng chống đỡ cho gia đình trước cơn giông bão đổi đời.

Mỗi năm chúng ta đều có một Mùa Tạ Ơn để suy ngẫm đến cuộc sống của mình. Chúng ta đã làm gì từ ngày ra khỏi ngục tù của Cộng Sản. Bao nhiêu năm tháng trong ngục tù ấy chúng ta đã mơ những “mộng lớn, mộng con” nào khi thoát khỏi ngục tù nay đã làm được bao nhiêu.

Những câu trả lời nhân trong Mùa Tạ Ơn này xin để mỗi người chúng ta nhận định để sự tạ ơn không chỉ là theo truyền thống của đất nước và người dân Hoa Kỳ.
buikiem
Posts: 504
Joined: Sat Sep 22, 2012 12:45 am
Contact:

Post by buikiem »

Một lời xin lỗi chân thành

Bùi Bảo Trúc

Nói theo một lối nói của người Mỹ mà nay nhiều người chúng ta đã rất quen, là tôi nợ những bản nhạc mà chúng ta thường gọi là "nhạc lính" một lời xin lỗi. Một lời xin lỗi thật lớn, thật chân tình nhất và thành thật nhất.

Xin lỗi những bản nhạc lính, những người trình diễn chúng, những người yêu chúng, không chỉ một, mà một ngàn lời xin lỗi. Một vạn lời xin lỗi. Mà vẫn thấy chưa đủ.

Một buổi tối tuần trước, ngồi với Phan Nhật Nam, chúng tôi nhận ra một điều là cuộc chiến Việt Nam bi thảm và vô cùng tàn bạo nhưng đã để lại cho chúng ta, những người ở miền Nam, một kho tàng hết sức quí báu, đó là những bản nhạc viết về những người lính trong chiến tranh, và tuy ngày nay, cuộc chiến đã kết thúc, những bài hát ấy vẫn còn ở lại với chúng ta và chúng vẫn còn tạo ra biết bao nhiêu là cảm động, biết bao nhiêu xao xuyến, và vẫn còn được hát lên để nhớ lại nguyên một thời binh đao tưởng như cung kiếm đã xếp lại, bụi dầy đã phủ kín. Bức tượng người lính dáng điệu mệt mỏi ở lối vào Nghĩa trang quân đội Biên Hòa bị kéo sập không biết nay ở đâu nhưng những bài hát viết cho những người lính này vẫn còn ở mãi với chúng ta.

Những bài hát đầu tiên về những người lính ấy mơ hồ tôi nghe từ chiếc radio trên căn gác ở Hà Nội của người chú... Bài Chiến sĩ của lòng em với những câu "... khi nước nhà phút ngã nghiêng em mơ người trai anh dũng mang thân thế hiến giang sơn chí quật cường hiên ngang... chiến sĩ của lòng em đắm đuối ước mơ ở chiến trường xa dãi nắng dầm mưa nhịp bước oai hùng chàng tiến trong tim em trong khi vang ca say theo chiến thắng..."

Vài tháng sau chú tôi tử trận.

Vào Sài Gòn, khoảng năm 1957, tôi nghe bài Em gắng chờ của Huỳnh Anh và yêu ngay những câu này: "... vai súng hiên ngang hẹn cùng người cũ... trong bóng vinh quang rộn ràng anh bước hiên ngang về làng trời Nam hân hoan reo vang thanh bình ca..." Tôi yêu bài hát ấy vì một cô bạn hàng xóm, tưởng tượng cô là người đứng trên bến sông...

Nhưng đó mới chỉ là những bài hát về lính còn quá hiền lành, khi cuộc chiến chỉ mới bắt đầu... Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới gốc dừa nắng chiều lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ... anh chiến binh tiền tuyến ơi về giải phóng quê hương...

Một thời gian sau, vài ba người bạn trong lớp bỏ học lên đường nhập ngũ... bạn ơi, mai này ai hỏi đến tên tôi, thì xin hãy đáp khoác chiến y rồi... người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền... Lời ca lãng mạn, hơi bầy đặt, rẻ tiền nhưng tội nghiệp vô cùng. Tôi nhớ một tối lén đi uống bia với người bạn tiễn chàng đi lính. Bài hát ấy được hát lên bởi một người bạn bên những chai bia đầu tiên. Nội trong năm ấy, cả hai đều chết trận.

Hai năm sau, tôi đi học xa, mấy năm sau mới về. Tôi không nghe những bài hát ấy nữa. Tôi nghe Beatles, rock, nhạc cổ điển Tây phương, nhạc đồng quê, nhạc dân ca Mỹ, nhạc phản chiến... Ở Việt Nam, cuộc chiến đang trở nên khốc liệt hơn. Những bản nhạc tôi nghe trong những năm xa nhà là thứ nhạc hoàn toàn khác. Bob Dylan, Joan Baez, Peter Paul & Mary, Pete Seeger... cũng nói về chiến tranh đấy, nhưng trở lại Sài Gòn tôi mới lại được nghe những bản nhạc lính mà tôi đã bỏ quên đi trong suốt những năm xa nhà. Thư nhà cho biết dăm ba người bạn cùng lớp đã truy thăng thiếu úy...

Sáng nay vừa thức dậy, nghe tin em gục ngã nơi chiến trường... trong vườn tôi vô tình hoa tường vi vẫn nở thêm một đóa... Nếu em không là người yêu của lính... tên thật là em các bin, họ hàng em có trăm nghìn... từ ngày tôi lên cai việc làm tôi rất nhiều, binh ngoan cho nốt tốt, lười cho coóc vê... đi quân dịch là thương nòi giống... hãy nhớ tới anh luôn luôn, yêu em vì lòng chờ mong... anh đi chiến dịch... lòng súng nhân đạo cứu người lầm than... anh là lính đa tình... phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên...

Trở lại Sài Gòn, những buổi chiều trong quán nước mở trang báo ra đọc thấy tên bạn bè mấy người trên trang cáo phó chết trận cao nguyên.

... viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu... đừng trước ngõ cũ nghe giặc tràn qua thôn xóm... thăm em dăm ba ngày rồi anh đi... xuyên lá cành trăng lên lều vải... chiều mưa biên giới anh đi về đâu... anh không chết đâu anh, người anh hùng Mũ Đỏ tên Đương... quỳ hôn đất thân yêu, Quảng Trị ơi mừng quê hương giải phóng...

Nhạc Việt đã đổi khác... em ngại ngùng dạo phố... bên người yêu tật nguyền... anh trở về trên đôi nạng gỗ... bại tướng cụt chân...

Những bài hát như thế phải có cả trăm bài cho đến nay vẫn còn được hát lên. Hát để nhớ lại những bất hạnh của một thời tuổi trẻ. Những chuyện đáng lẽ phải quên đi. Nhưng những chuyện đó cũng lại là một phần của đời sống chúng ta.

Chúng ta phải cám ơn những bài hát ấy mặc dù chúng bi thảm, đau đớn. Chúng vẫn nhắc chúng ta về những thương tích không bao giờ lành trên cơ thể của mỗi người.

Trong khi những người lính miền Bắc không có được những bài ca như thế. Chỉ là những bài ca đặt hàng, ngợi ca lãnh tụ hay những tiếng chầy trên sóc Bom Bo cum cụp cum... tìm diệt Mỹ giải phòng cho dân mình... bóng cây kơ nia, tiếng đàn ta lư...

Họ không có được những ca khúc nên hồn để còn hát lên được cho mãi tận này hôm nay. Trong khi những mất mát của họ không hề nhỏ. Nhưng ngày nay, còn đươc mấy người hát những bài hát ấy. Và nếu hát chúng lên thì có được bao nhiêu người xúc động?

Cám ơn những bài nhạc lính. Xin lỗi những bài nhạc lính, những bài nhạc có một thời mà không ít người trong chúng ta đã coi thường nó, cũng có thể đã khinh bỉ nó, coi nó là quê mùa, sến... trong khi chúng hay biết là chừng nào. Nửa trên vĩ tuyến 17 không có được một nền nhạc như thế.

Tôi thành thật xin lỗi những bài nhạc lính, xin lỗi các tác gỉả, những người hát chúng, một trăm ngàn lần.

Mà vẫn thấy chưa đủ.
KýCóp
Posts: 1118
Joined: Tue Jun 29, 2010 1:44 am
Contact:

Post by KýCóp »

TÔI GỌI HỌ - NGƯỜI LÍNH VNCH - LÀ ANH HÙNG

Đặng Chí Hùng


- Trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” như tôi từng chứng minh trong 2 bài “Những sự thật cần phải biết – phần 1” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng…

Cứ mỗi độ xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thí ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là “Chiến thắng lẫy lừng” thì tôi lại phải xuống bút.

Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc “Ngụy” để mà đi “chống phá” cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng…

Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ – phần 13”) thì kẻ thắng đã được đặt vào thế “được thắng”, còn người “thua” thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở “Những sự thật cần phải biết – phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!

Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ – những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?

Thứ nhất, trong khuôn khổ bài 1,2 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh rằng: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.

Thứ hai, với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự – trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản (Xin xem thêm “những sự thật cần phải biết – phần 3,4”). Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?

Thứ ba, nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những ông tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng… Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.

Thứ tư, khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và còn “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?

Thứ năm, sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản.

Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!

Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH – Những người anh hùng – Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu!

Đặng Chí Hùng
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Nhớ về An-Lộc !!!


Nguyễn Sơn
Cho đến nay, đã hơn ba tháng tôi sống nơi đây mà vẫn chưa quen được với giờ giấc và thời-tiết. Đã đành đang Đông nên mặt trời thường “đi ngủ sớm”. Nhưng trong người tôi vẫn thường bị xây xẩm hoặc bị ảo-giác về giờ-giấc. Có khi đang trưa mà tôi cứ ngỡ là nửa đêm. Nên thường nhìn đồng-hồ là vậy.

Bây giờ đã hơn 1 giờ. Tôi biết chắc điều này vì ngoài trời mờ ảo với ánh đèn nhiều màu của thành-phố. Tuyết đang rơi thì phải. Hơn một tiếng đồng-hồ trước đây tôi đã thức giấc trong tiếng chuông điện-thoại. Người đã gọi, tôi không quen hay đúng hơn là tôi không nhớ. Anh đã nhắc nhiều đến Biệt Cách Dù trong đó có cả chị. Sau đó tôi đã không ngủ được. Tâm trí cứ vẫn-vơ nghĩ đến chuyện cũ An-Lộc năm xưa, đưa tôi vào ảo-giác chiêm-bao, trong mê tỉnh thực mộng…Tôi đã quên tôi trong hiện-hữu lạnh lẽo giá băng, trong thực tại tha-hương kiếm sống… tôi nhớ thật nhiều đến một mùa hè rực-rỡ, trong lửa đỏ Bình-Long, đến chị.


*****

Ngày 16/4/72 tôi đứng trong cơn chiều gió-lộng, trên một đỉnh đồi phía Đông không xa đồi Gió để nhìn vào An-Lộc. Nhìn con đường ngoằn-ngoèo, quanh co dẫn vào nơi khói lửa đó, lòng tôi bỗng dưng nôn-nao vô cớ, như lần hẹn hò với người tình đầu đời của tuổi học trò. Đêm tôi thao-thức với âm-thanh đạn nổ hai lần từ trời cao vọng xuống lẫn trong tiếng động-cơ con tàu C130 văng-vẳng khi gần, khi xa đã khiến tôi không sao nhắm mắt được với điệu ru buồn bã này. Sáng hôm sau, đơn-vị tôi vào An-Lộc- con đường ngoằn-ngoèo bỏ lại sau lưng.

Chúng tôi đã đi qua những buôn làng xám ngắt trong tro tàn vắng lạnh. Chúng tôi đã đi qua những vườn tiêu xanh tươi trong nắng vàng ban mai và trên con đường rợp bóng mát cao-su. Chúng tôi đã vào An-Lộc để mai này nối tiếp đi lên phía Bắc – lên đỉnh đồi Đồng Long…

Đoạn đường không xa để đi qua thị-xã nhỏ bé này, để đến đồi Đồng-Long cùng với thời-gian không dài trong thế-kỷ 20. nhưng chúng tôi đã đi không tới trong một sớm một chiều, một ngày một đêm. Bởi thời-gian không tính bằng phút, bằng giây mà nó đã định bằng âm-vang đạn nổ, bằng hàng vạn lượt pháo bắn vào thành-phố này. Con đuờng chúng tôi đi tới, không đo bằng gang tấc mà bằng từng giọt mồ hôi và nước mắt của người lính và gia-đình. Con đường bằng máu trơn trợt trong điêu tàn khi lên khi xuống như bể khổ trầm-luân… Đồi Đồng-Long như ảo-giác ốc-đảo trong sa-mạc, khi trước mắt khi xa xăm, lúc chờn-vờn lung-linh trong bão lửa, lúc biến mất trong sương mù nhuộm khói…An-Lộc chìm ngập trong tiếng nổ và lửa cháy suốt 60 ngày như đêm bạo chúa Neron đốt thành-trì, đốt cư-dân để tìm hứng thơ…

Chúng tôi đã đi qua được trận bão lửa này, trong tình bạn đồng-đội và hy-sinh để đến được đồi Đồng-Long và Hớn-Quản, ngoại-biên cực Bắc của thành-phố. Ngày 12/6/72 đồi Đồng-Long ngạo-nghễ nhìn quân Bắc-Việt tan-tác tháo chạy dưới chân…chấm dứt tham vọng của “cáo miền Bắc” đội lốt “chồn miền Nam” nối liền Lộc-Ninh, An-Lộc làm thủ-phủ xâm lấn miền Nam.

Đêm nay trong cảnh rét mướt của xứ người, lòng tôi bỗng nhớ lại chuyện máu lửa xa-xưa. Chuyện mà mấy ai còn nghĩ, còn nhớ đến trong cuộc sống vội vã bon chen này. Vả lại để làm gì, khi nó là một kỷ-niệm không thuộc về mình. “Ai dư nước mắt khóc người đời xưa”phải không chị? Ngay chính tôi cũng vậy. Dù là người mới đến nơi đây, chân chưa cạn vết nứt-nẻ bùn đen, mặt chưa phai màu nắng cháy quê-hương và lòng còn nặng biết bao điều nắng mưa ở Việt-Nam, cũng đã phải theo chân bạn-bè đi trước, kề vai vào gánh vác cuộs sống, chạy đôn chạy đáo rao đổi mồ-hôi lấy bạc cắc, không đủ thời-gian để viết lá thư tình với năm ba chữ yêu-thương…Vậy mà đêm nay, quên cả đêm dài cần-thiết để lấy sức cho ngày mai còng lưng kéo cuộc sống, lại ngồi chong đèn, bút giấy nói chuyện đời xưa với chị. Hẳn là chị phải ngạc-nhiên? Ở đây tôi không nghĩ về chị như thế nào? Nhưng tôi đã nghĩ nhiều đến bạn bè của tôi đã sống và chết như thế nào mà đã gây cho chị một xúc-cảm đặc-biệt để viết thành hai câu thơ:

“An-Lộc địa, sử ghi chiến-tíchBiệt-Cách Dù vị Quốc vong thân”

Tôi cũng không nghĩ đây là bản “phong-thần” mà mặc-nhiên chị đã dành cho chúng tôi- những người lính BCD. Điều mà tôi đã cảm-nhận được ở đây – ở chị – chị đã nhìn thấy chúng tôi đã chết từ “chiến-tích” để được sống lại trong “sử ghi” và cũng vì “Vị-Quốc” nên chúng tôi đã không còn chọn lựa nào khác hơn là “hy -sinh” phải thế không?…Tôi rất cảm-kích về điều của chị và có lẽ những anh-linh của bạn bè tôi cũng vậy.

Đó là chuyện “An-Lộc địa” và cô Pha ngày nào. Còn chuyện của tôi ngày xưa ở chiến-trường An-Lộc với chị ngày nay ở Cali – Đông có nắng vàng ấm-áp, hè có gió mát lá bay. Nơi chị đang an vui với gia-đình và bạn bè. Tôi cũng đã được lắm bạn bè nghĩ nhớ đến tôi cũng như tôi thường nghĩ nhớ đến họ. Những người đang sống và đã chết. Những người bạn thân-thiết cơm gạo sấy, nước trên ngàn của một thời chinh-chiến loạn-ly…Một Dung,Khánh, Mỹ, Thể…Một Huyên, Cường, Châu, Chính, Khoẻ…Tên của họ như vòng hạt chuỗi thẻ bài mà tôi đã từng mang nó trong năm tháng đời lính để ngày nay trở thành những mắt xích ràng buộc tôi với họ trong nỗi nhớ của tâm-hồn và vĩnh-viễn trong mai kia, dẫu tôi có sống dư thừa trăm năm, thế-sự có trầm-luân biến đổi đến đâu nữa – hình ảnh họ vẫn nguyên lành trong tôi với những đặc-điểm ở họ tôi đã mến thương.

Ghi chú của Minh Hiếu:
-Tòa nhà lớn 3 tầng là Trường tàu Quốc Quang
- Căn nhà 2 tầng phía bên kia đường là nhà của đại uý Hiệp hội đồng tỉnh Bình Long, có hai chiến xa T54 và PT76 do Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 52 Biệt Đông Quân bắn hạ, đây là ngã tư Quốc Lộ 13 và Đại lộ Trần Hưng Đạo còn dược gọi bằng một cái tên rất thơ mộng là Đại Lộ Hoàng Hôn

Những người lính chúng tôi đã không tiếc thân mình, thì với chiến-trường nào cũng vậy, chỉ có máu đổ chứ không có lệ rơi.Nước mắt không còn rửa được hận thù và lệ rơi không ngăn được mưa pháo đạn bay nên đã xem chuyện “tử -biệt sinh ly” như chuyện tương-lai trước mắt. Kẻ trước người sau rồi cũng đến phiên như một phiên gác đêm của người lính trong đời sống súng đạn mà thôi. Tôi đã từng sống bên những xác bạn bè còn nóng máu chảy, và nhìn thấy khuôn mặt còn tươi tỉnh, bình-thản tắt thở. Tôi bình-thản đợi chờ đến phiên mình, có lúc đã quên cả tiếng thở dài để chào người nằm xuống…

Nhưng chị có biết không? Tưởng như vậy là hết, là quên, quên người, quên tên, quên cả kỷ-niệm và phiên mình chờ mãi vẫn không thấy đến. Không được chết vinh nên tôi đã phải sống nhục trong suốt 20 năm qua mà vẫn chưa yên…Để đêm nay lại đến với tôi, cuộc sống hiện-hữu, những hình ảnh của người chết trong vọng-tưởng hư-vô. Dẫu giờ đây cơm gạo sấy không còn, chiến-trận không còn sau 75. Bạn bè vẫn còn chập-chờn trong trí tôi. Bãt chợt đâu đó ở ngoại-cảnh, cũng có thể đưa tôi trở về dĩ-vãng để được gặp lại họ trong đời chiến-binh. Dẫu là mơ màng mộng tưởng nhưng đó cũng là nơi trú ẩn bình-yên duy nhất của tâm-hồn tôi giữa cuộc sống phàm-tục gian-truân này.

Những tháng ngày lưu đày, hay bên đường xuôi Bắc ngược Nam, lúc nhai củ sắn, khi gặm củ khoai. Cuộc sống nối tiếp qua những trại tập-trung đày ải của người anh em bắt làm thân trâu ngựa, kéo cây đẵn gỗ trên ngàn, lặn sông, lặn suối vớt đá đắp đường. Để rồi khi đông qua rét mướt đẫm mồ hôi, hè đến trong nắng lửa, ngất xỉu bên luống cày cạn khô lao-lực. Họ đã lấy hung tàn để cạo rửa lý-trí, vắt cạn sức lực con người bằng miếng ăn họng súng. Đưa con người trở về với bản-năng sinh-tồn của một sinh-vật, và trong cuộc sống yếu đuối tận cùng này, bạn bè như hiển-linh đến với tôi trong dáng điệu nụ cười. Khi bên bờ suối hoặc đình non cao, lúc chờn-vờn trong mây trong gió như khuyến-khích an-ủi vỗ-về; hãy ráng lên sống với giả-trá vinh-quang và khổ nhục để tồn tại, hãy nghĩ đến vài trăm hạt bắp cuối ngày, thuốc cầm hơi để kéo dài kiếp sống lưu-đày mà bạo-lực đã ban cho. Tôi đã sống qua những ngày tơi-tả trong manh áo hai màu thay da bọc xương. Tôi đã thấy từng toán người không vải che thân, da nhăn-nheo thiếu máu lùa xuống ao nhúng nước như những đàn dị-vật hai chân. Tôi đã thấy tôi trong đoàn người cùng khổ đó. Chúng tôi đã mất tất cả danh xưng làm ngưòi để thấp kém hơn cả những loài thú-vật nuôi trong nhà. Nhưng trong tôi luôn luôn vẫn còn niềm tự-hào của đơn-vị, của bạn bè để làm vốn liếng cho cuộc sống tinh-thần và mỉm cười với hai chữ “sa cơ” và “thời -thế”.

“Thập tam niên” lưu đày không là bao so với thế kỷ, với lịch sử loài người. Nhưng cũng là một sự mất mát đáng kể cho một đời người dù là trăm năm phải không chị? Tuy-nhiên đây không phải là một lời than – một sự tiếc nuối cho cá-nhân tôi hay cho bạn bè cùng thời. Giá gì 13 năm không ra chi đó mà nhắc nhở! Nếu có chăng chúng ta hãy nghĩ giùm đến hàng bao thế-hệ con trẻ của chúng ta đã bị trì trệ trí tuệ, mụ mẫm trong kiêu-căng phi-nghĩa, phi-nhân – Quên Cha ông, Tổ-tiên, Giống nòi trong hai tiếng “anh ,tôi”. Để chỉ biết có loài khỉ vượn ăn trái, ăn cây làm nên sự-nghiệp bác đảng. Con tôi không hiểu chữ “Hiếu” chữ “Ân”chữ “Tôn”, chữ “Kính”, không học Ngũ thường của Khổng Tử dạy làm người, mà lại thuộc lòng năm điều bác dạy như vẹt nói tiếng người. Tôi nhìn trong gia-đình với những xót-xa đổi thay và thấy ngoài xã-hội với những đổi mới kỳ-quặc. Tôi đơn-côi và bơ-vơ trong cuộc sống nửa khóc nửa cười này.

Giờ đây trong đêm khuya khoắt, bên đèn chiếc bóng. Bạn bè lại đến trong giọng nói điệu cười, cho tôi được một lần vui trong ngày, để sau đó tôi lại trở về với lặng câm của cơn buồn cuộc sống, của dĩ-vãng một thời làm lính và một thời đi tù.

Tôi đã không nghĩ đến bà con thân-nhân hay người yêu thưở nhỏ, hoặc cuộc sống mai đây sẽ khá hơn trong kiếp sống ly-hương này. Tôi sẽ có “job” mong ước khiêm-nhường của kẻ mới tới – để được chút tiền sống cho nình và cho người… Điều mà tôi nghĩ ở đây là những bạn bè của tôi không còn trên cõi đời này, những người đã chết không đám tang, không thay áo mới giữa chiến-trường. Họ đã trả lại cho đời sống cả tuổi thanh-xuân lẫn gian-truân một thời. Họ đã thảnh-thơi ra đi không bận với những gì còn lại và tiếp-diễn trên thế-gian này, dù là đầu đạn màu đồng hay những mảnh gang thép đã ghìm sâu vào thân thể, hay chiếc thẻ bài trắng bạc buông thòng trên cổ khi họ tắt thở – họ bình yên trong hai tiếng “trận -vong” thế là hết – một đời làm người!.

Nợ nước, nợ đời họ đã trả. Nhưng tình nhà ra sao hở chị? Những mảnh khăn tang ngày đó không đủ phủ-kín nỗi sầu-bi, tiếng nấc nghẹn-ngào của vợ con. Những tha-thiết nhung nhớ ngày đó của người tình, người yêu – bây giờ chắc cũng đã quên…Nhưng sao hôm nay lòng tôi bỗng dưng lại bồi-hồi xúc-động nhớ đến họ…

Hơn 20 năm qua cứ mỗi lần nghe ai đó nhắc đến An-Lộc tôi lại một lần nhớ đến bạn bè – nhớ đến chị. Tôi nhớ đến những người đã chết nơi này và nhớ đến chị đã sống nơi đó. Tôi nhớ đến những người đã tạo nên chiến-tích cho đơn-vị bằng cái chết của mình và nhớ đến hai câu thơ của chị đã làm cho họ sống lại trong lòng mọi người. Và tôi nhớ đến ngày chị bị thương như một sự an-bài để “Ta quen nhau hề Lý-Bạch lưu linh…” vì “an bài” nên chị đã may mắn thoát khỏi quả pháo đến đón chị vào số phận “hồng -nhan bạc mệnh” hay nửa đời người làm “bại tướng cụt chân”. Đáng ra vết thương này phải là của chúng tôi – những người trực-diện đối đầu phía trước – để cho mọi người – cho chị tay không cầm súng được an-lành. Nhưng chị biết đó, những viên đạn đồng đâu có hồn để biết đau thương, những viên đạn đầu đen mang gang thép ngoại-nhập nào có biết nhân-tình. Dù cho một em bé tuổi chưa thôi vú mẹ, nuôi chưa tròn tiếng gọi mẹ cha, hay ông cụ bà lão tật nguyền chống gậy khấp khểnh trên đường ve”Qui-Tiên”. Ở chiến-trường này đạn pháo của địch đã không nhân-nhượng khoan-dung cho bất cứ một thứ gì. Từ một bàn thiêng trước ngõ cho đến một con chó lạc chủ lang-thang bên đường. Tãt cả phải huỷ-diệt. Đó là điều mong muốn của địch. Họ đã dùng pháo để băm vằm thành-phố, băm vằm chúng tôi – những người lính đã quyết tử với họ…để giữ cho An-Lộc được tồn tại trên phần đãt tự-do miền Nam.

Bầu trời An-Lộc xưa nay vẫn đẹp trong nắng hồng trời xanh, đều đặn hai mùa nắng đẹp, mưa vui, cho cây lá thêm tươi và vì là một tỉnh lẻ địa-đầu nên một sư-đoàn cùng hàng ngàn chiến-xa. đại-bác từ phương Bắc xuôi Nam tràn vào tàn phá chiếm giữ. Bàu trời bỗng dưng rực đỏ mầu hồng cùng với khói đen. Tai ương đến – khu Kito nhuộm máu giáo-dân trong buổi cầu kinh – Chúa vẫn buồn dang tay chuộc tội thế-nhân, mà người vẫn đa mê trong tội ác. Chùa xụp đổ, chẳng còn kinh mõ, Phật từ-bi rơi nước mắt khóc điêu-linh, cuộc thế trầm-luân.

