Chân Dung Người Lính VNCH

Quân sử, những bài viết, ký sự, ...
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »


Image

CÁC ANH KHÔNG BAO GIỜ CHẾT!
Anh hùng của đất nước chúng ta nhiều lắm, trong trận chiến tương tàn vừa qua, chúng ta đã được nghe đến tên tuổi của rất nhiều anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như : Anh Nguyễn văn Sáu, Tiểu đoàn trưởng Biệt Kích Tỉnh Quảng Nam, hy sinh năm 1961 tại Kỳ Trà (Trà My), Tam Kỳ, Quảng Nam; Anh Nguyễn quang Toản, Tiểu Đoàn Trưởng Địa Phương Quân, hy sinh năm 1973 tại Trảng Bàng, Tây Ninh; Anh Phan Hòa Thanh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 47, hy sinh năm 1961 tại phía tây nam đèo Hải Vân, thuộc tỉnh Quảng Nam; Anh Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân, hy sinh năm 1967 tại Chương Thiện, Anh Lê hàng Minh Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, hy sinh năm 1965 tại Đồi Thông, Hải Lăng, Quảng Trị; Anh Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, hy sinh năm 1972 tại Tân Cảnh, Kontum; Anh Phạm Phú Quốc, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 23, hy sinh năm 1965 tại Vinh ; Anh Ngụy văn Thà Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm HQ10, hy sinh năm 1974 tại Hoàng Sa.

Các Anh tất cả đều là những quân nhân ưu tú đã vì nước quên mình,chúng tôi những người may mắn còn sống, xin mang ơn các anh những anh hùng dân tộc, những chiến sĩ can trường của các Quân Binh chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đời đời chúng tôi khắc tên các anh trong tim trong óc, chúng tôi lại càng mang ơn những chiến sĩ vô danh, đã chiến đấu và đã âm thầm ra đi không ai biết linh hồn các anh hiện đang phiêu đãng nơi đâu, gia đình các anh làm sao biết được ngày giỗ của các anh? Ôi chiến tranh đã mang đi biết bao nhiêu tinh hoa của dân tộc, biết bao nhiêu con yêu của Tổ Quốc, mẹ Việt Nam còn ngấn lệ chưa khô, khi các con của mẹ còn ngày đêm thao thức, quyết tâm xây dựng một dân tộc hùng mạnh phú cường, còn đang tranh đấu cho tự do, cho quyền làm người của cả một dân tộc đang điêu linh, đang lầm than, đang chịu làm nô lệ cho chính những người cùng huyết thống, những người đang say mê xương máu đồng bào ruột thịt của mình, đang đi theo chủ thuyết hư mục của Cộng Sản Quốc Tế để dầy xéo chính đồng bào mình, năm 1975 bọn say mê xương máu anh em, đã xua quân từ Bắc tràn xuống miền Nam nước Việt, với chiêu bài giải phóng miền Nam, bọn lãnh đạo miền Bắc tuyên truyền rằng :”Giặc Mỹ xâm lăng miền Nam, chúng bóc lột dân lành, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đồng bào miền Bắc vì bị bưng bít tin tức bên ngoài, nên quyết tâm giải phóng miền Nam, nhưng chiếm trọn miền Nam, đồng bào miền Bắc mới tự hiểu rằng, dân miền Nam sung túc ấm no hơn miền Bắc, không lý người bần cùng lầm than, nô lệ, lại đi giải phóng người sung túc, ấm no, tự do hơn mình, để cùng hưởng cảnh nô lệ, đói rách giống mình;” trò bưng bít mị dân để lộ nguyên hình, với mục đích chiếm trọn Việt Nam của Cộng Sản Quốc Tế, và mục đích cướp của cải miền Nam, vơ thêm đầy túi cho bọn đầu sỏ và tay chân, ở đâu có tham tàn, có bóc lột, có xâm lăng, thì ở đó có anh hùng xuất hiện .

Quân Nam Hán nếu không xâm lăng với mục đích bắt dân ta làm nô lệ thì dân tộc ta làm gì có anh hùng Ngô Quyền, quân Mông Cổ nếu không muốn thêm nguồn lợi trên xương máu dân Việt thì chúng ta đâu biết đến Trần Hưng Đạo, vua tôi nhà Thanh nếu không muốn vơ vét của cải của dân tộc Việt Nam thì chúng ta đâu có anh hùng Quang Trung, nước ta không thiếu anh hùng vì dân vì nước, họ anh hùng ngay cả lúc quyết chiến dù mọi người cho là tuyệt vọng, nhưng chí trai đã thề, lòng trai đã quyết, thân trai có tan nát để bảo tồn quê mẹ cũng cam.

Bọn cuồng đồ miền Bắc nhìn thấy miền Nam nước Việt trù phú, ước mong của bọn thảo khấu là vơ vét càng nhiều càng tốt, (sau khi chiếm trọn miền Nam nước Việt mến yêu, từng đoàn xe chuyên chở của cải miền Nam về miền Bắc), đó là những chiến lợi phẩm đầu tiên dâng lên bộ chính trị, vì có cuộc xâm lăng thảo khấu này chúng ta lại có thêm biết bao anh hùng .

Dân ta không thiếu anh hùng, Quân ta không thiếu các chiến sĩ can trường, các quân binh chủng đều góp mặt anh tài, nhưng các thiên anh hùng ca ít ai nói tới, là các anh hùng thuộc các đơn vị khiêm nhường, bảo vệ thôn xóm làng ấp, trận sau cùng giặc tràn vào thôn xóm như thác lũ, các chiến sĩ nghĩa quân can trường dù biết rằng không thắng được quân thù, vì sức người có hạn, nhưng các chiến sỉ NGHĨA QUÂN nơi nơi đã anh dũng chiến đấu, họ chiến đấu không phải để được vinh danh, mà họ chiến đấu để thỏa chí tang bồng, cho quân thù thấy rằng Quân Dân miền Nam Tự Do, thề không đội trời chung với lũ vô thần Buôn Dân Bán Nước, máu của họ đã thấm lên ruộng vườn thôn xóm của chính nơi chôn rau cắt rốn của họ, tên của họ đi vào quên lãng, có trang sử xanh nào dành cho họ đâyï ?

Trên quốc lộ số một, nếu chúng ta đi từ Phan Thiết ra Nha Trang, vừa qua khỏi Phan Rang, một quả núi đứng đơn độc giữa cánh đồng phía tay phải, ngọn Cà Đú quanh năm cây cối tốt tươi, hiểm trở (không khác gì rặng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng; núi Bà Đen, Tây Ninh); năm 1959 chúng tôi đã có dịp tác xạ pháo binh và súng cối lên núi này, nhưng núi Cà Đú vẫn là vùng núi gây nhiều oan trái; Qua ngọn núi khoảng vài cây số nhìn phía trái cách quốc lộ chừng non một cây số chúng ta thấy một thôn xóm sầm uất vui mắt đó chính là làng Mỹ Nhơn, nơi những cô gái mỹ miều chỉ biết chìu chồng nuôi con, đã ra công trang điểm cho cái tên hào nhoáng, nơi sản xuất ra anh hùng hào kiệt, ngày 20 tháng 4 năm 1972, chúng ta phải chú ý đến một người, xứng mặt anh hùng của Quân Dân miền Nam, người anh hùng này, cho chúng ta những người từng mệnh danh chống cộng được quyền tự hào nói rằng :” trong hàng ngũ chúng tôi có nhiều anh hùng, mà anh là một trong những anh hùng đời đời bất tử”.

Rất nhiều cây viết đã ca tụng, rất nhiều anh hùng, nhưng chỉ chú ý tới những người có danh phận, mà hoàn toàn quên mất hành động anh hùng, của những anh hùng danh phận bọt bèo, tôi xin được quỳ xuống dâng về quê hương tôi những nén hương danh dự cho những anh hùng thật sự đáng mặt anh tài, họ không hào nhoáng, lòng họ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của người trai thời đại, tâm họ hướng về quê hương dân tộc, trí của họ là trí của Hưng Đạo Đại Vương, của Quang Trung Nguyễn Huệ, của Lê Lợi v..v..Họ không ham hành động vì danh vì lợi mà Họ hành động vì dân vì nước.

Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân xã Mỹ Nhơn, Bửu Sơn, Ninh Thuận (Phan Rang) tên anh do cha mẹ đặt cho, thuận với lòng người, thuận với ý trời, để bây giờ linh hồn anh được phiêu đãng nơi Trời Xanh Cao Vút, bây giờ là tháng tư tôi mượn những dòng chân tình này viết về anh, thật quá muộn màng, chắc anh không chê trách, bởi vì trời đất mênh mông biết Anh Hùng nơi đâu, mà tìm, mà viết. Chiếc nón rừng nhầu nát, bạc phếch vì thời gian, nghiêng che gương mặt trong sáng, chân thật, ánh mắt như sao trời trung tuần tháng tám, đoàn quân phương Bắc tiến không theo đội hình chiến thuật, hăm hở tiến vào làng Mỹ Nhơn, anh nghiêm mặt đếm bước chân quân thù đang dầy xéo trên đồng cỏ quê anh, mảnh đất nghèo nàn khô cằn, tê tái nhận bước xâm lăng của bọn thảo khấu, bọn chúng vẫn xăm xăm tiến bước vào làng, chúng có biết đâu lưỡi hái tử thần đang chờ sẵn, như sấm trời vang dội, như thác lũ phong ba, như mưa sa bão táp, ba mươi tay súng bấm cò đạn réo không trung, giặc chỉ còn kịp dơ tay đầu hàng, nhưng đã quá trễ, từng viên đạn trúng mục tiêu, với dáng dấp của những tên giặc Tầu, trong tranh trận Đống Đa dơ hai tay, ưỡn người ra cựa tử, hốt hoảng vùng lên lần chót rồi quật xuống chết tươi, những tên giặc Cộng thay phiên nhau gục xuống trước sức chiến đấu can trường của các chiến sĩ Nghĩa Quân làng Mỹ Nhơn, dưới quyền chỉ huy của Trung Đội Trưởng Nguyễn Văn Thuận, cái tên hiền hòa làm sao! dễ mến làm sao ! Nhưng khi lâm trận thì sắc bén làm sao ! Xác giặc đầy đồng, mục tiêu của giặc là chi khu Bửu Sơn, phi trường Phan Rang tuy kề cận nhưng đã ngoài tầm tay, chúng muốn đến mục tiêu phải qua làng Mỹ Nhơn, chúng có ngờ đâu Mỹ Nhơn duyên dáng yêu kiều, nhưng gai góc khó qua, đơn vị đầu gục ngã hoàn toàn, một đơn vị khác nghiêm chỉnh hơn ào ạt tiến tới, thêm một lần chúng nhận lãnh chua cay; Nhưng anh nhận ra ngay chiến trường không cho phép anh may mắn thêm nữa, anh đã nghe và nắm vững tình hình địch, các cây M72 quá ít, mà chiến xa địch chắc chắn đang tiến về Mỹ Nhơn, anh cho lệnh một tiểu đội ra thu lượm các khẩu B41 của địch, nhưng anh em biết sử dụng B41 lại rất hạn chế, chính anh trở thànhø một xạ thủ B41, thời gian không cho phép anh huấn luyện thêm xạ thủ B41, sau khi suy nghĩ kỹ, anh chọn tiểu đội có gia đình di chuyển về hướng nam phòng thủ chặn đường đánh tập hậu của địch, tiểu đội này hăng hái lên đường, nhưng chỉ năm phút sau họ trở lại, tiểu đội trưởng Phận lên tiếng như trách cứ :

-Anh Thuận ơi tụi này hiểu ý anh rồi, tụi này đâu có hèn như vậy

-Tôi nói các anh về phòng thủ phía Nam, coi chừng chúng đánh tập hậu

-Chúng mình sống chết có nhau, xin anh bỏ lệnh đó đi, địch không có khả năng đánh tập hậu lúc này, anh sợ chúng tôi chết chứ gì, ai cũng một lần chết.

-Thôi được, bây giờ anh em tự ý quyết định, có một điều tôi muốn nói rõ ràng cùng anh em là : chúng ta sẽ phải chiến đấu đơn độc, không có tiếp tế tản thương, không có đơn vị nào tiếp viện cho chúng ta, không có yểm trợ, đường dây liên lạc với Chi Khu và Tiểu Khu không còn nữa, cho nên anh em có thể tự ý rút lui, tự ý định đoạt lấy cuộc đời mình, không một ai có quyền trách cứ anh em, từ đây về Tiểu Khu còn an toàn các anh em cứ tự động lên đường, còn tôi không thể đi được, ở đâu rồi cũng dưới tay chúng, thà chết không đầu hàng chúng, tôi đã thề không đội trời chung với bọn Vô Thần này, thời gian không còn bao lâu nữa chúng sẽ dùng chiến xa và bộ binh để tấn công chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại lần này, tôi xin anh em nào nặng gánh gia đình hãy rút lui không ai buồn, hay trách cứ anh em đâu, kể cả anh em độc thân nếu muốn cũng được quyền rút lui, xin anh em hãy tự làm theo ý mình để tôi không phải ân hận sau này, thời gian lặng lẽ qua, không một ai rời hàng ngũ.

-Anh Thuận à, chúng tôi tin tưởng ở anh, chúng ta phải chiến đấu đến cùng bên nhau, Quân Dân miền Nam có người thế này có người thế khác, Nghĩa Quân xã Mỹ Nhơn phải cho chúng một trận để đời, anh hùng tử khí hùng nào tử.

Xa xa vọng về tiếng xích xe đang nghiền nát quê hương thanh bình ấm no, niềm bất hạnh của dân tộc cũng khởi điểm từ tiếng xích này, đi kiểm soát tuyến phòng thủ lần chót, anh Thuận dặn dò từng người từng tổ cách thức chiến đấu với chiến xa địch, anh cho biết chỉ khi nào anh khai hỏa mới được khai hỏa, mọi người đều chấp nhận cuộc chơi mới, cuộc chơi đầu đời của các chiến sĩ Nghĩa Quân.

Chiến xa địch xuất hiện, chúng không có tùng thiết, chúng cho chiến xa đi trước và bộ binh đi sau, cách làng chừng hai trăm mét chúng dừng lại, rồi khai hỏa bằng tất cả hỏa lực có trên chiến xa, rồi chúng từ từ tiến và bắn liên tục cầy nát tuyến phòng thủ của anh em Nghĩa Quân, anh Thuận cho lệnh truyền khẩu : khi anh khai hỏa chỉ các khẩu M72 và B41 khai hỏa mà thôi kẻo lộ mục tiêu, quả như vậy đoàn chiến xa của địch tiến tới, một trăm thước rồi tám mươi thước, chiến xa đi đầu trúng đạn, các chiến xa còn lại dồn hỏa lực ngay vào nơi khai hỏa của ta, anh Thuận gục xuống, các khẩu chống chiến xa của anh em nghĩa quân xã Mỹ Nhơn quyết trả thù, từng chiến xa địch bốc cháy, nhưng anh em nghĩa quân cũng thiệt hại nặng nề, lúc này địch quân cho rằng quân ta đông, có hỏa lực chống chiến xa mạnh, nên chúng rút lui. Nhờ thời gian này anh em Nghĩa Quân xã Mỹ Nhơn, mới kiểm điểm lại quân số, chết và bị thương quá nhiều,những người còn sống quá ít đành phải dìu người bị thương ra khỏi chiến trường.

Hai giờ sau địch quân mới hoàn hồn tấn công ồ ạt vào mục tiêu xã Mỹ Nhơn, nhưng không một tiếng súng chống cự, đồng không nhà trống, gần hai mươi anh em Nghĩa Quân nằm bất dộng dưới giao thông hào, lúc đó chúng mới biết chúng đã đụng độ với lực lượng Nghĩa Quân kiêu hùng xã Mỹ Nhơn.

Bùi Ðức Lạc
vuphong
Posts: 2753
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Image

MÙI MÁU TƯƠI TRONG RỪNG CÂY KHUYNH DIỆP
(Chinh Chiến Ðiêu Linh)
Kiều Mỹ Duyên

Rời phi trường Đà Nẵng, tôi về nhà của luật sư Đào Ngọc Thụy, bạn học cũ ở Luật Khoa. Phu quân của Thụy cũng đang phục vụ tại Quân Đoàn. Sáng hôm sau, tôi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I thật sớm để chuẩn bị cho chuyến đi thăm những trận đánh đã và đang xảy ra ở Quảng Ngãi. Vài ngày trước khi quyết định ra miền Trung, những tin tức về tình hình chiến sự ở tòa soạn cho thấy những trận đánh chung quanh tỉnh Quảng Ngãi đang tới hồi khốc liệt. Vì vậy, Quảng Ngãi là nơi đầu tiên ở miền Trung mà tôi có mặt khi vừa đến. Và cũng mới đêm hôm qua, Chi Khu Ba Tơ đã trở thành một địa danh nổi tiếng, bởi một trận đánh anh dũng của những người chiến sĩ Địa Phương Quân tỉnh Quảng Ngãi.


Tôi ngồi yên lặng, vừa lắng nghe vừa ghi nhanh những điều mà Đại Tá Ngô Văn Lợi, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Quảng Ngãi nói với tôi về sự tàn bạo của Việt Cộng đối với người dân vô tội. Trên bản đồ hành quân trải rộng, Đại Tá Lợi chỉ cho tôi những làng mạc đã bị đốt phá:

- Đây là Sơn Tịnh, Minh Lang, Ba Tơ... Những làng xóm này đã thành đống tro tàn, một số dân bị bắt đi, một số dân bị giết chết.