Đoàn quân CS vượt sông Gianh, Bến-Hải, xuyên Trường Sơn qua biên-giới. Ngày đêm ì-ạch khuân vác chiến-cụ ngoại-bang vào Nam. Người anh em chỉ nhằm mục-đích “giải-phóng” san bằng tự-do thanh-bình của người dân Nam để cùng nghèo đói gông cùm miền Bắc, trong giáo-điều bạo-tàn nô-dịch dân-tộc. Chắc chị cũng đã nghĩ như tôi, chắc chị đã không đau vì vết thương trên da thịt mà đã ray rứt về nỗi tủi hờn của một kẻ yếu đuối nữ-nhi, tay không cầm súng, không quen phong-trần cùng với gió sương. Chắc chị đã tiếc mình là nhi-nữ, không là Triệu-Ẩu, Trưng-Vưong, để phải lắm phen quay quắc trong hãi-hùng. Từ toà Hành-Chánh hay ga xe lửa, khu Kito hay trường học – chị lang-thang không nhà trốn giặc, trốn đạn khắp thành-phố bị bao vây nhiều ngày này và chị đã đến đây. Chị đã thấy gì hơn những nơi khác? Củng đổ nát điêu-tàn, cũng pháo rơi đạn nổ vung vãi khắp phố xá nhà cửa của dân lành. Địch nhằm mục-đích gây khủng-hoảng tinh-thần chúng tôi để chờ thời-cơ tiến đánh, nên đã ngày đêm không tiếc đạn bắn phá chúng tôi. Nhưng chị cũng thấy đó, chúng tôi vẫn thảnh-thơi vui cười – chờ địch đến như chờ cuộc chơi. Và với không khí lạc-quan đó đã khiến cho chị cảm thấy dễ chịu bình-yên hơn, tin tưởng hơn – dù một chút tin-tưởng đến muộn nhưng đã giúp chị thoát khỏi sự ám ảnh nào đó của âu lo…khi nghĩ đến cảnh phải ngồi co-ro ở một xó-xỉnh nào đó mà quyền làm người của chị lệ-thuộc vào họng súng AK, liệu chị có còn dám ngước mắt nhìn thẳng mặt họ mà vui cười như nhìn chúng tôi hay không? Hay chỉ biết cúi mặt chờ đợi – Những đầu ngón chân đen đúa đường xa của bọn chúng, chị sẽ nhìn thấy ở đó, một phần nào số phận của mình sẽ được định-đoạt. Chị sẽ bị mang ra bắn bỏ hay chôn sống. Có thể họ sẽ tha cho chị tội chết nhưng sẽ bắt chị phải đền tội sống. Tội làm người ở đãt nước tự-do, tội làm một cô giáo tỉnh lẻ hay viên-chức phụ-động ngày hai buổi đi về không biết hoan-hô, đả đảo…Chị sẽ được giáo-dục lao-động là vinh-quang làm theo sức trâu bò quên ngày, quên đêm là tiên tiến, là mũi nhọn công đầu…Chân chị sẽ chẳng còn guốc hồng dép trắng – chẳng còn nuột-nà gót sen và đôi tay của chị trau chuốt một thời sẽ nhăn-nheo héo úa bởi bùn đen đãt đỏ, bởi gai đâm vết cắt…tâm-hồn chị sẽ chai lì trong ê-chề buồn thảm để đến lúc chẳng còn biết mình là ai. Năm qua tháng lại chị sẽ trở thành một tên nô-lệ chuyên-nghiệp của chiến-trường xuôi Bắc ngược Nam, quên cha quên mẹ, quên cả người tình…Ngày ngày vác sắn,tải đạn, khiêng thương binh, chôn xác quân thù. Đêm về ngồi xếp bằng vỗ tay ca hát như lũ con nít vừa mới lên năm. Cuộc đời rồi cũng tàn-tạ rơi-rụng như chiếc lá úa trên rừng…Gương Mậu-Thân ngày nào ở Huế, chắc chẳng mấy ai quên…

Sống nơi này với chúng tôi chị đã cảm thấy dễ chịu bởi chúng tôi đã không vướng bận với cái sống, cái chết, nên chị cũng đã bỏ lo đi để bình-thản. Rồi một đêm mùa hè trăng soi, chị đã quên cuộc sống dẫy đầy chết chóc, đau thương, chị yên tâm quên pháo, nằm dưới hiên để ngắm chị Hằng lững-lờ cùng trời mây. Chị có nhớ Lý-Bạch đã chết vì trăng không? Tôi không hiểu Tô-đông-Pha đã chết như thế nào? Nhưng tôi đã biết rõ chị Pha đã thoát chết trong một đêm mưa pháo của trận chiến An-Lộc. Và chị đã không chết ngay tại chỗ nhưng với vết thương đó liệu chị có nghĩ đến “Mỹ nhân nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa dương gian…” không?

Đấy, chị đã sống gần chúng tôi bao ngày trận chiến hung hiểm. Chị cũng đã từng thấy chúng tôi ngã gục trên chiến-hào, hay bao phen thay phiên mang thương tích để giữ đất và giữ nước. Chị cũng đã nhìn thấy những nấm mồ chôn vội vã bên cạnh chúng tôi. Với một nấm mồ có gì để đáng nói! Nhưng với chúng tôi đó là những nấm mồ mà chúng tôi đã đắp lên cho bạn bè bằng tất cả tình huynh-đệ thân thương…Chị đã thấy, trong những đêm mưa tầm-tã lẫn lộn với pháo rơi, chúng tôi đã phải mò-mẫm từng tấc đãt trong bóng đêm để bới những cái hố nhỏ chôn mình tránh pháo rồi mới đào những huyệt lớn để chôn xác bạn sau. Chúng tôi đã xem thường cái chết trong lúc chiến-đấu một mất, một còn với địch bao nhiêu, quý xác bạn bè khi nằm xuống bấy nhiêu. Đôi khi thật vô-lý – khi một người chết lại phải mất thêm một vài người sống chỉ vì một cái xác không hồn. Nhưng tình-cảm riêng của chúng tôi, nó có lý lẽ riêng của nó…và chúng tôi đã tồn tại được trong gian-nguy khắp chiến-trường dạo đó, một phần cũng nhờ vào tinh-thần đồng-đội “sống chết có nhau”.

Có lẽ ở đây chị cũng đã nhìn thấy được ở chúng tôi điều mà chúng tôi đã không thấy. Đó là thân-phận thật nhỏ nhen của một người lính khi sống cũng như lúc chết và sự hy-sinh hào-hùng lớn lao của họ mà thế-nhân ít kẻ thực-sự nhìn thấy. Lẽ dĩ nhiên đôi khi chúng tôi cũng được ca tụng, ngợi khen, có lúc cũng đã phải thẹn-thùng bởi vì nó đã vượt quá điều chúng tôi nghĩ, chúng tôi làm. Và, chị là một – một chứng-nhân cho sự sống chết và hy-sinh bên nhau của chúng tôi. Nếu chúng tôi là những tên giác-đấu khô cằn sắt đá, chỉ biết đi tới trong bước chân Robot người máy, hoặc quay lưng lại chạy trước, quên sau, không cần biết bạn bè chiến-hữu thì chúng tôi cũng đã tự huỷ-diệt từ lâu. Và bây giờ cũng chẳng còn gì để nói với nhau, với chị. trong cái nhìn của chị về chúng tôi, cũng như đã cảm-nhận được những gì mà chúng tôi đã có. Cái đau hành xác của vết thương thiếu thuốc. Cái chết lơ-lững trước mắt trong lằn đạn địch bắn tới. Cái”lạnh cẳng” khi đôi chân vướng vít giữa những lằn đạn bắn ngang dọc, và nhất là tiếng nổ của viên đạn pháo rơi kề cận, là một điều thật hiếm hoi để cho chị phải nhớ mãi. Bởi những trường-hợp như thế này ít khi còn dịp để cho mình nhớ lại cảm-giác lúc đầu. Vì mình sẽ không còn nữa, và linh-hồn không biết có mang theo để nhớ lại ở đâu đó không? Chị cũng đã từng chung niềm vui với chúng tôi trong những khi chiến-thắng và cũng đã cùng buồn trong những lúc chiến-bại. Chị là chiếc bóng kề cận, là chứng nhân, là chiến-hữu của chúng tôi. Dù không súng đạn ba-lô, không mang cấp bậc số quân, không ai tuyên dương chị nhưng chính chị đã tuyên-dương chúng tôi, đã khiến cho mọi người nhìn thấy chúng tôi trên khắp chiến-trường giông bão chống giặc Bắc-phương ngày đó qua “An-Lộc địa”của chị và mãi cho đến bây giờ hoặc mai sau.

Hơn 20 năm qua, chị nghĩ chúng tôi, những người lính đã sống và chết trong trận mạc còn gì. Tôi không nghĩ sự hy-sinh của chúng tôi hay Việt-Nam còn gì? Còn chăng đó một sự mất mát không tìm lại được cùng với những nỗi cay đắng nhọc nhằn mà người sống đã phải gánh chịu cùng với vết tích của người chết cũng chẳng còn. Ngay cả những ngôi mộ vốn dĩ đã mang tiếng là “mồ viễn-xứ”dù quanh năm nhang tàn khói lạnh cỏ mọc mồ xanh, nó vẫn là một ngôi mộ. Tên tuổi, ngày tháng sanh, tử vẫn in vết trên bia dẫu đã rêu phong cát phủ. Vết tích khiêm-nhường của một người lính chừng đó còn lại trên cõi trần đời. Thế mà tàn cuộc chiến mồ hoang cũng chẳng còn. Sự thù hận Nguyễn-Ánh – Tây-Sơn mấy trăm năm lịch-sử được lật ngược để đào mồ, cuốc mả trả thù. Dù là mồ mả của một người lính súng dài không quan tước, quyền hành. Tôi chợt nhớ tới tưởng người lính màu đen bên đường xa-lộ Biên-Hoà, mà xưa kia ai qua lại cũng phải ngó, phải nhìn với thoáng suy-tư trầm-mặc, cũng như đã có biết bao điều hư thực được người ta đồn đãi chung quanh tượng người lính này. Chuyện đêm đêm người lính rời bỏ bục ngồi lang thang đi dạo dọc theo xa-lộ, vào nhà dân xin nước, chờ khách qua đường để xin lửa hút thuốc,v.v..những câu chuyện mà thường nhật của một người lính đang sống thường làm vô thưởng vô phạt mà đôi khi còn được coi là dễ mến, dễ thương. Tôi không hề nghe kể chuyện tượng lính đó đã gây ra những điều huyền-bí, kinh-dị, sợ hãi cho một ai. Nay cũng được tròng dây kéo đổ, gãy cổ bể đầu lăn lóc dưới đãt – thật khó coi – nhưng cũng thật bất-nhẫn. Cũng như di-vật của em tôi – một phi-công – tấm thẻ bài, bộ đồ bay không nghĩa gì cả – cũng được gọi là “giặc lái” mang ra xiềng xích trưng bày, phỉ nhổ…Tôi không hiểu nổi – vật của người chết có hồn hay hồn của người sống vô-tri…Tôi đã lang-thang qua những nghĩa-trang Bắc-Việt, Mạc-đỉnh-Chi để nhớ lại một thưở nào kỷ-niệm học trò đi tìm im vắng. Giờ đây trong nỗi buồn vô-vọng của kẻ mất cuộc sống, tôi trở lại chỗ này chỉ thấy toàn hố trũng hoang-tàn đổ nát. Tàn tích của một sự bới móc không khoan nhượng. Tôi cảm thấy thấm-thía cho một sự đổi đời. Nước mất nhà tan mồ mả chẳng còn!

Một mai nếu có dịp trở về An-Lộc, tôi nghĩ chị sẽ thấy lòng trĩu buồn bởi những đổi thay mất mát không ngờ…Chị sẽ như tôi lạc lõng lang-thang trong tiềm-thức, trong vọng tưởng để tìm lại những tàn-tích dĩ-vãng trên mãnh đãt này năm xưa. Rồi một sớm mai sương mù giăng kín không-gian hay một chiều nắng nhạt nào đó, trên đường về quanh co nẻo vắng hay trong gió lạnh sương mai. Biết đâu chợt trong mơ tưởng chị sẽ gặp lại những gì mà chị đã lãng quên trong cuộc sống hôm nay và chị sẽ thấy thời-gian không phải là mồ chôn dĩ-vãng. Vì vậy mà tôi đã sống với những kỷ-niệm đang sống trong tôi. Ngày đó, tôi đã biết chị nhưng không biết tên. Qua câu chuyện của bạn bè nói về một thiếu-nữ bị pháo gãy chân. Chuyện đó có gì lạ đối với chiến-trường này. Nhưng một chút ngạc-nhiên cũng đã đến với tôi là từ ngày chúng tôi đến đây – trên phòng-tuyến này – bạn bè chúng tôi cũng đã chết nhiều nhưng chưa nghe nói một người dân nào trốn giặc bên chúng tôi bị nạn cả. Sao lại có chuyện này. Tôi chưa kịp hỏi mà chỉ lơ-đãng hình-dung về chị, về hình ảnh một thiếu-nữ gẫy chân. Lòng tôi trơ cứng như hồn đá sỏi, chẳng một chút xúc-cảm nào mang nghĩa xót thương. Bởi ở đây tôi đã quen lắm chuyện đau thương mà bình thường chắc cũng không khỏi mũi lòng cũng như quen mùi xác rữa của địch rải-rác trước phòng-tuyến mà bình thường chắc cũng thấy hôi tanh.

Viên đạn pháo nổ tung mái ngói trên chỗ tôi ngồi đưa tôi trở về thực tại rời khỏi thoáng chốc vu-vơ. Tâm-trí tôi lại trở về với máu lửa của những trận đánh kế tiếp. Tôi đã quên đi chuyện này như chuyện chiêm-bao ngủ gật. Bởi ở đây có biết bao chuyện lạ đời để mãi mãi không nhạt nhoà trong tâm-tưởng.

Ngày đầu tiên tôi vào đây. Trong căn nhà bên kia lò bánh mì, tôi đã gặp một em chưa đầy tuổi thôi nôi, nằm giữa một chiếc giường chăn xô gối lệch. Em đang an giấc trong lời ru của ruồi nhặng, mắt môi đầy ắp những sinh-vật mới sinh. Tôi sững sờ không phân-biệt được em là trai hay gái. Lòng tôi rưng rưng lẫn buồn nôn. Tôi quay ra như trốn chạy một điều gì, rồi mãnh-lực nào đó đã giữ tôi lại, cúi xuống kéo tấm chăn phủ kín người em. Đàn nhặng vù lên như một sự phản-đối gớm-ghiếc. Vĩnh-biệt em. Một thời ngắn ngủi làm người trong chiến-tranh ly loạn cũng như chuyện một đêm, người thiếu-phụ bật tiếng rên la từ một góc phố cùng với trận đánh bên ngoài. Người y-sĩ đã bỏ việc cứu thương, cứu lính để tìm người thiếu-phụ, làm việc cứu dân. Dưới ánh sáng leo-lét của ngọn đèn dầu không đủ sáng hết căn hầm bé nhỏ, người thiếu phụ đang chuyển bụng. Một việc bất ngờ đối với người y-sĩ vưà mới về đơn-vị này. Xưa nay trên chiến-trường chỉ có tử chứ nào có sinh, nhưng đây cũng là một chuyện lạ bất ngờ. Người y-sĩ chỉ quen cứu chữa những vết thương vì bom đạn, bây giờ trước vết thương này – vết thương sinh-tồn của giống-nòi, đã khiến cho người y-sĩ phải bỡ-ngỡ và người y-sĩ đã làm hết sức mình để cứu mẹ con người thiếu-phụ thoát khỏi cơn nguy-nan của một lần “vượt biển” đời giửa cảnh phong-ba bão lửa này. Đối với người thầy thuốc thì việc tận-lực cứu dân hay cứu lính không quan-trọng mà cứu người là thiên-chức của họ. Nên đã không phân-biệt vết thương của bạn, thù hay dân, lính. Rồi em bé cũng ra đời để mang tên của người thầy thuốc – Ân-nhân cứu tử của mẹ con em. Tôi không hiểu em bé có cất tiếng khóc để chào đời, chào cuộc chiến, hay đã im lặng như cảm-nhận thảm-hoạ chiến-tranh để cùng mẹ cha nhẹ gánh chạy giặc.

Tôi cũng đã đi qua trận đánh phía Tây trong đêm tối hãi-hùng – lẫn lộn trong điêu-tàn sụp đổ xác người, thú – những viên đạn B41 xanh biếc, lập-loè cắt rách màn đêm như điềm báo tử-thần quanh đây cùng với những âm-thanh đạn pháo, xé rách không gian hứa hẹn bao điều thảm họa phía sau. Cảnh huyên-náo của chiến-trường trong đêm tối, đã thôi-thúc chúng tôi đi tới trong thách-thức số-phận cùng với gian-nguy, để lùa địch ra khỏi vòng đai của thành-phố và sáng hôm sau chúng tôi đã đổi được chỗ của kẻ chiếm đất để giữ lại đất.

Chiều ngày 18/04 chúng tôi đã đến từ ngoại-biên Đông-Nam của thành-phố. Nhìn vào trận-địa trước mặt, như một canh bài đã được bày sẵn trên chiếu bạc mà tẩy đôi bên là xương máu, súng đạn. Địch dửng dưng đứng nhìn chúng tôi như một người chủ mất dạy ra tiếp khách. Tôi nghĩ họ đã đánh giá chúng tôi như những con cừu non hiền-lành đang dấn thân đến gần miệng sói lang. Địch quân đông, pháo nhiều lại trong thế thủ. Chúng tôi quân ít, vũ-khí nhẹ, trận-địa không quen, lại thêm đường xa mới tới. Địch đang trên thế thắng – chúng tôi trong tình-trạng thể chất mỏi mệt. Sự tương-quan chênh-lệch giữa đôi bên đã khiến cho địch xem thường chúng tôi. Và không cho phép chúng tôi được quyền chủ-quan, dù bất cứ một chủ-quan khiêm-nhường nào đi nữa – Thế yếu – chúng tôi phải đổi thắng bại bằng dũng-cảm và hy-sinh nên đã không cho phép chúng tôi quên “Tiên hạ thủ vi cường”. Địch không ngờ chúng tôi đã đánh sau vài tiếng đông hồ khi màn đêm vừa buông xuống. Họ cũng không ngờ chúng tôi chúng tôi lại là những người linh tinh-nhuệ trong bóng đêm. Một chiến-thuật đã làm cho đơn-vị chúng tôi vang danh trên khắp chiến-trường – là khắc-tinh của bám trụ, của kiềng, chốt mà một thời địch đã tự hào là một chiến-thuật ưu việt của họ. Chúng tôi đi đến đâu, kiềng chốt bám trụ của họ tan tành đến đó. Mậu-Thân 68 ở mặt trận Cây Thị Gia-Định là một. Người ta đã biết chúng tôi qua chiến-thuật này cùng những lời ví von biến hai chữ Biệt Cách thành “Bird cat”một loại chim mà phương Tây đã lấy làm biểu tượng cho điều đáng kính và mang ơn – Cú mèo – Quả thật tôi cũng không ưa. Người Á Đông vẫn cho rằng nó là biểu hiện cho điều hung hiểm. Khi có chim cú đến nhà là điềm báo tang tóc, bại vong. Đêm nay chúng tôi đã đến – hẳn là địch đã không tin. Một trận đánh mà địch đã không lường trước đuợc sự thảm bại lại thuộc về mình. Để từ đó, đổi lại ưu thế tinh-thần thuộc về chúng tôi trong các trận đánh sau này. Điều cấm kỵ trong lúc giao chiến mà nễ sợ địch, chính đó là sai lầm của chúng.

Bóng đêm tan dần, mặt trời lên. Quang cảnh trận địa thật thê-lương ảm đạm. Ruồi nhặng thức giấc vo ve reo mừng máu bầm, máu tươi thịt mới, cũ la liệt khắp nơi. Ba đêm không ngủ – đôi mi trĩu nặng ngàn cân. Tôi cố nhướng lên cùng với ý nghĩ âu lo sợ địch phản công. Nhưng vô ích tôi đã gục xuống ở góc một hiên nhà…Tôi tỉnh dậy giữa những tiếng pháo xa, gần quanh chúng tôi. Địch bắt đầu pháo vào trận địa. Chỉ có đạn rơi và pháo nổ, nơi đây chẳng còn một ai – ngoại trừ chúng tôi và ruồi nhặng.

Trưa mùa hè nắng hạ, mùi thịt da sình thối quyện đặc không gian, đã khiến chúng tôi thở tưởng như oxy cũng nhuôm máu. Và thật bất ngờ, tôi đã gặp hai vợ chồng cụ già nơi này – ở một xó bếp. Ông cụ ngồi dựa lưng trước cửa một cái hầm nổi bằng bao cát và thùng phi chứa đãt. Người vợ đang ngồi nhen lửa trong bếp gần đó. Chắc họ cũng vừa mới chui ra khỏi hầm, chắc họ cũng thức suốt đêm qua? Tôi đến gần chào họ – vẫn im lặng. Tôi chào lần nữa, ông cụ vẫn bất động nhìn thẳng ra trước mặt. Tôi chưa kịp thắc mắc thì tiếng bà cụ vang ra mà chẳng cần quay lại “Ổng mù và điếc đó” Tôi cứ tưởng là bà cụ đang nói chuyện với ông Táo. Tôi cúi nhìn vào đôi mắt ông cụ. Đôi mắt của người “ngủ ngày”. Thái độ và giọng nói của bà cụ, tôi hiểu họ không muốn nhìn thấy gì trước mắt, không muốn nghe gì bên tai. Dù chúng tôi là bạn hay thù. Dù là tiếng đạn hay tiếng bom. Họ đã tự thoát ra khỏi trần đời, thế sự, nên con người hay sự vật chung quanh không còn lệ thuộc thế-giới của họ, tôi quay ra với những ý nghĩ không vui.

Hai tháng sau có dịp tôi đã trở lại nơi này. Chẳng còn một thứ gì nguyên lành, ngay cả mùi hôi thúi ngày nào cũng chẳng còn. Căn nhà bếp, nơi tôi đã gặp hai vợ chồng ông cụ cũng chẳng thấy. Nhưng căn hầm vẫn còn đó với trăm thứ, cột kèo gạch ngói phủ lấp lên trên. Hình ảnh hai ông bà cụ cứ chờn vởn trước mắt đã khiến tôi chui vào hầm. Ánh sáng không đủ cho tôi thấy rõ lòng hầm nhưng rõ ràng hai bộ xương một nằm, một ngồi dựa vách đã khiến cho tôi sững sờ và rờn-rợn khắp người. Tôi cố nhìn họ một lần nữa cũng chỉ thấy hai bộ xương mà chẳng thấy gì trong tâm trí mình. Tôi chui ra với những ý-nghĩ rã rời cùng với mùi hôi hăng-hắc khó chịu của xác người chết khô.

Trời chợt đổ cơn mưa, cơn mưa nhẹ của chiều tháng sáu đã làm cho lòng tôi càng thêm quay quắc trong nỗi buồn..

Tôi trở về chân đồi Đồng Long. Nơi đây trận đánh cuối cùng của chúng tôi vào ngày 12 tháng 6. Địch đông gấp 5 lần. Trận đánh kéo dài từ sáng sớm cho đến chiều, không ăn không nghỉ. Xác một Mỹ, một Cứ… nằm dài trước mặt tôi dăm ba thước mà mới đêm qua còn nằm bên nhau xầm xì to nhỏ, chuyện không đầu không đuôi của lính, chuyện buồn vui của gia đình, của người thân, chuyện ngày qua và mai sau…Thế mà bây giờ thì nằm đó, giữa những họng súng địch canh giữ, ai sẽ đưa các anh về..? Không bỏ chiến tuyến không bỏ xác bạn đó là điều khẳng định của chúng tôi. Địch cũng hiểu rõ điều này nên đã không bỏ công canh chừng.Trời chiều nghiêng bóng, lòng tôi như lửa đót, cổ khô đắng bởi mùi thuốc súng và khói bụi. Tôi nằm ngửa canh chừng những quả đạn 81 bay lên từ chợ Mới vẽ thành những đường cung mường tượng trong không gian, khi viên đạn bay qua để xem may rủi giữa ta và địch. Khoảng cách an toàn giửa điểm nổ và quân bạn đã không dành cho chúng tôi trong trận đánh này, và cứ mỗi lần nhìn thấy viên đạn bay lên không bình thường, tôi lại phập phồng không đoán được nó sẽ rơi vào chỗ nào? Rồi nhắm mắt lại để tưởng tượng nó sẽ rơi ngay vào đầu mình…Chúng tôi đã chấp nhận đạn rơi cách chúng tôi đôi ba thước ở thời điểm nổ chậm nên có thể chôn vùi chúng tôi trong cát bụi, nhưng buộc địch phải bỏ những chiếc áo giáp chữ A, chữ Z sát cạnh chúng tôi năm ba thước để chúng không còn có cơ hội kiên trì bám dính chúng tôi nữa. Rồi một thể lao thẳng qua phòng tuyến địch bắn phá, coi đạn địch bắn ngang dọc như rơm rác, như giấy hoa. Mắt tôi mờ đi vì những hình ảnh dũng cảm của bạn bè – Một Thiện ngày nào trong trận đánh tái chiếm khu cảnh-sát. Bàn tay phải bị bắn đứt, Thiện vẫn tỉnh táo giơ lên để máu bớt chẩy, tay trái kẹp súng bắn trả như vừa cầm đuốc vừa bắn giữa cảnh mịt mù khói bụi. Một Y Muih Mlor tay ướt đẫm máu tươi đứng trên nắp hầm địch, mặt vẫn tỉnh bơ như thể chẳng có gì xẩy ra trên thân thể mình, và mới sáng nay Vosary bị địch bắn bay hàm dưới vẫn đứng chỉ tay về phía hầm địch để báo cho bạn bè. Người đen, máu đỏ đầy miệng, đã khiến cho mấy thằng Việt cộng con không khiếp đảm cũng phải rùng mình. Những hình ảnh đó đã thể hiện một phần nào cái dũng của BCD mà chỉ có trong nguy nan mới thấy được. Tôi hãnh diện đã có những người bạn như thế đó đã làm rạng danh cho đơn vị một thời. Địch cũng đã đoán được “cơn nước lũ” chúng tôi sắp tràn qua và thể như một điềm báo trước để địch phải tháo chạy.

Bóng chiều tắt dần – trong im lặng không tiếng súng. Chiến trường như bãi chợ chiều, ngổn ngang súng đạn cùng xác chết. Chúng tôi đã không ồn ào hò reo chiến-thắng. Chúng tôi không nhìn thấy những chiến tích trước mặt mà đã im lặng nghĩ nhiều đến những bạn bè đã hy-sinh, đã nằm xuống trong trận đánh để đời này. Cơn gió lành lạnh thổi qua mang theo những tia nắng cuối cùng trong ngày chìm dần vào màn đêm giữa sự im lặng ngẩn ngơ của chúng tôi. Một ngày đã qua với bao nhiêu máu và mồ hôi đã đổ xuống – với địch ngày nào đã rầm rộ đi vào, bây giờ đã phải tan tác tháo chạy tìm sống trong số phận rủi may. Chẳng bù lại ngày 14/4 đã tràn vào thành-phố như chỗ không người. Ngạo-nghễ, kiêu-căng trên những chiến xa, giữa sự trốn chạy hãi hùng của người dân. Nhưng giờ đây vết tích còn đó. Hàng trăm chiến xa nối đuôi nhau bị bắn hạ khắp nẻo đường phố. Họ đã mất đi sự tự kiêu, tự mãn lúc ban đầu. Giờ đây chỉ còn mong lấy thịt đè người, lấy hoả lực đàn áp tấn-công. Bốn sư-đoàn 5,7,9 và Bình-Long khoá đầu chận đuôi tận lực vây hãm. nhưng An-Lộc đã không mất đi trong cơn hấp hối thì địch còn mong làm đuợc gì trong sự hồi sinh dũng mãnh của quân trú phòng. Bọn giặc Cộng lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan rồi tự tan rã trong sự phản công quyết định của đơn vị tham chiến. An-Lộc đã trở thành một biểu tượng cho sự dũng cảm và hào hùng của quân đội miền Nam.

Tôi đứng trên lưng đồi phía Bắc để nhìn ngược về phía Nam, về chợ Mới. Dãy phố quen thuộc trong 60 ngày qua xa trông như vẫn nguyên lành duy nhất, còn lại chung quanh là hoang tàn đổ nát. Một chút tự hào đã thoáng đến với tôi. Tôi chợt nghĩ đến những thành quách xa xưa – dãy phố chơ-vơ nhỏ bé nằm giữa hai góc đường đó như một ốc đảo trong sa mạc khói lửa đã qua. Những vết đạn lớn nhỏ loang lỗ khắp cùng bởi bao lần bị bắn phá, bị tấn công, nó đã trở thành một thứ anh hùng hảo-hán thân mang đầy thương tích mà vẫn khí phách ngang tàng đứng vững giữa trận địa. Nó không còn là một dẫy phố thương mại bình thường của thương nhân, mà nó đã trở thành một thứ thành quách sắt thép của 81 – chỗ dựa cho đại pháo Navaron và nó còn là một chứng tích mà tự nó đã nói lên biết bao chiến tích hào hùng của Liên-Đoàn 81/ Biệt Cách Nhẩy Dù chúng tôi.

Tôi trở về để gặp hai em bé trên dưới mười tuổi đã sống hai mươi ngày dưới hố sâu, trong hầm tối ở chân đồi Đồng-Long. Ngày ngày không cơm gạo, không nước uống, giữa vùng đãt địch đóng quân. Em kể đêm đêm đã lén bò ra ăn cỏ, uống nước hố bom. Nhìn hai em nửa người nửa vật, nữa trẻ, nửa già – nhìn hai em như tượng đồng đen thời cổ, như tranh vẽ trừu tượng thời nay. Hai em nhìn chúng tôi trong hố mắt lạc lõng xa lạ. Chúng tôi nhìn hai em với nỗi buồn xót xa…

Lần cuối cùng tôi gặp chị, nhưng nay vẫn khó quên. Thật ra thì tôi chẳng nhớ gì về chị cả, nhưng tôi đã khó quên vì cảnh gặp chị. Ngày đó tôi đi giữ bãi tải thương ở Xa-Cam, và được lệnh phải để ý đến chị. Tôi đã không vui với điều này bởi chị không là gì cả. Không bạn, thù, chiến hữu. Tôi muốn dành chỗ của chị cho một thương binh. Dù là một ý nghĩ hẹp hòi, nhưng đó là sự thật ở lòng tôi lúc bấy giờ. Tôi lơ đãng nhìn chị để xem người thiếu nữ bị thương đêm nào mà tôi đã từng nghe bạn bè nói đến. Chị mặc quân phục của đơn vị chúng tôi nằm dài trên một cái ghế xếp thay băng ca. Tôi thoáng thấy sắc diện chị lợt lạt trong nắng vàng lẫn bóng lá xanh của cao su. Vì không ưa nên tôi cũng không nhìn nhiều để biết chị đẹp hay xấu mà tôi chỉ nghĩ đến chị nằm đó đang nghĩ gì? Chị có hiểu không, khi trực thăng tới sẽ “chở” theo đạn pháo của địch tới. Chị hớ hênh chân co chân duỗi nằm đó!

Chung quanh không bờ đất che chở, không gốc cây ẩn nấp. Liệu chị có thoát khỏi một lần nữa bị thương hay làm “danh tướng” không? Và thần thánh nào sẽ che chở cho chị qua cơn mưa pháo này? Tôi đã hồ đồ nghĩ về chị trong cái nằm của một người lính ngoài trận địa. Giá mà biết được ý nghĩ của tôi ngày đó – nếu không giận chắc chị cũng kém vui, phải thế không? Có thể chị đang âu lo về những điều tôi đang nghĩ, cũng có thể chị đang bận nghĩ đến một viễn ảnh vui hơn – đuợc đưa lên tàu đáp xuống ở Lai-Khê. Chị sẽ thoát nạn – về Sài-Gòn vào bệnh viện, chị sẽ bình phục lại như xưa – Rồi chị sẽ mặc áo mới màu thiên-thanh cùng bạn bè lang thang dạo phố Bonnard, qua Pasteur ăn fá lấu, uống nước mía Viễn-Đông, về xem TV chiếu chuyện chiến-sự…Đời lại tiếp nối nỗi vui tươi trong tiếng cười rộn rã…Chị sẽ quên đi những tháng ngày dài bầm dập ở địa ngục An-Lộc, như quên một giấc mộng hãi hùng trong đời. Hay có nhớ, những muỗng cháo cơm nặng ân-tình của anh Kiên. Hay có nhớ một thời lộng lẫy đón đưa của chị ở An-Lộc trước chiến-tranh? “An-Lộc địa” của chị rồi cũng sẽ qua đi trong xa cách ngàn trùng, mà bất cứ ai dù lính hay dân cũng đều muốn thoát chạy, rời bỏ…Chúng tôi cũng vậy- cũng chỉ mong cho tất cả mọi người dân nơi đây được bình yên rời khỏi nơi đây. Bởi ở lại cũng chỉ chuốc lấy thêm phần thương đau mất mát trong bom đạn vô tình may rủi mà thôi.

Tôi đứng dựa lưng gốc cao su chờ đợi tàu đến cùng vẫn vơ với những ý nghĩ không đầu không đuôi về chị, về tha-nhân, mà quên mình cũng chỉ là một con người – như mọi người, đang sống trên cõi đời này -lòng cũng đầy những vướng mắc bận bịu bởi những tham sân si, hỉ nộ ái ố…cùng với bản năng sinh tồn của một sinh vật nên hẳn chị đã không tin khi tôi nói; chúng tôi đã không bận tâm đến hai chữ sống chết khi đối diện với họng súng của địch. Nhưng nếu không xem thường cái chết để chờ “sung rụng” chờ “bất chiến tự nhiên thành” chúng tôi khó mà có chiến tích để chị viết thành thơ…Tôi mơ màng trong thực và mộng để rồi chợt tỉnh trong âm vang tiếng động cơ con tàu cùng với âm thanh bắt đầu của pháo đých bắn đi. Tôi nhìn về phía chị, về phía bạn bè của chúng tôi với ý nghĩ chợt đến: trận mưa này liệu có “rước” ai không? Rồi quên đi chị nằm đó trong cảnh hỗn loạn của bãi đáp – vừa chặn bạn, vừa phòng thủ.. tôi không nghĩ gì hơn là phản ứng với những điều chớp nhoáng đến với tôi trong đầu. Tiếng trực thăng lớn dần từ trời cao – cây rừng xôn xao gãy đổ trong tiếng đạn nổ. Đoàn tàu rãi dài trên khúc quanh con đường, hai bên ngổn ngang đầy dẫy xác người và chiến cụ…phút chốc rồi lại nối đuôi lên cao… chẳng còn ồn ào trên bãi đáp, chẳng còn lo lắng ở lòng tôi. Tôi nhìn theo đoan tàu xa dần vào chân mây…

Rồi ngày tháng qua đi chị cũng xa vắng trong tâm tưởng chúng tôi. Chúng tôi không còn dịp nghĩ nhớ đến chị ở những chiến-trường nối tiếp. Dẫu chị mới đó đã từng sống chết bên chúng tôi, dẫu chị mới đó đã từng giúp chúng tôi đôi lời ghi dấu tích đơn vị trên đài chiến-sĩ trận vong. Ai qua An-Lộc, khi về chắc cũng không quên những lời này, mà chị đã để lại cho chúng tôi sau trận chiến. Người đời sẽ nhắc đến chị hay chúng tôi cũng chỉ là một – nếu người ta để chút thừa hơi thở mà nói đến hai câu thơ này – người lính BCD và thiếu nữ tên Fa – một bóng kiều diễm – mà một thời chị đã tự mãn với hai tiếng “dáng tiên”, một thời có lắm kẻ quên ăn mất ngủ vì chị, có đúng không?

Sau đó, ngày về của chúng tôi từ An-Lộc – rượu uống chưa kịp say đã phải ra đi. Hết Quảng-Trị, Cổ Thành, Thạch-Hãn đến Cao-Nguyên “gió núi mây ngàn”, khi miền Tây Bà Đen, Suối Đá, lúc miền Đông rừng Lá, Phước-Long, chúng tôi đi không nghỉ- mặc cho tháng năm vợ đợi, con chờ, mẹ ngóng cha trông…mặc cho người tình cô đơn dạo phố mùa đông. Chị thấy đó, trước mặt chúng tôi là sông, là núi, là địch là thù, sau lưng là nợ là tình. Chúng tôi quay cuồng trong cuộc sống chiến-chinh với tháng ngày qua mau. Chúng tôi nào biết mùa Hè nắng lửa ve kêu, mùa Thu ru lá ngủ trên cành, Đông tàn rồi lại sang Xuân. Nếu có chăng khi lên đỉnh Birgmama ngồi ngắm B52 thả bom chặn địch, lúc xuống Charlie nghe âm vang quân bạn hò reo giết giặc, hay qua Chu-Dao ngậm ngùi nhớ núi nhuộm màu khăn tang. Rồi ra Quảng-Trị, vào Cổ-Thành…ngày ngày đội pháo thay mưa, đêm đêm chiêm bao vua Chiêm về đòi Ô-Lý…Đời sống của người lính BCD là vậy đó, chị thấy không?

Chắc chị còn nhớ “cư an tư nguy” mà!Nên chúng tôi đã không bận tâm cho tương lai trên đường chinh chiến mà chỉ mơ một mai được sống trong cảnh thanh-bình của đất nước.

Chiến trường rồi cũng qua đi trong giông bão. Ngày tàn cuộc chiến, chúng tôi vẫn chưa được sống với ước mơ. Chúng tôi lại phải ra đi để vào cuộc chiến mới. Cuộc chiến của khổ nhục và lưu đày. Sau bao năm sống trong từng ngày; đói trong hơi thở, ăn trong giấc mơ và nhục chung tên cùng “tội phạm” đó.

Ngày được thả về tôi lại phải vác cuốc đi đào mả con, mả anh để trả đất cho người ta cất nhà, cất chợ…Bây giờ trên đường lang thang, kiếp sống nương nhờ…dù không lo đói, mặc, nhưng lòng tôi vẫn thấy lạnh khi Xuân tàn. Con đường không chọn lựa mà phải đi – cuộc sống không mơ ước mà phải sống, nên tôi vẫn thấy nhớ Nước lạ lùng! Chị biết không: “Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn…”. Xưa kia tôi vẫn thấy dửng dưng với câu hát này, mà nay, có đôi khi tôi đã sợ không dám nghe. Tôi đã giận tôi, giận sự yếu mềm ở lòng mình. Nhất là trong những khi lang thang lạc lỏng trên đường vắng – tiếng vọng chân đi mà cứ ngỡ bước chân người thân, hay trong những đêm giá buốt như đêm nay đã có biết bao điều đến với tôi – để rồi dù có muốn chối bỏ đi những gì không hợp lý, không thực tế trong thực tại tôi vẫn không ngăn được tiếng thở dài.

Ở đây như một thiên-đàng cho bao kẻ nghèo đói của các dân tộc sống trong chiến tranh và áp-bức. Tôi là một – đến từ chế độ cộng sản, đến từ nghèo đói miếng ăn và nhân-quyền, tự do, mà cho rằng không thoả-mãn hạnh phúc, không vui…thì thật không thực tế chút nào phải không chị?

Ở Việt-Nam rồi cũng chẳng còn gì. Nhưng với những hình ảnh thật tầm thường – có lúc ta như muốn chối bỏ, lãng quên khi nhìn vào cuộc sống văn-minh tiến-bộ của nước người…có lúc ta thực sự đau lòng cho sự nghèo nàn sơ xác của một dân-tộc – của một đãt nước – của Việt-Nam mình. Có nghĩa gì “chiếc cầu tre chênh-vênh nhỏ bé” hay “căn nhà tranh mặc gió lung lay…”Nhưng nó đã không có trên đất nước nầy. Trong đời sống văn-minh tiến-bộ của người ta, mà nó lại tồn tại vĩnh-viễn ở trong tôi. Nên nó đã khiến cho tôi dễ bị cảm-xúc hơn là đi qua Golden Gate hay vào Sear Tower là những kỳ-quan của thế-kỷ. Tôi đã đến những nơi nầy để chiêm-ngưỡng – nhưng cũng chính là để vọng tưởng nhớ nhung, tôi cũng đã nhìn tượng Nữ Thần Tự Do, để thấy mình cũng tự do thế thôi. Không hiểu một mai sẽ có gì thay đổi trong tôi? Còn với hiện tại tôi đã nghĩ: Giá Việt-Nam không còn chế-độ cộng-sản – không còn những tên Việt-Cộng ngu dốt và ác độc – không còn bất-công và áp bức – Có lẽ tôi sẽ trở về dù chỉ để làm một ông câu nghèo nàn, sáng cơm chưa no đã lo chạy gạo tối. Hay cùng lắm làm một con chim cú già hèn mọn để được đậu cành tre trên quê-hương mình.

NGUYỄN SƠN
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image


Vĩnh Biệt NGUYỄN SƠN
(Tạp Chí Xây Dựng – Năm Thứ 32 - Số 800 – Phát hành ngày 13-12-2014 - Houston – Texas)

Nói đến tên Nguyễn Sơn thì bất ai đã từng phục vụ ở Trung Tâm Hành Quân Delta (LLĐB), Liên Đoàn 81 BCD, BiệtĐoàn 222 CSDC cũng đều biết đến Anh, từ cấp Chỉ Huy Trưởng cho đến anh binh nhì vừa về đơn vị. Tính tình thâm trầm hiền hòa đôn hậu với mọi người mọi cấp, không le lói, không nỗ sảng mặc dù chiến công của Anh đã vang dội với những huy chương cao quý nhất của QLVNCH.

Buổi chiều ngày mùng 5 Tết Mậu Thân. Một buổi chiều nắng đẹp, vẫn với những ngọn gió hiền hòa từ biển khơi, vẫn với bãi biển cát trắng chạy dài bên đường Duy Tân mang nhiều kỹ niệm, nhưng sao có vẽ đìu hiu vì những cơn bạo loạn của cộng quân tấn công vào thành phố Nha Trang giữa đêm giao thừa. Tôi đang ngồi với vài sĩ quan ĐĐ3/81/BCD ở quán số Một cạnh bờ biển, một vài trứng hột vịt lộn, một đĩa mực nướng, và không thể thiếu món ốc bưu luộc chấm nước mắm gừng thì Nguyễn Sơn bước vào với hai người khác. Mũ xanh gặp mũ xanh bắt buộc dơ tay vẫy vẫy vài ba cái rồi bàn ai nấy ngồi. Tôi hỏi Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu:

- Niên Trưởng ai vậy?

- Trung Úy Nguyễn Sơn, Liên Toán Trưởng Trung Tâm HLHQ Delta!

Anh Lâu xoay người qua phía bên kia bàn

- Ê Sơn...qua ngồi với tụi này cho vui.

Thế là cả bọn nhập cuộc. Delta - 81 như anh em ruột, tuy một mẹ khác cha nhưng lúc nào cũng kề cận bên nhau khi xâm nhập. Mẹ là binh chủng LLĐB. Cha là khác nhau đơn vị. Các C, các B, các A, Mike Force, 81, Delta đều mang một huy hiệu giống nhau. Delta ở đâu thì 81 ở đó, bất kể không gian và thời gian. Các C,B,A trong tình trạng cần tăng viện thì Delta-81 có mặt trong vòng 24 tiếng đồng hồ cũng bất kể không và thời gian. Cho nên mặc dù chưa biết nhau nhưng cùng một lò ngồichung bàn thì chỉ năm ba phút sau pháo vang trời đất. Sơn tốt nghiệp tháng 8 năm 1965 Khóa 19 VKTĐ với cấp bậc Chuẩn Úy. Như vậy cuối năm 1967 Anh đã mang lon Trung Úy chứng tỏ công trạng anh cũng lẫy lừng. Tôi vừa mới ra trường chỉ được vài tuần lễ nên gặp đàn anh, tôi thường hay hỏi han vài ba câu cốt chỉ để làm quen, nhưng Anh vẫn cứ cười cười với điếu thuốc Ruby Queen trên tay. Chợt Anh đứng dậy bước vào trong vài phút rồi trở lại bàn. Năm phút sau bồi bàn mang ra 10 chai bia con Cọp và hai đĩa bò Lúc lắc nóng hổi. Khi mặt trời xuống dần chân trời góc biển Anh lại chợt đứng dậy bước vào trong rồi lại trở lại bàn. Trung Úy Lâu bảo tôi vào thanh toán tiền nong, vì anh em 81 đã gom góp trước và giao cho tôi rồi, đến khi vào quầy tính tiền thì cô cashier nói Trung Úy Sơn đã trả hết rồi.

- Trung Úy Sơn! Tụi tui đến trước, Trung Úy đến sau mà! Làm vậy kỳ quá!

- Đồng ý! Các anh đến trước, tụi tui đến sau...nhưng mà...tụi tui là Delta nên ai móc súng (bóp tiền) trước thì sống, móc súng chậm hay móc súng sau là...là gì tui cũng không biết nữa!

Rồi anh cười khì !

Tôi “kết” với Nguyễn Sơn từ đó.

Rong ruổi trên những bước đường chinh chiến, tôi gặp Sơn rất thường. Làng Cùa, Huyện Hương Hóa, Mỏ Than Nông Sơn,Đức Dục, Đồng Xoài, Đồn Điền Hớn Quản. Có một lần ở Cùa, Sơn gọi tôi sang lều (bạt dã chiến) uống cà phê.Nhưng không phải cà phê mà là chai “Ông Già Chống gậy” với “cờ tây”. Mặt của anh đang ngụy trang với màu mực lá cây rừng và mặc bộ đồ Việt Cộng mang dép râu, tôi biết ngay anh sắp xâm nhập chiều nay, tôi hỏi:

- Bộ rủ tôi làm vài cống để khỏi lạnh cẳng hả?

- Coi ai lạnh cẳng trước. Tôi vào thung lủng Ashau-Alưới. Nhận lệnh sáng nay, nếu vào tới nơi phát hiện chúng nó là các ông nhào vô liền đó. Các ông (81) vô thì tụi tui (Delta) dìa!

Rồi anh cười khì khì, cái điệu cười bất hủ của anh, anh nốc một cốc Johnnie Walker, gắp một miếng dồi chó bỏ vào chén của tôi :

- Vô đi cha nội cho ấm cẳng.

Năm giờ chiều ngày hôm đó, toán của anh âm thầm lặng lẽ lên trực thăng của Phi Đoàn 281 không số của Mỹ vào vùng.Thung lũng AshauAlưới nằm phía cực tây bắc tỉnh Quảng Trị, nơi tiếp vận hậu cần của quân CS Bắc Việt. Nhiệm vụ của Delta là thám sát mục tiêu, nhiệm vụ của 81BCD là khai thác mục tiêu. Anh nói đúng, khi anh rời khỏi trực thăng thì toán của anh đã nằm giữa lòng địch. Sau này anh kể cho tôi nghe: “Mẹ, giữa đoàn hùng binh (VC) có anh đang vùi đầu trong bụi rậm...”. Tám giờ sáng ngày hôm sau, ba ĐĐ 81BCD (ĐĐ3, ĐĐ1, ĐĐ5) nhào vô thì anh đi dìa. Sau cuộc hành quân này, anh có ghé thăm tôi và Nguyễn Hiền ở Bệnh Viện Duy Tân Đà Nẵng, anh móc trong túi áo saut chai Remy Martell nhét dưới chân tôi, rồi lại cũng cười khì khì:

-Cẳng có lạnh thì ướp cái này sẽ ấm ngay !

Tháng tư 75 vất súng, lột lon Thiếu Tá, mà nước mắt cứ chảy dài, anh trở về với vợ con lòng nặng trĩu không phải vì mất lon thiếu tá mà vì mất màu áo hoa rừng đã ôm thân thể của anh trên một quảng đường dài binh nghiệp. Gia đình cha mẹ anh em của anh mang nặng một mối thù Cộng sản vì đã mang đến bao nhiêu nỗi bất hạnh cho gia đình anh. Anh căm thù CS một, nhưng anh căm thù Việt Gian tới mười, anh đã viết một bài viết tựa đề “CHÓ MÁ”, phân tích sự khác biệt giữa con Chó và con Má để ám chỉ những con Má đang sống lẩn quất bên cạnh anh. Sau ngày tự cởi bỏ quân phục và vào tù, tôi không còn có dịp gặp lại anh nữa. Người Bắc kẻ Nam, người lên non kẻ xuống biển, phận ai nấy giữ, thân ai nấy lo, gần hai mươi năm ly biệt tôi gặp lại anh ở trên phần đất này.

- Út Bạch Lan hả? Tôi đã tới Dallas, có lẽ tôi sẽ tới nhà anh khoảng sáu bảy giờ chiều nay.

Anh đơn thân độc mã với cái xe “HO” từ Michigan về Houston tìm một sinh lộ cuối đời. Vật đổi sao dời sau khi anh được rời khỏi những rừng tre rừng nứa, những luống khoai mì khoai lang gần 13 năm tù tội, nay anh phải “rời khỏi” mái ấm gia đình một lần nữa và ngâm nga “đời tôi cô đơn nên tôi chẳng yêu ai, đời tôi cô đơn nên tôi yêu mấy bạn già”. Anh gọi tôi khi anh gần tới Humble (phía Bắc TP Houston vài chục mile)

- Anh Sơn, anh ghé nhà anh Sáng trước, anh Sáng đang đợi anh, tôi sẽ có mặt ở đó khoảng 30 phút.

Trung Tá Lai Văn Sáng, nguyên là Chỉ Huy Trưởng Biệt Đoàn 222 CSDC, anh Sơn về đơn vị này chỉ năm ba tháng với chức vụ Sĩ Quan Hành Quân Huấn Luyện, cùng là gốc eo eo đi bi (LLĐB) nên xem nhau như ruột thịt. Anh Sáng giữ Sơn lại tạm trú vài ngày rồi tính sau. Gọi điện thoại cho “Cò Quế”, nguyên là CHT Cảnh Sát quận Tân Bình GiaĐịnh

- Help...Help...Help!

Thế là một tuần lễ sau Sơn có việc làm và chỗ ăn chỗ ở ổn định, lương tháng hơn ngàn, bao ăn bao ở không phải chi phí gì cả, nhưng khổ nỗi cái job khiến anh nỗi nóng bất thường. Làm Cashier cho một Grocery. Cứ rình mò thằng nào vào chôm chỉa ba cái bánh kẹo lặt vặt là anh túm cổ ngay. Cái máu và tai mắt mũi họng của các toán Delta mà. Nghề của chàng, nhưng không đúng chỗ, vì nhiều lần sẽ gây thù hận, nhất là bọn mỹ đen, thì có ngày sẽ xảy ra những chuyện không hay. Ông Bà chủ khuyên anh :

- Thôi kệ nó, ba cái lặt vặt đó, anh cứ giả bộ làm ngơ, cái mạng của anh quan trọng hơn.

Sơn nhất quyết không chịu, khẳng định giữ vững lập trường và thái độ, tuyệt đối không nhân nhượng với bọn trộm ngày cướp đêm này, rồi cuối cùng anh xin thôi việc, anh tâm sự :

- Ông Bà chủ (Vợ Chồng Cò Quế) rất tốt với tôi, tôi có thể làm việc cho ông bà đến chết để đáp lại ân tình này, nhưng mà cứ hể mỗi lần thấy thằng Mỹ đen vào cửa hàng ngông nghênh lận lưng bỏ túi rồi vênh váo bước ra cửa là tôi cứ nghĩ tới mấy thằng Việt Cộng nửa đêm xông vào nhà bố mẹ của tôi hôi của và bắt đóng thuế nữa.Tôi phải xin nghỉ việc vì chẳng đặng đừng, nếu còn tiếp tục chắc có ngày tôi bắn vỡ sọ một vài thằng rồi đi tù. Coi vậy mà đi tù ở Mỹ sướng hơn!

Vài tháng sau, phóng viên chiến trường Phục Viên giới thiệu anh làm một việc khác:Nhà Quàn !!! Nếu mổ và tắm rửa hoá trang xác chết thì $15 US một giờ, còn cắm hoa quét dọn nhà xác thì $10 US một giờ. Anh chọn việc thứ hai. Nhưng cũng chỉ được vài tháng anh lại xin thôi việc, anh tâm sự:

- Mẹ! Hồi xưa vừa chạy vừa cõng xác chết anh em đồng đội, rồi chui vào bụi rậm ôm xác chết ngủ qua đêm, sao người chết rồi mà vẫn còn sưởi ấm cho thân mình. Bây giờ làm cái nghề này sao tôi thấy nó tởm lợm làm sao. Đi ra, đi vào thấy mấy gương mặt đen thủi đen thui, bị bắn chết vì cướp giật, hiếp dâm, uống rượu say lái xe đụng người ta chết, rồi chết luôn, đôi khi mấy ông già bà cả chết già, tôi còn liếc mắt nhìn, rồi kiếm chuyện ra phòng sau cắm hoa vòng hoa phúng điếu.

Có người giới thiệu anh làm một job khác: Lái xe Thiết giáp !!! Giờ làm việc anh lái chiếc xe Van bọc thép (Armor Vehicle) nhận tiền rồi đi đổi tiền, công việc nhàn nhả thư thả, nhưng đôi khi phải nhanh trí để giải quyết những trường hợp thay đổi khẩn cấp. Phần vì tiếng Mỹ chưa nhuần nhuyễn, lại đàm thoại trên vô tuyến (radio), mắt lại kém nên cứ lạc đường hoài, không theo đúng lời chỉ dẫn của supervise hay manager nên anh lại xin thôi việc, anh tâm sự:

- Nhà tôi nghèo lắm. Thuở nhỏ mấy anh em đi học chỉ có một củ khoai lang hay một củ sắn dằn bụng buổi sáng, mãi tới chiều mới có được vài chén cơm với cá mắm Lăng Cô. Khi đi lính, có được đồng lương hằng tháng không cần đếm, chỉ cần tính nhẩm thôi cũng biết ăn xài được mấy ngày. Bây giờ làm công việc này, cứ lên xe là thấy giấy 100 dollar chất đống, tiền của người ta không phải tiền của mình, mất một trăm đồng là bị trừ một trăm đồng. Một tuần chỉ được vài ba trăm đô, bị sọt (short) một cái, là húp cháo, lại nữa ngựa già làm sao phi đường xa như mấy người trẻ, lên xe xuống xe phải vịn vào cửa xe hay thành xe, lọm khọm kiếm nắp bình xăng không nhớ nằm bên trái hay bên phải, lờ quờ chậm chạp kiểu đó có ngày thằng Mỹ đen lụi một dao vào sau lưng rồi lái xe Van chạy mất với mấy trăm ngàn trên đó thì có nước tự vận.