Chi Khu Ba Tơ nằm gần biên giới Lào, là một nút chặn, ngăn cản sự xâm nhập của Việt Cộng từ phía Lào qua Quảng Ngãi. Những ngày trước đó, Việt Cộng đã đưa Sư Đoàn 711 tấn công và chiếm quận Quế Sơn. Quế Sơn mất, áp lực của Cộng quân ngày càng nặng nề chung quanh quận Ba Tơ và dọc theo Quốc Lộ 1 của vùng nàỵ

Người ta lo ngại cho số phận của Quảng Ngãi. Chỉ trong vòng một tháng trời, hai ông quận trưởng của Mộ Đức đã hy sinh. Những quận xa xôi ở miền rừng núi đã có dấu hiệu của sự đánh phá. Tuy nhiên, chưa có một làng, một quận nào của Quảng Ngãi phải di tản chiến thuật, kể cả Sa Huỳnh ở về phía Nam của thành phố Quảng Ngãi, giáp với phần đất của Bình Định vẫn còn giữ được yên. Trước Tết tôi đã ghé qua Quảng Ngãi, và khi đi đường bộ đến Sa Huỳnh, bắt đầu đoạn đường từ Đức Phổ, tôi phải mặc áo giáp, đội nón sắt, vì sợ bắn sẻ. Ngồi trong thiết giáp, ló đầu qua pháo tháp để quan sát tình hình hai bên đường. Thế mà bây giờ cũng trên đoạn đường này, sự di chuyển bằng đường bộ tương đối an ninh. Đó là một niềm hãnh diện của những đơn vị có trách nhiệm bảo vệ cho đồng bào ở Quảng Ngãi.



Image
Phóng viên chiến trường Kiều Mỹ Duyên tại Căn Cứ Hỏa Lực 42 ở Pleiku.
Hình do Ðại Úy Hồ Ðắc Tùng,
Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 3/44
thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh,
chụp ngày 18 tháng 5, 1972
(tài liệu: Chinh Chiến Ðiêu Linh)



Trong sự yên tĩnh của hôm nay, hình như những người chiến sĩ đang chờ đợi một cái gì sẽ xảy ra cho tỉnh lỵ của mình. Chỉ có ngư ông mới nhìn thấy những luồng sóng ngầm dưới lòng biển cả. Chỉ có những người lính chiến đầy kinh nghiệm mới có cái trực giác bén nhạy trước những toan tính của địch. Và sự chờ đợi đã đến. Những chiến sĩ Địa Phương Quân của Chi Khu Ba Tơ với sự yểm trợ của Biệt Động Quân Biên Phòng đã kiêu hùng chiến đấu với Trung Đoàn 22 thuộc Sư Đoàn 3 Sao Vàng Cộng quân ròng rã suốt 4 ngày đêm liên tục mà không được tiếp tế, không tải thương được và cuối cùng đã đẩy lui địch quân, để cho tiền đồn nhỏ bé này vẫn ngạo nghễ trấn giữ giữa một vùng rừng núi.

Lát nữa đây tôi sẽ có mặt tại Ba Tơ. Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 sắp đáp trực thăng xuống bãi đáp ở sau lưng Toà Án Quảng Ngãi, Đại Tá Lợi đợi ở đây để cùng bay với Tướng Thi đến Chi Khu Ba Tơ gắn huy chương và thăng cấp tại mặt trận cho các chiến sĩ Địa Phương Quân và Biệt Động Quân của Tiểu Đoàn 69 Biệt Động Quân Biên Phòng đã có công trong trận chiến vừa qua.

Trung Tướng Lâm Quang Thi vừa rời chức vụ Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị Đà Lạt về Quân Đoàn 1, đặc trách mặt trận ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng Tín. Đơn vị chủ lực của vùng này là Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Sư Đoàn 3 có nhiệm vụ bảo vệ Quảng Nam và Đà Nẵng. Sư Đoàn 2 bảo vệ Quảng Ngãi, nhưng có một trung đoàn bị rút đi tăng cường cho mặt trận phía Bắc Quảng Trị. Sau khi quận Quế Sơn lọt vào tay Việt Cộng, Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp gọi cho Tướng Thi xin từ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Tướng Thi gọi cho Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I đang có mặt tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ở Huế. Ông nói:

- Tôi gọi cho Tướng Trưởng lúc 2 giờ sáng. Tình hình lúc đó quá căng, không ai ngủ được. Tướng Trưởng hỏi tôi muốn chọn ai thay thế cho Tướng Phan Hoà Hiệp. Tôi đề nghị Đại Tá Trần Văn Nhựt. Tướng Trưởng hỏi tại sao chọn Đại Tá Nhựt? Tôi chưa hề biết Đại Tá Nhựt, nhưng mấy tháng trước nghe kể Đại Tá Nhựt, lúc đó là Tỉnh Trưởng Bình Long, đang nghỉ phép ở Saigon, được tin tỉnh của mình bị đánh, ông bỏ phép trở về ngay, và sau đó đã anh dũng tử thủ An Lộc. Như vậy đúng là một vị chỉ huy có tinh thần trách nhiệm.

Dáng người cao lớn, nét mặt trầm tĩnh, ông có dáng dấp của một viên võ tướng. Ông nói với tôi, ông yêu mến binh chủng Nhảy Dù và trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, nơi mà ông hãnh diện vì đã đào tạo nên các khoá 22B, 23, 24 và 25, là những khoá xuất sắc với tiêu chuẩn cho một sinh viên sĩ quan tốt nghiệp là ngoài căn bản quân sự, phải có trình độ Cử Nhân Khoa Học, một bằng Nhảy Dù và một đai đen Thái Cực Đạo.

Ông nói tiếp về trận Quế Sơn:

- Sau khi Đại Tá Nhựt ra chỉ huy Sư Đoàn 2 Bộ Binh, tôi trình với Tướng Trưởng rút trung đoàn đang tăng phái ở Quảng Trị về, xin B-52 và pháo binh yểm trợ, đã lấy lại quận Quế Sơn. Trong trận Quế Sơn, bên ta tổn thất khá nặng, hơn một trăm người tử trận.

Đây là lần thứ hai tôi gặp Tướng Thi. Lần thứ nhất mới cách mấy tháng trước tại Canberra, thủ đô của Úc, lúc đó tôi đang du học tại đâỵ Tướng Thi cùng với Đề Đốc Chung Tấn Cang ở trong phái đoàn của Việt Nam Cộng Hoà đến dự hội nghị quốc tế về vấn đề bài trừ ma túy. Ngày cuối của hội nghị, Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hoà mở tiệc khoản đãi. Toà đại sứ không có nữ nhân viên, nên nhờ các nữ sinh viên Việt Nam du học mặc áo dài tiếp tân dùm. Và hôm đó, Tướng Thi với tư cách đại diện phái đoàn, đứng bắt tay cả ngàn quan khách.

Chiếc trực thăng, ngoài phi công, chỉ có Tướng Thi, Đại Tá Lợi, một xạ thủ và tôi. Mới buổi sáng mà trời đã nóng. Tôi mặc quân phục, nếu không có mái tóc dài, thì trông cũng giống một người lính chiến. Tôi từ Úc mới về nước chừng hơn một tháng. Sau một thời gian sống quen với cái lạnh dưới không độ ở Úc, nên khí hậu của miền Trung trong mùa hè, đối với tôi thật nóng như lửa.

Trực thăng bay với tốc độ nhanh. Có khi bay dọc theo Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Nhìn những ruộng vườn xanh tươi, những hàng cau, hàng tre thấp thoáng, nếu không có tiếng súng và âm thanh xé gió của những chiếc phản lực cơ trên trời, thì nơi đây quả thật là một quê hương thanh bình. Ruộng vườn không bát ngát, trù phú như miền Nam, nhưng chính trong cuộc sống nghèo khó đó, có một cái gì gắn bó. Phải chăng là tình người, ngọt ngào như những thẻ đường phổi của Quảng Ngãi, như những lon mạch nha của phố nhỏ Tam Kỳ.

Chỉ trong một thoáng, những ruộng vườn mất hút đằng sau. Tôi nhìn xuống bên dưới, núi rừng trùng trùng, điệp điệp như một tấm thảm màu xanh. Cái nhìn sẽ thoải mái biết bao nhiêu trước cảnh đẹp thiên nhiên của quê hương, nhưng làm sao thoát cho khỏi được thực tế của chiến tranh, cái cảm giác của sự bất trắc: một loạt đạn phòng không, một trái hỏa tiễn SA-7, từ dưới "tấm thảm xanh" đó phóng lên...

Không biết có phải Tướng Thi đọc được những ý nghĩ của tôi chăng, bỗng nghe ông nói:

- Tại Quảng Ngãi có cụ Đạt xem Tử Vi hay lắm. Tháng trước ông nói tôi coi chừng rớt máy bay, và tháng đó tôi rớt máy bay thật. Không phải vì bị bắn, mà vì lý do kỹ thuật.

Tôi nghĩ thầm, những người mà ngày ngày phải cận kề với sự hiểm nguy, nếu tin tưởng được vào số mệnh, chắc tâm hồn sẽ thanh thản hơn. Đến gần Ba Tơ, máy bay bay sát ngọn cây để dễ quan sát. Đại Tá Lợi nói với tôi:

- Cô nhìn xem bên dưới, Việt Cộng đốt rụi hết cả nhà cửa của dân trong trận đánh vừa rồi.

Tôi hỏi Đại Tá Lợi:

- Tại sao Việt Cộng lại đốt nhà của dân?

- Mục đích là muốn người dân trở về sống trong vùng kiểm soát của chúng. Nhưng đồng bào bây giờ đã chán Việt Cộng lắm rồi, một số bỏ ra tỉnh sinh sống, một số gắng xây dựng lại.

Máy bay đáp xuống bãi cỏ trong hàng rào của Chi Khu Ba Tơ. Đứng trên bãi đáp trực thăng nhìn ra bốn hướng, chỉ thấy toàn là đồi núi chập chùng. Giữa vùng đất trống, một khoảng rộng chưa bằng nửa cái sân banh, với những lều trại dã chiến, với những công sự phòng thủ, mà mới đêm qua, những người trấn đóng ở đây đã phải đem máu của mình để giữ vững mảnh đất nhỏ bé trên ngọn đồi này, dưới sự tấn công như vũ bão của quân thù.

Tướng Thi đến rất bất ngờ, nên không có một sĩ quan nào của chi khu chào đón ông. Cũng bất ngờ và đáng nói đến như lần ông bay thị sát mặt trận Thanh Quít ở Quảng Nam, lúc đó một đơn vị của Trung Đoàn 56 thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh đang chạm địch. Có 4 thương binh đang cần máy bay để tải thương cấp cứu, Tướng Thi đã ra lệnh cho phi công đáp trực thăng của mình xuống giữa những lằn đạn bốc 4 thương binh đó về Tổng Y Viện Duy Tân. Chỉ một thái độ quan tâm như vậy của cấp chỉ huy, cũng khích lệ được tinh thần chiến đấu của binh sĩ biết bao nhiêu.

Tôi theo chân Tướng Thi đi một vòng quan sát chung quanh hàng rào phòng thủ của Chi Khu. Ngay trước mắt tôi, xác Cộng quân nằm la liệt, trên những mô đất, bên những gốc cây, hoặc còn vắt ngang trên hàng rào kẽm gai. Rất nhiều xác không còn nguyên vẹn, thịt xương rơi vãi khắp nơi. Máu đọng thành vũng. Dưới ánh mặt trời buổi sáng, màu máu vẫn còn đỏ thắm. Mùi máu tươi trộn lẫn với mùi thơm thoang thoảng của những hàng cây khuynh diệp mọc hoang dã trên đồi, gây cho tôi một cảm giác khó tả... Những hàng cây khuynh diệp, thân cây thẳng tắp, những cành lá đong đưa trong gió trông thật bình thản, nhưng đã là chứng nhân trong những giây phút hào hùng của những người đã chiến đấu tại đây đêm qua.


Dân số của quận Ba Tơ khoảng 16 ngàn ngườị Trấn giữ Chi Khu Ba Tơ là hai đại đội Địa Phương Quân, quân số mỗi đại đội khoảng 80 ngườị Tuy nhiên khi lâm trận, quân số ứng chiến sẽ nhiều hơn quân số thực sự. Quân số yểm trợ không có trong bảng cấp số chính là vợ con của một số quân nhân đang trú đóng ở đâỵ Trong lúc Chi Khu Ba Tơ bị tấn công bốn mặt, thì đại đội hậu cứ của Tiểu Đoàn 69 Biệt Động Quân Biên Phòng, là đơn vị đang yểm trợ cho chi khu này, cũng bị tấn công từ hướng Đông Nam sang Tây Bắc bởi một đại đội đặc công của Việt Cộng tràn vào sau làn mưa pháo, vẫn theo chiến thuật cổ điển "tiền pháo hậu xung."

Để nhổ đi cái chốt Ba Tơ, cắt đứt yết hầu của Quảng Ngãi, địch đã điều động một trung đoàn bộ đội, một đại đội đặc công và một đơn vị pháo nặng. Một lực lượng gấp mấy lần tấn công một chi khu nhỏ bé liên tục 4 ngày đêm. Những chiến sĩ Địa Phương Quân và Biệt Động Quân Biên Phòng đã chiến đấu dũng mãnh để bảo vệ phòng tuyến. Suốt 4 ngày đêm trực thăng không tiếp tế được, không tải thương được. Những họng súng của địch đặt ngang lưng chừng núi, máy bay vừa đến là bị bắn rớt ngay. Những phi công liều lĩnh nhất cũng không thể nào đáp xuống.

Trận Ba Tơ được xem là chiến thắng lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi trong những ngày mặt trận Trị Thiên bùng nổ. Sau khi đi quan sát tình hình chung quanh chi khu, tôi trở vào trò chuyện với một số anh em Địa Phương Quân. Thiếu Úy Nguyễn Đức Phú kể lại:

- Chúng tôi biết trước và đoán chừng khoảng trong vòng 5 hôm nữa là Việt Cộng sẽ đánh chi khu này. Nhưng đến đêm thứ hai, lúc 4 giờ 30 sáng, địch pháo như mưa vào chi khu. Pháo từng loạt, từng loạt, mỗi loạt chừng 30, 40 quả. Bên mình có hai cây 105 ly (súng đại bác) của anh em Biệt Động Quân bắn trả đũa lại không ngừng để yểm trợ cho chúng tôi.

Nhìn những dãy nhà tranh của dân phía bên ngoài vòng rào kẽm gai, tôi hỏi:

- Việt Cộng pháo có trúng nhà dân nhiều không?

- Nhiều. Dân chết trong trận này cũng nhiều. Hầm trú ẩn của đồng bào rất chắc chắn, sâu dưới 2 mét. Nhưng khi Việt Cộng tràn vào, chúng đốt nhà, ngăn không cho dân chạy, đồng bào bị chết cháy dưới hầm. Sau khi giải toả được chi khu, chúng tôi tìm được nhiều xác đàn bà, trẻ con chết cháy trong hầm. Việt Cộng đốt hơn 200 căn nhà của dân và bắt đi khoảng 120 người gồm đàn bà, trẻ con. Những người dân còn sống sót trốn thoát được kể cho chúng tôi nghe rằng, Việt Cộng bắt đồng bào làm bia đỡ đạn cho chúng. Bởi vậy trong trận này, dân chết và bị thương nhiều hơn lính.

Trung Tướng Thi và Đại Tá Lợi gắn lon và huy chương cho một số chiến sĩ Địa Phương Quân và Biệt Động Quân Biên Phòng có công trong nhiệm vụ đẩy lui địch một cách anh dũng. Thượng Sĩ Định của Chi Khu Ba Tơ được thăng cấp tại mặt trận và được khen thưởng nhiệt liệt. Buổi lễ không kèn không trống, không có diễn văn dài dòng, nhưng vô cùng xúc động. Sự xúc động tự trong thâm tâm của những người đang đứng đây, giữa một bãi chiến trường còn nồng khói súng, xác địch còn ngổn ngang và mùi máu tươi vẫn còn trộn lẫn với hương thơm của những hàng cây khuynh diệp. Đâu đây như phảng phất vong hồn của những người vừa hy sinh, trở về chứng kiến giây phút vinh quang của đồng đội, và của cả chính mình.

Tôi trở vào sau doanh trại trò chuyện với những người đàn bà và trẻ em đã cùng chồng, cùng cha mình chung lưng chiến đấu với quân thù trong những ngày qua. Khuôn mặt còn lấm lem những dấu đất cát và khói súng cùng sự mệt mỏi, nhưng đầy nét tự hào.

Tôi hỏi một chị đang có bầu:

- Mỗi khi địch tấn công đồn, chị làm gì?

Chị trả lời thản nhiên:

- Em đứng bên anh mà bắn theo sự chỉ huy của anh. Thường ngày anh dạy cho em bắn.

Tôi hỏi một em bé khoảng tám tuổi:

- Đêm qua khi cha và mẹ em đánh nhau với Việt Cộng, em làm gì? Có sợ không?

Em bé cười hồn nhiên:

- Sợ chứ cô. Đạn pháo điếc cả tai, nhưng con vẫn mang đạn ra cho ba con.

- Em mang đạn ra bằng cách nào?

Em bé vừa kể vừa làm bộ để diễn tả lại:

- Con bò sát đất, dùng hai tay và đầu đẩy thùng đạn về phía trước. Đẩy từ trong hầm ra tới giao thông hào.