Cái job cuối cùng của cuộc đời anh khi anh vừa 61 tuổi. Bờ lâm binh (plumbing) !!! Rotation job. Có khi làm từ 10 giờ tối cho đến 6 giờ sáng, có khi từ 2 giờ chiều đến 10 giờ đêm, công việc mà anh thường đùa là “thụt cầu tiêu”, nhưng anh rất happy với công việc này vì nó thuộc City nên benefit đầy đủ, anh tâm sự :

- 13 năm tù, ngày ngày đi hốt và gánh phân tù rồi đổ nước quậy lên cho loảng ra, múc từng gào đi tưới cải xanh, cải bắp, quần áo tay chân mặt mũi lúc nào cũng dính cứt. Bây giờ đi làm lại việc này, nhưng nhiều điều khác nhau. Không bao giờ thấy cứt, cũng không thấy hôi hám, tất cả đều dùng máy móc, bơm thông thụt rửa chỉ bật điện rồi châm thuốc hút chờ, cuối tuần cầm cái check, cảm thấy cái job của mình nó thơm chi lạ.

Nhiều khi ngồi với anh cả buổi, nghe anh tâm sự đời anh không khỏi ngậm ngùi. Thú thật, cho đến khi anh ra đi, tôi không biết anh theo đạo gì, không bao giờ anh nói đến chuyện đi lễ nhà thờ hay chùa chiền, cũng không bao giờ nhắc tới tôn giáo, nhưng trong những câu chuyện thường nhật anh gói ghém triết lý nhân sinh một cách khéo léo tài tình. Có lần chị Sơn hỏi tôi:

- Anh Út có hiểu ảnh nói gì không, hay anh Út đọc bài của anh Sơn anh có biết ảnh nói cái gì không, còn tôi thì mù tịt.

Sơn cười cười :

- Tôi viết và tôi nói, đôi khi tôi cũng không biết tôi nói và tôi viết cái gì huống hồ chi người khác, bà sao hay lộnxộn.!

Nhưng tôi hiểu. Tánh tình anh điềm đạm, dè dặt cẩn trọng trong mọi việc suy tính, cách xử thế với tha nhân rất ôn hòa và lịch sự, nhưng cả cuộc đời anh từ thuở nhỏ cho đến khi nằm xuống quả là một cuộc đời bất hạnh mang nhiều nỗi khổ tâm. Chính vì những bất hạnh đó đã làm cho anh trở thành một người trầm lặng. Không màng danh lợi, không bon chenhơn kém với bất cứ ai, nhưng khi nói hay viết một điều gì đều mang máng một cái gì đó trong tâm thức sâu thẩm của anh. Ngôn ẩn ngữ, ngữ ẩn ngôn, ngôn ngữ ẩn ý, người nghe người đọc thoáng qua không hiểu anh muốn ngụ ý gì! Có lần anh hỏi tôi :

- Tôi đố anh biết tại sao khi con người ta chết thì hai cái chân chết trước rồi mới dần dần lên tới cái đầu ?

- Tôi không biết !

- Này nhé, khi con người sinh ra là cái đầu ra trước, chỉ trừ phi bị đẻ ngược, còn hai cái chân ra sau cùng. Ra trước chết sau, ra sau chết trước. Cũng giống như toán trưởng Delta lúc nào cũng nhảy trước nhưng chết sau, khi triệt xuất về sau nhưng chết trước.

-Tôi không hiểu xin anh nói cho rõ.

- Này nhé! Khi trực thăng vào tới điểm xâm nhập (LZ) thì toán trưởng phải hoặc là tuột giây cáp, tuột thang giây, hay nhảy từ độ cao năm bảy thước trước rồi mới tới toán viên. Chỉ trong vòng 30 giây theo tiếng đếm cả toán phải xuống hết mặt đất. Nếu trong vòng 30 giây này mà Việt Cộng trở tay kiệp thì có phải thằng tuột giây sau cùng bị bắn khi còn tòn teng trên không hay không? Còn khi triệt xuất (PZ) thì luôn luôn toán trưởng phải đu giây cuối cùng khi cả toán đã ngồi trên trực thăng, cũng trong vòng ba chục tiếng đếm nếu mà Việt Cộng đuổi theo kịp thì có phải toán trưởng lãnh đủ hay không? Đi trước chết sau, về sau chết trước là thế đó.

Rồi anh giảng giải cho tôi nghe về Tứ Đại, Ngũ Uẩn, Lục Căn, con người từ đâu đến, chết sẽ đi về đâu. Tôi ngồi hằng giờ nghe anh nói và có cảm tưởng như ngồi trước mặt một vị thiền sư. Anh vói tay mồi một điếu thuốc, không biết điếu thứ mấy tự nãy giờ, rồi tiếp :

- Anh biết không hồi nhỏ cha tôi dạy rằng, khi người ta chết thì thân xác lạnh ngắt nhưng còn một điểm vẫn còn nóng (Trong Tứ Đại) Nếu điểm nóng này hội tụ trên đỉnh đầu thì người chết sẽ thoát vòng luân hồi sinh tử siêu thoát về nơi thánh cảnh. Nếu ở mắt thì sẽ siêu thoát về cõi trời. Ở ngực thì đáo sinh kiếp người. Ở bụng thì vào loài ngạ quỷ. Nếu ở đầu gối thì là, thì là súc sanh. Cho nên mấy thằng súc sanh, thường đi bằng hai đầu gối là như vậy đó.

11:00 giờ sáng ngày 6-12-2014. Bầu trời Houston âm u ảm đạm, mưa không nặng hạt nhưng buồn tê tái, lòng người buồn lòng trời cũng buồn theo, người nhỏ giọt lệ trời cũng nhỏ lệ theo.

Cất bước quay về thăm chốn xưa
Buồn ơi biết ngỏ hết sao vừa
Khi hay bạn đã lìa trần thế
Bỏ lại lòng tôi những giọt mưa

Bồi hồi mượn bút hạ vần đan
Mặn đắng bờ mi chợt lệ tràn
Gởi gió về Anh lời vĩnh biệt
Cầu xin giấc ngủ mãi bình an


Tôi đưa anh về cõi vĩnh hằng, nơi thánh cảnh anh sống yên bình vĩnh cửu. Anh đã theo mây về trời, đã theo gió đến miền Cực lạc, trút bỏ mọi ưu phiền khổ lụy chẳng một chút tơ vương. Khi nắp quan tài khép lại, tôi sờ vầng trán cao rộng của anh, để nhỏ giọt lệ cuối cùng tiễn đưa anh, bàn tay tôi bỗng thấy nóng ấm lạ thường.

Như vậy theo lời anh giảng, thì anh đã thoát vòng luân hồi sinh tử siêu thoát về nơi không còn vướng bận trần ai tục lụy và không còn nhìn thấy những con chó, con má mà lúc sinh tiền anh thường hay khinh bỉ và phỉ nhổ ./.

Houston 2:00 AM Ngày 7 Tháng 12 Năm 2014
Mũ Đỏ Út Bạch Lan
thienthanh
Posts: 3386
Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
Contact:

Post by thienthanh »

Trần Hoài Thư – người lính & nỗi buồn chiến tranh- nhân đọc lại “Truyện từ Bách khoa”

Đỗ Xuân Tê
Chẳng phải bây giờ tôi mới đọc truyện của Trần Hoài Thư qua mấy tác phẩm anh góp nhặt và in lại từ Văn và Bách khoa. Mà do nhu cầu công tác tôi được kể là ‘chuyên viên đọc’ khi phụ trách về điểm báo và chủ biên tin tức chiến sự cho một cơ quan tư tưởng đầu não của quân đội vào thời cao điểm của cuộc chiến, thì một nhà văn trẻ đầy triển vọng kiêm phóng viên chiến trường chịu lặn lội vùng đồng bằng sông Cửu có bút danh Trần Hoài Thư không thể ra ngoài ‘tầm ngắm’ của chúng tôi.

Tình cờ khi viết bài cảm nghĩ về Những tháng năm cuồng nộ của Khuất Đẩu (đăng trên Da Màu), tôi ước mong tác phẩm được xuất bản ở hải ngoại để quần chúng cùng thưởng thức, thì không ngờ trong một lời bình của độc giả, nhà văn Trần Hoài Thư cho biết Thư Quán Bản Thảo đã làm việc này. Tôi mau mắn gửi mua và được anh tặng thêm cho hai cuốn trong đó có Truyện từ Bách Khoa anh vừa xuất bản (2011). Tôi cứ băn khoăn vì được tặng chứ không mất tiền, dù anh nói chưa quen nhưng có đọc một số bài của tôi.

Đọc xong cứ để đó, thỉnh thoảng tôi lại xem. Định viết cảm nghĩ nhưng thấy nhiều cây bút uy tín trong đó có cả bạn anh đã viết nhiều về anh và khi nhìn lại khối lượng đồ sồ về những tác phẩm anh viết và xuất bản sau thời Bách Khoa cùng công việc anh miệt mài cho sinh hoạt văn học nghệ thuật tại hải ngoại mấy thập niên gần đây mới thấy công trình này đã ‘phủ bóng’ lên những tác phẩm đầu tay của người viết văn kiêm người lính trận năm xưa.

Suy nghĩ như vậy có vẻ lô-gích, nhưng hình như không phải cách nhìn của Trần Hoài Thư, thực sự anh vẫn trân trọng những tác phẩm đầu đời, được viết bằng tâm tư giằng xé và trải nghiệm sinh tử của người lính trẻ, được chắt lọc và hình thành từ những chất liệu sống pha đầy máu, mồ hôi và nứơc mắt của nhiều số phận trong một thời đất nước điêu linh, được lưu lại bằng những trang giấy học trò nhòe nhoẹt nhàu nát ghi vội trên đường hành quân mà nhiều khi bản thảo chưa đến tay chủ biên thì người viết đã được tản thương về một trạm quân y hay một nhà quàn dã chiến một nơi heo hút (trích ý viết trong Lời mở của sách).

Những vốn quí này không thể mua mà có, không thể có rồi dễ quên, không thể quên rồi chối bỏ, mà đã trở thành tư liệu vật thể trong văn học khi những người lính vừa chiến đấu vừa cầm bút để thuật lại những gì họ thấy, họ cảm nhận như những nhân chứng sống để rồi viết lại, chia sẻ với người cùng thời và các thế hệ sau.

Dù cho lịch sử có sang trang, quân đội có tan hàng, lòng người có ly tán, nhưng mãi mãi các tác phẩm văn học trong thời chiến vẫn là những đóng góp và ảnh hưởng nhất định cho ‘hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975’ vốn bị nhà cầm quyền trong nước tìm mọi cách cấm đoán và triệt tiêu từ sau biến cố 30-4 nhưng may mắn thay những người sống sót sau cuộc chiến ở hải ngoại mới đây đã tập hợp, nhìn lại và đánh giá đúng mức qua một cuộc hội thảo văn học vừa qui mô vừa tầm vóc do hai tờ nhật báo lớn của quận Cam và hai diễn đàn văn học mạng uy tín phối hợp tổ chức.

Cũng phải kể những tờ như Bách Khoa, như tờ Văn của một thời Sài gòn vang bóng đã có công tạo sân chơi cho các cây viết triển vọng và các chủ biên giàu lương tâm nghề nghiệp (như Lê Ngộ Châu) đã khích lệ văn nghệ sĩ hãy sống và viết như họ đang sống. Nhiều bài viết nhiều câu chuyện đã thực, sống động đến nỗi lưỡi hái kiểm duyệt của cơ quan thông tin miền Nam phải cắt xén để khỏi dao động tinh thần chiến đấu của binh sĩ.

Môt số truyện ngắn của THT cũng nằm trong trường hợp này, tôi hiểu và không lấy làm lạ ngay trong truyện ngắn đầu tay của anh đăng trên BK ‘đã bị kiểm duyệt bỏ trắng nhiều đoạn’ ngoài ý muốn của tác giả và chủ biên tòa soạn. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, các nhà văn nhà báo họ có một giác quan thứ sáu rất bén nhạy, họ biết chỗ nào sẽ bị cắt và họ vẫn né tránh được lưỡi hái làm hại chữ nghĩa để rồi cuối cùng những gì họ muốn gởi gấm vẫn đến tay bạn đọc.

Quay lại chủ điểm của bài viết, mấy tháng gần đây người ta hay viết và nhắc nhiều đến Trần Hoài Thư, một cây bút được nhiều cảm tình của những người lính cựu, một nhà văn được vị nể của những bạn văn và độc giả yêu văn chương. Tôi phục chị Hải Hà đã mở miệng được anh để có một cuộc trò chuyện khá thú vị. Qua đó tôi mới hiểu về anh nhiều hơn, mới biết một con người vốn chiến đấu can trường chưa đầy ba tháng thương tích hai lần trong đơn vị thám kích của một sư đoàn bộ binh đóng dọc phía đông Trường Sơn lại là người sĩ quan tự đào ngũ để vào quân lao tỏ thái độ phản kháng những phi lý của cuộc chiến tranh mà trước đó dù bị đẩy đưa vào chỗ chết anh vẫn chiến đấu hết mình trong tác phong và trách nhiệm của người lính.

Cũng may là tôi chưa viết về anh vào thời điểm khi đọc xong cuốn sách, chứ chỉ dựa vào văn phong, vào nội dung của từng cốt chuyện, vào nhân vật không gian và thời điểm, vào những gì tác giả muốn gởi gấm, qua cách nhìn bình thường của người điểm sách thì quả là hời hợt khi chưa nắm bắt được tâm tư tác giả, quá trình bản thân, hoàn cảnh sống, môi trường được đào luyện, động cơ sáng tác, những quan hệ bạn bè, những mối tình lớn nhỏ, những vùng đất đi qua, những dấn thân, hy sinh, những thử thách, thành công và thất bại của cuộc đời, nói chung là những chi tiết mà bạn bè bạn văn của anh tình cờ hé lộ qua chân dung đích thực của một nhà văn. Chẳng vậy mà khi muốn phê bình hoặc quảng bá cho một cuốn sách mới ra mắt người ta có thói quen tìm và trò chuyện với tác giả, nhưng chẳng phải dễ khi tiếp cận được những tác giả vừa có tài vừa quá khiêm tốn.

Tôi chưa có dịp gặp anh, nhưng cứ nhìn hình ảnh từ thời áo lính thư sinh qua tấm bìa của sách so với hình hài mai một qua những ký họa lúc về chiều, rồi liên hệ với thực tế cuộc đời, Trần Hoài Thư quả là một con người ‘thép’. Có ai trong chúng ta từ thơ ấu đến tuổi lập thân do tình cờ của số phận đã trải qua trại mồ côi, rồi nhà trường, quân trường, chiến trường, quân lao trước chiến tranh, rồi trại tù cộng sản, nhà tù lớn, trại tỵ nạn trên Biển Đông sau chiến tranh, rồi làm lại từ đầu nơi xứ người cũng bắt đầu từ nhà trường trở thành kỹ sư thảo chương, miệt mài lao động suốt 25 năm cho một công ty hàng đầu của Mỹ. Vừa lao động trí óc vừa lao động chân tay, vừa sáng tác vừa in ấn, vừa biên tập vừa phát hành, bảy mươi vẫn chưa nghỉ, vẫn chẳng hưu và lo cho bản thân, dù thân xác đã ghim đạn của VC và những chứng bệnh kinh niên không hẹn mà gặp lúc tuổi về già.

Tôi cũng có thời mặc áo lính và trải qua 12 năm trong trại tù cộng sản nhưng vẫn ‘chóng mặt’ khi đọc những trải nghiệm của anh, một người lẽ ra phải được thư nhàn thanh thản như cái tên Trần Quí Sách cha mẹ đặt cho rồi Trần Hoài Thư do tự chọn vì yêu và trăn trở với chữ nghĩa.

Tôi đoán là anh cũng muốn yên thân khi chọn cho mình nghiệp nhà giáo (giáo sư toán của một trường trung học đất Tam kỳ, quê của các bạn văn Trần Yên Hòa, Nguyễn Lương Vỵ). Nhưng họ đưa anh vào lính, mà lẽ ra độ mắt cận thị của anh theo luật thì được miễn hoặc hoãn. Anh bị thương hai lần không chết, anh đã sống và tồn tại theo cách riêng của anh.

Đọc những bút ký chiến trường của anh trong Bách Khoa bỗng dưng tôi thấy thương hại anh khi cứ phải mầy mò tìm kính lau kính vì chiếc poncho không đủ kín để che những giọt mưa của của một thời tiết sáng nắng chiều mưa đêm về lội ruộng khi anh đi theo những cánh quân của các đơn vị vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Có lúc người cầm máy cho anh khi chỉ huy chết trên tay anh, toán quân tản lạc vì bị phục kích, anh vẫn mang vết thương rỉ máu băng rừng về được nơi tải thương và các câu chuyện nằm trong quân y viện trở thành những trải nghiệm sống mà ít nhà văn viết được khi chính tác giả là thương binh và đối mặt với những cái phi lý khi các đồng đội của anh phải mất đi một phần thân thể, phế tật hay chuyển xuống nhà xác trước dòng nước mắt tiếc thương của những người vợ trẻ và ánh mắt thơ ngây vô tội của các trẻ thơ. Nỗi buồn chiến tranh làm anh trăn trở từ đây.

Càng thấy những bất công phi lý của chiến tranh anh quay sang tỏ thái độ phản kháng, dù tiêu cực và hệ lụy cho bản thân. Anh muốn làm Hà Thúc Nhân, người bác sĩ quân y chống tham nhũng cùng vào quân lao với anh. Nhân chết, Thư sống. Còn may cho anh lẽ ra từ quân lao phải ra đơn vị tác chiến dưới dạng ‘lao công chiến trường’ nhưng nhờ sự duyệt lại hồ sơ của con ngựa chứng và biết khiếu viết lách của anh, cơ quan tôi đã ‘bốc’ anh về Vùng 4 chiến thuật để làm…‘phóng viên chiến trường’ hết lội suối giờ lội sình để tường thuật và gởi các bản tin sốt dẻo cho các cơ quan báo chí quân đội cấp quân đoàn và trung ương.

Có điều thú vị khi đọc mấy chuyện của anh từ cuốn sách này, ta thấy lẽ ra trong tư cách phóng viên và nhu cầu công tác anh phải tường thuật các cuộc hành quân theo tiến trình (xin phép dùng tiếng Anh) Who, What (and) Where, nhưng vì là nhà văn anh lại đặt nặng theo cảm tính và luôn đào sâu khía cạnh How (and) Why. Anh ghét các con số báo cáo tổn thất địch ta, số vũ khí tịch thu vô tri vô giác, những buổi thuyết trình hành quân buồn tẻ mà lại hay ‘chạy đầu, đi đầu để săn nhặt những hình ảnh sống động’ và quan sát những tình huống bên lề, từ trên trực thăng nhìn xuống, có khi là em bé đang thả diều trong cảnh yên bình của một đồng cỏ xanh chỉ ít giờ sau chỉ còn con diều và cuộn chỉ,

Ngày hôm nay, tôi lại bay qua cánh đồng cỏ cũ. Trời vào hè, nắng vàng rực rỡ, chói lòa cả những áng mây xa. Con tàu như quen thuộc hạ xuống 100 bộ. Tôi không còn thấy em bé thả diều nữa. Chỉ còn cánh đồng cỏ màu vàng sậm mênh mông bát ngát. Tôi nghe một nỗi buồn đến đắng cay đầu lưỡi. Một nỗi buồn tê tái như khi nhớ lại chiếc cặp với trái soài non, những chiếc nắp ken, và con diều, cuộn chỉ vấy máu trên sân trường…(trích bút ký chiến trường Cánh Diều trên đồng cỏ tháng 3/74).

Còn rất nhiều chuyện hay và cảm động, có dịp bạn đọc xin tìm sách của anh để đọc lại như một hoài niệm, để cùng suy nghĩ về trải nghiệm của một nhà văn kiêm phóng viên, do tình cờ của lịch sử và đưa đẩy của số phận trở thành cây viết tài tử trong chiến tranh rồi thành cây bút chuyên nghiệp tài hoa sau chiến tranh.

Tiện đây người viết cũng xin tỏ lòng khâm phục người lính Trần Hoài Thư, chúc anh chân cứng đá mềm lo cho văn học, quên đi nỗi buồn chiến tranh một thời trăn trở. Cũng không quên gởi lời thăm hỏi đến chị Yến hiền thê của anh, một cái bóng phụ nữ nếu không có chị chắc khó đoán cuộc đời ‘con ngựa chứng’ sẽ trôi về đâu. (THT tuổi Ngọ)

Đỗ Xuân Tê

Cali, tháng 12-2014
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Tàn cơn Binh Lửa


“Buông tay súng, mà máu trào thành lệ,
Lệ tuôn trào, lệ biển cả mênh mông..”

Lính Dù Lê Lộ Đức

I. Khối Chiến tranh Chính Trị.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù có nhiều khả năng tác chiến, đa hiệu, thường áp dụng ba chiến thuật, tuy có khác nhau về nhiệm vụ, quân số, vũ khí… nhưng có liên hệ chặt chẽ với nhau. Ba chiến thuật đó là: Thám Sát, phản Du kích và Trận Địa chiến.

a. Thám sát.

Nhiệm vụ thám sát địch, tìm hiểu về hoạt động địch, lực lượng, đơn vị, căn cứ địa, kho tàng, vũ khí, khí tài, kế hoạch, mưu đồ, v.v…. Để có thể thâu lượm mọi tin tức nầy, các Toán Thám Sát đã được thả xuống hoạt động sâu trong lòng địch, thâm nhập vào các mật khu, hậu cứ địch, trên “đường mòn Hồ Chí Minh”, vùng Tam Biên (Việt Miên Lào), hay dọc theo biên giới Việt Miên Lào, khi cần có thể vượt qua biên giới… không cần hạ sát địch quân, cần bắt sống để khai thác tin tức.

Mỗi Toán Thám Sát gồm 6 người, được huấn luyện thuần thục võ nghệ, chuyên môn để có khả năng tác chiến, đặc biệt về do thám, quan sát, theo dõi, liên lạc, cứu thương và phá hoại, bao gồm cả nhiệm vụ tiền sát viên pháo binh, điều chỉnh phi pháo, bắt sống tù binh và mưu sinh thoát hiểm.. v.v…

Như Độc Giả thấy trong các bài tường thuật ở phần trước, những hoạt động có chính Tác Giả tham gia, chỉ huy, đã gặt hái được một số thành quả, thâu lượm nhiều tin tức chính xác, cấp thời cho các cấp Chỉ Huy Sư Đoàn, Quân Đoàn, Bộ Tổng Tham Mưu, để các nơi nầy có biện pháp, kế hoạch, kịp thời đối đầu, chận đứng hay tấn công tiêu diệt địch quân.



Biệt Cách Nhảy Dù, tùy từng thời điểm, và cũng tùy theo nhu cầu, sự điều động của Bộ Tổng Tham Mưu, để đưa các Toán Thám Sát của các Biệt Đội tăng cường hoạt động đặc biệt ở các Quân Khu I, II, III. Số lượng tin tức thu hoạch được, đã cung cấp cho các Phòng 2 của các Sư Đoàn, Quân Đoàn và các vị Tư Lệnh các Quân Khu, các Vùng Chiến Thuật không phải là ít.


b. Phản Du Kích Chiến.

Chiến thuật du kích của Việt cộng là rập khuôn theo chiến thuật của Mao. Yếu tố chính trị, tuyên truyền là quan trọng, mục đích lôi kéo dân chúng về phía của chúng bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Về quân sự, Mao chủ trương rút lui để bảo toàn lực lượng khi bị ta tấn công, quấy phá khi ta dừng quân, tấn công khi ta mệt mỏi, và truy kích khi ta rút lui.

Kinh nghiệm chiến đấu, sự trui rèn, tôi luyện trong máu lửa, đã cho cấp chỉ huy Biệt Cách Dù những bài học hay. Do đó, chiến thuật của Biệt Cách Dù là“Gậy ông đập lưng ông”, có nghĩa là dùng chiến thuật du kích để đánh du kích, cùng lúc áp dụng các phương cách bảo vệ dân, giúp đỡ và tuyên truyền dân chúng đứng về phe chúng ta, ủng hộ chúng ta.

Độc giả từng thấy ở các phần trước, tại mặt trận Tha La, Trảng Bàng, dân chúng đã cung cấp những tin tức về các hoạt động của địch, hay tại Ngã Ba Cây Quéo, Cây Thị, Gia Định trong Tết Mậu Thân, hay tại Bến Thế, Bình Dương, đồng bào đã đứng hai bên đường đón chào, hoan hô các chiến sĩ Biệt Cách Nhảy Dù, cũng như tặng trái cây, quà bánh, như một biểu lộ bày tỏ lòng tri ơn sâu xa…

Để đánh đuổi bọn địch ra khỏi vùng chúng chiếm đóng hoặc đóng chốt, Biệt Cách Nhảy Dù dùng chiến thuật du kích phản du kích, có nghĩa là lấy chiến thuật của địch để đánh lại địch, tạo sự bất ngờ, gây hoang mang, hoảng loạn cho bọn chúng và nhờ vậy mà đã đạt nhiều chiến thắng bất ngờ, làm cho các đơn vị bạn phải nể phục. Đó là kết quả của các trận đánh ở Bến Thế, Xóm Đạo Tha La, Ngã ba Tân Phú Trung và Mật Khu Mây Tào.. v.v…

Căn bản của “Chiến tranh giải phóng” (chữ của cọng sản) là lấy Nông Thôn để bao vây Thành Thị, và áp dụng “chiến tranh du kích”. Về phía Quân Đội Việt Nam, trách nhiệm giữ đất khá nặng nề, mất tính cách di động, thường đóng Đồn, Bót. Chiến thuật nầy chỉ năng động về ban ngày, ban đêm rút vô phòng thủ trong Đồn Bót nên không bảo vệ được dân. Chiến thuật của Biệt Cách Nhảy Dù thì ngược lại. Thay vì đánh địch vào ban ngày, Biệt Cách Nhảy Dù lại dùng chiến thuật đánh đêm. Đánh đêm là gây yếu tố bất ngờ cho địch, kèm theo là chiến thuật phản du kích là bất ngờ thứ hai, vào tận sào huyệt Việt cọng để đánh chúng là bất ngờ thứ ba.

Chính vì lối đánh thần tốc, gan dạ và đầy bí hiểm nầy, nên Biệt Cách Nhảy Dù đánh đâu thắng đó, giải tỏa áp lực nhanh, nếu không muốn nói là địch thua dài, chạy dài…

c. Trận địa chiến.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được thành lập và phát triển về sau này quân số lên tới ba ngàn Chiến Sĩ, được chia thành ba Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật, mỗi Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật có bốn Biệt Đội, mỗi Biệt Đội có hai trăm chiến sĩ.

Nhiệm vụ chính yếu của Liên Đoàn là thả Toán Thám Sát vào các căn cứ địa, an toàn khu của địch, ngoài tầm yểm trợ của pháo binh, cách biệt hoàn toàn với các Quân Binh chủng bạn, để thu lượm tin tức, bắt cóc tù binh, chứ không phải để đánh các trận địa lớn như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến hay Biệt Động Quân.

Tuy vậy, trong một vài tình huống khẩn cấp, cần thanh toán dứt điểm những nơi dầu sôi lửa bỏng, Bộ Tổng Tham Mưu vẫn phải tung Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù lâm trận, để giải quyết chiến trường như: Mậu Thân đợt 1 và 2 +n-ăm 1968, Bình Long (An Lộc), Quảng Trị (Cổ Thành) năm 1972, Tha La (Trảng Bàng) năm 1973 và Tân Phú Trung (Củ Chi) năm 1974, Phước Long năm 1975. Và Liên Đoàn đã lập nên nhiều chiến thắng lẫy lừng, cho dù không thuộc sở trường tác chiến của Đơn vị.

Cũng có đôi lần, khi các Toán phát hiện các căn cứ địa, kho tàng, hậu trạm địch, có quân số đông cấp Đại Đội, Liên Đoàn có khả năng đưa các Biệt Đội vào thanh toán địch ngay tại địa điểm địch đóng quân hay chiến trường do Biệt Cách Nhảy Dù chọn lựa.

Đó là trường hợp Biệt Cách Nhảy Dù đã phục kích, tấn công Việt cọng tại thung lũng Ashau năm 1968, Đồng Xoài năm 1968 và Tam Biên năm 1971, sau khi các Toán Thám Sát phát hiện bọn chúng.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ngoài Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, còn có nhiều Toán Thám Sát của Lôi Hổ, Nha Kỹ Thuật, Sở Liên Lạc, Sở Công Tác, Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu v.v… cũng đảm nhận nhiệm vụ xâm nhập, hoạt động trong lòng địch như của Biệt Cách Nhảy Dù.

Tuy nhiên, các Toán Thám Sát nầy chỉ thu thập tin tức, ghi nhận “địch tình” rồi cung cấp lên các cấp Chỉ Huy mà họ tăng phái. Họ không có lực lượng, đơn vị có khả năng khai thác mục tiêu, tấn công địch. Biệt Cách Nhảy Dù thì hơn hẳn, khi cần mở trận địa tiêu diệt địch có quân số lớn, Biệt Cách Nhảy Dù sử dụng ngay các Biệt Đội xung kích.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù sau khi nhảy vào An Lộc, sau gần ba tháng chiến đấu dũng cảm, góp công truy quét tiêu diệt giặc thù cọng sản, lấy lại các phần đất đã bị giặc lấn chiếm, thì được lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu, triệt thoái trở về Hậu cứ Liên Đoàn tại Ngã Tư An Sương, Hốc Môn, để bổ sung quân số, trang bị vũ khí đạn dược, nhằm tăng viện cho chiến trường Quảng Trị, ở địa đầu giới tuyến, vùng I chiến thuật.

Trong thời gian này, Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn đã được Đại Tướng Cao Văn Viên gọi đến trình diện tại Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng. Trong cuộc diện kiến, Đại Tướng đã hết lòng khen ngợi về ba hiệu năng và sở trường chiến đấu của Liên Đoàn mà chưa có một Đơn vị, Binh chủng nào trong Quân Lực VNCH có được như: - Thả Toán thâm nhập vào hậu tuyến của địch trong các mật khu bất khả xâm phạm - Kỹ thuật và khả năng tác chiến, đột kích đêm - Tham dự “trận địa chiến”cùng các đơn vị bạn trong các mặt trận lớn nóng bỏng và đầy cam go. Đại Tướng còn cho biết sẽ có kế hoạch nghiên cứu để gia tăng, bành trướng Liên Đoàn lớn hơn nữa.

(Nếu kế hoạch này mà được Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận, Liên Đoàn dự trù trong tương lai sẽ có thêm khoảng 16 Biệt Đội, 04 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật. Và song song với sự gia tăng và phát triển cấp số, thay đổi tính danh, thì các Ban cũng sẽ được nâng cao thành Phòng, riêng Khối Chiến Tranh Chính Trị vẫn giữ nguyên như cũ. Có thể Liên Đoàn sẽ được nâng lên cấp Lữ Đoàn, Chỉ Huy Trưởng sẽ là Tư Lệnh với cấp bậc Chuẩn Tướng.)

Trong chiều hướng phát triển nầy, trong khoảng giữa tháng 2 năm 1975, Đại Tá Phan Văn Huấn đã bổ nhiệm tôi vào chức vụ Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị thay thế Thiếu Tá Phạm Châu Tài, vừa được đề cử nhiệm vụ mới là Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Chiến Thuật.

Lý do thứ hai mà tôi được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng chọn làm Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị, theo tôi nghĩ có thể phát xuất từ những Bài Thơ đề cao tinh thần chiến đấu uy dũng của các Chiến Sĩ Biệt Cách Dù, mà tôi đã gửi đăng trên các báo của Quân Đội VNCH như: Tiền Phong, Chiến Sĩ Cộng Hòa, và một bài trên tờ Bích Báo của Biệt Đội 814, trong đó tôi đã đề cập về tâm sự của một Thương Binh Biệt Cách Dù, đã xả thân chiến đấu, để rồi bị trọng thương, phải nằm điều trị tại các Quân Y Viện, và trong suốt thời gian dài, Liên Đoàn miệt mài quân hành, nên không một ai trong đơn vị đến thăm viếng, ủi an, ủy lạo. Nỗi buồn cô đơn, sớm bị lãng quên, làm họ uất nghẹn và đau đớn tột cùng. Bài báo rất được anh em Binh Sĩ trong đơn vị hoan nghênh và Trung Tá Nguyễn Văn Lân, Chỉ Huy Phó Liên Đoàn lưu tâm…lưu ý..

Lý do thứ ba là ngay tại Doanh Trại Biệt Đội 814 tại Căn Cứ Hành Quân Suối Máu, hay bất cứ nơi đâu, tôi đều tổ chức các phương tiện ẩm thực, vui chơi cho Binh Sĩ trong Biệt Đội như Bún Bò, Phở, Hủ Tiếu, Bò Kho, các bàn “Bi-Da”, “Ping-Pong”, phòng đọc sách báo.v.v.. để anh em Binh Sĩ ăn uống, giải trí trong những ngày dưỡng quân. Họ có thể được “ghi sổ”, lãnh lương sẽ trả lại sau. Nhờ những phương tiện nầy, Binh Sĩ cảm thấy thoải mái, không còn buồn nản khi được nghỉ ngơi, không đi lang thang ra ngoài doanh trại, vừa tốn tiền, lại có thể gặp những việc không hay xảy ra trong thời buổi chiến tranh loạn lạc này.

Ngoài ra, tại vị trí đóng quân, tôi cho dựng Cổng Biệt Đội, thường xuyên cắt cử lính gát, làm hàng rào bao quanh, trồng hoa, cây cảnh trước mỗi dãy nhà của các Trung Đội và cả trong khu vực Doanh Trại. Binh Sĩ những lúc rảnh rỗi, có thể dạo chơi, ngồi hóng mát trò chuyện để vơi đi nỗi nhớ về Cha Mẹ, Vợ con….

Nhờ vậy, mà Doanh Trại Biệt Đội 814 đã trở thành mẫu mực. Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn đã nhắc nhở các Biệt Đội khác nên làm theo. Trong một dịp Nhà Báo Minh Đức Hoài Trinh đến Căn Cứ Hành Quân để làm phóng sự, đích thân Đại Tá Phan Văn Huấn đã hướng dẫn Bà đến thăm Doanh Trại Biệt Đội 814 của tôi như là một lời ban thưởng.

Lý do thứ tư cũng có thể do từ một cuộc phỏng vấn của Báo Chí, Truyền Thanh, Truyền Hình, khi tôi được chọn là Chiến Sĩ Xuất Sắc về tham dự buổi tiếp tân tại Phủ Tổng Thống, đã được phổ biến rộng rãi khắp cả nước, tôi đã trả lời như sau:

“Suốt những tháng năm lăn lộn trên khắp các chiến trường, trận địa, trên ba vùng chiến thuật, sống chết như sợi chỉ treo mành, cũng chẳng làm tôi nao núng, nhụt chí. Bốn lần bị thương tích, 16 lần được tuyên dương công trạng, phải chăng đó là một ít công lao nhỏ nhoi, mà chính bản thân tôi đã đóng góp cho Tổ Quốc Việt Nam?. Biết bao Đồng Đội, Chiến Sĩ của tôi đã ngã gục, hy sinh để tôi được sinh tồn. Và cũng chính nhờ vào những xác thân, xương máu của họ đã tạo lập nên nhiều chiến công, mà hôm nay tôi mới được vinh hạnh trở thành một Chiến Sĩ Xuất Sắc của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù để về đây tham dự Ngày Đại Lễ Quân Lực 19/ 6.

Hôm nay, đứng trước làn sóng của Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình, tôi xin kính cẩn cúi đầu tưởng niệm và bày tỏ lòng tri ơn sâu xa đến các Anh Hùng Tử Sĩ, các Thương Binh, các Chiến sĩ Biệt Cách Dù, đã chung vai sát cánh cùng tôi chiến đấu tiêu diệt giặc thù, bảo vệ Tổ Quốc, Đồng Bào cho đến hơi thở cuối cùng…Tôi xin muôn đời đội ơn !!!”

Sau khi đảm nhận chức vụ Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị của Liên Đoàn, tôi thực hiện ngay những điều tôi đã đề cập và ấp ủ bấy lâu: Thường xuyên thăm viếng, ủy lạo, tặng quà cho Thương Phế Binh tại các Quân Y Viện hay tại nhà riêng. Chăm sóc và giúp đỡ các Cô Nhi, Qủa Phụ trong đời sống, trong học hành. Củng cố và phát triển Trường Tiểu Học Biệt Cách Nhảy Dù. Can thiệp cho các em nhập học các Trường Văn Hóa Quân Đội và Quốc Gia Nghĩa Tử. Xin việc làm cho các cựu quân nhân tại Tổng Công Ty Thực Phẩm và cùng Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Thành Châu tổ chức gây Quỹ cứu trợ cho Thương Phế Binh của Liên Đoàn.

Cùng song hành với nhiệm vụ trên, để kịp thời bổ sung quân số cho đơn vị trước đà phát triển, theo lệnh của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng, tôi đã đến các Trung Tâm Huấn Luyện Đồng Đế, Quang Trung, nơi các khóa Hạ Sĩ Quan và Tân Binh sắp mãn khóa để thuyết trình, tác động họ tình nguyện về phục vụ Liên Đoàn. Cứ sau mỗi lần chuyện trò cùng các khóa sinh chấm dứt, số xung phong gia nhập Biệt Cách Nhảy Dù vượt quá chỉ tiêu đã đề ra.

Sau khi tiếp nhận các Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ về đơn vi, Liên Đoàn tiếp tục huấn luyện họ về các khả năng tác chiến đặc biệt của một Chiến Sĩ Biệt Cách Nhảy Dù, ngoài ra Khối Chiến Tranh Chính Trị còn tổ chức các chương trình huấn luyện về chính trị, về thái độ, tác phong đối với dân chúng, không những chung quanh đơn vị đồn trú mà đặc biệt ở các nơi hành quân, hầu lôi kéo người dân về phía Quốc Gia, không để dân chúng bị Việt cộng lợi dụng, tuyên truyền, dụ dỗ, mua chuộc…

Từ giữa tháng 2 năm 1975, sau khi đảm nhận chức vụ mới, tôi say sưa với công việc, suốt ngày chăm chú tìm tòi, học hỏi, để công tác Chiến Tranh Chính Trị trở nên thực tế hơn, hữu ích hơn, và dễ đi vào đời sống từng người lính trong đơn vị, cũng như với dân chúng, ở những nơi mà các Chiến sĩ Biệt Cách Nhảy Dù phải tiếp xúc với họ.



II. Tàn cơn Binh lửa.


Là một Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị, tôi có thì giờ và có nhu cầu theo dõi tình hình quân sự và chính trị nhiều hơn. Ngoài những hành động gây chiến giành dân lấn đất, bọn cộng sản đang thăm dò thái độ của Mỹ sau khi họ ký Hiệp Định Paris năm 1973.

Trước chủ trương “thay đổi màu da trên xác chết”, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa càng ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn về tình hình chiến đấu và tiếp liệu. Việc “một đổi một” không được thi hành vì theo lệnh của Ngũ Giác Đài, Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho VNCH. Tình hình chính trị kể từ đầu năm 1975 càng xáo trộn hơn, nhiều phong trào nảy sinh nhằm hạ uy tín của không những cá nhân Tổng Thống mà toàn bộ Chính Quyền Miền Nam. Đó là mục đích của Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống, Ký Giả Đi Ăn Mày và Phong Trào Chống Tham Nhũng. Phong Trào nầy được tổ chức toàn cõi VNCH. Dĩ nhiên, tình hình xáo trộn nầy ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của Binh Sĩ VNCH, khiến họ phải suy nghĩ về việc làm của họ. Không lý họ chiến đấu cho một chính quyền tham nhũng, đang bóc lột người dân mà họ đang bảo vệ.

Quan trọng hơn nữa, viện trợ ảnh hưởng đến khả năng tác chiến của Binh Sĩ. Đạn dược, xăng nhớt thiếu, nên khả năng vận chuyển Binh Lính bị hạn chế. Tình trạng nầy ảnh hưởng trực tiếp đến các đơn vị Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, các Sư Đoàn Bộ Binh hơn là ở các lực lượng Tổng Trừ Bị, trong đó có Biệt Cách Nhảy Dù. Trong giai đoạn nầy, câu binh thư “Thực túc binh cường” ám ảnh trí óc tôi không ít. Binh Sĩ của Liên Đoàn còn đủ “thực túc”, nhưng gia đình họ gặp khó khăn không ít trong đời sống hằng ngày.

a. Rút khỏi Căn Cứ Hành Quân, Biên Hòa.

Sau khi chiếm Phước Long ngày 6 tháng 1 năm 1975, quân cộng sản chiếm Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3 cùng năm đó. Rõ ràng, như trong bài trước đã trình bày, đánh Phước Long, là cộng sản thăm dò phản ứng của Mỹ. Thấy Mỹ bất động, lại còn cắt viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, cộng sản thấy thời cơ đã tới, làm tới luôn, mở đầu chiến dịch tổng tấn công miền Nam bằng trận đánh lớn kế tiếp: Ban Mê Thuột.

Mặc dù tình hình căng thẳng, ngày càng nặng nề, hoạt động của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù vẫn bình thường. Theo lệnh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Đại Tá Phan Văn Huấn đã cho rút Bộ Chỉ Huy nhẹ của Trung Tá Nguyễn Văn Lân, từ Tây Ninh về lại Căn cứ Hành Quân Biên Hòa, để lại Biệt Đội 813 do Trung Úy Lại Đình Hợi chỉ huy, tăng cường phòng thủ cho chiến trường Tây Ninh. Điều động Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật, do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy, gồm ba Biệt Đội 811, 817 và 818 đến bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.

Riêng tại Căn cứ Hành Quân Suối Máu Biên Hòa, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy và hai Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật 1 và 2, với quân số các Biệt Đội còn lại lên tới 2,000 Binh Sĩ, vẫn bố phòng ở mặt Bắc Phi Trường Biên Hòa, sẵn sàng chiến đấu. Các Toán Thám Sát vẫn được thả vào Chiến Khu D để do thám, thu nhặt tin tức các hoạt động của địch.

Trưa ngày 28 tháng 4, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III họp tất cả Đơn Vị Trưởng, Chỉ Huy Trưởng các đơn vị đang đồn trú ở địa phương. Trong buổi họp, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn thông báo tình hình quân sự tuyệt vọng ở Quân Khu III, và ra lệnh tất cả các đơn vị rút về phòng tuyến mới, dọc theo Xa Lộ Đại Hàn, Thủ Đức, để bảo vệ Thủ Đô Saigon. Liên Đoàn 81 Biệt Cách NhảyDù là đơn vị rút cuối cùng, có nhiệm vụ bảo vệ Cầu Biên Hòa, trên Quốc Lộ 1, gần ngã ba đường đi vào Núi Bửu Long, để toàn bộ Binh Sĩ rút qua khỏi cầu nầy được an toàn.

Cũng trong ngày hôm ấy, Bộ Tổng Tham Mưu hầu như có kế hoạch cho Trực Thăng đến đón các cấp Chỉ Huy di tản khỏi Việt Nam. Nhưng đối với Đại Tá Huấn thì Ông đã từng tuyên bố khẳng định: “Tôi có vợ và tám con. Tôi có thể bỏ lại Gia Đình, nhưng không thể bỏ lại hai ngàn Chiến Sĩ của tôi để mà ra đi trong hoàn cảnh như thế nầy được.”.

Và Đại Tá Huấn đã ở lại với Binh Sĩ của Ông, cho đến giây phút cuối cùng, khi có lệnh buông súng đầu hàng của tân Tổng Thống Dương Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ngay trong đêm 28 tháng 4, Đại Tá Phan Văn Huấn ra lệnh Biệt Đội 812 đến canh giử cầu Biên Hòa, để ngăn cản đường tiến quân của giặc cọng, không cho bọn chúng phá sập. Sáng sớm hôm sau, khi Liên Đoàn rời khỏi Căn cứ Hành quân Suối Máu, khi đoàn quân vừa rút qua khỏi Cầu, thì cũng vào lúc đó qua làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn, đã nghe được lệnh của Tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu, người vừa lên thay thế cho Ông Trần Thiện Khiêm đã đào thoát sang Đài Loan, yêu cầu toàn thể người Mỹ phải cấp tốc rút ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 24 giờ. Tin tức này đã gây hoang mang không ít đến tinh thần chiến đấu của Binh Sĩ.

Đoàn quân Biệt Cách Nhảy Dù, theo thứ tự được phân định từ từ di chuyển trên Quốc Lộ 1, hướng về Sài Gòn. Đến gần xế chiều, khi cánh quân vừa đến Tân Vạn, thì trời sập tối. Mặc dù, đang đứng trước tình hình bi đát, Đại Tá Phan Văn Huấn vẫn liên tục dùng máy truyền tin liên lạc nhiều nơi, từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, tới Bộ Tổng Tham Mưu, cũng như các đơn vị bạn ở địa phương, nhưng hoàn toàn im lặng vô tuyến, không một ai phản hồi. Như “rắn mất đầu”, Đại Tá Huấn ra lệnh cho Bộ Chỉ Huy và tất cả các Biệt Đội rút vào đóng quân qua đêm trong rừng Cù Mi, chờ lệnh thượng cấp. Nhưng suốt đêm lặng lẽ trôi qua, vẫn chẳng có một tín hiệu liên lạc nào cả.

Sáng hôm sau, ngày 30 tháng 4. Đại Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân Đội VNCH buông súng đầu hàng. Đại Tá Huấn liền cho đơn vị rời khỏi Rừng Cù Mi, băng rừng, vượt đồi, tiếp tục cặp theo Quốc Lộ 1, di hành theo hướng Nam đến Quân Lỵ Thủ Đức. Trên trục đường nầy, Liên Đoàn đã phát hiện, từ hướng Sài Gòn về Biên Hòa rất nhiều toán thanh niên chỉ mặc áo lót, quần “xà lỏn”, tay cầm giấy tờ tùy thân, chạy chân đất hớt ha hớt hải. Chận một vài người lại hỏi mới biết họ là lính Bộ Binh và Địa Phương Quân, bị Việt cộng bắt tước vũ khí , cởi bỏ quân phục, mủ nón, giày vớ, mới thả cho về nhà. Sự kiện này có thể làm cho tinh thần binh sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù dao động!. Tuy nhiên, đây là một đơn vị Quân Đội thiện chiến và kỹ luật. Tất cả vẫn giữ nguyên đội ngũ, từ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đến các Biệt Đội, bốn hàng dọc ngay hàng thẳng lối chậm rãi bước đi. Từng đoàn xe Molotova, chở đầy bộ đội Việt cộng chạy song hành, chúng nhìn các Chiến Binh 81 Biệt Cách Nhảy Dù với những ánh mắt đầy kinh ngạc, sững sốt, lạ lùng.

Là một cấp chỉ huy gương mẫu, giữ kỹ luật nghiêm minh, Đại Tá Phan Văn Huấn chấp hành lệnh của Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau khi đã họp tất cả các cấp Chỉ huy Liên Đoàn, để cùng đi đến một quyết định chung.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

Quân Y Mũ Đỏ Một Thời Chiến Chinh


MĐ.BS. Trần Đoàn

50 năm, một nửa thế kỷ của cuộc đời đã trôi qua từ khi tôi về đảm nhận chức vụ Y sĩ Trưởng TĐ2ND. Trí nhớ cũng phôi pha theo thời gian. Thế nhưng một chặng đường gần 6 năm đội chiếc mũ đỏ vẩn là một dấu ấn khó quên, vì đó là một giai đoạn của tuổi thanh niên đầy nhựa sống, tích cực hăng hái đóng góp bàn tay bảo vệ tư do cho quê hương, vừa gian lao vừa hãnh diện.


Chiến tranh Quốc Gia - Cộng Sản từ năm 1965 bắt đầu sôi động dữ dội. Rối loạn chính trị miền Nam tạo cơ hội thuận tiện cho quân chính qui Bắc Việt dễ dàng xâm nhập khắp thôn ấp và các vùng ven đô thị.
Sau 7 năm dùi mài kinh sử, chúng tôi là sinh viên Quân y hay Dân y trưng tập đều được phân phối về các đơn vị chiến đấu hay các bệnh viện dã chiến để băng bó các vết thương của bom đạn.
Làm sao tránh khỏi lo âu và xúc động khi chỉ nội trong năm 1964-65 mà đã có 7 Y sĩ hy sinh tại chiến trường.
BS. Đoàn Mạnh Hoạch ngã gục trước lằn đạn địch ở Quãng Ngãi 1964.
BS. Trương Bá Hân/ TQLC tử trận ở Bình Giả 1964.
Các đàn anh chỉ hơn tôi có một lớp, mới ngày nào cùng nhau thực tập trong Bệnh viện Chợ Rẩy, Bình Dân v.v…, có anh là nội trú xuất sắc, xứng đáng là bậc thầy trong Y nghiệp, hứa hẹn một tương lai sáng lạng, thế mà cũng bị hy sinh tại trận địa mấy tháng sau khi đáo nhận đơn vị.
Sinh viên quân y vào năm cuối được liên tục luân phiên gác xác các đàn anh tử trận trong năm 1965
BS. Phạm Bá Lương ngã gục ở Bầu Bàng.
BS. Nguyễn Văn Nhứt tử thương khi đoàn xe di chuyển bị phục kích ở rừng cao su Dầu Tiếng.
BS. Trần Thái hy sinh tại Bà Rịa.
BS. Trần Ngọc Minh, Y sĩ Trưởng TĐ5/TQLC bị đâm vào ngực trong một trận xáp lá cà với Việt cộng tại Thăng Bình.
BS. Đỗ Vinh, Y sĩ Trưởng TĐ5/ ND bị mảnh pháo trúng ngay vào đầu khi đang săn sóc thương binh. Ngày đưa tang ,Thiếu tá TĐT/ TĐ5ND Ngô Quang Trưởng và quân nhân các cấp, các đơn vị bạn ngậm ngùi thương tiếc tiển anh ra mộ huyệt .Tôi vẩy tay chào anh, từ bỏ anh em quá sớm.Chiếc áo Hoa rừng và Mũ đỏ của binh chủng hào hùng thiện chiến vẫn có một mảnh lực hấp dẫn máu giang hồ, điếc không sợ súng của chúng tôi, ba thằng bạn xuất thân từ xứ Huế, học cùng lớp, ăn cùng mâm, ở cùng phòng trong trường Quân y Chợ Lớn. Lê Văn Châu, con của Tướng Lê Văn Nghiêm, tức là nhà văn Trang Châu, còn có biệt danh là “Châu cá ngựa” vì anh có mặt tại trường đua Phú Thọ hằng tuần – Đoàn Văn Bá, tục gọi là“Bá điên” còn được gọi là “ I‘homme des situations difficiles” vì anh bạo ăn bạo nói, chổ nào gặp khó khăn với cấp trên là có anh. Anh bị kẹt lại trận Mậu Thân ở Huế trong chuyến nghĩ phép về thăm nhà, được quân đội Mỹ giải cứu trong gang tấc, đưa anh về căn cứ MAC- V, giúp giải phẩu cứu mạng rất nhiều quân nhân Mỹ bị trọng thương và được tuyên dương tưởng thưởng huy chương Bronze Star Hoa Kỳ . Còn tôi, được các bạn gán cho biệt danh” Đoàn cái bướm” vì tôi viết bài”Thằng cu hay Cái bướm” đăng nhiều kỳ trong Đặc san Tình Thương của sinh viên Y Khoa thời ấy.