Tôi nghĩ người chinh phụ ngày xưa là hình ảnh của một người đàn bà thụ động, chịu đựng và chấp nhận sự mất mát, xa cách. Người chinh phụ ngày xưa chỉ khép kín cuộc sống sau khung cửa để hướng về chồng mình đang chinh chiến nơi xa:

Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi thiên san

Còn người vợ lính ngày nay phải nói là:

Dù nơi quan ải, thiếp chàng có nhau

Tôi nhìn những người đàn bà đang đứng trước mặt tôi. Họ bỏ lại sau lưng những tiện nghi, những vui thú của một cuộc sống thành thị, để đến một nơi giữa rừng núi heo hút như Chi Khu Ba Tơ này, là chỉ để chia xẻ với chồng mình đang từng phút, từng giây đối diện với quân thù.

Tôi nhìn những đứa bé gầy guộc bởi những bao gạo sấy qua ngày. Tôi nhìn những bàn tay nhỏ xíu đã tải những thùng đạn nặng chĩu đêm qua, những bàn tay thay vì chìa ra nhận bánh kẹo, đồ chơi một cách hồn nhiên vô tư, hoặc đang nắm chặt cán bút, cắm cúi với bài học trên ghế nhà trường như những đứa bé cùng tuổi khác trong giờ phút này, thì các em lại đang đứng đây, tại một nơi không phải dành cho tuổi thơ.
Image
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Image

30-4-1975 Tại Đơn Vị: Ngày 41 Giờ

SAPY NGUYỄN VĂN HƯỞNG .



Với bút ký “Giọt Nước Mắt” tác giả Nguyễn Văn Hưởng kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey, do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004.

Sau đây là một hồi ký đặc biệt của ông kể về biến cố 30-4-1975 tại doanh trại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 21 Truyền Tin thuộc sư đoàn 21 Bộ Binh VNCH tại ngoại ô tỉnh lỵ Bạc Liêu, nơi mà buổi sáng ngày 30 tháng Tư “Cửa tiệm nào cũng tấp nập khách ra vào, bóng dáng chiến tranh tưởng chừng còn quá xa với người dân thành phố hiền hòa này.”

. . .

Mọi người dân Miền Nam Việt Nam đều không thể nào quên được biến cố 30-4. Tùy hoàn cảnh, tùy góc độ nhìn mà mỗi người đón nhận nó một cách khác nhau. Biến cố ấy diễn ra dài hay ngắn cũng vượt khỏi ý niệm thông thường về thời gian. Có người nó chỉ lướt qua vài giây phút ngắn ngủi, có người dài đủ hai mươi bốn giờ và có người ngày ấy chính là ngày cuối đời.

- Ngày 9-3-1975 biến cố 30-4 đến với người dân sống trên Ban Mê Thuột.

- Ngày 24-3-1975 diễn ra với người dân xứ Huế.

- Ngày 29-3-1975 đến lượt người dân Đà Nẵng...

Còn thủ đô Sàigòn và các tỉnh miền Tây, biến cố lịch sử ấy đến đúng vào ngày 30-4-1975.


Hàng năm cứ đến 30-4, tôi lại muốn ghi chép ra những điều chất chứa trong lòng. Nhưng lần nào cũng vậy, viết được đôi ba trang, tôi lại buông bút, bởi cảm thấy mình vẫn chưa lột tả hết thực trạng về biến cố ấy của đơn vị tôi.

30-4 năm nay lại về và lần này, tôi nhất quyết làm cho xong cái điều tôi hằng ấp ủ. Tôi tự giam mình trong phòng suốt mấy ngày liền, ngồi trước máy vi tính, gõ luôn một mạch tất cả những gì còn lưu trong ký ức. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi đánh lên bàn phím dấu chấm cuối cùng. Tiến sang giai đoạn sửa chữa ý tứ, câu văn cho mạch lạc. Thì vợ tôi lại lôi đâu ra quyển sổ được tôi ghi chép những diễn biến xảy đến trong cuộc đời tôi lúc còn tạm trú nơi trại Tỵ Nạn Mã Lai năm 1976.

Tôi đã tưởng những giờ phút đau thương nhất trong đời, phải luôn mãi hằn sâu trong tâm tư để không bao giờ phai nhạt. Nhưng khi đọc lại bút tích do chính tay tôi viết từ hơn một phần tư thế kỷ qua, tôi mới hay mình lầm. Quả thật, không một thứ gì có thể tồn tại mãi với thời gian.

Nếu ví biến cố 30-4 như một căn nhà, thì trong trí tôi giờ đây chỉ còn lưu lại được căn nhà, mà hầu như mọi đồ đạc bên trong đã bị lớp bụi thời gian phủ kín. Tôi có cảm tưởng, quyển vở cũ là chiếc khăn giúp tôi phủi sạch đi lớp bụi thời gian, làm quá khứ hiển hiện như vừa mới xảy ra.

Cuốn sổ giúp tôi thấy lại từng giờ. Và ngày 30 tháng Tư ấy, với tôi, là một ngày dài liên tục 41 giờ.

Kể lại chuyện cũ, tôi muốn được dùng ngôn từ cũ để làm sống lại quá khứ.
Đoạn Một
Phút Giây Định Mệnh
Tôi, Trung úy Nguyễn Văn Hưởng số quân 68/409398. Tốt nghiệp khóa 1/69 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Giữ chức vụ Sĩ Quan An Ninh Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Đoàn 21 Truyền Tin, một đơn vị kỹ thuật chuyên đảm trách việc thiết lập hệ thống liên lạc cho Sư Đoàn 21 Bộ Binh, biệt danh Sét Miền Tây.

Sư Đoàn tôi giữ nhiệm vụ bảo vệ an ninh lãnh thổ 6 tỉnh: Cần Thơ, Chương Thiện, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, thuộc Vùng IV Chiến Thuật. Thiếu tá Lương Duy Thanh Tiểu Đoàn Trưởng, người chỉ huy đơn vị cho đến phút giây cuối cùng. Tiểu Đoàn có 3 Đại Đội: Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ do Đại úy Trần Duy Chinh làm Đại Đội Trưởng. Đại úy Thân Văn Vui, Đại Đội Trưởng Đại Đội Khai Thác Chỉ Huy. Và Đại úy Nguyễn Văn Hiền, Đại Đội Trưởng Đại Đội Khai Thác Hành Quân.

Tám dãy nhà tôn được phân chia làm đôi, mỗi bên bốn dãy, sắp thành hai hàng, ngăn bởi cái sân rộng ở giữa có dựng một kỳ đài. Đó là doanh trại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 21 Truyền Tin, nơi tôi phục vụ gần sáu năm trong cuộc đời binh nghiệp.

Đứng từ ngoài Quốc Lộ số 4, con đường huyết mạch nối liền Sàigòn - Cà Mau nhìn vào, toàn doanh trại được bao bọc bằng lớp hàng rào kẽm gai cao khỏi đầu người. Chính giữa là cái cổng lớn, hai cánh làm bằng sắt ấp chiến lược luôn đóng kín, chỉ được mở mỗi khi có xe cộ ra vào. Phía cánh trái còn một cổng phụ nhỏ dành cho người đi bộ và xe hai bánh. Bên cánh phải có một tháp canh thật cao, nơi tôi thích leo lên ngồi nói dăm ba câu chuyện với anh lính gác, đưa mắt ngắm nhìn đồng lúa mênh mông chạy đến tận chân trời.

Bên dưới tháp canh là phòng Tiếp Tân, nơi còn ghi đậm nét trong tim tôi, hình ảnh cô nữ sinh áo trắng đến thăm và ngồi chờ tôi ngày nào. Cô ta chính là vợ tôi, người đã và đang cùng tôi chia ngọt sẻ bùi trên những bước thăng trầm của cuộc sống.

Hai bên cổng ra vào còn có hai cái ao thật lớn thả đầy rau muống, như hai đường giao thông hào trải dài giúp cho việc phòng thủ mặt trước Tiểu Đoàn. Những ngày trực, tôi thường đem cần ra bờ ao ngồi câu cá giải khuây.

Đơn vị tôi tuy đóng cách tỉnh lỵ Bạc Liêu chỉ hơn hai cây số, nhưng đã được xem là vùng ngoại ô, là tiền đồn bảo vệ hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh nằm ngay trung tâm tỉnh lỵ.

Nói đến Bạc Liêu, người ta thường hay thêm vào hai chữ "công tử" phía trước, rồi nhắc lại chuyện Hắc - Bạch công tử thi nhau đốt tiền dê gái, nghĩ đến một vùng đất có ruộng đồng bao la...Tôi đổi xuống Bạc Liêu cuối năm 1969, thời huy hoàng của các chàng công tử đã hết, nhưng ruộng đồng "cò bay thẳng cánh" vẫn còn nguyên đấy.

Để giới thiệu thành phố với tôi, một anh lính gốc gác miệt dưới này, đọc cho tôi nghe hai câu lục bát được lưu truyền:

"Bạc Liêu kênh lưới, ruộng lờ

Dưới sông cá chốt

trên bờ Triều Châu".

Cuộc đời binh nghiệp tôi gắn liền với doanh trại đầy ắp kỷ niệm ấy nơi miền Bạc Liêu sông nước hiền hòa. Là một người lính chuyên ngành, nghe không mấy hào hùng, nhưng cũng góp một phần nhỏ vào việc bảo vệ Tự Do cho quê hương đất nước. Tôi yêu doanh trại đơn vị tôi nhiều lắm, yêu nhất những buổi sáng dậy thật sớm, dậy trước cả mặt trời, bước ra hít thở không khí trong lành của đồng lúa rồi trở vào Câu lạc bộ, ngồi chờ ngửi mùi cà phê mới pha thơm ngát. Hớp trọn hương vị ấy bên điếu thuốc thơm Quân Tiếp Vụ. Chỉ cần có thế, là đủ cho tôi có một buổi sáng đẹp.

*

Kể từ 24-3-1975, ngày quân dân Huế được lệnh di tản, hàng đêm tôi đều phải vào ứng chiến trong đơn vị.

Sáng nay, 30-4-1975, cũng như mọi ngày, tôi thức dậy đánh răng rửa mặt xong là xuống thẳng Câu lạc bộ nhâm nhi ly cà phê buổi sáng. Nhưng ly cà phê và điếu thuốc sáng nay sao quá nhạt nhẽo, mất hết hương vị, nên tôi ra lấy xe về nhà sớm hơn thường ngày. Tôi cho xe chạy thật chậm để những cơn gió ban mai mặc tình mơn man da thịt, làm mát lại tâm hồn. Cả tháng nay, đầu óc tôi luôn trĩu nặng bởi những cuộc "di tản chiến thuật" liên tiếp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đêm qua Cộng quân lại tấn công vào phi trường Sóc Trăng khiến một số hệ thống liên lạc bị tê liệt, Quốc Lộ 4 vừa bị cắt đứt. Chẳng biết bao giờ đến lượt Bạc Liêu nhỏ bé này? Miên man suy nghĩ, xe về đến nhà lúc nào tôi cũng không hay.

Từ khi có lệnh cấm quân, hàng ngày vợ chồng tôi chỉ gặp nhau vào buổi sáng sớm và hai bữa cơm trưa, chiều. Chúng tôi không còn chở nhau ra đồng hóng mát, đưa nhau đi xem chiếu bóng. Ở nơi tỉnh lẻ này chỉ có vài thú vui ấy, vậy mà chúng tôi cũng phải từ bỏ nốt vì tình hình chiến sự sôi động.

Vợ tôi có mang đã hơn bảy tháng, tôi không muốn nàng vướng nhiều ưu phiền, sợ ảnh hưởng đến đứa con sắp chào đời, nên mọi ưu tư trăn trở tôi cố giữ trong lòng.

Hai vợ chồng sửa soạn ra phố. Nhìn vợ bước đi chậm chạp nặng nề, tôi vội ra kéo chiếc xe lại sát mé hàng ba cho vợ tôi dễ ngồi lên.

Sáng nay phố xá Bạc Liêu tấp nập người qua kẻ lại, chợ búa sinh hoạt vẫn bình thường như mọi ngày. Quán cà phê hủ tíu nào cũng đầy khách, hai tôi phải khó khăn lắm mới tìm ra chỗ ngồi. Tôi không thích những nơi ồn ào như vầy, vừa tốn tiền vừa dễ gây bực mình. Lương lính và công chức của cả hai vợ chồng chỉ vừa đủ sống, nên cũng hiếm khi đưa nhau ra tiệm. Tôi gọi hai tô hủ tíu, trong lúc chờ thức ăn dọn ra, vợ tôi kể lể:

- Ông Phó Giám Đốc Ngân Hàng em về Sàigòn từ mấy hôm nay. Ông ấy thường than: "tình hình cứ suy đồi mãi như thế này, chắc Việt Nam sẽ bị lọt vào tay Cộng Sản mất".

Tôi chỉ ngồi trầm ngâm lắng nghe. Lúc người bồi mang thức ăn đến, thấy tôi vẫn thừ người ra đấy, vợ tôi giục:

- Anh ăn mau đi kẻo nguội.

Vừa nặn chanh, tôi vừa dọ hỏi vợ:

- Mấy ngày nay người ta rút tiền gởi ngân hàng ra có nhiều không em?

- Cũng thường vậy thôi.

- Anh lo, nếu phòng tuyến Xuân Lộc mà bị chọc thủng, Sàigòn sẽ biến thành tiền đồn mất. Đài BBC và đài VOA đêm hôm qua cũng như sáng nay bình luận rất bi quan. Hồi hôm, phi trường Sóc Trăng bị tấn công. Anh không biết bao giờ đến lượt Bạc Liêu mình. Anh dặn trước, nếu lỡ mà có đánh nhau trong tỉnh, em phải tự lo liệu xoay xở một mình vì lúc đó anh phải ở trong đơn vị.

Vẫn vô tư, vợ tôi hồn nhiên trả lời:

- Anh nói gì mà nghe ớn quá vậy, thôi ăn mau đi kẻo nguội.

Dù đã cố kềm hãm, nhưng không hiểu sao tôi vẫn nói những lời bi quan ấy ra. Tôi bèn chữa lại để vừa trấn an mình, vừa trấn an vợ:

- Anh cũng dặn hờ em vậy thôi.

Vợ tôi xoay sang chuyện khác:

- À hôm trước, em nghe nói có mấy người làm sở Mỹ đưa gia đình lên Cần Thơ. Ra đi họ bán đổ bán tháo đồ đạc trong nhà. Anh Bình làm một chỗ với em, mua được mấy cái giường và mấy cái tủ lạnh giá thật rẻ.

- Tới nước này rồi, em còn ham chi những thứ đó nữa!

Ăn xong, vợ tôi nhìn đồng hồ tay rồi lên tiếng:

- Còn cả nửa tiếng nữa mới đến giờ làm việc, chở em đi vòng vòng chợ một lát, lâu quá rồi anh không đưa em đi chơi.

- Ừ đi thì đi.

Phố xá Bạc Liêu tập trung quanh vài ba con đường chính, đảo xe chừng mươi phút là hết. Cửa tiệm nào cũng tấp nập khách ra vào, bóng dáng chiến tranh tưởng chừng còn quá xa với người dân thành phố hiền hòa này. Loanh quanh một lát, vợ tôi vỗ vỗ vào vai tôi:

- Anh cho em xuống tiệm đàng trước xem có khúc vải nào đẹp không, em định cắt may vài cái áo bầu vì bụng em càng ngày càng to.

- Thôi gần đến giờ làm rồi, đi trễ kỳ lắm. Tình hình này mà em còn lo may với mặc cái nỗi gì!

Thấy tôi lại bực mình, không tán đồng, vợ tôi cằn nhằn:

- Đi với anh chán thấy mồ, để lát nữa làm bớt việc, em rủ cô Nhung đi với em.

*

Đưa vợ đến Ngân Hàng xong, tôi cho xe phóng nhanh về đơn vị. Nhìn tôi bước vào ban, Thượng sĩ Nguyễn Văn Thanh, Hạ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị, ngưng việc quét bụi và dọn dẹp giấy tờ trên bàn, ông giơ tay lên chào tôi rồi cười hỏi:

- Sao hôm nay Trung úy vào sớm vậy?

- Sớm gì nữa, cũng gần đến giờ tập họp rồi!

Nhìn sang Ban 3 bên cạnh, Hạ sĩ Điệp đang ngồi cắm cúi học bài. Điệp siêng năng cần mẫn, không chịu để mất một chút thời giờ nào, hễ rảnh rỗi là đem sách ra học. Điệp nhất quyết lấy cho bằng được mảnh bằng Tú Tài Đôi để xin đi học khóa sĩ quan. Thấy Điệp chăm học, tôi thường chỉ bảo, nâng đỡ và khuyến khích tinh thần anh hạ sĩ hiếu học này. Nhưng hôm nay nhìn Điệp học, tôi buột miệng nói:

- Thôi Điệp, học hành làm chi nữa, chắc gì có thi cử năm nay!

Điệp tròn xoe đôi mắt nhìn tôi rồi kêu lên:

- Trời, Trung úy mà nói vậy thì còn gì nữa!

Trước đây, có bao giờ tôi nói với Điệp bằng giọng điệu bi quan ấy đâu. Lúc nào tôi cũng lạc quan tin tưởng vào sự tất thắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Là một cán bộ Chiến Tranh Chính Trị, tôi còn phải quảng bá sự lạc quan ấy đến với mọi người. Hôm nay tôi nói với Điệp lời ấy, tức sự lạc quan trong tôi đã biến mất, và tôi cũng vừa lấy đi niềm tin tất thắng trong Điệp.

Điệp gấp quyển sách lại ngay sau câu tôi nói, ngồi thừ người chống tay lên cằm, gương mặt trẻ trung, yêu đời của Điệp hằn lên nỗi ưu tư, lo lắng. Tôi muốn nói đôi câu an ủi Điệp, nhưng chẳng biết nói lời gì!

Kẻng tập họp trỗi lên, mọi người lần lượt tiến ra sân cờ. Vẫn như thường ngày, điểm danh xong, lễ chào Quốc kỳ bắt đầu. Quân nhân các cấp vẫn hùng hồn đồng hát bản quốc ca trong lúc lá cờ vàng ba sọc đỏ từ từ được kéo lên rồi tung bay phất phới trong nắng sớm.

Lễ chào cờ xong, tôi lê những bước chân nặng nề về nơi làm việc. Nhân viên trong ban vào đầy đủ, chúng tôi lại bắt đầu một ngày làm việc trong nỗi chán chường. Không phải đến hôm nay tôi mới cảm thấy như vậy, nó đã gậm nhấm tôi hơn một tháng qua, từ khi các vùng Chiến Thuật lần lượt di tản, để mất dân mất đất. Giờ thì Cộng Quân lại sắp tiến vào Sàigòn. Tôi quay về thực tại khi Thượng sĩ Trần Quang Mẫn, Hạ Sĩ Quan An Ninh đến bên nhắc nhở:

- Trung úy coi lại mấy bản báo cáo tôi đặt trên bàn từ mấy ngày rồi. Xin Trung úy duyệt lại ngay giùm, để còn kịp đưa lên ban Văn Thư trình Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng ký gởi đi trưa nay, tôi sợ báo cáo trễ quá bên Phòng An Ninh họ khiển trách mình.

Thượng sĩ Thanh cũng đưa cho tôi một chồng văn thư Đi và Đến. Tôi ngao ngán giở xấp hồ sơ ra. Những dòng chữ, những con số như nhảy múa trong đầu, tôi không biết mình đang đọc những gì. Cuối cùng như một cái máy, tôi đặt bút ký vào mọi giấy tờ, rồi trao hết cho hai người phụ tá.

*

Đầu óc tôi bây giờ hiện lên toàn những câu hỏi không lời giải đáp. Nghĩ đến ông Phó Giám Đốc Ngân Hàng, nơi vợ tôi làm việc đã bỏ nhiệm sở lên Sàigòn tìm đường ra đi, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và nhiều tướng lãnh cao cấp cũng đã lìa xa quê hương. Tôi âu lo không biết số phận Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa sẽ ra sao nếu Miền Nam sụp đổ? Riêng tôi, phải tìm đường ra đi hay ở lại, đành cam chấp nhận mọi bất hạnh xảy đến với mình? Nếu đi thì đi đâu và đi bằng phương tiện nào? Cả hai nước Miên - Lào đã lọt vào tay Cộng Sản, nên đường bộ coi như bí lối. Đường hàng không thì không có! Chỉ còn mỗi con đường biển! Bạc Liêu tuy gần biển thật, nhưng tôi thì chẳng hiểu nhiều về đại dương.

Trong đời, tôi có hai lần đi biển. Lần đầu, xuống tàu rời Hải Phòng, theo bố mẹ vượt tuyến vào Nam tìm tự do năm 1955. Suốt ba ngày ba đêm lênh đênh, tôi không biết nước biển màu xanh hay màu đỏ. Mẹ tôi bảo: tôi chẳng ăn uống được gì, chỉ nằm bẹp một chỗ ói mửa rồi đòi nước uống. Lần thứ hai là ngày tôi nhập ngũ, xuống tàu đi từ Nha Trang vào Sàigòn. Ngày ấy, tôi là khách hàng của chiếc tàu Hải Quân, cũng chỉ nằm dưới sàn tàu để người ta đưa tới bến. Giờ đây, nếu muốn ra đi bằng đường biển, tôi phải là người điều động, phải hiểu biết về con tàu, phải hiểu biết về đại dương, và nhất là phải biết bến bờ nơi tôi định đến.

Ngồi nghĩ gần nát óc, tôi vẫn chưa tìm ra một tia sáng. Không có hướng đi nghĩa là tôi phải ở lại tử chiến với Cộng Sản hay phải chấp nhận hết những đòn thù của người phương Bắc. Nghĩ tới việc phải đối diện với người Cộng Sản tự nhiên tôi rùng mình không dám nghĩ thêm gì nữa. Đứng trước vực thẳm, tôi cố tìm cho mình một lối thoát bằng cách bám víu lại niềm tin vào Quân Lực mình. Vùng I, Vùng II, Vùng III Chiến Thuật có mất, nhưng chưa phải là thua toàn diện. Biết đâu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ đảo ngược lại tình thế. Tết Mậu Thân 1968, Miền Nam cũng đen tối. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 cũng không mấy sáng sủa ở những ngày đầu. Nhưng cuối cùng, những trận chiến ấy, phần thắng vẫn về với Quân - Dân Miền Nam. Nghĩ đến đó, tôi như lấy lại được đôi chút niềm tin.

Tôi thấy cần có người tâm sự, chia bớt những âu lo trĩu nặng trong đầu. Ngẫm nghĩ một lát, tôi quay sang bảo Thượng sĩ Thanh:

- Ông xuống phòng Thường Vụ ghi tên cho tôi đi khám bệnh.

- Trung úy bệnh gì vậy?

Đột nhiên tôi xẵng giọng, như muốn trút bớt sự căng thẳng trong lòng:

- Đừng hỏi lôi thôi. Cứ đi ghi tên cho tôi.

Thượng sĩ Thanh đi rồi, tôi uể oải rời bàn làm việc, lê bước đi xin phép ông Đơn Vị Trưởng, ông cho tôi đi ngay rồi căn dặn tôi:

- Khám bệnh về, anh nhớ lo ngay chương trình sinh hoạt đơn vị vào lúc 9 giờ sáng ngày mai cho tôi.

Thật không còn gì khó khăn hơn cho tôi phải tổ chức sinh hoạt đơn vị trong lúc này. Tôi biết nói gì đây để giữ vững niềm tin cho anh em, trong khi chính tinh thần tôi đang bị suy sụp trầm trọng. Tôi phải trả lời sao cho thông suốt các câu anh em hỏi, bởi đó cũng là những câu tôi đang tự hỏi chính mình. Nhưng là một chiến binh, tôi chỉ biết tuân hành mệnh lệnh thượng cấp.

*

Bạn bè tôi trong giờ phút này, nếu không bận chuyện công sở, cũng đang bù đầu lo việc an ninh phòng thủ doanh trại mình. Tôi chẳng nghĩ ra một người nào rảnh rang sẵn sàng ngồi nghe tôi trút bầu tâm sự. Nhìn phố phường vẫn buôn bán nhộn nhịp, tôi tự hỏi: "Đứng trước một tình thế suy sụp đến như vậy mà người dân Bạc Liêu vẫn sống bình thản như không có chuyện gì xảy đến?" Tuy khai bệnh chỉ là cái cớ để tôi chạy loanh quanh cho đầu óc bớt căng thẳng, nhưng khi chẳng còn biết đi đâu, thấy cũng gần tới giờ khám bệnh, tôi cho xe chạy đến Tiểu Đoàn 21 Quân Y. Lúc tôi đang dựng xe, anh bạn Nha Sĩ Cao Trừ từ trong Câu lạc bộ bước ra. nhìn thấy tôi, anh tiến đến vỗ vai hỏi:

- Sao, bồ sang đây có việc gì hả?

- Tao qua hỏi xin bác sĩ vài viên thuốc cảm thôi.

- Mấy ông bác sĩ quýnh quáng lên hết cả rồi, còn khám khiết gì mấy ngày này nữa! Cần thuốc gì, lát nữa tao bảo y tá đem ra cho.

Tôi nhún vai:

- Được vậy thì tốt.

Cao Trừ vừa kéo tôi vào phòng nha khoa vừa lên tiếng:

- Mày có tính gì chưa?

Muốn Cao Trừ nói rõ thêm, tôi hỏi lại:

- Tính gì?

- Trốn đi hay ở lại chớ còn tính gì nữa! Tao thấy Việt Cộng sắp vào tới Sàigòn rồi!

Trầm ngâm một lát, tôi bảo Cao Trừ:

- Tao cũng biết vậy. Nhưng trong giờ phút này, tính càng nhiều hay chẳng tính toán gì, đều giống nhau cả, chúng mình đã thực sự bí lối rồi.

Trừ nhanh nhẩu phản bác:

- Mày sao bi quan quá, "còn nước còn tát", "có còn hơn không". Nói thiệt với mày, tao đang tìm đường dọt đây. Bây giờ chỉ còn duy nhất một con đường biển. Muốn đi đường này cần tiền và tàu, cả hai thứ tối quan trọng ấy, làm gì mà tao có. Tao biết, bên vợ bác sĩ Toàn ở Rạch Giá, có ghe đánh cá lớn, tao vừa qua rủ ông ấy đi, nhưng ông ta lưỡng lự.

Tôi lắc đầu thở dài:

- Nhưng sống sao cho đáng một con người, đó mới là điều cần nghĩ tới, nếu rủi Miền Nam bị lọt vào tay Cộng Sản chứ!

- Ôi ông ta chẳng hiểu gì về Cộng Sản cả, còn tao là người miền Nam, nói ông ấy không mấy tin. Ông ta còn đang ngồi bàn thời cuộc trong Câu lạc bộ, hay mày đi với tao qua đó, mày dân Bắc kỳ, từng trốn chạy Cộng Sản, nói vào biết đâu ông ta đổi ý.

Tôi và Cao Trừ vừa bước xuống đường, gặp ngay bác sĩ Toàn từ trong Câu lạc bộ bước ra. Ông nhìn Cao Trừ và tôi rồi lắc đầu, giơ hai tay thẳng lên trời nói với một giọng đầy thiểu não:

- Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng rồi!

Tôi bàng hoàng cả người, nếu không có bức tường cạnh đó cho tôi đứng dựa lưng vào chắc tôi đã không đứng vững. Tuy cả tháng nay đầu óc tôi luôn lởn vởn nghĩ đến giây phút này. Nhưng nay nó đến thực sự, tôi vẫn không tránh khỏi kinh hoàng. Tin Miền Nam sụp đổ lan truyền thật nhanh, chỉ trong khoảnh khắc cả bệnh viện đều nhốn nháo. Các anh em thương bệnh binh mặt mày tái mét hớt hải rời giường bệnh bước ra ngoài hành lang. Có người cầm trên tay chai nước biển với dây nhợ lòng thòng, có người ôm theo bọc ruột bên mình...Họ hốt hoảng ngơ ngác, đứng bất động nghe ngóng. Tôi không tài nào biết được họ đang nghĩ gì trước hoàn cảnh trớ trêu này. Tôi cố gạt bớt những suy tư nặng đầu, quay sang bảo Cao Trừ:

- Thôi tao phải về đơn vị!

Cao Trừ nhìn tôi ngao ngán lắc đầu. Tôi vội đi lấy xe rồi phóng thẳng ra đường.

Lời Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng khiến dân chúng Bạc Liêu hốt hoảng như con thú bị sập bẫy. Ngoài phố chợ, các hàng quán ngưng ngay việc buôn bán, vội vã thu dọn đồ đạc, mau chóng đóng cửa tiệm. Nét kinh hoàng hiện rõ lên từng gương mặt. Trên đường mọi xe cộ đều phóng thật nhanh, người đi bộ cũng hối hả rảo bước.
Last edited by khieulong on Wed Jun 13, 2007 3:54 pm, edited 2 times in total.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Đoạn Hai

Chân Dung Người Lính
Những lớp kẽm gai phòng thủ đơn vị đã được kéo lại, anh lính gác nhận ra tôi, vội chạy ra mở cổng. Vẫn như thường ngày, mở cổng xong anh đứng trong tư thế nghiêm bồng súng chào cho đến khi xe tôi đi khuất. Quân nhân các cấp đang lũ lượt tiến ra sân tập họp, tôi nhập chung vào đoàn người ấy.

Khi hàng ngũ chỉnh tề, Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng từ trong văn phòng bước ra, ông đứng nghiêm chào hàng quân xong, với một giọng chân thành, ông nói như tâm tình với mọi người:

- Tất cả các anh em đều hay biết, Tổng Thống Dương Văn Minh đã tuyên bố buông súng. Khi nghe tin này tôi hết sức đau lòng. Chúng ta phải làm gì đây trước quyết định nhục nhã này? Đó là một câu hỏi lớn hiện đang ở trong đầu tôi và các anh em. Là người lính chiến, chúng ta đều biết, tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh thượng cấp chính là sức mạnh của quân đội. Cho nên, khi nghe lời tuyên bố của Tổng Thống xong, tôi đã liên lạc ngay với Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn để nhận lệnh. Tuân hành khẩu lệnh của Chuẩn Tướng Tư Lệnh Mạch Văn Trường, kể từ giờ phút này tôi đặt Tiểu Đoàn dưới quyền điều động trực tiếp của Tiểu Khu Trưởng. Hiện giờ Đại tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Ngọc Điệp đang lo triệu tập bộ tham mưu họp bàn phương cách đối phó. Tôi khuyên các anh em hãy giữ bình tĩnh và luôn tuân hành đúng mọi chỉ thị. Cho dù còn được tiếp tục chiến đấu hay phải buông súng. Chúng ta cũng phải luôn ở trong tư thế bảo vệ danh dự quân đội và chu toàn trách nhiệm một người lính. Không nên tỏ thái độ hoảng hốt làm cho dân sợ. Riêng phần tôi, sống hay chết, cũng luôn ở bên anh em.

Rời hàng quân tôi thầm nghĩ: lệnh buông súng đã ban ra rồi thì mọi sự kháng cự diễn ra sau đó chỉ là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng. Nhưng cho dù bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến, tôi nhất quyết luôn ở bên ông Đơn Vị Trưởng và đồng đội tôi. Tuy đã xác quyết với lòng như vậy, nhưng lúc thả mình xuống chiếc bàn làm việc thường ngày, đầu óc tôi vẫn rối tựa tơ vò. Càng buồn nản hơn khi phải nghe đi nghe lại lời Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng, lời Tướng Minh mời Cộng Sản vào bàn giao chính quyền, phát ra từ chiếc radio đặt trên bàn Thượng sĩ Thanh. Tôi ngẩng đầu lên gắt:

- Tắt cái radio đi, để nó lải nhải mãi làm gì!

Tiếng radio tắt hẳn, tôi lại ngồi thừ người ra đó. Chợt tiếng chuông điện thoại trên bàn reo vang, nhấc máy lên, đầu dây bên kia tiếng vợ tôi hối hả âu lo:

- Alô! Anh đó hả, anh có hay tin Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng chưa? Em mới từ Ngân Hàng chạy vội vừa về đến nhà nè, anh có sao không? Có về nhà ăn cơm trưa nay không?

- Anh không sao, trưa nay anh ăn cơm trong đơn vị.

- Vậy chừng nào anh về?

- Anh cũng không biết nữa, em đừng lo, có chuyện gì anh gọi cho em hay ngay.

*

Sau bữa cơm trưa ăn vội vã cho qua bữa, Thiếu tá Thanh rời Tiểu Đoàn qua Tiểu Khu họp. Thời gian chờ đợi quyết định chiến hay hàng của vị Tiểu Khu Trưởng, tôi thấy nó dài lê thê làm sao ấy. Hơn hai giờ chiều Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng trở về đơn vị với gương mặt buồn thảm. Xuống khỏi xe, ông đưa mắt nhìn nhóm sĩ quan đang đứng đợi ông trước phòng Trực, rồi quay đầu lặng lẽ bước đi. Chẳng ai bảo ai, sĩ quan các cấp đồng loạt bước theo sau ông tiến vào văn phòng. Vừa ngồi xuống ghế, Đại úy Chinh lên tiếng hỏi ngay:

- Có lệnh gì mới chưa thưa Thiếu tá?

- Đại tá Tỉnh Trưởng quyết định bàn giao rồi. Thế là hết!

Đại úy Chinh bực tức chửi thề:

- Đm, thật không còn cái nhục nào bằng cái nhục này!

Ngoài câu phát biểu ấy ra, mọi người chẳng ai nói với nhau lời nào. Tôi ngồi bất động như sợ mọi sự di chuyển thân người sẽ làm đau đớn thêm vết thương nước mất nhà tan. Một lát sau Thiếu tá Thanh ngẩng đầu lên nói:

- Thôi, anh Chinh ra cho đánh kẻng tập họp đơn vị để tôi báo tin cho anh em biết.

Khi lệnh bàn giao chính quyền truyền ra, nhiều anh em ôm mặt khóc nức nở. Họ bảo sao còn đầy đủ súng đạn lại phải đầu hàng? Chẳng còn lời nào để diễn tả, để an ủi cho nhau vì mọi người nếu không khóc ngoài mặt cũng đang khóc trong lòng. Binh Nhất Hoàng, trong nghẹn ngào kể lể với tôi:

- Nhục quá Trung úy ơi, buổi trưa về nhà ăn cơm, gặp mặt mấy đứa con gái trong xóm, nó bảo em: "cởi bộ đồ lính ra đi, tổng thống hàng rồi, tụi em cho mấy bộ đồ đen mà mặc". Biết tụi nó nói chơi, chớ dân mình mấy ai ưa Cộng Sản. Giờ mà được lệnh đánh, dù có chết em cũng đánh tới cùng.