Bảng hiệu “BỆNH XÁ ĐỖ VINH” nền trắng chữ đỏ mới toanh, còn ướt màu sơn treo trên khu nhà bằng gạch hai tầng của Bệnh xá Nhảy dù 50 giường không làm chúng tôi sợ sệt mà còn cảm thấy một cái gì vinh quang khi trình diện thụ huấn khóa 68 Nhảy dù vào tháng 8/ 1965 . Ba thằng bạn thân, không ai dám rủ ai vào nơi nguy hiểm, đều có mặt.
Cổng trại Hoàng Hoa Thám thẳng tấp con đường tráng nhựa rợp bóng mát của hai hàng cây đưa đến các dãy doanh trại xây bằng gạch vững chắc sơn màu vàng, ngay ngắn sạch sẻ là con đường quen thuộc, thân thương của chúng tôi từ dạo ấy.
Bóng dáng các đàn anh đeo bằng "nhảy dù điều khiển "như BS. Văn Văn Của, BS. Trần Tấn Phát.. kích thích lòng tự ái liều lĩnh của chúng tôi trong niềm cảm phục kính nể. Chiếc Mũ Đỏ được đội lên đầu sau 3 tuần huấn luyện ướt đẩm mồ hôi, bò lết, hít đất, nhảy chuồng cu và 6 sauts nhảy dù ở Hốc Môn- Củ Chi. Cánh hoa dù T10 xuẹt mở rộng lộng gió tung bay mát rượi trong bầu trời trong xanh ôm trọn một phần của vũ trụ bao la là những giây phút thần tiên ngắn ngủi của người lính Mũ Đỏ. Sau đó thì nguy hiểm bắt đầu rình rập. Saut đêm bị hũy bỏ vào phút chót vì tình hình an ninh bãi nhảy không cho phép, có người lính nhảy xuống bị mất tích không tìm ra dấu vết. “NHẢY DÙ - CỐ GẮNG” là một khẩu hiệu có mãnh lực xô chúng tôi ra phóng ra cửa máy bay sau tiếng hét “Go” của Huấn luyện viên, và là châm ngôn giúp chúng tôi vượt qua chặng đường hành quân vất vã, cực nhọc. "Nhảy Dù-CốGắng” gắn bó theo giúp chúng tôi suốt cả cuộc đời, nào là khi bị hành hạ xài xể trong trại tù Cộng sản, nào là khi gặp sóng gió, bão tố, ói mữa trong chiếc ghe nhỏ trên đường vượt biển tìm tự do, khi lao động chân tay để có tiền mua sách học lấy lại mảnh bằng hành nghề, khi đau ốm bệnh hoạn và cả khi tu tập chuyển hoá tâm linh.
BS. Lê Trọng Tín biệt phái về làm Y sĩ Trưởng TĐ1ND – Lê Văn Châu TĐ6ND – Đoàn Văn Bá về TĐ7ND - Trần Trọng Nghị về TĐ9ND và tôi về TĐ2ND.
TĐ2ND là 1 Tiểu đoàn tân lập đóng ở Bà Quẹo, sát nách phi trường Tân Sơn Nhứt, không xa cổng trại Hoàng Hoa Thám . Thế là tôi may mắn được ở ngay Saigon, sớm tối được về chăm sóc vợ đang mang bầu. Vợ tôi còn là sinh viên trường Dược. Lương Y sĩ Nhảy dù phải gói gém lắm mới đủ sống.
Lần xuất quân thử thách đầu tiên của tôi vào cuối năm 1965 lại là với chúc vụ Y sĩ Trưởng/ TĐ3ND thay thế BS. Nguyễn Đức Liên đi phép về hậu cứ. Trời Saigon 4 giờ sáng còn mờ sương, chiếc C123 rù máy xé tan bầu không khí tĩnh lặng, lạnh lùng cất cánh rồi đáp xuống phi trường Qui Nhơn sau hơn một giờ bay. Phi cơ há miệng đằng đuôi nhả ra hơn trăm binh sĩ súng đạn đầy mình sẳn sàng ra bổ xung cho chiến trường Tam Quan, Bồng Sơn. Phi đội Trực thăng tiếp tới gắp chúng tôi đưa thẳng vào chiến địa còn hôi tanh mùi máu và thuốc súng, bay sà sát rừng dừa xơ xác ngã nghiên cháy xám. Y sĩ Trưởng Thiếu Tá Hoàng Cơ Lân dẫn tôi vào chào Tướng Tư Lệnh Dư Quốc Đống trong một căn lều. Ông đang ở trần, mặc quần xà lỏn, đen đui đủi, vây quanh bởi các sĩ quan của Bộ chỉ Huy, mồ hôi nhể nhại. BS. Liên đón tôi về trạm cứu thương TĐ3ND tạm trú dưới một mái nhà tôn đầy dấu đạn. Các Y tá còn bận rộn thu dọn y cụ vì công việc tản thương vừa mới được hoàn tất tối hôm qua. Thiếu tá Hưng TĐT nước da rạm nắng có vẽ âu lo. Đại uý TĐP Trần Quốc Lịch người cao to, đầu trọc lóc trông rất "ngầu" , sau này ông lên đến cấp Tướng chỉ huy Sư đoàn. Hằng ngày tôi làm dân sự vụ, khám bệnh, phát thuốc, chăm sóc ngay cả các bà đang có bầu mà tác giả không ai khác là những du kích địa phương .Lòng nhân đạo của người Y sĩ không phân biệt bạn hay thù. Tôi thương người dân, tôi thương những trẻ em lớn lên ở vùng đất mất an ninh này, không biết đâu mà lựa chọn. Tôi thông cảm nổi khổ của họ khi sinh sống trong vùng xôi đậu.
Đồi 10, một ngọn đồi nổi tiếng khó tiến chiếm vì Cộng quân đào hầm địa đạo từ chân đồi lên đến đỉnh đồi và đặt thượng liên nhắm bắn vào trực thăng bao vùng xạ kích yễm trợ - Một ngọn đồi đẳm máu được ghi vào chiến sử.
Chuẩn uý Lê Hồng, xuất thân từ Hạ sĩ quan, là sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn sau khi thụ huấn xong khóa sĩ quan đặc biệt về. Người anh nhỏ con nhưng giọng nói Quảng Trị rõ ràng chắc nịch qua máy truyền tin vang to suốt cả ngày đêm để điều động các Đại đội đang lục soát quanh vùng. Là người lính chăm chỉ ,gan dạ và khuôn phép, anh leo dần lên đến chức vụ TĐT/ TĐ1ND rồi Trung tá Lữ đoàn phó khi tàn cuộc chiến. Tôi cảm phục sự nhẩn nhục của anh khi thấy anh bất chấp nặng nhọc lao động khuân vác trong một tiệm tạp hóa vùng Arlington, VA để sinh sống và nuôi ý chí cương quyết về giải phóng quê hương thoát khỏi gông cùm Cộng sản. Ước nguyện không thành, anh bỏ xác tại vùng biên giới Việt Lào trong niềm thương tiếc khôn cùng.
Trạm Y tế TĐ2ND nằm trong một gian nhà tiền chế của doanh trại, mái tồn nền đất. Y tá Trưởng, thựơng sĩ “Hưng mù”, đeo kính cận dầy cộm, có nhiều kinh nghiệm từ hồi còn là Y tá trong quân đội Pháp, tháo vát và khéo xã giao, giúp tôi và đội Y tá trên dưới 20 người dọn dẹp phòng ốc, sắp đặt dụng cụ thuốc men. Vài ba anh lính trẻ khai bệnh lậu đái ra mủ vì không được hướng dẩn dùng bao cao su khi giao hợp với "chị em ta "phân trần: “Đời lính xa nhà mà Bác Sĩ". Tôi làm quen dần với các Sĩ quan bộ Chỉ huy và các Đại đội. Chuẳn úy Võ Văn Thu, nguyên là Y tá TĐ5ND vừa thụ huấn khoá Sĩ quan Thủ Đức trở về nắm giữ chức vụ Sĩ quan Hậu cứ, thường lui tới thăm hỏi và giúp đỡ trạm Y tế. Anh được ông TĐT ,cũng xuất thân từ TĐ5ND, tin cậy thương mến và nâng đỡ vì tinh thần phục vụ đắc lực của anh. Chức vụ cuối cùng của anh là TDT/TĐYT/SĐND với cấp bậc Trung tá. Nghe nói ngày di tản qua Mỹ, sống ở Washington State, giữa xứ lạ quê người, tinh thần anh bị suy giảm. Anh cạo gió cho con anh khi nó bị ho cảm. Mấy lằn vết đỏ sau lưng và trước ngực làm cho cô giáo nghi anh đánh đập ngược đãi trẻ con . Anh phản kháng khi cảnh sát đến còng tay anh. Vì quá uất ức, anh treo cổ tự tử trong tù.
Đại úy Lê Quang Lưỡng, vừa mới được thăng chức Thiếu tá mấy tháng trước, nắm chức vụ TĐT/ TĐ2ND. Ông là người chiến binh mang nhiều thương tích và chiến tích, vào sinh ra tử biết bao nhiên lần với những chiến công như An Lộc, Mậu Thân, Hạ Lào v.v… oanh liệt vẽ vang. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn cấp bậc Chuẩn tướng và bổ nhiệm ông nắm chức vụ Tư Lệnh/SĐND vào năm 1973 (?)
Ngày đoàn quân xa trên 30 chiếc chở Tiểu đoàn tân lập về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp Bà Rịa để thụ huấn, chưa kịp ra tới đầu xa lộ Biên Hòa thì xui xẻo gặp lúc Cộng sản pháo kích vào thành phố Saigon . Vài ba quả nổ tung toé rớt ngay trên đường Phan Thanh Giản giữa lúc dân chúng tấp nập đi làm buổi sáng. Cảnh tượng hổn độn và hoảng hốt vì mọi người hối hả chạy tìm chổ ẩn núp sau mấy gốc cây. Đoản xe bị khựng lại, mãi hơn giờ sau mới tiếp tục lộ trình về đến nơi đến chốn an toàn.
Sau 3 tháng huấn luyện, Tiểu đoàn được chuyển về đóng quân ở vòng đai Saigon, vùng Tân Quí, Hóc Môn, Bà Điểm.
Tiểu Đoàn phó, Đại úy Trần Kim Thạch, nhỏ con, bị thương ở háng nên khó khăn khi ngồi vệ sinh. Ông xuất thân từ Hạ sĩ quan của Nhảy dù Pháp, vui tính, lanh lẹ và can đảm. Một buổi chiều, trời chạng vạng tối, tôi thấy ông hối hả cười vang chạy bộ thình thịch về Bộ Chỉ huy với hai người lính cận vệ, trên vai mổi người còn mang thêm một khẩu AK. Tiểu đoàn phó mà chịu chơi nằm lại phục kích bên bờ lau sậy sau khi cả Tiểu đoàn tảo thanh lùng địch đã rút trở về. Hai năm sau ông nắm chức vụ TĐT /TĐ2ND ghi thêm nhiều chiến công oanh liệt cho Tiểu đoàn. TĐ2ND đã đủ lớn mạnh để chuyển vận ra vùng địa đầu giới tuyến.
Ngày quân xa chở Tiểu đoàn từ Huế ra Quảng Trị, một đoạn đường dài hơn cả cây số khi gần đến làng MỹChánh ,bị cày nát và còn nóng hổi vết tích bom đạn đầy mảnh vụn của xe bị cháy đen hoà với máu đỏ. Ruộng lúá hai bên xơ xác tơi bời ngã nghiêng, dấu vết của TĐ2 TQLC bị phục kích mới ngày hôm qua. Thiếu tá TDT/ TĐ2 Trâu Điên Lê Hằng Minh hy sinh ngay từ phút đầu. Đoàn quân xa dè dặt, thận trọng chậm rãi di chuyển trong tư thế sẳn sàng chiến đấu. Không khí ngột ngạt. Đến thành phố Quảng Trị, tôi bị choáng váng, ngộp thở vì ngọn gió Lào độc địa thổi về. Hôm sau, trực thăng vận thả Tiểu đoàn xuống các ngọn đồi trống vùng Cùa, những ngọn đồi mọc đầy những bụi hoa sim tím. Những cánh hoa còn ướt sương mai long lánh trong nắng sớm. Tôi ngắt hoa ép vào quyển nhật ký hành quân và thầm đọc bài thơ “Những đồi hoa sim tím” của Thi sĩ Hữu Loan, mong rằng ngày tôi về vẫn còn gặp nàng…
Toán Tiền sát báo cáo bắt được một cán binh Việt cộng đang ngơ ngác cầm bản đồ và ống nhòm quan sát trận địa. Khai thác cho biết Tiểu đoàn Cộng sản đang trên đường xâm nhập. Chiều về, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi làng và đóng quân trên dãy đồi cao thấp nối tiếp thoai thoải. Chập tối, Ban 3 Tiểu đoàn báo cáo mất liên lạc với Tiểu đội nằm lại phục kích trong làng. Tôi duổi chân nằm thẳng trên cỏ, đếm sao nhấp nhánh trên trời và thiếp đi, rã rời chân tay. Thình lình nữa khuya, địch nổ sung ồ ạt la hét: “Hàng sống, chống chết” bò lên tấn công. Giao tranh cận chiến ác liệt. May thay cây thượng liên của chúng đặt trên đồi cao hướng về Bộ Chỉ huy và Toán quân y kế cận chưa kịp khai hỏa thì bị binh sĩ Nhảy dù tiêu diệt. Phi cơ phản lực liên tiếp thả bom Napalm vào khu rừng dưới đồi. Xác địch banh thây cách chổ tôi nằm không quá 50 thước. Băng bó, tản thương không ngừng tay. Ngay tối hôm đó, đài Cộng sản oan oan nêu thành tích là đã giết được 15 lính ngụy Dù , một con số chính xác mà Ban 3 Tiểu đoàn vừa mới báo cáo thiệt hại về Sư Đoàn buổi sáng sớm. Phải chăng có nội tuyến nằm ngay trong trong BTL/ SĐND ?!, tôi đắn đo suy nghĩ.
Về trạm dưỡng quân ở Đông Hà, tôi gặp BS Vũ khắc Niệm , Y Sĩ trưởng TD8 ND. Hai anh em rủ nhau đi uống bia cho đỡ thèm khát dứơi cái nắng nóng gay gắt của miền Trung. Một chai bia cao hiệu con cọp ướp lạnh giá 50 đồng. Tôi lục lọi mãi hết trong các túi bộ đồ trận lôi ra đếm được 49 đồng. BS Niệm cho tôi thêm 1đồng.
Tiếng nổ của cây súng AK nghe có phần chát chúa và khiếp đãm hơn cây súng Carbine M1, M2, cổ lổ sĩ hay bị kẹt đạn. Trung Cộng và Liên Sô âm thầm trang bị cho Bắc Việt vũ khí ngày càng tối tân hơn. Đến cuối năm 1966, khi đóng quân ở làng An Hòa ngoài thành phố Huế, TĐ2ND mới được Ngũ Giác Đài phê chuẩn viện trợ súng AR-15, AR-16 thay thế.
Hạnh phúc của người lính trận lội bộ dài ngày khi được về dưỡng quân vùng khá an ninh rất đơn giản là tháo được đôi giày trận và đôi vớ hâm hẩm hôi thối, chùi được các ngón chân mốc meo, rữa được bộ sinh dục bầy nhầy và lắm khi là móc được cục phân cứng như đá ra khỏi hậu môn vì ăn thiếu rau, uống thiếu nước, không có thì giờ đi đại tiện. Lính Nhảy dù bị bệnh trĩ nhiều là vì nguyên do như thế. Bộ đồ trận tanh tanh mồ hôi và dơ bẩn giặt phơi chưa kịp ráo thì có lệnh di chuyển. Một tuần phát lương khô gạo sấy chất vào balô. Tình báo cho biết địch vượt sông Bến Hải xâm nhập vào phía nam vùng phi quân sự. Tiểu đoàn lại được trực thăng vận đổ quân xuống sát hàng rào Mc Manara. Xa xa về phía tây, bụi khói bay ngút trời do B 52 rải bom ầm ầm nghe ghê rợn. Cả tiểu đoàn di chuyển đội hình hàng một xuyên rừng rậm đầy gai góc theo bước chân của khinh binh đi trước phát quang. Chim chóc và côn trùng vắng tiếng hót. Cái im lặng khá rùng rợn khi dừng chân ngủ đêm. Thằng Y tá tên Dân thân cận của tôi sửa soạn đào hầm cá nhân cho “ông thầy”. Một nhát xẻn nhấn xuống là một ánh lửa nhé lên vì chạm vào đất đầy sỏi đá. Tôi không đành thấy nó hì hục cực nhọc nên ngăn nó dừng tay, chấp nhận số mạng rủi ro. Chiếc võng treo thấp đu đưa ru tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị chết chóc. Vào khoãng 2 giờ sáng, địch pháo kích hàng loạt súng cối, tung tóe sấm sét vào vùng đóng quân. Một quả 60ly chớp nổ cách chiếc võng khoãng 10 thước, hất tôi lăn ngã xuống đất. Tôi cảm thấy đau rát nơi hai mông, đưa tay sờ vào thì đỏ ướt máu. Tôi đã bị thương nhưng biết mình còn sống. Giọng ông TĐT vang lớn giữa những tiếng pháo kỉch còn nổ vang:
-Bác Sĩ, Bác Sĩ, tôi bị thương”.
Tôi do dự định chạy đến nhưng thằng Y tá cận vệ thấy nguy hiểm níu tôi lại và trả lời lớn:
-Thưa Thiếu tá, BS cũng bị thương”.
Đại đội Trưởng Thạch Văn Thịnh xui xẽo bị một quả rơi đúng chổ ông nằm. Doanh trại từ đó mang tên của người Đại đội Trưởng đầu tiên của TĐ2ND bị tử trận. Trung đội trửơng Trần Công Hạnh dẫn Trung đội ngang Bộ chỉ huy và tiến về phía địch, nơi đặt pháo. Chiến đoàn Trưởng Đào Trọng Hùng la hét điều quân. Ông nổi tiếng là người chỉ huy can đảm không bao giờ khom lưng tránh né đạn khi lâm trận mà đạn biết tránh né ông. Chiếc khăn đỏ quấn quanh cổ được xem như là bùa hộ mạng. Một bên lưng đeo khẩu súng lục chỉ huy, một bên kia đeo một bi đông rượu đế, đưòng đường một đấng. Bác Sĩ Hà tục gọi là “Hà chảy”, người ông dong dõng cao, Y sĩ trưởng TĐ8ND vừa đi vừa ôm bàn tay bị thương vừa chửi thề: “ Địt mẹ, tao có muốn về Nhảy dù đâu mà bị thương như thế này”. BS. “Hà chảy” là dân y trưng tập, học cùng lớp với tôi, chưa kịp bổ đi đơn vị nào khi ra trường thì lại miễn cưỡng bị trưng dụng tạm thời vì Nhảy dù thiếu Y sĩ. Y tá xuôi ngược chăm sóc thương binh, trực thăng liên tiếp đáp xuống tản thương.
Mỗi lần hành quân 2-3 tháng về hậu cứ là là quân số Tiểu đoàn hao hụt hơn phân nữa. Tiểu đoàn Vương Mộng Hồng- Khối Bổ Sung phân phối về Tiểu đoàn nhiều tân binh chưa kịp hoàn tất xong khóa nhảy dù.
Vùng I, vùng giới tuyến sùng sục dầu sôi lửa bỏng. Hành quân bấy giờ không còn là cấp Tiểu đoàn lẻ tẻ mà là Chiến đoàn gồm 2-3 Tiểu đoàn che chở yễm trợ cho nhau. Hành quân với thiết vận xa của Việt Nam Cộng Hòa hay với chiến xa lội nước của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tăng cường thừơng dể dàng hơn khi tiến chiếm mục tiêu và ít bị thiệt hại.
Cuộc hành quân" nhảy dù trận " của TĐ2ND xuống đồng bằng sông cữu Long vào giữa năm 1966 có lẻ là saut nhảy xuống trận địa cuối cùng của binh chủng Nhảy dù vì sau đó trực thăng là phương tiện đổ quân nhanh chóng và ít nguy hiểm. Cả một rừng chiếc “Nấm” úp xuống khoãng ruộng nước bao la. Tôi xếp dù an toàn gom vào một chổ với Đại đội 20 rồi tiếp tục bì bỏm tiến theo đoàn quân. Vì bất ngờ nên địch quân không kịp bắn lên trong lúc chúng tôi còn lơ lửng trên trời trong buổi sáng sớm như trong phim “The longest day” khi quân đồng minh nhảy dù xuống Normandie. Chạm súng lẻ tẻ với du kích , địch tránh né rút vào rừng tràm. Vũng nước nào cũng có tôm có cá giúp cho chúng tôi có thêm thực phẩm tươi bồi dưỡng.
Tổ chức SĐ Nhảy dù từ năm 1966 đã nâng cấp số từ Liên đoàn thành Sư đoàn. Đại đội Quân y Nhảy dù thành Tiểu đoàn Quân y Nhảy dù. Bệnh xá Đỗ Vinh 50 giường thành Bệnh viện Đỗ Vinh 100 giường. Pháo binh, Truyền tin….nâng quân số từ Đại đội lên Tiểu đoàn. Chiến đoàn đổi thành Lữ Đoàn gồm ít ra là 3 tiểu đoàn khi hành quân cho kịp với leo thang chiến tranh ngày càng khốc liệt.
Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam đóng gần Bộ chỉ huy TĐ2 ND ở vùng Tân Quí. Các Đại đội phân chia đóng ở các thôn ấp chung quanh. Tình báo cho hay Tiểu đoàn đặc công Cộng sản mò về sát vòng đai Saigon, thuộc xã Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc. Lịnh hành quân lục soát ban ra. Trung đội tiền phong do Trung đội Trưởng Trần Công Thọ vừa ra trường khóa 20 Võ Bị Đà Lạt chạm súng. Cả Tiểu đoàn tiến lên tốc chiến tốc thắng đẩy địch bỏ chạy rút vào vùng kinh lạch Đức hòa, Đức Huệ để lại gần 100 xác và súng ống đủ loại . Thiếu uý Trần Công Thọ bị ngay một viên đạn giữa đỉnh trán, chết ngọt lịm không kịp trăn trối, nằm cách chổ tôi không quá 20 thước. Tôi đưa tay vuốt mắt anh, không thấy chảy máu, mặt anh còn tươi tắn như thiên thần ngủ quên. Nhạc phẩm “Tạ từ trong đêm” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết lên để riêng tặng anh. BS. Bùi Thế Cầu, nguyên Thiếu tá Y sĩ trưởng TĐ5ND đang nắm giữ chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Gia Định cùng giới chức hành chánh dân sự cao cấp và báo chí tháp tùng thực thăng xuống ngay trận địa để chứng kiến tận mắt và tán dương. Danh tiếng TĐ2ND nổi như cồn trên trang đầu các tờ báo Saigon. Đại đội 23 tập hợp nhiều Trung đội trưởng họ "TRẦN "trẻ trung, gan dạ, thương mến nhau như anh em ruột thịt . Một Trần Công Thọ đã rơi rụng. Một Trần Duy Phước cũng rụng rơi năm sau đó, còn lại Trần Công Hạnh leo dần đến chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND. Đại đội trưởng Trần Công Danh rời Tiểu đoàn chuyển hoán về đơn vị khác- Đại đội trưởng Phạm Kim Bằng bị thương hư một mắt- Đạị đội trưởng Trần Như Tăng bị thương gãy chân- Đại đội trưởng Nguyễn Văn Được giã từ vũ khí ở vòng đai Saigon. Ngày tiển anh ra mộ huyệt có 3 bà mặc áo quần đen dài chít khăn tang trắng sụt sùi sau quan tài- Đại đội trưởng Lê Văn Mạnh Đại đội 20 lên cầm chỉ huy TĐ2ND một thời gian. Toán Y tá của tôi gần 2 năm trời không ai bị hy sinh trừ một vài bị thương nhẹ. Tôi khâm phục tinh thần gan dạ của Y tá Nhảy dù, luôn luôn xông vào tuyến đầu ngay dưới lằn đạn địch để băng bó vết thương cho đồng đội. Y tá trưởng Thượng sĩ Hưng “Mù” được Y tá trưởng Trung sĩ nhất Be về thay thế. Anh Y tá trưởng mới này cũng thuộc loại “chì” không kém.
Hành quân vùng Củ Chi- Hậu Nghiã thường bị mìn bẫy nguy hiểm. Một một chiếc Chinook chở gần cả đại đội bay sà sà sát mặt đất để tránh khỏi bị bắn tiả khi đổ quân. Thế mà xui thay, viên Đại úy Cố vấn Mỹ mới về Tiểu đoàn, ngồi cạnh ông Tiểu đoàn trưởng là người duy nhất bị trúng một viên đạn bắn lên xuyên qua, chết ngay tại chổ.
Vùng I chiến thuật lại khẩn điện về Bộ Tổng Tham Mưu cầu viện các binh chủng tổng trừ bị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến. Dân chúng vùng Huế, Quãng Trị, Đông Hà an tâm khi có sự hiện diện của các binh chủng này. Tổng trừ bị gì mà ăn dầm ở dề tháng này qua tháng nọ giống như là Địa Phương Quân.
TĐ2ND trở lại Huế, hành quân lần này có Trung đội Thiết giáp M113 yễm trợ. Những "con cua khổng lồ " dàn hàng ngang dậm chân trước một địa thế nghi ngờ. Trung đội khinh binh tiến sát vào hàng rào tre cao vút dày đặc của làng Đông Xuyên-Mỹ Xá, quận Quãng Điền. Im lậng đến ngộp thở. Chưa thấy động tĩnh thế nào cả. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn dè dặt từng bước. Đợi đến khi thấy các cần câu của máy truyền tin PRC25 của Bộ Chỉ huy gần kề thì địch khai hỏa. Thiết giáp đã dàn hang ngang rồi ầm ầm nhào tới khạc đạn đại liên xối xả vào mục tiêu. Lính Nhảy dù xung phong như sóng vỡ bờ. Lựu đạn thi nhau ném vào các hầm hố mới thanh toán được các ổ thượng liên mà xạ thủ bị còng chân tử thủ với nhau. Lựa đến khi trời tối địch nương theo kinh rạch để mà chém vè, rút sâu vào làng. Nhiều xác địch và vết máu để lại trên đường tháo chạy. Các binh sĩ mang máy theo Bộ chỉ huy bị thiệt hại tính mạng khá nặng. Ông Tiểu đoàn trưởng vẩn bình tỉnh điều quân. Thiết giáp không bị hư hại chiếc nào cả. Trực thăng dọi đèn tải thương trong đêm tối. Mồ mã quanh bờ làng là nơi che chở cho chúng tôi gối đầu qua đêm.
BS. Trần Lâm Cao tháp tùng các Sĩ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 theo trực thăng tản thương từ Quân Y viện Nguyễn Tri Phương đáp xuống trận địa khi chiến trường đã thu dọn xong buổi sáng. Một chiến thắng quân địch sát nách thành phố Huế làm chấn động người dân thị thành. Chiến thắng nào mà không đổi lại bằng xương máu.
Viết đến đây lòng tôi bổng chùng vì xúc động. Những khuôn mặt người lính thân thương đó hiện rõ trong ký ức của tôi. Họ nằm xuống vì vết đạn vào đầu, vào tim, vào phổi nằm la liệt trước mặt tôi. Người Y sĩ Tiểu đoàn hoàn toàn bất lực trước những vết thương không có phương tiện cứa chữa. Tôi xin cầu nguyện cho các anh an giấc ngàn thu và không hận thù. Chúng ta đều chia sẻ một đau thương chung của vận nước nổi trôi.
Tôi bàn giao toán Y tá cho BS. Trần Lâm Cao làm tân Y sĩ trưởng TĐ2ND vì đáo hạn nhiệm kỳ 2 năm phục vụ Tiểu đoàn.
Tôi được thăng cấp Đại úy và nhận nhiệm vụ mới là Y sĩ trưởng Đại đội 3/ QYND, thường đóng chung với Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam khi đi hành quân. Sau này ông là Tướng Tư lệnh vùng 4 và tuẩn tiết không chịu đầu hàng địch. Danh thơm của ông ấy còn vang mãi trong hậu thế.
Tin dữ từ mặt trận đưa về. BS. Nghiêm sĩ Tuấn học cùng lớp ,là BS dân y trưng tập, tình nguyện về TĐ6ND, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn nhiệm kỳ phục vụ cấp Tiểu đoàn bị tử trận tại Khe Sanh khi đang săn sóc thương binh. Anh đã 2 lần bị thương, một ở Dakto, một ở Cao Lãnh. BS. Lê Hữu Sanh, bạn cùng khóa, người thường được chọn cầm cờ đi hàng đầu trong các cuộc diễn hành của trường Quân y vì dáng anh cao lớn, tử trận khi anh đang làm Y sĩ trưởng một Tiểu đoàn TQLC.
Cuối năm 1970, tôi giữ chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh viện Đỗ Vinh/ SĐND và được thăng cấp Thiếu tá.
Khoãng tháng 3/1971, tôi đang thụ huấn tại Bệnh viện Brooks Hospital, thành phố San Antonio, Texas thì nhận được tin nhiều Y tá/ TĐ2ND hy sinh tại mặt trận Hạ Lào. Lòng tôi quặn thắt.
Tôi rời binh chủng Nhảy dù về phục vụ tại Quân Y viện Nha Trang để được gần gia đình. Chiếc Mũ đỏ và bộ hoa dù vẫn còn quyến luyến cho đến khi tôi giải ngũ vì đắc cử Nghị viên Thành phố Nha Trang năm 1974.
Viết những dòng kỹ niệm của nữa thế kỷ trước không sao tránh khỏi thiếu sót và nhầm lẩn, rất mong các bạn đọc đính chính và thông cảm.
Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những quân nhân binh chủng Nhảy dù đã nằm xuống, những người lính chỉ biết tiến không lùi dù trước hỏa lực mạnh của địch quân.
Tôi xin cảm phục và tưởng niệm người lính chiến sĩ vô danh của Nhảy dù bắn súng vào họng tự sát khi miệng còn nhai cơm sáng 30 tháng 4 tại hẻm tôi ở 147/8 Trần Quốc Toản, một hình ảnh hào hùng không thể quên.
Tiếp nối làm Y sĩ trưởng TĐ2 ND là BS. Vương Bình Dzương, BS. Bùi Văn Đạt, BS. Tôn Thất Sơn, BS. LêMinh Tâm, BS. Nguyễn Đức Mạnh, BS Nguyễn Kiêm ,các anh hứng pháo Cộng sản sau này còn dữ dội hơn tôi nhiều.
Trước tôi, BS. Võ Đạm là một trong 3 sĩ quan thuộc Bộ chỉ huy TĐ7ND còn sống sót trong trận Đồng Xoài.
Sau tôi, BS. Tô Phạm Liệu, ông BS cầm súng như dân tác chiến, cũng là 1 trong 3 Sĩ quan thuộc Bộ Chỉ huy còn sống sót ở ngọn đồi Charlie, ngọn đôì đẩm máu chôn xácTĐT/ TĐ11ND Nguyễn Đình Bảo.
BS. Đường Thiện Đồng sống sót trận Hạ Lào, hốc hác lội bộ về thấu tiền trạm.
BS. Vũ Văn Quynh, BS. Nguyễn Văn Thường, v.v…. trốn tù cải tạo bị xữ bắn, ...và còn, còn rất nhiều nửa mà người Y sĩ nhảy dù đã chia sẻ.
Tôi xin thán phục tinh thần Nhảy dù bền bĩ của các BS Mũ đỏ Trần Văn Tính, Phạm Gia Cổn, Lê Quang Tiến…nắm giữ chức vụ Chủ tịch BCH/ TƯ/ GĐMĐVN/ Hải Ngoại để nối vòng tay lớn, tương thân, tương trợ.
Tôi không thấy ngượng ngùng khi BS Mũ xanh Trần Xuân Dũng ca tụng các Y sĩ Nhảy Dù, Y sĩ TQLC là "những Hiệp sĩ của thời đại, những Đường Sơn Đại Huynh trên tiền tuyến lữa."
Tôi không quên cám ơn các Chi Hội trưởng GĐMĐ vùng Hoa Thịnh Đốn như anh Nguyễn Văn Mùi, Lý Thanh Phi…..thường nhắc tôi tham dự buổi cơm cuối năm của Gia Đình Mũ đỏ tổ chức để góp chút tình gữi về cho Thương Phế Binh Nhảy dù còn ở quê nhà.
Tôi cũng không thể nào quên nhắc đến tên các đàn anh như Y sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, người anh cả nghiêm minh và vui tươi, Y sĩ Đại tá Bùi Thiều, con người tài hoa và là người điều hành xây dựng bệnh viện địa đạo ngay trong căn cứ Khe Sanh mà báo chí Mỹ khen phục.
Bốn chử “Giữ Đời Cho Nhau” của BS. Lê quang Tiến nhắn trong Đặc San 70 để thực hiện số báo đặc biệt về QYND/ SĐND làm sống dậy trong tôi những năm tháng đùa với tử thần
Có nếm mùi cực khổ, tù đày rồi mới thấy Độc lập - Tự Do là quí. Có lâm vào cảnh đói rách, nguy hiểm rồi mới thấy tình Huynh Đệ Chi binh là quí.
Xin nói thêm vài lời nửa là nếu không đọc quyển “ Y SĩTiền Tuyến” của Trang Châu, không đọc bài viết của Phan Nhật Nam, của Trương Đăng Sĩ trong Đặc San Mũ Đỏ # 70 thì e cũng khó ngồi mài miệt cả tuần để viết nên những trang giấy này.

Mũ Đỏ Trần Đoàn
Y sĩ Trưởng TĐ2ND
MatVit
Posts: 1315
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:10 pm
Contact:

Post by MatVit »

Image

Hải Chiến Hoàng Sa 1974 Và Tâm Tình Ngừơi Thủ Thủ Sống Sót

Tôn Nữ Hoàng Hoa

Lâu lắm tôi không về thăm Orlando và cũng không còn "viễn du" nhiều thành phố khác như hồi còn trong thập niên 90 trên nhiệt tình vận động các thành phố địa phương tham gia sinh hoạt với Cộng Đồng VN tại Hoa kỳ

Thật thà mà nói thì từ sau đó cuộc đời êm đềm trôi không còn có những buồn phiền trên những ưu tư quằn quại.

Hôm nay ngày 17 tháng 1 năm 2015 theo thư mời của ông Phó Quốc Uy cựu Phó Chủ Tịch Lâm Thời của Cộng Đồng VN tại Hoa kỳ hiện là Chủ Tịch Hội Hải Quân tại Orlando và là Trưởng Ban tổ chức Buổi Tưởng Niệm các anh hùng tử sĩ Hoàng Sa trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974 do Trung Cộng Xâm lăng được tổ chức tại Tượng Đài Việt- My tại Orlando.

Từ Tampa lên Orlando không xa chỉ hai tiếng rưởi lái xe nhưng vì dòng traffic đã làm con đường dài thêm ra

Trên cây cầu Courtney nhìn về phía chân mây tôi nhớ về quê nhà VN. Tôi bồi hồi nhớ về quá khứ: những ngày vui, những ngày buồn. Những bạn bè thôi thúc trong tình tự dân tộc nhập ngũ lên đừơng đem hết tuổi thanh xuân dâng hiến cho quốc gia dân tộc trong cuộc chiến xâm lăng của CS Hà Nội.

Trời Florida hôm nay cũng buồn thảm lạ, buồn như nỗi buồn mất nước của con dân VNCH.

Đến Tượng Đài Việt - Mỹ trong công viên đường Lake Balwin Boulevard thì quan khách cũng đã đủ đông.Chỗ đậu xe cũng đã được ban tổ chức sắp xếp dễ dàng để cho xe an tọa.

Tôi nhìn lên Tượng của Ngừơi Lính VNCH oai hùng giữa không gian của khung trời xứ lạ mà lòng vẫn nghĩ đến những cựu quân nhân còn sống sót sau cuộc chiến. Khi đến nơi đây họ đã nghĩ gì về hình ảnh oai hùng kia, chắc là sẽ đối bóng soi gương trước sự hy sinh cao cả của các anh hùng tử sĩ VNCH, của đồng đội ngày nào.


Trong bài diễn văn đầu màn rất ngắn của cựu Phó Đề Đốc Hải Quân Hồ Văn kỳ Thoại ông đã giới thiệu một ngừơi Thủy Thủ VNCH đã sống sót trở về sau cuộc Hải Chiến của Hải Quân VNCH 1974 với Trung Cộng Xâm Lăng : Ông Tất Ngưu đã được Phó Đế Đốc Hồ Văn kỳ Thoại mời lên giới thiệu với quan khách hiện diện.

Hải chiến Hoàng Sa là trận chiến giữa Hải Quân VNCH với HQ Trung Cộng khi TC đem tàu bè vào xâm chiếm đảo Hoàng Sa.

Theo Wikipedia thì ngày 16 tháng giêng năm 1974 khi Tuần dương hạm HQ-16 cùng với toán Công Binh của Quân Đoàn I VNCH đi thị sát ở đảo Hoàng Sa trên tiến trình thiết lập một phi đạo ngắn tại Hoàng Sa thì phát hiện ra tàu Trung Cộng mang số 402 à 407 ở gần đảo Hữu Nhật. Sau đó họ được biết thêm là TC đã xâm chiếm đảo Quang Hòa và đã cắm cờ Trung Cộng Xâm Lăng trên đảo này.

Sau khi khẩn báo về Bộ Tư Lệnh HQ Vùng I, HQ-16 đã dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm của Trung Cộng phải rời khỏi lãnh Hải VN.Trung Cộng đã không chấp nhận lại tráo trở yêu cầu Hải Quân VNCH rời khỏi Lãnh Hải của chúng

Ngày 17 tháng 1 năm 1974 Khu Trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đến Hoàng sa chở theo một toán Biệt Hải và một đội Hải Kích đổ xuống Hữu Nhật, Du Mông, Quang Anh để dẹp bỏ lá cờ xâm lăng của Trung Cộng và cắm lại lá Cờ Vàng VNCH. Cũng trong ngày đó hai liệp Tiềm Thủy Đỉnh của Trung Cộng Xâm lăng xuất hiện mang số 271 à 274.

Ngày 18 tháng 1 năm 1974 lực lượng HQ VNCH tham chiến tại Hoàng Sa đã được tăng cường gồm có HQ-4, HQ-5, HQ-10 à HQ-16.

Xế trưa ngày 18/1/1974 Đại tá HQ Hà văn Ngạc quyết định Hải đoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật tiến đến đảo Quang Hòa.

Dẫn đầu là Khu Trục Hạm HQ-4, tiếp đến là Tuần Dương Hạm HQ-5, thứ ba là Tuần Dương Hạm HQ-16 và sau cùng là Hộ Tống Hạm HQ-10.

Trên đường tiến đến đảo Quảng Hòa, hải đoàn của Hải Quân VNCH đã bị chiến hạm Kronstad của Trung Quốc Xâm Lăng mang số hiệu 271 và 274 chặn đường.

Chiến hạm 271 của TC xâm lăng đã trao đổi tín hiệu với Soái Hạm HQ-5 của VNCH và cho rằng đó là lãnh hải của TC.

Để tránh đụng độ Đại tá Hà văn Ngạc đã đưa Hải đoàn về phía Nam của đảo Hoàng Sa. Sau đó HQ-16 đã chở một toán quân Biệt Hải tiến gần vào đảo Quang Hòa và đã bị một tàu của Trung Cộng Xâm lăng cản mũi kỳ đà không cho HQ-16 tiến gần đến đảo Quang Hòa nên HQ-16 đã chuyển đi về hướng khác trong khi toán Biệt Hải trên sóng nước nhấp nhô của biển đã can đãm dùng xuồng Cao Su tiến vào phía Nam của đảo Quang Hòa. Cuộc đổ bộ lên đảo đã thất bai. Một Thiếu úy Biệt Hải đã anh dũng hy sinh và toán Biệt Hải đã trở về HQ-16 sau đó.

23giờ ngày 19/1/1974 hai nhóm Biệt Hải của VNCH gồm 74 người do Đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy tiến vào đảo Quang Hòa đang bị một đại đội của Trung Cộng xâm lăng trấn giữ.

Biệt đội trưởng Đỗ Văn Long là người đầu tiên vừa nổ súng vừa tiến vào đảo đã bị hỏa lực của TC xâm lăng từ trong bắn ra và đã hiên ngang ngã xuống tại bãi biển. Trung úy Lê Văn Đơn đã không sờn lòng trước sự tử vong của đồng đội vẫn tiếp tục tiến vào và cũng đã bị tử thương. Đổ bộ đã bị thất bại. Sau đó toán Biệt hải trở về HQ-5.


Việc đổ bộ bị thất bại đã được báo cáo về Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên hải.

9 giờ 30 sáng Phó Đề Đốc Hồ Văn kỳ Thoại được lệnh của TT Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh "khai hỏa".

Đến 10 giờ 22phút hai chiến hạm của Hải Quân VNCH HQ-4 và HQ-5 từ phía Tây Nam tiến vào lòng chảo tham chiến.

Sau vài phút giao tranh HQ-4 chỉ bị thiệt hại nhẹ nhưng do trở ngại tác xạ nên không thể phát huy được hỏa lực đành phải rời xa không tham chiến tiếp.

Trong khi đó, sau 15 phút giao tranh HQ-10 bị trúng đạn của TC Xâm Lăng bốc cháy và chìm tại chỗ Hạm trưởng Nguỵ Văn Thà bị tử thương và sau đó Hạm Phó cũng ngã xuống .

HQ-16 thì bị trúng đạn 127 ly của HQ-5 bắn nhầm tàu bị nghiêng trên 10 độ phải rút lui về phía Tây.

Khoảng 11 giờ 25 phút sau khi nhận được tin HQ-16 bị trúng đạn và mất liên lạc với HQ-10. Đồng thời vào lúc đó Hải Quân VNCH đã phát hiện một chiến hạm của Trung Cộng Xâm Lăng có mang hai bên hai dàn phóng hỏa tiển tiến vào vùng giao tranh. Đại tá Hà Văn Ngạc đã phải ra lệnh cho HQ-4 và HQ-5 rút lui về phía Đông Nam hướng Subic Phillipine.


Theo tài liệu của Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH cho biết họ phải rút lui khi Cố Vấn Hoa Kỳ cho hay có 17 chiến hạm của Trung Cộng xâm lăng trong đó có 4 tàu ngầm đang tiến vào khu vực giao tranh và có thể có phi cơ phản lực tiến tới từ đảo Hải Nam.

Trước tình trạng hùng hậu của lực lượng Trung Cộng xâm lăng. Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH có ngỏ ý với Đồng Minh Hoa kỳ nhờ Hạm Đội 7 trợ giúp nhưng phía Mỹ từ chối .Thậm chí họ còn từ chối vớt những thuỷ thủ đang trôi giạt trên biển cả mênh mông sau khi HQ-10 bị chìm

Trước sự từ chối yễm trợ của cái nghĩa đồng minh. Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH đã cân nhắc về tương quan lực lượng, các chiến hạm VNCH được lệnh rút bỏ Hoàng Sa, để lại một trang sử vẻ vang của Hải Quân VNCH đã can cường đối đầu với Trung Cộng Xâm lăng.

Trong buổi lễ Tưởng niệm các anh hùng tử sĩ Hoàng Sa tại Tượng Đài Việt-Mỹ ở Orlando , Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại có giới thiệu ông Tất Ngưu với quan khách về sự sống sót trở về từ cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974.

Chúng tôi gặp ông Tất Ngưu sau đó qua sự giới thiệu của HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn.

Chiều thứ hai chúng tôi gặp nhau tại Quán Long Phụng trên đừơng Park Ave , St. Petersburg

Trong câu chuyện hãi hùng của HQ-10 khi bị trúng đạn của TC Xâm Lăng thì tàu HQ-10 bị bốc cháy. Hạm trưởng và hạm phó bị tử thương.Thủy thủ dứơi hầm tàu bị thiêu cháy và một số khác phải nhảy xuống biển

Trong câu chuyện ông đã nhắc đến Trung úy Huỳnh Duy Thạch là đàn anh của ông xuất thân từ trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10

Ông Thạch đã được lệnh di chuyển đến một công tác khác, nhưng khi lệnh tham chiến quá bất ngờ hạm trưởng mới khẩn khoản mời ông Thạch ở lại với chiến hạm để chăm sóc cơ khí của chiến hạm trên cuộc hành quân này, sau đó ông Thành sẽ trở về nhiệm sở mới. Nhưng lần ở lại đó Trung Uý Huỳnh Duy Thạch đã không trở về và thân xác đã vùi xuống dưới nấm mồ chung của đáy biển Hoàng Sa.

Người thứ hai được ông cảm mến là Hạ Sĩ Nhất vận chuyển Tây. Đã 41 năm trôi qua trên cuộc chiến nhưng gịong nói của ông Tất Ngưu vẫn ngậm ngùi khi nhắc đến Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây.

Hạ sĩ Nhất Tây là người “tay chân” với Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà. Khi về nhậm chức Hạm Trưởng HQ-10 thì Hạm Trưởng Thà đã đưa Hạ Sĩ Nhất Tây về cùng chiến hạm.

Trước khi HQ-10 tan tành chìm trong sóng nứơc đại dương .Thủy thủ đoàn nhảy xuống biển trước khi tàu chìm đã kêu gọi Hạ Sĩ Nhất Tây cùng nhảy nhưng Hạ Sĩ Nhất Tây quyết ở lại với tàu và vẫn đứng đàng sau khẩu 20 ly.


Trong khi 26 anh em đang cố bám vào xuồng mặc cho sòng biển đẩy đưa nhưng tai vẫn nghe tiếng đạn 20 ly từ HQ-10 vẫn tiếp tục nhã đạn vào chiến hạm của TC xâm Lăng.

Tiếng đạn vẫn ròn rã trong khi tàu từ từ chìm vào biến. Trung Cộng cũng tiếp tục nhã đạn vào HQ-10 và HQ-10 vẫn trả lại tiếng đạn 20 ly cho đến khi tàu chìm hẵn, tiếng đạn mất dần trước sự can cường bất khuất của Hạ sĩ Nhất Tây.

Khi tiếng súng 20 ly im bặt những ngừơi đang bềnh bồng trên sóng nước đã gọi tên Hạ Sĩ Nhất Tây với lòng cảm phục trước sự can cường chống trả bọn TC xâm lăng cho đến khi tàu chìm khuất.


Lòng tôi như như đang nghẹn ngào trên phím gõ. Hạ sĩ nhất Tây, Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà cùng các anh hùng tử sĩ tại Hoàng sa 1974 cùng HQ-10 đã an giấc trong lòng đại dương để đêm đêm được nghe tiếng hát mê hồn của ngừơi cá. Nhưng người ở lại như Thiếu úy Tất Ngưu hay tất cả chiến sĩ Hải Quân VNCH vẫn còn lại trong vết thương cuối cùng của họ là trí nhớ, vẫn là vết đau khi mỗi năm ngày 19/1/ lại về. Sự đau nhức cho cuộc chiến ngày nào như mỗi lần thấy lại bóng hình xưa của HQ-10 HQ-16 HQ-4 và HQ-5 và đồng đội đã anh hùng bỏ xác dưới lòng biển sâu

Tôi chợt nhớ bài ca Hải Quân Hành Khúc trên khán đài do những sĩ quan HQ VNCH tai Tượng Đài Việt- Mỹ Orlando đồng ca : "Ra đi trùng dương bát ngát ngày về tổ quốc ghi ơn".

Trên nhang khói tưởng niệm đang lung lay trong lời ca tiếng nhạc của ca khúc Hải Quân Hành khúc Chúng tôi xin vọng tưởng đến các anh hùng tử sĩ Hải Quân VNCH trong cuộc Hải Chiến Hoàng Sa 1974

Sư tưởng vọng trên cùng một vận mệnh của quê hương mà chúng ta cùng mang chung một định mệnh, một thịt xương da vàng.

Định mệnh đó là sự chống trả lại Trung Cộng trong công cuộc xâm lăng Việt Nam hôm nay và thịt xương kia là cội nguồn gắn bó trong công cuộc giãi thể chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam .

Xin mời quí vị đọc tiếp Nhật ký của Thiếu úy Tất Ngưu đính kèm

Tôn Nữ Hoàng Hoa
19/1/2015


Nhật Ký của Tất Ngưu

Sài gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,

Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai. Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi không còn một tia hy vọng trong trí não. Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.
“Te-Tít … Te-Tít … Te-Tít …Te-Tít … Te-Tít … Nhiệm sở vận chuyển



Hạm trưởng hiên ngang đứng trên đài chỉ huy ra lệnh tháo giây. Một số anh em khấp khiểng chạy về chiến hạm. Họ vừa đi nhậu về, hôm nay mới lãnh lương mà. Nhân viên trên tầu chỉ có thế, lãnh lương ra thì lại đi uống rượu.
“Nhanh lên, tầu rời bến, nhanh lên !”
“Tủm !”
“Ối !”
Anh HS1TP Tám chếnh choáng rơi tùm xuống nước. Tôi thấy hạm kiều động, nghe tiếng hối thúc:
“Thả phao”, “Vớt người”, …
Đó phải chăng là một điềm chẳng lành.

Chiến hạm chúng tôi (HQ10) sau một đêm lình bình tuần tiễu tại cửa Đà Nẵng, nhận lệnh theo HQ5 trực chỉ quần đảo Hoàng Sa. Nhiệm vụ của chúng tôi là yêu cầu các thuyền đánh cá của Trung Cộng rời khỏi thềm lục địa của đảo Quang Hòa ( Duncan ).
“Chuẩn Úy, Chuẩn Úy, tới giờ đổi ca”. Mắt nhắm mắt mở tôi nhìn đồng hồ. Đã 2345H (11 giờ 45 đêm) rồi, nhanh nhỉ. Thời tiết tháng Giêng còn hanh lạnh, tôi khoác thêm một chiếc áo choàng mầu navy blue. Nhận ca, tôi được biết chiến hạm đang thả trôi tại quần đảo Hoàng Sa. Cùng có sự hiện diện của cả khu trục hạm HQ4, hai tuần dương hạm HQ5, và HQ16.
Trong suốt ca trực từ 2400H đến 0400H, tôi cùng HSTP Lợi nói chuyện vui với nhau. Anh này vừa mới tân đáo và đây là chuyến công tác đầu. Tôi nghe anh ta kể lại những ngày huy hoàng sống ở giang đoàn. Nào là bắt những con tôm càng, thịt, bánh mì sandwich, v.v… Nghĩ mà thú nhỉ !
Vào khoảng 0100H, tôi nhận được chỉ thị - không đúng - một công điện khẩn thì đúng hơn: “0600H GIỜ THI HÀNH”. Tôi trình công điện lên hạm trưởng. Đêm đó hạm trưởng an giấc tại phòng vô tuyến phụ, cạnh đài chỉ huy. Thời gian đi như chợp mắt, mới đó mà đã đến gần 0400H rồi. Tôi gọi:
“Anh Lợi ơi, xuống gọi Th/úy Mai lên đổi ca giùm đi!”
Thế rồi hạm trưởng thức giấc. Đứng trên đài chỉ huy, ông ngó nhìn xung quanh để quan sát vị thế, rồi ra lệnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Một hồi còi rợn người nổi lên: “ Tít … Tít … Tít … Tít … Tít … Tít …” Tiếng của hạm trưởng vang trên hệ thống nội thông :
“Đây là Hạm Trưởng”
“Nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”
“Nhiệm sở tác chiến”
“Tất cả vào nhiệm sở tác chiến”. “Tít … Tít … Tít … Tít … ……”
Tất cả anh em thủy thủ đoàn vội vã thức giấc. Ai nấy vào nhiệm sở của mình. Riêng tôi, vừa đi xong ca cách mạng (phiên trực hải hành từ nửa đêm đến tờ mờ sáng) lại vướng vào nhiệm sở tác chiến, cảm thấy mệt đừ. Ngay sau đó:
“Nhiệm sở phòng không” “Nhiệm sở phòng không”
Tôi thấy ngay lập tức những nòng súng rợp rợp hướng lên trời góc 45 độ, nào là các đại bác 76 ly 2, bô-pho 40 ly, 20 ly, đại liên 30, súng cối 81 ly.
“Đài chỉ huy, đây sân mũi, 76 ly, 2 cò điện bất khiển dụng”
“Thôi được, cho dùng cò chân”
“Đài chỉ huy, đây 41, 42 tôi phát hiện một phi cơ bay từ ánh trăng hướng về phía ta, hướng 3 giờ.”
“Đài chỉ huy nghe rõ, tất cả các khẩu hướng về hướng 3 giờ”
“Đài chỉ huy, phi cơ bay vào mây và mất dạng”
Toàn thể nhân viên chiến hạm cứ luôn ở vào một tình trạng căng thẳng. Chắc hẳn mọi người, ai cũng đang linh cảm rằng một cuộc hải chiến sẽ xảy ra. Có lẽ cũng giống như các bạn đồng đội, đầu óc tôi đang nghĩ đến một chiến thắng huy hoàng, một ngày về với bộ tiểu lễ trắng tinh, hiên ngang đứng giữa hàng quân, trên ngực đầy những huy chương. Tất nhiên, không ai nghĩ đến hậu qủa của một cuộc chiến: thương vong.

Khoảng thời gian từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng, chiến hạm vẫn tiến, và nhân viên vẫn cảnh giác trước phi cơ của địch. Trời lờ mờ, chưa tỏ hẳn ánh dương, hải đội của ta lập thành một đội hình. Bên địch (Trung Cộng) cũng gồm bốn chiến đỉnh 389, 396, 271, và 274, vẫn chạy đan qua đan lại có vẻ như muốn khiêu khích. Lắm lúc như muốn đâm thẳng cả tầu vào chiến hạm của ta. Sau một thời gian kèm sát bên nhau, địch và ta dường như đang tìm những vị thế thích hợp để công kích nhau.



Sau một loạt đèn hiệu được choé sáng, từ đảo nọ bốn chiếc tầu đánh cá hướng về phía Bắc, di tản, và bốn chiến đỉnh của họ vận chuyển song song để bảo vệ. Thế rồi anh em trên chiến hạm thoáng nét vui mừng. Ồ! họ đã chịu lui bước, trả lại mảnh đất cho chúng ta. Nào ngờ sau khi bốn tầu đánh cá đi khá xa, bốn chiến đỉnh địch quay đầu trở lại với lối vận chuyển đầy khiêu khích. Chiến hạm lại nhận được lệnh chuẩn bị tác chiến. Tất cả nòng súng hướng vào phiá đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trên tầu anh em xôn xao căng thẳng, chỉ chờ một hiệu lệnh tác xạ ban ra là những viên đạn vô tri này sẽ phá tan một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi, và bao nhiêu nhân mạng trên đảo sẽ bị chôn vùi dưới lòng đại dương.
Trông chờ mãi, khẩu lệnh vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần nản chí, không còn vẻ hăng say của thoạt đầu, xem những cuộc quần thảo giữa địch và ta như trò đùa. Anh em trở nên chán ngán, quên hẳn sự căng thẳng giữa địch và ta, bẵng đi việc sẵn sàng của nhiệm sở tác chiến. Một số nhỏ hớ hênh để súng cá nhân xuống sàn tầu rồi cùng trò chuyện vui đùa với nhau. Thức dậy từ lúc tờ mờ sáng đến giờ không có gì lót dạ, anh em chúng tôi cảm thấy đói, riêng tôi như thấy kiến bò trong bụng, may quá chúng tôi được lệnh luân phiên nhau vào nhà ăn để dùng cháo.
“Th/úy Mai. Anh vào dùng trước, tôi sẽ ăn sau.”