Ai cũng đau khổ cho phận nước, cũng buồn cho phận mình. Thiếu tá Thanh vẫn một mình trong văn phòng. Tôi bước vào, ngồi xuống ghế mà chẳng biết nói lời gì. Trong văn phòng ông hôm nay, mọi vật đều buồn thảm như cùng mang một cái tang chung. Nhìn lên khuôn hình treo bằng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương trên vách, tôi buột miệng nói:

- Sao Thiếu tá không gỡ cất cái Bảo Quốc đi, để nó đấy, chỉ gây thêm phiền phức cho Thiếu tá thôi.

Không hiểu người Đơn Vị Trưởng có nghe tôi nói gì hay không, ông vẫn ngồi bất động. Một lúc sau ông ngước mắt lên nhìn tấm Huân Chương chép miệng thở dài:

- Cả một đời binh nghiệp, tôi mới có nó.

Ông chỉ nói thế rồi lặng im, không đả động gì đến lời tôi đề nghị. Tôi lại hỏi ông:

- Thiếu tá thấy Việt Cộng đã vào trong tỉnh chưa?

- Chưa có ai cả.

Tôi lí nhí trong miệng:

- Xin phép Thiếu tá cho tôi về qua nhà một lát.

Ông khẽ gật đầu.

*

Mấy tiếng đồng hồ sau khi lệnh đầu hàng của Tướng Minh ban ra, con đường chính dẫn vào tỉnh Bạc Liêu vắng vẻ đến lạnh người. Hai bên nhà cửa đều khép kín, lâu lâu mới thấy một cánh hé mở, để lộ ra những khuôn mặt sợ hãi, lấm lét dò xét sự thay đổi bên ngoài. Tôi muốn nhìn rõ bộ mặt phố phường mà đơn vị tôi dày công bảo vệ một lần cuối. Tôi cho xe chạy một vòng quanh phố trước khi về nhà. Ngang qua Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tôi thấy chiếc cổng ra vào thường ngày luôn khép kín, giờ đã mở toang. Chẳng còn một binh sĩ nào ngồi trên các vọng gác. Phố xá Bạc Liêu như lịm chết, tĩnh mịch, hoang vắng. Không một hàng quán nào còn mở cửa, không một sự mua bán nào được đổi trao. Tôi chợt nhận ra mình đang lái xe chậm rãi như đi ngắm cảnh. Dường như tôi lo sợ tiếng máy nổ lớn sẽ gây kinh hoàng cho mọi người.

Về đến nhà, chưa kịp tắt máy xe, vợ tôi đã bước vội ra cửa ôm chầm lấy tôi. Sau khi nghe tôi kể tình hình trong đơn vị xong, với cái nhìn vô tư vợ tôi nói:

- Em sợ chiến tranh quá rồi, hết đánh nhau, em không còn lo anh bị chết vì súng đạn nữa, em có phải đi làm nuôi anh cũng được.

Tôi quả không ngờ vợ tôi lại nói như vậy, nhưng chắc đó cũng là lối suy nghĩ của hầu hết người dân Miền Nam chân chất, chưa từng có kinh nghiệm sống với người Cộng Sản. Tôi phải nói gì với vợ tôi đây? Tôi không dám nghĩ dông dài, cứ để những lời từ trong đáy lòng tôi tự nhiên phát ra:

- Em đừng mừng vội, kể từ hôm nay, chắc anh không còn lo gì cho em được nữa đâu. Họ đối xử với anh ra sao, anh cũng không đoán nổi. Anh chỉ biết: mình khó có thể yên thân sống dưới chế độ của họ được!

Như không mấy tin tưởng vào lời tôi nói, nhà tôi trách:

- Anh nói gì mà nghe ghê quá vậy.

- Anh mong đừng ghê như vậy, nhưng em cũng phải sửa soạn để từ đây tự lo liệu mọi việc một mình. Anh tạt về nhà chốc lát cho em an tâm, giờ anh phải trở vào đơn vị.

- Ăn chút cơm rồi hãy đi anh, lúc ông Minh tuyên bố đầu hàng, em chạy ra chợ quơ đại vài thứ cần thiết, sợ ngày mai không có họp chợ. Người buôn kẻ bán đều sợ hãi, lo thu dọn để mau về nhà.

Tôi đâu còn bụng dạ nào để ăn với uống, nên vội khước từ:

- Thôi, anh ăn trong Tiểu Đoàn rồi, anh phải đi ngay bây giờ.

Tôi đứng lên lấy chiếc nón sắt đội lên đầu bước vội ra cửa, vợ tôi hỏi với theo:

- Tối nay anh có về không?

- Tối nay anh ngủ trong đơn vị.
- Anh cứ lái thật bình tĩnh, chỉ ngừng lại khi có lịnh tôi. Đứa nào hung hăng chặn đường, cứ cán bỏ.

Xe chạy được một lát, tài xế bị buộc phải giảm tốc độ vì mấy chiếc xe GMC chở đầy “cựu” tù binh Cộng Sản chạy cản đường phía trước. Rõ thật khôi hài. Ngày 25-4-1975, Tiểu Khu Bạc Liêu mở cuộc hành quân truy lùng và đánh thắng một trận lớn, hạ hàng trăm Việt Cộng tại trận, bắt sống gần năm mươi tên. Những tên Cộng Sản bị bắt, được xe chở quanh phố cho đồng bào xem mặt. Hôm đó, có bầy con nít chạy theo xe chỉ trỏ, hò hét “Đả đảo Cộng Sản”. Hôm nay, chắc cũng toán Việt Cộng ấy lại được chở đi cho bầy con nít chạy theo nhảy múa, hô to khẩu hiệu “Hoan hô Giải Phóng” theo đúng giọng điệu mấy tên ngồi trên xe.

Sự hiện diện của chiếc quân xa chở theo năm người súng đạn cầm trên tay, quân phục chỉnh tề, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, đã là cái gai trước mắt của các cán binh Cộng Sản. Họ la ó, hầm hừ như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi. Đưa được chiếc xe “đi đến nơi về đến chốn”, người chiếm công đầu chính là Hạ sĩ I Tân tài xế.

Tân vốn người hiền lành chất phác, luôn vui vẻ cùng đồng đội, tận tụy với công việc được trao phó. Hôm nay trước tình thế “dầu sôi lửa bỏng”, tôi mới nhận ra sự bình tĩnh, gan dạ ẩn dấu trong con người Tân. Nhìn gương mặt cương nghị, đôi môi mím chặt, đôi mắt khi nhìn thẳng; lúc liếc dọc liếc ngang đều như muốn chọc thủng mọi vật cản trước đầu xe. Tân gồng đôi bàn tay nắm thật chặt vô lăng, giữ cho chiếc xe không bị chao đảo. Đó là một trong những hình ảnh sống động trong tôi mỗi khi nhớ về biến cố 30-4 của cuộc đời mình. Xe về đến đơn vị, tôi cảm thấy như mình vừa vượt qua được bầu không khí đông đặc đến lạnh người.

*

Trở về nơi làm việc, đầu tôi rối tựa tơ vò. Nhìn lên tấm bảng trưng bày các công tác Chiến Tranh Chính Trị, những ảnh chụp cảnh sinh hoạt vẫn còn nằm nguyên đấy. Tôi tiến đến xé nát từng tấm một, như xóa đi dấu tích in đậm nét các việc tôi làm. Lòng tôi tan nát theo từng mảnh giấy. Nhìn sang chiếc bàn bên cạnh, thấy Mẫn đang xếp lại bộ quần áo dân sự, tôi lên tiếng hỏi:

- Anh mang đồ sơ vin vào đây làm gì vậy?

- Mặc quân phục ra đường lúc này ớn quá, tôi mang bộ đồ này vào để thay mỗi khi về nhà ăn cơm.

Nhớ đến mấy tủ hồ sơ, tôi nhắc điện thoại gọi qua Sư Đoàn, Hạ sĩ Hòa tổng đài viên báo cho tôi biết ngay:

- Phòng An Ninh chẳng còn ai nữa đâu Trung úy ơi!

Tôi chán nản buông ống nghe xuống, quay sang hỏi Thượng sĩ Mẫn:

- Tôi dặn anh lo vụ hồ sơ An Ninh từ ban sáng, anh lo xong chưa?

- Tôi gọi qua phòng An Ninh nhiều lần, nhưng chẳng gặp một ai, hay Trung úy lên trình Thiếu tá xem sao?

Tôi gật đầu:

- Được, để tôi lên hỏi ông.

Bên ngoài trời đã nhá nhem tối, nhìn vào bên trong văn phòng, Thiếu tá Thanh ngồi bất động như một bóng ma. Vào đến nơi, tôi lên tiếng:

- Sao Thiếu tá không bật đèn lên?

- Tôi không cần ánh sáng!

Tôi ngồi xuống ghế rồi hỏi tiếp:

- Thưa Thiếu tá, tôi cố liên lạc với phòng An Ninh, hỏi họ về việc thiêu hủy hồ sơ. Bên phòng chẳng còn một ai. Tôi trình sự việc này lên để Thiếu tá quyết định.

Ngẫm nghĩ một lát, ông chán nản thốt lên:

- Bây giờ không cần lệnh lạc gì nữa. Thiêu hủy hay không là tùy nơi anh.

Nếu được toàn quyền, tôi đã thiêu hủy ngay từ ban sáng, nhưng đến bây giờ vẫn chưa muộn. Nhớ lại cảnh ngồi trên xe chạy qua phố hồi chiều, nghĩ tới bộ quần áo sơ vin trên tay Mẫn, tôi lại hỏi:

- Thưa Thiếu tá, khi họ vào đây, mình sẽ mặc quân phục hay thường phục?

Ông nghiêm ngay nét mặt, quắc mắt lên, nhìn thẳng tôi, nói như mắng:

- Anh còn tư cách của một người quân nhân hay không?

Tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình. Từ ngày làm việc với Thiếu tá Thanh đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi bị ông mắng và tỏ vẻ phiền trách. Tôi không chút giận hờn mà càng kính phục ông thêm. Trước lúc trở về ban mình, tôi lý nhí trong miệng:

- Tôi xin lỗi đã hỏi Thiếu tá câu vừa rồi.

Về đến bàn làm việc, trời tối hẳn, tôi bảo Thượng sĩ Mẫn, hãy tìm cách thiêu hủy hồ sơ. Ít phút sau, Mẫn cùng vài ba anh em binh sĩ khệ nệ khiêng về phân nửa cái phi cũ đặt nơi phía sân sau, rồi phụ giúp tôi lôi hết giấy tờ ra châm lửa đốt. Tôi đốt sạch hai tủ hồ sơ, không để lại một mảnh giấy lộn.

*

Từ hướng Quốc Lộ 4 dẫn xuống Cà Mau, ánh đèn xe di chuyển liên tục làm sáng cả một góc trời. Các đoàn xe ấy đang chở Việt Cộng và một số nông dân tiến vào thành phố. Lòng tôi se lại mỗi lúc tiếng reo hò rót vào tai. Một vài tiếng chửi thề bực tức vang lên đâu đó, tôi không hiểu đồng đội tôi chửi đổng hay chửi chính bản thân mình? Hoặc chửi mấy tên Cộng Sản một sớm một chiều bỗng trở thành kẻ chiến thắng.

Tôi buông màn nằm xuống giường nhưng không tài nào chợp mắt. Từng cơn gió thoảng đưa hơi nóng từ đống tro tàn hồ sơ còn âm ỉ, làm căn buồng oi bức thêm. Tôi định nhắc điện thoại lên gọi nói chuyện với nhà tôi, nhưng lại chẳng nghĩ ra lời nào cần nói trong giờ phút này. Ngày mai khi người Cộng Sản vào đây, họ sẽ đối xử với anh em chúng tôi ra sao? Tôi lúc mê lúc tỉnh chập chờn như người mang tâm bệnh.

Bỗng tôi vùng dậy thật nhanh khi nghe nhiều tiếng ồn ào như có cuộc đánh nhau phía ngoài cổng. Lúc tôi chạy đến nơi thì cũng vừa lúc Thiếu úy Minh sĩ quan trực đêm ra tới. Mấy chục anh em binh sĩ đứng vây quanh Hạ sĩ Trung, còn Trung vừa nói vừa múa tay múa chân như người đang giảng giải một thế quyền. Thấy tôi, Trung tiến đến đứng trước mặt, hít một hơi dài rồi kể lại từ đầu câu chuyện:

- Hàng chục tên Việt Cộng mới nhào vô đơn vị mình Trung úy ơi. Lúc đó chỉ có em và ba đứa nữa đứng gác trước cổng, nên mới bị tụi nói giựt mất một khẩu M16 và một khẩu M79. Nếu không tuân lệnh Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng, em đã nổ súng hạ ngay mấy tên đó rồi. Trong lúc giằng co, em dùng báng súng dộng một thằng bể đầu. Khi anh em mình ra tới, tụi nó hăm dọa sẽ quay trở lại trả thù rồi khiêng thằng bị thương chạy mất.

Nghe xong tôi liền khuyên can:

- Các anh em phải thật bình tĩnh, tôi và Thiếu úy Minh sẽ thảo luận phương cách đối phó với họ.

Tôi và Minh vừa bước vào phòng sĩ quan Trực, chưa kịp nói với nhau lời nào, thì tiếng huyên náo lại vang lên trước cổng. Trung sĩ I Có, hạ sĩ quan Trực bước đến trước mặt tôi và Minh báo cáo:

- Trình Trung úy và Thiếu úy, có một toán Việt Cộng trang bị súng ống đầy đủ đang đứng trước cổng, đòi cho vào gặp Đơn Vị Trưởng.

Tôi quay sang Minh:

- Tôi và anh ra ngoài ấy xem sao.

Tuy ngoài miệng tôi ăn nói mạnh bạo quyết liệt, thực ra tôi chẳng thấy an tâm chút nào vì sắp phải đối đầu với mấy tên Việt Cộng. Chính sự gan lỳ của Hạ sĩ Trung và các anh em binh sĩ giúp tôi lấy lại bình tĩnh mạnh dạn bước đi. Ra đến cổng, nhìn qua bên kia vòng rào kẽm gai, tôi đếm được khoảng mươi tên Cộng quân, kẻ đứng kẻ ngồi chồm hổm, áo quần lôi thôi lếch thếch, mang đủ các loại súng ống, nào B40, M16, AK...Thấy tôi và Minh ra tới, một người đeo khẩu K54 xệ dưới thắt lưng, tiến đến trước mặt tôi hống hách phân trần về sự việc vừa mới xảy ra. Anh buộc chúng tôi phải giao nạp ngay người đã đánh lính anh ta bị thương. Tôi chưa biết phải giải quyết cách nào, nhìn sang Minh hỏi ý kiến, Minh khẽ lắc đầu. Ngẫm nghĩ một lát, tôi lên tiếng:

- Anh đứng đây chờ, tôi đi trình sự việc này lên cho Đơn Vị Trưởng tôi biết.

Nói đến đấy, tôi ngừng lại, nhìn thẳng vào mặt viên chỉ huy, cố gằn giọng nói:

- Trong lúc tôi đi, anh phải ra lệnh cho binh sĩ thuộc quyền không được gây bạo động. Báo cho anh biết, đơn vị chúng tôi rất đông, tôi không muốn có một sự việc đáng tiếc nào xảy ra thêm nữa.

Tên chỉ huy nghểnh mặt đáp:

- Được! Nhất trí với anh.

Tôi và Minh quay vào phòng sĩ quan Trực. Vừa đi Minh vừa hỏi:

- Giờ Trung úy tính sao?

- Thiệt tình tôi chẳng biết giải quyết bằng cách nào, chỉ còn nước trình cho Thiếu Tá hay.

Ngẫm nghĩ thêm một lát tôi bảo Minh:

- Nghe tôi nói cứng, chắc mấy tên này không dám động tĩnh gì đâu, tôi chỉ sợ mấy anh em mình thấy tụi nó đứng lố nhố gai mắt rồi khảy đại vài viên thì mệt đó.

Minh nhanh nhẩu đề nghị:

- Vậy để tôi ra ngoài cổng ngồi chung với anh em trong lúc Trung úy đi trình sự việc lên Thiếu tá.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Chân Dung Người Lính

(tiếp theo)
Tôi bước vội về hướng căn nhà nằm cuối dãy, nơi Thiếu tá Thanh đang ở. Nhìn đèn trong nhà vẫn còn sáng, tôi đưa tay gõ lên cánh cửa. Tiếng ông Đơn Vị Trưởng từ bên trong hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Thưa tôi Hưởng đây Thiếu tá.

Cánh cửa rộng mở, Thiếu tá Thanh hiện ra nhìn tôi lên tiếng:

- Có việc gì không Hưởng?

Nghe tôi nói năng lắp bắp, ông chỉ chiếc ghế mời tôi ngồi, ôn tồn nói:

- Anh ngồi nghỉ một lát lấy lại bình tĩnh rồi kể rõ sự việc cho tôi nghe.

Ngả lưng xuống ghế, tôi móc túi lấy thuốc ra châm. Hít được vài hơi, cảm thấy trong người tỉnh táo trở lại, tôi nhanh chóng tường thuật mọi diễn biến vừa xảy ra. Thiếu tá Thanh chau mày nghĩ ngợi, một lát sau ông bảo:

- Anh trở ra cho họ vào đợi tôi trước phòng Trực.

Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên chào, rồi lui bước.

Gặp lại tôi, Minh âu lo hỏi nhanh:

- Thiếu tá tính sao vậy Trung úy?

- Thiếu tá bảo, đưa họ vào phòng Trực đợi ông ra giải quyết.

Tôi đến bên hàng rào kẽm gai. Toán Việt Cộng vẫn đứng ngồi nguyên đấy. Tôi nói với viên chỉ huy, nhân tiện cảnh báo luôn toán lính của hắn:

- Trước khi cho anh vào gặp ông Đơn Vị Trưởng. Tôi yêu cầu anh ra lệnh cho binh sĩ thuộc quyền phải giữ gìn kỷ luật, không được đi lại lung tung. Nếu hai bên xảy ra xô xát, sẽ rất nguy hiểm cho các anh.

Viên chỉ huy lập lại câu nói ban nãy:

- Tôi nhất trí với anh.

Tôi ra dấu bảo người lính gác ra mở cổng, cả toán Việt Cộng lầm lũi bước theo sau tôi tiến vào bên trong doanh trại. Đến trước phòng Trực, tôi quay lại bảo họ:

- Mấy anh đứng đây chờ tôi đi mời ông Tiểu Đoàn Trưởng.

Lính tráng trong đơn vị kéo ra mỗi lúc mỗi đông thêm. Hai bên lườm nhau chằm chằm, như muốn ăn tươi nuốt sống nhau. Tôi đến bên Thiếu úy Minh nói vừa đủ nghe:

- Trong lúc tôi đi mời Thiếu Tá, anh ra đứng cạnh tên chỉ huy, để phòng khi có anh em nào nóng nảy làm bậy mình còn trở tay kịp.

Minh gật đầu, tôi rảo bước. Cánh cửa nhà Thiếu tá Thanh vẫn mở. Thấy Tôi vào đến, ông lên tiếng hỏi ngay:

- Đưa họ vào chưa?

- Thưa Thiếu tá, tụi nó đang đứng chờ bên ngoài phòng Trực.

- Đúng năm phút sau tôi ra tới.

Trở lại phòng Trực, tôi báo cho mọi người biết để sửa soạn đón tiếp ông. Khi Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng vào đến phòng Trực, tôi dõng dạc hô lớn:

- Vào hàng! Phất!

Mọi người đồng loạt đứng lên, nghiêm chỉnh giơ tay chào. Thiếu tá Thanh chào lại rồi kéo ghế ngồi vào bàn sĩ quan Trực. Toán Việt Cộng đứng bên ngoài ngơ ngác, tỏ vẻ sợ sệt vì không hiểu chúng tôi đang làm trò gì. Chào kính xong, tôi ra dấu bằng mắt để Minh đưa tên chỉ huy vào. Anh ta tiến đến đứng đối diện tôi, dáng dấp không còn hùng hổ như lúc đứng bên ngoài hàng rào. Thiếu tá Thanh ngẩng mặt lên, nghiêm nghị nói:

- Tôi Thiếu tá Lương Duy Thanh chỉ huy đơn vị này, anh cho tôi biết anh là ai?

- Tui là Năm Tất Trung Đội Trưởng.

- Anh muốn gặp tôi để làm gì?

Năm Tất lập lại tất cả những điều đã nói với tôi. Dù đã biết rõ mọi sự việc, Thiếu tá Thanh vẫn lắng tai nghe từng lời tường thuật. Năm Tất dứt lời, ông nhìn thẳng vào mặt anh ta, bằng một giọng ôn tồn nhưng đanh thép ông nói:

- Tôi lấy làm tiếc cho sự việc vừa xảy ra. Anh có điều tra rõ nguyên nhân không? Anh có biết lính anh đã ngang nhiên vào đây cướp giựt súng đơn vị tôi không? Tôi cho anh biết trong tỉnh Bạc Liêu lúc này có nhiều tên côn đồ xuất hiện. Làm sao binh sĩ tôi phân biệt được người đến giựt súng là côn đồ hay Cách Mạng? Rất may, binh sĩ tôi biết tuân hành kỷ luật, nếu không đã có nổ súng, thì sự việc còn đáng tiếc biết là chừng nào. Chúng tôi đã tuân lệnh bàn giao của thượng cấp. Ngày mai, sau khi bàn giao đơn vị xong, tất cả súng ống ở đây đều thuộc về các anh. Việc gì các anh phải đi cướp giựt. Thuộc cấp tôi báo cho tôi biết, các anh giựt của chúng tôi một khẩu M79 và một khẩu M16. Anh có biết chuyện này không?

Năm Tất ấp úng đáp:

- Có.

- Vậy anh phải ký giấy nhận là lính anh đã vào cướp của đơn vị tôi mấy cây súng đó, để ngày mai khi bàn giao, người phía các anh không gây khó khăn cho chúng tôi. Anh biết cách làm việc chứ?

Nói xong ông xé một mảnh giấy trong quyển sổ trực trao cho hắn. Năm Tất lom khom cúi xuống bàn viết tờ biên nhận. Khi trao tờ giấy lại cho Thiếu tá Thanh xong y lại đòi hỏi:

- Giờ tôi yêu cầu anh giao nạp ngay người đã đánh chiến sĩ tôi bị thương.

Nhìn thẳng vào mặt năm Tất, Thiếu tá Thanh gằn giọng:

- Anh đã ký nhận là lính anh vào đây giựt hai khẩu súng. Như vậy người giựt súng có tội hay người giữ súng có tội? Đã gọi là “chiến sĩ” thì phải biết kỷ cương chứ!

Năm Tất ú ớ không trả lời được, cứ đứng nguyên một chỗ. Thấy vậy, Thiếu tá Thanh mỉm cười rồi nhỏ nhẹ gỡ rối cho hắn:

- Tôi biết...anh nóng lòng vì người bên anh bị thương, nhưng nay anh hiểu rõ mọi chuyện rồi, tôi tin sẽ không còn việc gì rắc rối nữa. Tôi phải về lo xếp đặt mọi thứ để ngày mai bàn giao cho phía các anh, cám ơn anh nhiều.

Quay sang tôi, Thiếu tá Thanh bảo:

- Trung úy, tiễn anh Năm Tất giùm tôi.

Nói xong ông đứng lên, bước nhanh ra cửa. Năm Tất biết chẳng làm gì hơn được, hắn quay ra ngoài, ngoắc tay gọi đám lính theo y rời khỏi doanh trại.

Năm Tất ra đi tuy không đem ra được người anh ta đòi hỏi, ngược lại hắn đã nhìn rõ chân tướng người lính Việt Nam Cộng Hòa trong uy thế của một quân lực chính quy.

Tuy bị buộc buông súng, nhưng không chịu khiếp nhược trước kẻ thù. Không biết anh em trong đơn vị nghĩ gì về sự việc ấy? Riêng tôi thì thở phào nhẹ nhõm vì vừa trút bỏ được mọi sự âu lo trước một vấn đề quá khó khăn. Tôi cũng vừa học được bài học quý giá về sự bình tĩnh trước sự đòi hỏi phi lý của kẻ tự coi mình chiến thắng.

Thế mới biết: không chỉ vâng phục theo mọi mệnh lệnh của người Cộng Sản là được an thân. Mình tiến thì nó lùi, không dám đặng đằng chân, lân đằng đầu đối với mình.

Sau này gặp lại Năm Tất trong trại tù, ngụy trang dưới mỹ danh học tập cải tạo. Nhận ra tôi, anh đến gần nói vài câu xã giao xong, anh nhắc lại chuyện cũ rồi thổ lộ:

- Tôi rất cảm phục ông Đơn Vị Trưởng của anh, mọi người bên “ngụy” mà đều như anh ta thì sự việc đã đổi khác rồi.

Tôi cũng bảo anh ta:

- Bây giờ ông Đơn Vị Trưởng tôi đang là “chiến lợi phẩm” của Cách Mạng rồi đó!

Suốt đêm hôm ấy, không riêng gì tôi mà hầu như mọi anh em trong đơn vị đều thức trắng, chia sẻ với nhau nỗi đớn đau từ khi có lệnh buông súng, nỗi ưu tư về một tương lai u tối. Ngoài chuyện Việt Cộng vào giựt súng, không còn sự việc gì đáng ghi nhớ xảy ra.

Đoạn Ba

Danh Dự - Trách Nhiệm

Tôi bước ra khỏi giường ngủ lúc trời tờ mờ sáng, trên người vẫn còn nguyên bộ quân phục mặc từ hôm qua. Tờ lịch 30-4 vẫn còn đó. Đối với mọi người một ngày mới đã bước sang. Còn riêng quân nhân Tiểu Đoàn 21 Truyền Tin, ngày đau thương nhất nước, ngày đau thương nhất đời vẫn còn đang tiếp diễn.

Đồng hồ trên tay tôi chỉ đúng 6 giờ sáng, tức giờ thứ 30 của biến cố 30-4 trong tôi. Nghĩ đến người Đơn Vị Trưởng đáng kính, tôi quyết định thay bộ quân phục mới. Dù bị buộc phải làm kẻ chiến bại, nhưng hình hài tôi không thể nhầu nát trước mặt đối phương.

Thay xong bộ quân phục ủi hồ thẳng nếp, như một phản ứng tự nhiên, tôi bước thẳng xuống Câu lạc bộ tìm ly cà phê buổi sáng. Vừa đi tôi vừa nghĩ, chẳng biết hôm nay Câu lạc bộ có mở cửa không? Tôi có ngay câu trả lời, bởi mũi tôi vừa ngửi được mùi cà phê mới pha thơm phức.

Bước vào bên trong Câu lạc bộ, chẳng còn chiếc ghế nào trống. Thấy tôi đưa mắt nhìn quanh tìm chỗ ngồi, một binh sĩ đứng lên nhường cho tôi chiếc ghế, tôi kéo lại ngồi bên cạnh Đại úy Trần Duy Chinh. Đại úy Chinh, là sĩ quan ở Tiểu Đoàn lâu nhất, tuổi đời và tuổi lính ông đều hơn nhóm sĩ quan trẻ chúng tôi. Nhưng khi nói chuyện với đàn em, không khi nào ông xưng hô mày tao chi tớ.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Đoạn Ba

Danh Dự - Trách Nhiệm
Đại úy Chinh nói năng nhỏ nhẹ, miệng luôn tươi cười như một thư sinh yêu đời. Sáng nay nét vui tươi bình thường trên gương mặt ông biến mất hẳn. Tôi hỏi thăm ông:

- Đêm qua Đại úy ngủ được không?

Ông lắc đầu chán nản nói như lời trần tình:

- Ông thấy không, từ lúc mất Ban Mê Thuột đến giờ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như bị trói tay, có được đánh đấm gì đâu, chỉ toàn di tản, bỏ dân, bỏ đất cho Cộng Sản. Cho đến giờ phút này, từ Sàigòn xuống đến tận Cà Mau, lực lượng mình vẫn còn nguyên vẹn, nhưng bị buộc phải buông súng, tôi thấy đau lòng quá.

Tôi buồn bã tiếp lời:

- Tôi nghĩ, mất Miền Nam là bởi sự phản bội của đồng minh, bởi thiếu cấp lãnh đạo có khả năng, chớ không phải vì người lính Miền Nam yếu hèn hơn người lính phương Bắc. Tướng Dương Văn Minh là Tổng Tư Lệnh Tối Cao đã ra lệnh buông súng. Chúng ta, những người lính được huấn luyện chỉ biết làm người thi hành mệnh lệnh thượng cấp, thì còn làm được gì để xoay ngược tình thế? Đại úy thấy không, mọi lời bàn tán, mọi điều suy tư trong lúc này đều lâm vào bế tắc. Vì chúng ta không được quyền chiến đấu, thì đương nhiên không thể bảo rằng Quân Lực này chiến bại được.

Mọi lời nói, mọi lối nghĩ suy chỉ để thoát bớt niềm đau đớn cho chính mình và cho đồng đội, chớ ai cũng đều biết: thể chế và quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị cáo chung.

Sáng hôm nay Câu lạc bộ có gì đãi nấy, chẳng còn bán buôn gì trong giờ phút này nữa. Trung sĩ I Mạch Văn Hồng người trực tiếp trông nom câu lạc bộ, chỉ muốn chu toàn nhiệm vụ đến giờ phút cuối cùng, cho nên vẫn mở cửa như thường lệ đãi đằng anh em. Mang ly cà phê nóng đến cho tôi, Hồng bảo:

- Hôm nay còn cái gì tôi đem ra mời anh em. Ăn uống không hết, tôi đổ bỏ, chỉ để lại cho bọn quỷ đỏ cái nhà Câu lạc bộ trống không này thôi.

Lúc tôi rời Câu lạc bộ, Hạ sĩ Vinh bước vào. Vinh giơ tay chào tôi. Nhìn lên, thấy đầu Vinh không còn một sợi tóc, tôi ngạc nhiên hỏi:

- Sao em cạo đầu vậy Vinh?

Vinh bùi ngùi:

- Em cạo đầu để tang cho Tổ Quốc!

Vinh là một quân nhân ngang bướng nhất trong đơn vị. Chỉ mỗi mái tóc thôi, tôi phải phạt lên phạt xuống, bắt cắt đi cắt lại ba bốn lần, nhưng tóc anh vẫn dài. Vậy mà hôm nay Vinh lại tự tay cạo đi mái tóc. Nhìn cái đầu trọc với gương mặt buồn xo, tôi thấy thương Vinh vô hạn.

Lời nói cùng việc làm của Hồng và Vinh biểu tỏ cho tôi thấy đôi chút tâm tình của người lính Miền Nam trước lúc chịu bức tử. Một vài hành động, một vài cử chỉ tuy rất nhỏ nhặt đơn sơ nhưng giúp họ toát bớt được một phần nào nỗi ấm ức chất chứa trong lòng.

*

Đúng vào giờ thứ 32 ngày 30-4-1975, tức 8 giờ sáng 1-5 nếu tính theo giờ đồng hồ, kẻng tập họp trỗi lên như thường lệ. Mọi người tiến nhanh ra sân cờ. Trong mắt tôi hàng quân hôm nay đông đủ hơn, kỷ luật hơn mọi ngày. Thượng sĩ Thường Vụ điểm danh xong, báo cáo quân số lên Đại Đội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ. Đại úy Chinh rời hàng quân bước vào văn phòng trình diện Tiểu Đoàn Trưởng. Khi Thiếu tá Thanh và Đại úy Chinh tiến ra sân cờ, Thiếu úy Minh sĩ quan Trực dõng dạc hô lớn:

- Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng đến. Nghiêm! Chào tay! Chào!

Bàn tay mọi người đồng loạt giơ lên đặt ngang vành nón sắt. Thiếu tá Thanh dừng bước, ông đứng trong tư thế nghiêm chào hàng quân. Minh dõng dạc tiếp tục điều khiển buổi lễ:

- Phất! Thao diễn nghỉ!

Thủ tục chào kính xong. Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng đưa mắt nhìn khắp hàng quân, ông hít một hơi thật mạnh, với giọng đầy xúc động, ông chậm rãi nói như mở lòng mình ra cùng thuộc cấp:

- Thưa tất cả anh em. Cho đến giờ phút này chúng ta vẫn còn là người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta vẫn có thể hiên ngang kéo lá Quốc Kỳ lên. Nhưng người Cộng Sản đã vào đến thành phố, những người thân yêu của chúng ta và toàn dân Miền Nam đã lọt vào tay họ. Trước lúc bước ra đây, tôi tự hỏi lòng: có nên kéo lá cờ lên cho ngạo nghễ tung bay thêm vài giờ, rồi để người Cộng Sản lôi nó xuống chà đạp sau khi họ vào tiếp thu đơn vị không? Hay mỗi người chúng ta tự cất giữ, bảo vệ lá Quốc Kỳ trong lòng mình? Nghĩ vậy nên tôi quyết định, buổi chào cờ hôm nay không có lá Quốc Kỳ. Chúng ta hãy xem lá Quốc Kỳ thân yêu mà chúng ta và biết bao người đổ máu bảo vệ nó, đã được kéo xuống từ lúc vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Nhưng tôi tin, lá Quốc Kỳ sẽ tồn tại mãi trong lòng tôi, trong lòng các anh em và trong lòng người dân Miền Nam chiến đấu cho lý tưởng Tự Do.

Thiếu tá Thanh ngừng lại giây lát, thêm một lần nữa ông đưa mắt nhìn khắp hàng quân. Mọi người đều đứng im cúi mặt lắng nghe. Ông nói tiếp:

- Tất cả chúng ta hãy đồng một lòng ngước mắt nhìn lên cột cờ, tưởng như lá cờ vàng ba sọc đỏ đang tung bay phất phới. Chúng ta vẫn có thể đồng hát bản Quốc Ca, nhưng lời ca tiếng hát giờ đây có còn gây hưng phấn cho dân chúng như mọi ngày không? Hay nó đem lại cho họ sự lo sợ? Vì vậy, chúng ta sẽ hát Quốc Ca thật lớn, nhưng...hát ở trong lòng.

Lại thêm một lần nữa Thiếu Tá Thanh ngừng nói, như để từng lời ông tâm tình, ngấm sâu vào lòng mỗi người lính. Ông lại đảo mắt nhìn khắp hàng quân rồi ban lệnh:

- Bây giờ anh em chuẩn bị làm lễ chào Quốc Kỳ.

Theo như thường lệ, sĩ quan Trực là người điều khiển buổi lễ chào cờ. Nhưng hôm nay, Thiếu tá Thanh trực tiếp làm mọi chuyện. Ông hô to:

- Nghiêm!

Hàng quân đồng loạt làm theo lệnh ông.

- Lễ chào Quốc Kỳ bắt đầu! Chào tay! Chào! Thượng kỳ! Quốc Ca!

Mọi người đứng im phăng phắc, mắt ngước nhìn lên cột cờ. Tôi như thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ đang từ từ kéo lên. Tôi trút bỏ hết những ưu tư trong người, để lòng mình hòa vào từng câu hát. Lời ca không được phát ra bên ngoài nên tôi nuốt trọn nó vào lòng. Nhìn sang hàng quân đối diện, môi ai cũng đang mấp máy. Tôi quay về thực tại khi tiếng hô dõng dạc của ông Tiểu Đoàn Trưởng vang lên:

- Phất! Thao diễn nghỉ! Một phút mặc niệm các chiến sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc! Nghiêm! Chào tay! Chào!

Bầu không khí linh thiêng bao phủ khắp sân cờ. Tôi như thấy hồn thiêng sông núi đang lẩn khuất đâu đây. Tôi cúi đầu nhận tội với tiền nhân vì không làm tròn trách nhiệm với quê hương đất nước. Tâm tư tôi thoáng hiện hình ảnh bạn bè, đồng đội và những người đã hy sinh trong cuộc chiến, nghĩ đến nỗi đau khổ của Quân Dân Miền Nam...Trong người tôi không còn chỗ chứa những niềm đau, những nỗi uất hận. Tôi nghe tiếng nấc nghẹn đâu đó trong hàng quân, tiếng khóc cứ lan dần, lan dần...đến lúc này thì tôi không còn kềm hãm nổi mình nữa, để mặc nước mắt tuôn trào. Hầu như mọi người đều khóc. Phút mặc niệm qua đi, Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng đứng nghiêm chào đoàn quân rồi nói trong nghẹn ngào:

- Thôi các anh em tan hàng.

Thiếu tá Thanh cúi mặt bước vội vào văn phòng, mọi người cũng lặng lẽ rời sân cờ.

*

Trong đơn vị tôi ngoài anh em cơ hữu ra còn có hơn ba mươi khóa sinh do các đơn vị thuộc Vùng IV Chiến Thuật gởi đến thụ huấn chuyên môn về Truyền Tin. Tuy là lính mới, nhưng tất cả đều tuân hành kỷ luật hết sức nghiêm minh. Lúc tôi đang thơ thẩn đếm bước đi không định hướng. Anh trưởng lớp đến chào tôi rồi lên tiếng hỏi:

- Thưa Trung úy, hôm nay tụi em có phải vào lớp học không?

Tôi lắc đầu bảo:

- Không có học hành gì nữa cả, anh cho anh em về phòng sửa soạn đồ đạc, sẵn sàng rời đơn vị sau khi bàn giao cho Việt Cộng.

Người khóa sinh đi rồi, tôi lê bước trở về ban mình. Trên chiếc bàn làm việc thường ngày, chỉ còn hai cái điện thoại đen nằm trơ trọi. Căn phòng hôm nay như hoang phế, chẳng còn gì ngoài vài bộ bàn ghế và mấy cái tủ hồ sơ trống không. Ngay như cái bảng nhỏ: “Trung Uý Nguyễn Văn Hưởng

Sĩ Quan An Ninh - Chiến Tranh Chính Trị”

mới đặt làm mấy tháng trước, tôi cũng cho quăng luôn vào lửa đốt tối hôm qua.

Thượng sĩ Thanh, với hơn 20 năm quân ngũ, từng là cựu tù binh Cộng Sản, đang ngồi cúi mặt, chống tay lên cằm. Còn Thượng sĩ Mẫn, chẳng biết làm gì, lại lôi mấy bộ quần áo sơ vin ra xếp đi xếp lại. Phần tôi, ngồi một chỗ không yên, bước ra đứng giữa khung cửa, đưa mắt nhìn vài ba anh em binh sĩ ngồi bệt giữa sân cờ trò chuyện.
Last edited by khieulong on Wed Jun 13, 2007 3:38 pm, edited 1 time in total.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Danh Dự - Trách Nhiệm

(tiếp theo)
Không ai che dấu được nét ưu tư trên gương mặt. Chợt tiếng chuông điện thoại reo vang. Thượng sĩ Thanh uể oải nhắc ống nghe lên. Nói chuyện điện thoại, nhưng người Hạ sĩ quan già này vẫn quen với giọng điệu nói trên máy vô tuyến. Mắt ông mở thật to, còn miệng há hốc ra, cứ lập đi lập lại mỗi điệp khúc:

- Nhận rõ...nhận rõ...nhận rõ.

Buông ống nghe xuống, giọng ông nói như lạc đi:

- Thằng Hòa “Tổng Đài” vừa báo tin: Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, đã dùng súng lục bắn vào đầu tự sát hồi rạng sáng hôm nay rồi!

Hai mí mắt tôi tự nhiên khép lại, đứng như bất động. Một lát sau, tôi bước trở lại bàn làm việc, buông mình xuống ghế, tâm tư hướng về hai vị tướng vừa nằm xuống.

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu IV mới gần được nửa năm, nên tôi chưa có dịp gặp mặt. Ai cũng biết, ông là một vị tướng suốt đời xông pha nơi trận tuyến, lập biết bao chiến công. Ông được mọi người ngưỡng mộ không chỉ vì là một cấp chỉ huy có tài, mà còn là một người đạo đức thanh liêm. Ông sống độc thân, nên dành hết thời giờ cho đời binh nghiệp và cho quốc gia dân tộc.

Còn với Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, đã lần lượt đảm trách các chức vụ Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng và Tư Lệnh của Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Nhưng hình ảnh oai hùng nhất của ông trong tôi chính là 2 tháng dài ông tử thủ An Lộc. Những ngày ấy, tôi lo việc thiết lập hệ thống liên lạc cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đóng tại Tân Khai, cách hầm trú ẩn Tướng Hưng chỉ hơn mươi cây số. Tôi đã thấy hàng ngàn đồng bào Bình Long gồng gánh, bồng bế, dắt dìu nhau, men theo quốc lộ 13 tìm về vùng Quốc Gia. Chúng tôi đã bất chấp quy luật hành quân, cho dân chúng tràn vào tuyến phòng thủ, để họ có nơi trú ẩn, hầu tránh bị thương vong mỗi khi phải hứng chịu những trận pháo kinh hồn.

Cơn mưa pháo có ngày lên tới 7,500 trái, đã biến An Lộc thành bình địa, nhưng không làm nổ tung được ý chí quyết giữ An Lộc, quyết bảo vệ mấy chục ngàn đồng bào Bình Long bị kẹt giữa vùng lửa đạn của Đại tá Lê Văn Hưng. Nhưng hôm nay, vận nước ngả nghiêng, một viên đạn súng lục đã cướp đi cuộc đời vị Tướng anh hùng.

Tôi ôm mặt, cúi đầu nhắm mắt cầu nguyện, tiễn đưa hương hồn hai vị chỉ huy đáng kính. Trang sử Việt oai hùng có thêm hai vị tướng chết theo thành. Chắc anh linh Tướng Nam, Tướng Hưng giờ này đang hội ngộ cùng Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản,... nơi miền tiên cảnh.

*

Mãi đến lúc ngồi nhìn mấy anh em binh sĩ lăng xăng dọn bữa cơm trưa nóng sốt lên bàn, tôi mới tự hỏi: Thường ngày nhà bếp sĩ quan chỉ nấu cho Thiếu Tá Thanh và vài ba anh em độc thân ăn thôi. Thế mà kể từ trưa hôm qua đến giờ, con số người ăn tăng lên gấp bốn năm lần, chợ búa thì không nhóm họp. Chẳng hiểu Trung sĩ Hỷ làm cách nào để lo tươm tất, đầy đủ từng bữa ăn cho bao nhiêu con người ấy? Tôi muốn hỏi thăm cùng nói đôi lời cám ơn Hỷ, nhưng Hỷ bận việc luôn tay. Cho nên mãi đến bây giờ, lời cám ơn ấy vẫn còn nằm nguyên trong lòng tôi và điều tôi muốn biết cũng sẽ vĩnh viễn là một bí ẩn. Tôi chỉ suy ra được một điều là mọi anh em trong đơn vị tôi, đều cố gắng chu toàn nhiệm vụ của mình cho đến khi phải ngậm ngùi từ giã đời lính.

Nếu tính cho đến giây phút những dòng chữ này được viết ra, tôi đã sống qua hơn nửa thế kỷ, nói chính xác hơn là đã sống gần hai vạn một ngàn ngày, ăn trên bốn vạn bữa cơm. Nếu chỉ được chọn ăn một bữa cơm duy nhất trong đời, tôi không ngần ngại chọn ngay bữa ăn cuối cùng của cuộc đời lính trong ngày 30-4-1975. Tôi vẫn biết bữa ăn hôm ấy không có sơn hào hải vị, không rượu ngon, còn miệng tôi cay đắng nuốt không trôi hết nửa bát cơm. Nhưng lòng tôi no đầy tình đồng đội, cái tình “sống chết có nhau là huynh đệ chi binh”. Tôi cũng ghi tạc từng lời Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng tỏ lòng mình ra cùng các sĩ quan thuộc cấp:

- Tôi rất hãnh diện về tinh thần kỷ luật của anh em trong đơn vị. Trọn ngày hôm qua, tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều về việc ra lệnh cho mọi người đi đâu thì đi hay ở lại đây chờ họ vào? Phủi tay bỏ đi lúc này thật quá dễ. Tôi đã thầm trách các cấp lãnh đạo, các cấp chỉ huy bỏ mặc đồng bào, bỏ rơi đồng đội. Nay chính tôi lại làm như vậy hay sao? Rồi tôi nghĩ đến câu “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” trên huy hiệu người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Chúng mình đã bị trói tay không bảo vệ được Tổ Quốc, nhưng còn Danh Dự - Trách Nhiệm, tôi phải bảo vệ vẹn toàn. Nghĩ thế nên tôi quyết định ngồi lại đây chờ họ đến, cho họ nhìn thấy tận mắt và hiểu rằng người lính Việt Nam Cộng Hòa không hèn yếu, khiếp nhược. Riêng bản thân tôi, tuy không dám chết vinh như hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, nhưng tôi quyết không chịu sống nhục.

Nói xong, ông quay sang bảo Đại úy Chinh và tôi:

- Khi bọn họ đến đơn vị mình, tôi sẽ ngồi trong văn phòng, anh Chinh và anh Hưởng ra cổng hướng dẫn họ vào gặp tôi.

Một ngày mà không một người Việt Quốc Gia nào tưởng tượng có thể xảy đến đã đến. Chỉ còn vỏn vẹn vài giờ nữa đơn vị tôi chính thức bị giải thể, đời lính của tôi cũng kể như xong. Hơi thở tôi vẫn còn, súng đạn vẫn còn...Nhưng tôi đành bất lực đứng chờ giờ phút cuối của đơn vị, giờ phút cuối của đời lính mình. Trong giờ phút sau cùng này, tôi thấy rõ hơn lúc nào hết cái tinh thần bất khuất không khiếp sợ Cộng Sản của từng người trong đơn vị tôi. Riêng những người trực tiếp trông coi hệ thống liên lạc, mỗi lần nhắc điện thoại lên, các anh đều báo ngay cho chúng tôi biết, người đầu dây bên kia là Quốc Gia hay Cộng Sản. Các anh còn nắm vững và báo cáo đầy đủ tình hình các nơi, nên tuy chỉ lẩn quẩn trong vòng rào đơn vị, nhưng mọi diễn biến bên ngoài tỉnh Bạc Liêu chúng tôi đều hay biết.

*

Đến giờ thứ 38, tức 2 giờ chiều ngày 1-5-1975, một Đại Đội Việt Cộng tiến vào đơn vị tôi. Tuy mang danh Đại Đội, nhưng quân số chỉ hơn hai mươi người. Họ đến bằng xe GMC. Chiếc xe ngừng ngay lại giữa cổng chính. Toán lính ngồi trên hai băng ghế phía sau đồng loạt nhảy xuống, làm ra vẻ xung trận, tấn công tiến chiếm mục tiêu, rải người cầm súng chạy chiếm giữ các điểm trọng yếu. Đêm qua dưới ánh điện le lói, tôi không nhìn rõ toán quân Cộng Sản. Lúc này giữa ban ngày, những nét rừng rú, quê mùa hiện rõ lên trên từng gương mặt. Họ ăn mặc lôi thôi lếch thếch, chỉ có vài người mang dép râu còn lại đều đi chân đất. Từ trên ghế trưởng xa, một người đeo khẩu K54, nhảy xuống xe, ông ta cố tạo cho mình dáng vẻ một cấp chỉ huy. Nhìn thấy tôi và Đại úy Chinh đứng trước phòng tiếp tân, ông tiến lại hất hàm lên tiếng hỏi:

- Hai anh có phải là người chỉ huy đơn vị này không?

Đại úy Chinh đáp:

- Không phải. Anh là ai, cho tôi biết tên và chức vụ để tôi vào trình cho ông Đơn Vị Trưởng tôi biết?

- Tôi là Thành Biển, Chính Trị Viên Đại Đội.

- Anh đi theo tôi.

Thành Biển bước theo sau Đại úy Chinh và tôi tiến vào văn phòng Tiểu Đoàn Trưởng.

Trong lúc Thiếu tá Thanh và Thành Biển ngồi nói chuyện. Binh sĩ hai bên Quốc - Cộng chỉ đứng lườm nhau.

Nửa giờ sau, kẻng tập họp vang lên, theo lệnh Thiếu úy Minh sĩ quan Trực, mọi người nhanh chóng xếp thành hàng lối. Điểm danh xong, Đại úy Chinh ra hiệu cho tôi vào văn phòng mời Tiểu Đoàn Trưởng. Khi Thiếu tá Thanh cùng Thành Biển ra khỏi văn phòng. Đại úy Chinh dõng dạc hô to:

- Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng đến! Nghiêm! Chào tay! Chào!

Tiếng hô của Đại úy Chinh và những cách tay đồng loạt giơ lên chào kính người Đơn Vị Trưởng làm kinh ngạc toán lính Việt Cộng đến tiếp thu. Nhìn anh em trong quân phục chỉnh tề cùng lễ nghi quân cách trang trọng, đối nghịch hoàn toàn với toán quân ô hợp. Tôi ngậm ngùi tự hỏi. Tại sao chúng tôi lại phải bàn giao quyền lực cho một toán quân như vậy? Hỏi chỉ để cho lòng bớt thổn thức, cho vơi đi sự đau đớn chứ chúng tôi còn làm được gì trong giờ phút này, khi lịch sử đã sang trang. Rồi mai đây, tất cả chúng tôi còn phải phục tùng nghe theo một cách bất đắc dĩ mọi mệnh lệnh của những con người đang đứng đó.

Thiếu tá Thanh đứng nghiêm chào hàng quân xong. Đại úy Chinh lại dõng dạc hô lớn:

- Phất! Thao diễn! Nghỉ!

Thiếu tá Thanh tiến lên đứng riêng một mình trước mặt hàng quân. Với giọng thật cảm động ông nói lời từ giã:

- Thưa các anh em, đây là lần cuối cùng tôi đứng nói chuyện trước anh em. Tôi cám ơn tất cả quân nhân các cấp. Trong suốt thời gian tôi giữ nhiệm vụ chỉ huy đơn vị này, anh em đã giúp tôi chu toàn nhiệm vụ của một người quân nhân. Hôm nay, tuân hành nghiêm chỉnh lệnh thượng cấp, đơn vị chúng ta buông súng bàn giao cho quân “Cách Mạng”. Trước khi từ biệt, tôi có lời khen ngợi tất cả anh em đã giữ đúng tinh thần kỷ luật cho đến giờ phút cuối cùng. Tôi cầu chúc anh em và gia quyến được mọi điều an khang. Sau đây tôi xin giới thiệu anh Thành Biển, Chính Trị Viên Đại Đội đến tiếp thu đơn vị chúng ta.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Danh Dự - Trách Nhiệm

(tiếp theo và hết)
Thành Biển khẽ cúi đầu chào hàng quân. Thiếu tá Thanh nói tiếp:

- Giờ đây tôi trở xuống đứng cùng với anh em và trao quyền lại cho anh Thành Biển.

Nói xong ông đứng nghiêm giơ tay chào hàng quân rồi bước xuống đứng bên cạnh Đại úy Chinh. Lúc ông lui bước, tôi nghe được nhiều tiếng nấc nghẹn vang lên đâu đó...Thành Biển tiến lên vị trí Thiếu tá Thanh vừa rời khỏi, ông gật đầu chào mọi người. Có lẽ bị khớp trước một hàng quân chỉnh tề, Thành Biển cất giọng run run, nói toàn những lời hoa mỹ:

- Thưa các anh em, nãy giờ tôi và anh Thanh thảo luận với nhau về việc tiếp quản đơn vị. Trước tiên tôi có lời khen tặng tất cả anh em đã tuân hành đúng đắn chỉ thị của Cách Mạng, buông súng đầu hàng tránh đổ máu. Xin các anh em an tâm và vững tin vào chính sách khoan hồng trước sau như một của Cách Mạng, là luôn tha thứ những kẻ lầm đường lạc lối, biết ăn năn hối cải quay về với tổ quốc dân tộc. Chúng tôi sẽ đối xử tử tế với tất cả anh em binh sĩ Cộng Hòa, chẳng những bây giờ mà mãi mãi sau này...cũng vậy. Đơn vị anh em là đơn vị kỹ thuật, Cách Mạng rất cần sự hợp tác của các anh em để quản lý tốt máy móc. Nếu anh em nào muốn làm việc cho Cách Mạng, tôi sẽ coi như các anh em đã gia nhập Cách Mạng trước ngày 30-4. Còn những ai muốn về quê quán làm ăn sinh sống, tôi sẽ cấp giấy tờ, cung cấp mọi phương tiện để giúp xây dựng lại cuộc đời mới.

Ngừng lại một lát, Thành Biển nói tiếp:

- Bây giờ, những anh em nào muốn phục vụ Cách Mạng, tôi yêu cầu giơ cao tay lên và bước ra khỏi hàng.

Nói xong, Thành Biển đảo mắt nhìn khắp hàng quân. Không một cánh tay nào giơ lên, không một ai bước khỏi hàng ngũ mình. Sự bất hợp tác này làm Thành Biển sụ mặt sượng sùng. Chờ thêm một lát, Thành Biển tiếp tục diễn thuyết:

- Chính sách Cách Mạng luôn tôn trọng tự do con người. Các anh em đều muốn trở về quê quán làm ăn sinh sống, tôi sẽ cấp giấy giới thiệu với chính quyền địa phương để họ giúp đỡ các anh em tái lập lại cuộc sống mới.

Tuy Thành Biển nói toàn lời ngon tiếng ngọt, nhưng tôi và đồng đội không một ai dấu được vẻ ưu tư lo lắng.

“Lễ” bàn giao xong, Thành Biển dè dặt bước vào văn phòng Tiểu Đoàn Trưởng. Anh ta ngồi vào bàn Thiếu tá Thanh, cấp giấy đi đường cho các binh sĩ và hạ sĩ quan. Còn thành phần sĩ quan, anh ta cho biết: phải đợi lệnh của Ủy Ban Quân Quản Tỉnh Bạc Liêu.

*

Tôi nhìn lại căn phòng làm việc lần cuối, từ cánh cửa, từ bực thềm, từ cái bàn cái ghế, tuy cũ kỹ, đơn sơ, nhưng ghi dấu biết bao ngày tôi miệt mài ở đấy. Những kỷ niệm vui buồn trong căn phòng này sẽ mãi không phai trong tôi. Gần sáu năm sống nơi đây, giờ phải vĩnh viễn lìa xa, làm sao tôi không quyến luyến bịn rịn cho được. Bước sang hội trường, bục thuyết trình nằm trơ trọi trong góc, tai tôi nghe như có tiếng anh em vỗ tay đồng ca theo nhịp quân hành.

Nơi đây tôi đã hun đúc tinh thần binh sĩ, tôi đã hùng hồn biện minh cho sự tất thắng của chính nghĩa Tự Do. Nhưng từ nay về sau, trong hội trường này, trên bục gỗ này, người Cộng Sản sẽ mặc tình khoác lác về chiến thắng vinh quang anh hùng của họ, rồi lên mặt nguyền rủa chúng tôi.

Các binh sĩ cùng các hạ sĩ quan lãnh giấy tờ xong, có người tìm tôi từ giã, có người lẳng lặng ra về. Nghĩ đến vị Tiểu Đoàn Trưởng khả kính, tôi đi như thất thểu tìm ông. Ông đứng dựa lưng vào cây cột trước căn nhà ông ở, hết nhìn ra sân lại nhìn vào văn phòng nơi ông làm việc. Tôi tiến lại, lẳng lặng đứng cạnh bên, ông quay lại nhìn tôi với đôi mắt thật buồn, tôi lí nhí trong miệng:

- Thưa Thiếu tá, những ngày còn ở lại Bạc Liêu, xin mời Thiếu tá lại nhà tôi ở tạm.

- Cám ơn anh, việc đó tôi sẽ tính sau. Đêm nay tôi ngủ trong đơn vị.

Ngày 30-4 sắp hết trong tôi, nhưng ngày ấy vẫn còn tiếp diễn nơi ông Đơn Vị Trưởng. Đêm nay chỉ một mình ông cô đơn trong doanh trại, không có lấy một anh em đồng đội. Tôi không còn biết làm gì hơn ngoài việc dâng lời cầu nguyện, xin ơn trên ban bình an cho ông. Bắt tay từ giã, tôi thấy trong đôi mắt sâu thẳm của ông tuy buồn nhưng ánh lên nét bất khuất của một quân nhân.

Bước chân ra khỏi cổng là tôi vĩnh viễn rời xa nơi này, ngày chia tay với đơn vị của tôi sao quá buồn thảm. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ nửa xanh nửa đỏ của Việt Cộng vừa mới kéo lên đang lạch bạch bay trong gió. Vài ba chú lính Việt Cộng lục lọi những máy móc liên lạc truyền tin, chốc chốc lại rú lên cười như vừa khám phá ra một điều gì mới lạ. Trên lô cốt, mấy tên Việt Cộng cũng bò lên ngồi gác. Nhìn ra cái ao trước mặt đơn vị, tôi bắt gặp một gã bộ đội đang ngồi vo gạo, tôi bước tới nói với anh ta:

- Nước ao này dơ lắm, cầu tiêu đàng kia kìa, không dùng nấu ăn được đâu!

Không những không nghe lời tôi khuyên, anh còn vênh mặt lên lớp:

- Các anh Tiểu tư sản quen rồi, nước nào mà lại dùng không được!

Nói xong, anh tiếp tục công việc đang làm dở dang. Nhìn qua cử chỉ, nghe giọng anh nói, tôi nhận ra rằng: Lời nói của người Quốc Gia cho dù có thực tâm, có ý xây dựng, kể từ giờ phút này hoàn toàn vô giá trị trước người Cộng Sản.

Tôi lẳng lặng dắt xe ra cổng. Quay lại nhìn đơn vị lần cuối, tám dãy nhà tôn mờ đi, tôi phải gỡ kính xuống lau mắt để nhìn cho rõ.

Lái xe về nhà tôi quên hẳn mình đang mặc trên người bộ quân phục Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giữa lòng thành phố đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng Sản.

Thường khi xe về đến đầu con hẻm rẽ vào nhà, tôi hay gặp bé Tâm bốn tuổi, con anh chị Hảo, đứng chơi trước hiên nhà. Bé hay ngừng chơi vỗ tay reo mừng đón tôi:

- Trung úy đi làm về, Trung úy đi làm về...

Hôm nay, em chỉ mới kịp reo lên:

- Trung úy...

Thì chị Hảo chạy vội ra, lấy tay bịt ngay miệng con lôi vào nhà. Người mẹ ngước mắt lên nhìn tôi nửa ái ngại, nửa xót thương rồi chị cúi xuống dặn con:

- Từ đây về sau con kêu bằng chú, đừng gọi Trung úy nữa nghe chưa. Coi chừng Giải Phóng họ bắt đó.

Đứa bé ngạc nhiên, lấm lét hết nhìn mẹ đến nhìn tôi. Chị Hảo quay sang tôi lý nhí phân trần:

- Phải vậy hông Trung úy... à quên chú Hưởng.

Nghe giọng lập lờ làm tôi thấy thương cho cái chân chất của chị quá chừng. Tôi nhìn cháu bé, quay sang chị Hảo gật đầu, rồ máy cho xe chạy. Vợ tôi ra đứng chờ trước hàng hiên. Vào đến nhà, tôi thả mình xuống chiếc ghế nơi phòng khách, cởi đôi giày máp, cởi bộ quân phục trây di. Đồng hồ trên tay tôi chỉ đúng 5 giờ chiều ngày 1-5-1975. Tôi nhẩm tính lại thời gian, giờ này đúng là giờ thứ 41, giờ cuối cùng của ngày “Ba Mươi Tháng Tư Đen” trong tôi.

Sapy Nguyễn Văn Hưởng
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Những Anh Hùng Tuẩn Tiết
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Ðất nước Việt Nam anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Những đấng tiền nhân tiên liệt đã chiến đấu và viết nên những trang sử chống xâm lược chói lọi nhất trong lịch sử nhân loại.
Image
Giở lại những trang sử chiến đấu dũng mãnh và hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhân tưởng niệm ngày 30-04, là ngày nước Việt Nam Cộng Hòa thôi tồn tại, chúng tôi muốn kể lại cho các bạn trẻ Việt Nam công nghiệp chiến đấu và những giây phút chói chang cuối cùng của những vị thần tướng làm rạng danh nước Nam trên trường quốc tế:

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ.

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ của dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam, mà điểm dừng là mũi Cà Mau. Ðược hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng Nam thuở còn ở tuổi học sinh siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất say mê hội họa, âm nhạc và giỏi về nhạc lý. Sau này khi đã trở thành vị tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Ðoàn IV Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân, rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu (tỉnh) hay các đơn vị chiến trường nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưa. Nếu ở Bộ Tư Lệnh thì người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm với các sĩ quan, có gì ăn nấy. Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của một người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Bà con thân hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá giản dị, không vợ con, không nhu cầu vật chất xa hoa, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành huyền thoại.

Tướng Dương Văn Minh, người được Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa bỏ phiếu đa số chấp thuận lên nắm quyến Tổng Thống vỏn vẹn mới có ba ngày đã vội vã ra lệnh toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng thôi chiến đấu từ 10 giờ sáng ngày 30.04.1975.

Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng lãnh của quân ta nào đâu chịu đầu hàng một cách nhục nhã như vậy. Ðại cuộc không thành, thành mất thì tướng phải tuẫn tiết theo thành. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của người lần cuối cùng. Mối thương cảm vận nước đến hồi đen tối, chiến hữu gãy súng và thương phế binh chắc chắn sẽ bị quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la trên hè phố bụi đất với những vết thương còn lở lói và rướm máu, đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Ðến tối Thiếu Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đã nổ súng tuẫn tiết trong văn phòng tại trại Lê Lợi. Ðến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái. Ngày hôm sau, các sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh đã đứng nghiêm chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ. Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đã xuống Cần Thơ bốc mộ, hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Sài Gòn.
Image
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV & Quân Khu IV đã tự sát trong văn phòng Tư Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Hòa Bỉnh, Cần Thơ, trước Thiếu Tướng Nam vài tiếng đồng hồ. Tên tuổi của Chuẩn Tướng Hưng được biết đến từ khi ông còn là một sĩ quan chiến đấu trên chiến trường Miền Tây và được xưng tụng là một trong những con mãnh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ chức vụ Ðại Tá Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, ông được điều động lên Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và được vinh thăng Chuẩn Tướng chỉ vài tháng trước khi chiến trận Mùa Hè Ðỏ Lửa nổ lớn tại An Lộc trong năm 1972. Ðịnh mệnh đã chọn Chuẩn Tướng Hưng làm người tử thủ An Lộc và đánh thắng đến bốn sư đoàn địch, vang danh quân sử Việt Nam và chiến sử thế giới. Hình ảnh dũng cảm và quen thuộc mà chiến sĩ tử thủ An Lộc ngưỡng mộ người Tư Lệnh của họ, là chiến sĩ Lê Văn Hưng đầu đội nón sắt, quần lính, áo thun màu ô liu, tay xách cây M16 như bất cứ một người lính khinh binh nào, làm việc 24/24 giờ một ngày bên chiếc đèn vàng mù mờ ánh sáng, hay ra chiến hào khích lệ tinh thần binh sĩ và tỉ mỉ giảng giải cách sử dụng súng chống chiến xa M72 để bắn xe tăng địch.

Dưới sự chăm sóc và chỉ huy của Thiếu Tướng Nam và Chuẩn Tướng Hưng, Quân Ðoàn IV gồm các Sư Ðoàn 7, 9 và 21 Bộ Binh đã đem lại những ngày an bình cho người dân Miền Tây. Hai vị Tướng đã là một cặp chiến binh kiệt xuất tạo nên bức tường thành vững chắc cho Quân Khu IV. Cho đến cái ngày oan nghiệt 30.04.1975, hai vị Tướng nhiều lần nhận được lời đề nghị khẩn thiết của người Mỹ muốn giúp hai vị và gia đình di tản sang Hoa Kỳ, nhưng cả hai vị Tướng đã khẳng khái từ chối. Cho đến 4 giờ chiều cùng ngày, hai vị Thiếu Tướng còn cố liên lạc với các đơn vị hỏi xem có nhận được lệnh hành quân và phóng đồ bố trí chiến đấu chưa. Tất cả đều trả lời không. Hóa ra viên đại tá được giao trọng trách chuyển lệnh đã bỏ trốn mất. Hai vị Tướng tức uất thở than cho vận nước. Danh từ đầu hàng từ đầu cho đến tàn cuộc chiến rất xa lạ với người chiến sĩ QLVNCH. Chuẩn Tướng Hưng vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô liu trở lại văn phòng Tư Lệnh Phó gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần khuyên nhủ bà Chuẩn Tướng phu nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên người, nói cho chúng biết về người cha đã chết như thế nào cho tổ quốc. Người cũng trân trọng từ biệt các chiến hữu:

Tôi không bỏ các anh để đưa vợ con ra ngoại quốc. Tôi cũng không thể chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có.

Những người lính ôm lấy lá cờ vàng và cây súng thân thương vào lòng khóc nức nở. Họ biết giây phút vĩnh biệt người chủ tướng đã điểm. Chuẩn Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, bình thản đóng kín cửa văn phòng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra. Bà Hưng và các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngã người tựa vào giường nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn, đôi mắt còn mở to uất hờn. Người đã bắn vào tim để tỏ rõ tiết tháo một người Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Máu từ trong tim người thấm ướt mảng áo ngực và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng thăng thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975. Khoảng 11 giờ khuya, Thiếu Tướng Nam gọi điện qua chia buồn. Bà Thiếu Tướng Hưng nghe rõ tiếng thở dài của người Tư Lệnh phía bên kia đầu dây.

Image
Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall (Ðồn Ðất) Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II & Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng với vận nước. Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào tay giặc ở Ðiện Biên Phủ tháng 05.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa sau ngày ký Hiệp Ðịnh Geneva 20.07.1954, Thiếu Tướng Phú đã thề với lòng là người thà chết chứ không chịu nhục nhã lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy người đã giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. Còn nhớ tại trận Ðiện Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của Ðại Úy Phú chỉ còn có 100 tay súng mà phải ngăn chống một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hào. Ðại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngã và một vài giờ sau đó bị sa vào tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Ðại Úy Phú tái phát và ông mang bệnh lao. Ðịnh mệnh vẫn còn muốn cho người anh hùng được sống, để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau tháng 07.1954 Ðại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mảnh khảnh người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đã nhanh chóng trở thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng:

Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân Ðoàn II & Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đã vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe ngay trong ngày 14.03.1975, hai ngày trước khi Quân Ðoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau lòng theo dõi các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai phần ba lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của mình cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố phường Sài Gòn trong ngày 30.04.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Một trong những hồi ức rất đẹp và rất hào hùng mà Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ còn để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc ông cầm khẩu súng chống chiến xa M72 nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc bắn cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một bên, trong lúc Chuẩn Tướng Hưng đã thủ sẵn một trái lựu đạn trong tay để cùng chết với quân địch. Ðại Tá Vỹ đích thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Ðông khi ông về phục vụ dưới cờ của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968. Ðại Tá Vỹ nổi danh là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huy. Sau chiến thắng An Lộc, Ðại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông, cùng với chiếc lon mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể trọng của chiến sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính. Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản tính của người bộc trực và dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấu. Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện càn quấy, ăn chận trên xương máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh. Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người ta nhìn thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu với những vấn đề khó khăn. Về mặt quân sự, người có một tầm nhìn chiến lược rất bao quát và thường hay bày tỏ với các sĩ quan tham mưu:
Image
Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ngoài này mà sẽ tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn .

Sự phán đoán đó về sau đã hoàn toàn đúng. Một quân đoàn Bắc Việt không giao chiến với Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, tìm cách len lỏi xuyên qua những điểm bố trí của sư đoàn, hối hả tiến về Sài Gòn để dứt điểm Tướng Dương Văn Minh. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn Tướng Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh đọc nhật lệnh quan trọng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây tiếp tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ binh đội cộng quân đến bàn giao.

Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng với ông. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ đã khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắc như những hạt sỏi. Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng chiếc trailer dùng làm văn phòng tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới mở cửa thì thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đã thực sự ra đi, trên tay còn cầm khẩu Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ là nó còn nằm trong chiếc trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đã bắn vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầu. Khi các sĩ quan và binh đội cộng sản vào tiếp quản doanh trại sĩ quan sư đoàn cao cấp của địch đã nghiêng mình kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói:

Ðây mới xứng đáng là con nhà Tướng.

Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị chủ tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh. Ít lâu sau, thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Sài Gòn. Năm 1987, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người con anh hùng và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.

Cũng với tấm lòng của những người mẹ thương con bao la mênh mông như đại dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai tuổi già tấm lưng còng còm cõi với thời gian, đã mưu trí gạt được quân cộng đang tràn ngập trong căn cứ Ðồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh đem được thi thể vị Tư Lệnh về Gò Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt nghẹn ngào nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung U¨y thuộc cấp, trong đó có một vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn Tướng là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người còn cố gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc còn sống Chuẩn Tướng Hai nổi tiếng là vị Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của cải vật chất gì đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho, thì khi người ra đi, người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh thần tướng cùng tấm lòng sắt son đối với dân tộc và tổ quốc.
Image
Tài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức vụ quan trọng trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân, Tư Lệnh

Phó Quân Ðoàn