Khi Th/úy Mai vừa dùng diểm tâm xong, chúng tôi được lệnh tác xạ mà mục tiêu là các chiến hạm địch: Bất kể nơi nào, thấy chiếc nào trong tầm thì cứ bắn, mục tiêu chính yếu là chiếc dương tốc đỉnh 396.
Và rồi những nòng súng nay đã được hướng vào chiến hạm địch. Rồi những chiến hạm của địch và ta lại tiếp tục quần thảo nhau.
Vào khoảng sau 0900H, một lệnh “BẮN” được ban hành mà tôi nghe được qua chiếc headphone. Riêng tôi, trong nhiệm sở tác chiến là sĩ quan đảm trách 2 khẩu 20 ly và súng cối 81 ly ở sân sau. Tôi vội vã hô to:
“Bắn, bắn nhanh lên”.
Những tiếng súng ầm ầm vang dội, những tia sáng thi nhau bay về phía địch, những đóm lửa lần lượt bao chụp lên chiến hạm địch.
TSTP Xuân hiên ngang đưa khẩu 20 ly qua lại, bắn liên hồi.
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Ối ! sao khẩu 20 ly không bắn nữa ?”
“Thưa Ch/úy, súng trở ngại tác xạ”
“Trở ngại thế nào ?”
“Kẹt đạn”
“Bắn một nòng”
“Tạch … Tạch … Tạch …”
“Hết đạn”
“Nằm xuống, để tao”, Hạ sĩ nhất vận chuyển Tây thét lên, gạt Xuân ra, dựt lấy khẩu 20 ly.
“Tạch … Tạch …Tạch ..”
Trong khi đó HSVC Sáu lom khom chạy qua chạy lại lấy đạn 81 ly nạp vào khẩu súng cối.
“Ầm!” “Ầm!”
Tầu địch bốc cháy. Tôi thấy những viên đạn trọng pháo lớn nhỏ đua nhau bám vào tầu địch.
“Rầm !!!”
Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn:
“Tàu Trung Cộng đổ bộ, anh em cẩn thận”.
Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tầu của ta đâm vào tầu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh.

Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt. Anh em đồng đội chuẩn bị cứu thương lẫn nhau. Hầm máy đang cháy, nhân viên phòng tai lo cứu hỏa. Một số nhân viên cơ khí chết thui dưới hầm máy. Những anh còn tỉnh thì được kéo lên boong chánh. Trung úy Huỳnh Duy Thạch (cùng là đàn anh của tôi xuất thân từ trường Việt Nam Hàng Hải Thương Thuyền, cũng là Cơ Khí Trưởng của chiến hạm HQ10, chẳng may đã tử trận trong hầm máy. Ôi ! tiếng rên la áo não ngần nào. Đài chỉ huy hoàn toàn tê liệt, cả cầu thang từ trung tâm chiến báo (CIC) lên đài chỉ huy cũng bay mất một góc. Phòng y tá hoàn toàn thiêu trụi. Trong phòng ăn sĩ quan (được sử dụng làm trung tâm phòng tai), sĩ quan phòng tai HQ Thiếu Úy Bửu (Khóa 25/Võ Bị Đà Lạt) đang rên la với một chân trái bị bay mất, máu ướt đẫm người. Vừa được đưa ra đến sân sau, anh đã trút hơi thở cuối cùng. Các anh em bị thương khác không có thuốc men cấp cứu gì hơn, chỉ dùng vạt áo để băng bó.
“Ồ ! HQ16 , anh Thương hãy đánh SOS cho họ đến tiếp cứu!”
Chúng tôi đánh hiệu bằng cờ, nhưng HQ16 đã quay đầu đi thẳng trong sự thất vọng hoàn toàn của chúng tôi. Những tiếng súng lại bắn vang, cùng với những tiếng nổ trên tàu. Chính lúc này Thiếu Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh trên đài chỉ huy. Tôi còn nhớ là đài chỉ huy trước khi bị tê liệt hoàn toàn đã ra lệnh cho chúng tôi đào thoát. Những giòng tư tưởng quay cuồng trong tôi. Thế còn tàu? và nếu có đào thoát, chắc hẳn có sống không? Rồi tôi tự nhủ rằng HQ16 sẽ quay lại cứu mình.
Những tiếng súng lại vang lên, tiếng nổ trên tàu lại tiếp diễn. Nhìn ra phía sau, hai chiến hạm địch lù lù tiến đến, hướng về phía mình. HQ16 di tản càng ngày càng xa. Trên boong thây xác ngổn ngang, chiến hạm trơ trơ mặc sóng gió đẩy đưa. Trên mặt biển, đồng đội lô nhô trên những bè cấp cứu. Ôi thay! tôi tự hỏi mình có nên đào thoát hay không.

Hạ sĩ nhất cơ khí Nữ chạy đến với giọng rung rung:
“Ch/úy. Ch/úy biết bơi có gì Ch/úy kéo hộ tôi nhé !”
“Rồi cứ nhẩy đi, tôi sẽ kéo ra bè cho.”
“Ch/úy, phao này cho hơi vào cách nào ?”
Tôi bèn kéo chốt cho hơi vào phao và nói anh ấy nhẩy đi. Một chốc sau ngó xuống nước tôi lại không thấy anh ta đâu nữa. Tôi đoán có lẽ vì sóng to quá nên anh ta dạt vào thành tàu. Ngay lúc đó, anh TSVC Đa và HSCK Hòa hấp tấp chạy đến:
“Ch/úy nhẩy nhanh lên, kho đạn 20 ly và 40 ly nổ, nhẩy nhanh lên!”
TSVC Đa, HSCK Hòa, và tôi cùng nhảy xuống. Tôi hoảng khi thấy bè thì quá xa, sóng lại to, ngẩm không biết mình có thể bơi ra đến nơi không.
Xin mở ngoặc nơi đây là: Trước khi đào thoát, tôi có gọi luôn cả HS1VC Tây cùng nhẩy, nhưng anh ta trả lời rằng:
“Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với Trung Cộng. Ch/úy cứ nhẩy đi.”
Thật đúng y như câu nói của người xưa: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Chẳng biết HS1VC Tây có được đến trường để học và thấu hiểu câu nói thâm thúy này không? Anh có nghe ai bàn về câu nói ấy không? !! Thế mà anh đã thực hiện được sự việc đó mới là hay chứ. Việc mà chỉ có những đại anh hùng, các bậc trượng phu không biết “tham sinh úy tử” là gì họa may mới làm được. Thật là anh hùng. Tôi xin ngã mũ.

Lớp ngớp trên mặt biển, bơi mãi vẫn không đến bè được, tôi mới tiếc rẻ: “Ối ! phải biết ở lại tàu còn hơn!” Chất thuốc mầu vàng của bao thuốc trị cá mập trong phao cá nhân của tôi đã được bật ra,. Thuốc hòa lẫn với nước biển biến thành một vũng mầu xanh lá cây. Tôi cứ bơi, bơi mãi, bè cứ dạt xa. Mỗi lần sóng đánh đến, nước biển lại tràn vào miệng cùng với thuốc trị cá mập, có vị đắng đắng cay cay, Ôi ! hơi sức nào để ý đến nữa, mục đích là sự sống. Chỉ làm cách nào bám vào được bè, mạng sống mới có thể vãn hồi. Nhưng mệt nhừ rồi, còn sức đâu nữa mà bơi ra bè. Không, ta phải sống, bản năng sinh tồn lúc đó không cho phép tôi ngừng, cứ bơi, bơi mãi, đến khi bám được bè, nhìn thấy mặt anh em, tôi ngất đi trong giây lát. Phải chăng lực tiềm tàng trong cơ thể đã cạn, hay là ta đã tìm thấy sự sống nên lực đó không cần thiết nữa. Khi được kéo lên bè, người tôi lã đi vì đói khát mệt mỏi.

Thật là “họa bất đơn hành”, sau khi ngồi yên trên bè, kéo chung những bè lại, nhìn về hướng tàu, trong khi hai chiếc tốc đỉnh của Trung Cộng sân sân tiến tới, khẩu 20 ly trên HQ10 cứ nổ vang. Hai chiến hạm của TC cũng không vừa, cứ vừa tiến vừa tác xạ, thế rồi khẩu 20 ly đành im bặt. Những tiếng súng sau cùng đó... Hỡi ơi ! anh Tây, anh Sáu, các anh đã hy sinh đền nợ nước cùng một số đông các chiến sĩ bất tử của HQ10. Các anh ngã mình một cách anh dũng, nhưng có ai biết đến, chỉ có những đồng đội cùng tàu với hai anh mới thấu hiểu. Nói đến sự hy sinh chiến đấu vô vọng, tôi biết rằng giá trị còn tùy thuộc quan niệm của mỗi con người. Có người cho rằng: “Quân tử phục thù, thập niên vị vãn”. Nhưng theo tôi, các anh là những tấm gương anh dũng rạng ngời. Đúng như vậy, anh Tây rất xứng với dòng chữ xâm trên tay “Mặc Thế Nhân”. Thân xác hai anh giờ này đã chôn vùi dưới đáy biển Hoàng Sa cùng với chiếc tàu thân yêu HQ10. Ước gì tên tuổi của hai anh HS1VC Tây và HSVC Sáu được lưu mãi trong sử xanh.

Hai chiến hạm của dòng khát máu Cộng Sản Trung Cộng vẫn không buông tha một chiến thuyền đã đang bốc cháy và bất khả vận chuyển. Chúng cứ luân phiên nhau vây đánh chiếc HQ10, sau đó quay đầu tiến đến bè của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ là nếu họ tác xạ mình thì anh em lại đào thoát lần thứ hai. Mắt Thượng Đế vẫn còn đây, bầu trời xanh lồng lộng còn đó, mọi sự đã an bài sẵn. Tôi tự nhủ hãy phó thác mạng sống mình cho Trời Phật. Số đã sống thì không thể chết, số chết thì không sao cứu vãn được. May thay họ lại bỏ đi. (Tôi nghĩ rằng không phải họ vì nhân đạo - cộng sản làm gì có nhân đạo - lý do chính là chung quanh đây chỉ có những đảo mà họ chiếm và cả một mặt biển rộng mênh mông. Họ chẳng cần vớt người làm chi cho nhọc công, để chúng tôi chết dần mòn khỏi phải mang tiếng với quốc tế.)

Qua cơn bỉ cực đầu tiên, tôi phải đương đầu với đại dương trùng sóng và đói khát. Người đã mệt lã đi, lại cứ nôn mửa suốt hơn cả tiếng đồng hồ. Tôi say sóng cũng thường rồi, nhưng lần này uống nhằm mấy ngụm nước có thuốc trị cá mập, tôi ói ra hết mật xanh, mật vàng. Vừa ói vừa rên, tôi cảm thấy người không còn chút sức lực nào.
Nhìn lại xung quanh, tôi thấy tất cả có năm chiếc bè, bốn lớn và một nhỏ, hầu hết đã bị bắn thủng. Chúng tôi cột chung các bè lại với nhau. Nhưng vì sóng to gió lớn, một cái bè bị tản mác. Mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách nhưng không thể lại gần nó được. Bè đông người và được cột chum nhau, chìm xuống mặt nước. Chúng tôi không có một dụng cụ nào khác để chèo ngoài những bàn tay hết sinh lực. Trôi đến chiều hôm đó (ngày 19 tháng giêng), chúng tôi thấy một hoang đảo có nhiều cây cối. Mắt trông thật rõ nhưng lấy tay khoát nước mãi vẫn không sao lại gần đảo được, vì hôm đó sóng quả rất to.
Sau khi kiểm điểm lại chúng tôi chia làm bốn bè:
Bè số 1: coi như bè hướng dẫn, gồm có tôi, Tr/úy Thì, Tr/úy Hòa, Th/úy Mai, HSBT Thành, HSCK Hòa, và TS1GL Thương.
Bè số 2: bè hậu bị tiếp sức, gồm có Th/úy Hùng, TSBT Bằng, TSTV Hoàng, HSTV A, HSTP Lợi, HSTP Tuấn và TT1CK Hà.
Bè số 3: bè tản thương, gồm HS1TP Hưng, HSTP Và, TSQK Tuấn, ThSTP Châu, TSĐT Thọ.
Bè số 4: bè dưỡng thương, đó là một bè nhỏ có hai mảnh ván bé kê lên để bệnh nhân có thể nằm cho không ướt người. Bè gồm có TSVC Đa, và TSTP Nam.
Riêng về bè trôi dạt không thể cột chùm được kia gồm có: Hạm Phó Trí, Tr/úy Ngân, HS1CK Nữ, HSTP Sơn, HSCK Cứng, TT1TX Long.

Bầu trời đã tối mịt, sóng lại to hơn. Anh em mệt lã người phần vì đói khát, phần vì mệt nhọc sợ hãi. Chúng tôi cứ mặc cho bè trôi quanh đây với hy vọng sáng sẽ bơi vào đảo được. Đêm hôm đó Hạm Phó Trí đã trút hơi thở cuối cùng. Thân xác Hạm Phó cũng đành giao cho thủy thần định liệu.

Suốt đêm cơn lạnh đã hành hạ cơ thể của tôi, với bộ quân phục ướt như chuột lột. Anh em cứ ôm gồng lấy nhau mà rung rẩy chờ đêm qua. Đêm sao qua chậm thế! Giờ này mới ba giờ đêm, bốn giờ, năm giờ, … trời bắt đầu sáng. Thật là quái dị. Đêm vừa qua lại không trăng sao, sáng nay mặt trời lại không mọc. Phải chăng ông Trời cũng không dám diện kiến một cảnh tượng thê lương trên biển của thủy thủ đoàn HQ10?
Thân mệt nhừ, tôi quay qua quay lại nhìn dáo dác, rồi lẩm bẩm:
“Ủa ! đảo hôm qua đâu ?! Thôi rồi anh em ơi, chúng ta không biết đã trôi về đâu?!”
Ai nấy đều lộ vẻ thất vọng. Khi TS1GL Thương mang ra được một la bàn cầm tay thì chúng tôi mới hỡi ơi là hiện tại luồng nước xoáy đang đưa bè theo hướng Đông Bắc, nếu muốn vào đảo anh em phải chèo ngược lại theo hướng Tây Nam.
Cơn đói khát lại hành hạ. Sau khi kiểm điểm thì thấy bè số 1 không có bao thực phẩm nào cả dù rằng dây buộc vẫn còn đó. Bè số 2, 3 mỗi bè gồm một bao thực phẩm chứa 20 lon nước (cỡ chai coca-cola) và 12 bao kẹo, mỗi bao gồm 8 miếng kẹo. Thế rồi phải lấy ra gom lại chia đều ra. Trong đó có 6 bao kẹo không thể sử dụng được, nhưng cũng để dành lại đó. Chúng tôi khui những lon nước, mỗi người hớp một ít, và ăn một miếng kẹo.
Những người bị thương nặng như TS1GL Thương, TSQK Tuấn, có lẽ bị mất quá nhiều máu nên họ cứ đòi nước mãi. Ngày đầu tiên trôi dạt trên biển chúng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ lên được một đảo nào đó gần đây, hay có thể được chiến hạm của ta ra cứu vớt, nên vấn đề uống nước ngọt chưa bị hạn chế. Nhất là nghe các anh bị mất nhiều máu rên rỉ gọi khát chúng tôi chúng tôi không đành nên cho họ uống cả lon. Khoảng 9 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, TSQK Tuấn đã ra đi một cách âm thầm không một lời trối trăn, mà cách đó ba bốn giờ đồng hồ miệng cứ kêu la khát, khát quá…. Ý thức được rằng sẽ còn nhiều ngày lênh đênh trên biển nữa, nước ngọt rất cấp thiết, chúng tôi tự hạn chế trong việc sử dụng nước ngọt và kẹo.
Bè cứ mặc cho dòng nước đưa trôi. Sáng hôm nay lại nghe những tiếng súng nổ vang. Chúng tôi thắc mắc phải chăng chiến hạm tăng phái của ta đã đến và một cuộc hải chiến lại tiếp diễn?
“Anh em hãy gắng sức chèo về hướng Tây Nam , đúng hướng đó rồi, hướng của những hòn đảo hôm qua ta tranh dành.”...
“Cố lên anh em, chúng ta sẽ sống nếu gặp lại tầu bạn.”...
Khoát nước, chèo mãi vẫn không đi tới đâu.
“Thôi chúng ta tháo hai miếng ván của bè nhỏ để chèo đi, chèo mãi theo hướng Tây Nam sẽ đến đảo ngay.”
“Anh em cứ cố gắng lên, đừng nghỉ tay, nếu không công trình khoát chèo, bơi từ sáng đến gìờ coi như hoang phí. Đêm nay chúng ta luân phiên chèo nhé!”...
Bè nay đã được cột chùm vào nhau; lúc đầu cột ngang nhau, nhưng sóng đập mạnh, các bè cứ va đập vào nhau. Bè lật, vỡ bể thêm ra. Sau cùng đành cột theo hàng dọc nối đuôi nhau. Bè của tôi dẫn đầu, sau đến bè số 2, số 3, rồi bè nhỏ. Những bè sau đa số là anh em bị thương, mệt mỏi, chán nản, nên chỉ còn chúng tôi (Tr/úy Thì, Th/úy Mai, Th/úy Hùng, Tr/úy Hòa, HSTV A, và tôi) là những người còn đủ sức để chèo. Đêm đó cứ luân phiên nhau mà chèo. Lúc đầu dựa vào hướng của la bàn, nhưng trong đêm tối la bàn đã bị đánh mất, phải nhờ các vị sao định hướng để chèo. Suốt đêm anh em chỉ được nghỉ ngơi đôi chút.

Khoảng sáu bảy giờ sáng ngày 21 tháng Giêng, thình lình tôi thấy hướng Tây Bắc có hỏa châu lóe lên rồi mất hẳn. Tôi mới hô to:
“Có hỏa châu, một là chiến hạm tìm kiếm ta, hai là lính địa phương quân trên đảo. Anh em hãy chèo về hướng đó nhanh lên!”
Nhưng trời chưa tha bọn người hoạn nạn như chúng tôi. Sáng hôm đó sóng quá to, hơn nữa lại phải chèo ngược sóng, cho nên cứ chèo mãi mà hình như bè vẫn ở tại chỗ. Buồn thay, buổi sáng nay thêm một bạn đồng nghiệp nữa lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt - TS1GL Thương. Buổi chiều, thêm TSĐT Thọ từ giã anh em. Xin được mỹ miều chua xót ghi là “Sáng, thủy thần lại gọi thêm trình diện thủy cung. Chiều, thêm người theo hạm trưởng đi công tác đáy biển bằng tàu ngầm HQ10.”
Có lẽ trước vài tiếng đồng hồ mà thủy thần gõ cửa kêu tên, mọi người đều nghe văng vẳng bên tai một cách yếu ớt “Khát quá … khát quá …” Tinh thần của anh em lúc này có vẻ giao động, nghĩ đến giây phút thần chết sắp gọi tên mình, nghĩ đến những bạn đồng đội đã đi “công tác trên tầu lặn với hạm trưởng.” Nếu không muốn nói là mọi người như sắp điên loạn. Chiều hôm đó Thượng Sĩ Châu hỏi tôi:
“Đây cách Đà Nẵng bao xa?”.
“Khoảng trăm mấy, hai trăm hải lý.”, tôi nói.
Thế là ông tuyên bố ai muốn cùng đi với ông ta về Đà Nẵng thì đi, nếu không ông sẽ đi một mình! Đoạn ông đẩy những anh bị thương trên bè xuống biển. Thế rồi chúng tôi lại phải thất công lần lượt kéo từng người lên. Thượng Sĩ Châu đã mất trí !!
Ban ngày nhìn thấy chim hải âu bay qua lượn lại, chúng tôi cứ hy vọng gần đây sẽ có đảo. Nhưng nhìn dáo dác, biển cả vẫn hoàn toàn biển cả. Kẹo và nước ngọt đều dùng cạn. Anh em bắt buộc phải dùng những lon không đã hết nước, pha nước tiểu với nước biển để uống. Lúc bấy gìờ không ai để ý đến đói, nhưng cơn khát hoành hành cảm thấy thấm thía. Đêm đó ai nấy đều mệt nhừ, đến nỗi các giây cột các bè lại với nhau đứt hồi nào không hay.

Sáng hôm nay, ngày 22 tháng Giêng, tỉnh dậy tôi không còn thấy một bè nào cột bên cạnh bè mình. Nhìn về trước, một bè trôi khá xa. Ngó về phía phải cũng thấy một bè, nhưng cố gắng chèo mãi mà không sao tới nổi. Dần dần những bè đó khuất dần ngoài tầm mắt của tôi Trưa rồi lại chiều. Chân tôi giờ này sưng thủng, không sao cử động được, miệng cứ tự động thều thào hai tiếng “khát quá … khát quá”. Mắt, miệng đã sưng vù lên. Th/úy Mai đã nói lâm râm:
“Ch/úy Ngưu chắc không qua khỏi đêm nay.”
Tai tôi vẫn nghe thấy những tiếng đó, đầu óc tôi cũng biết rằng mình không thể nào thoát khỏi tử thần trong đêm nay - có lẽ giờ này hạm trưởng đang cứu xét mình có đủ điều kiện đi tàu lặn HQ10 chăng?

Chiều hôm đó, khoảng sáu giờ, anh em chuẩn bị ôm lấy nhau để qua đêm rét buốt. Thình lình HSCK Hòa thét lên:
“Có tàu!”
“Ôi ! tàu đâu, tàu đâu?”
Một cứu tinh hiện trước mặt. Lúc đó tự dưng tôi bật đứng lên trên bè được, tay gỡ áo phao đỏ mà phất. Tôi hy vọng họ sẽ phát giác ra mình, dù rằng chiếc tàu cứu tinh còn cách bè mấy hải lý.
“Phải rồi ! Chúng ta đã sống, tàu đang ngừng!”
“Có lẽ họ đã phát hiện chúng ta, anh em cố chèo về hướng tàu nhanh lên, nếu đêm tối họ sẽ không nhìn thấy để cứt vớt ta, la lớn lên anh em.”
“ Một hai ba... Ô!” “ Một hai ba... Ô!” “123...Ah!” “123... Ah!”, một mặt lo chèo, mặt khác la to lên.
“Hình như bè không tiến tới chút nào cả, và tàu họ cũng không vận chuyển!”
“Anh em ơi, nhẩy xuống bơi!”
Nhưng hơi sức đâu mà bơi nữa. nhất là vùng này đầy cá mập, nay thuốc chống cá mập lại không còn.
“Ô kìa! tàu quay đi đâu? thôi chết rồi, hết hy vọng rồi, cố lên anh em!”

Hy vọng xen lẫn thất vọng. Màn đêm đang dần dà bao phủ thì bỗng xa kia ánh sáng đèn tàu rực lên. Ôi chao! Trông chiếc tàu dễ thương biết bao! Sau đó một ánh đèn pha rọi sáng và từ từ di chuyển.
“À ! họ đã thả dzu dzu ra để vớt chúng ta. Sao họ chạy đường kia?”
“Có lẽ họ đang vớt đồng đội mình. Kìa, họ tới mình, la lên cho họ biết anh em!”
...
“Ah ! Oh ! help us sir, please help us.”
“Okey, take it easy, be careful. Are there any wounded ?”
“Yes sir, most of us are wounded.”
“All right, …”
Chiếc dzu dzu từ từ cặp sát bè và đưa chúng tôi lên. Dzu dzu chạy một cách chậm chạp về tàu. Trên dzu dzu ngoài một nhân viên lái, và hai nhân viên phụ tá còn có vị thuyền phó người Hòa Lan, tay cầm một máy truyền tin đang liên lạc với thuyền trưởng,. Chiếc dzu dzu cặp sát vào tàu. Trên tàu, các thủy thủ người Hồng Kông đang thả dây xuống, móc vào dzu dzu. Thế rồi dzu dzu được nhẹ nhàng kéo lên. Khi thành của dzu dzu ngang với boong tàu, một cầu thang bật ra, lần lượt cứ hai nhân viên lại dìu một người chúng tôi lên tàu.

Họ đưa chúng tôi vào một phòng ngủ, cởi tất cả quần áo ướt ra, đắp cho mỗi người một tấm chăn, rồi cho chúng tôi luân phiên đi tắm rửa bằng nước ấm. Cùng lúc đó họ đem cho chúng tôi sữa tươi, cà phê, soup, thuốc lá. Sau đó thuyền phó hỏi tôi là hình như trong nhóm có một lieutenant. Tôi đáp lại rằng chỉ có Lieutenant Junior Grade (tức là trung úy) và chỉ Tr/úy Thì. Ông đưa Tr/úy Thì đi tắm rửa và lên phòng ông để liên lạc với Hải Quân Việt Nam .

Chúng tôi đã thật sự sống lại. Ngay khi đó đồng hồ tôi chỉ đúng 12 giờ khuya, tôi hô to lên với anh em:
“Chúng ta đang qua đêm giao thừa trên chiếc tàu Hòa Lan Kopionella, vị ân nhân của chúng ta!”...

Sài gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974
Tất Ngưu

Ghi chú:[/B
Th/úy Nguyễn đông Mai là một sĩ quan hiện dịch, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trước khi xảy ra trận chiến anh đã có nghị định và sắp đến ngày đeo lon Trung Úy; sau khi trở về, Tr/úy Mai được đặc cách thăng cấp lên chức Đại Úy.
Tác giả: HQ Th/úy HHTT Tất Ngưu HQ10
Bổ túc chi tiết: HQ Th/úy HHTT Nguyễn văn Kết HQ11
Sửa kỹ thuật: HQ Th/úy K25NT Lê văn Kim
Giới thiệu và đánh máy: HQ Th/úy HHTT Phó thịnh Đường
Yêu cầu: Tất cả bạn hữu và chiến hữu Khóa 25 SQ/HQNT và IOCS
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

TẠI SAO KHÔNG GIỮ LỜI HỨA VỚI MẸ TÔI
Bài viết của Nguyễn Bảo Tuấn con tú cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo


Image
Cố Đại Tá NGUYỄN ĐÌNH BẢO

Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi. Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa.

Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy: một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.


Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi: “Tại sao?”

Charlie, tên nghe quá lạ!

“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt…

Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.

Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.

Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”

(Trích trong "Mùa hè đỏ lửa" của Phan Nhật Nam)

Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie.

(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)

Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.

Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”

“Anh Năm,

Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?

Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.

Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:

"- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? "

(Trích trong "Máu lửa Charlie" của Đoàn Phương Hải)

Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.

“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.”

(Trích trong "Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie" của Phạm Anh Dũng)

Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)

Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?

Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”

Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ "Cởi áo trần gian" vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa…

Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi mãi tên người nước mắt rưng

Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng

(Kính dâng tặng hương hồn Cha)

Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ…

Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?...

Nguyễn Bảo Tuấn
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests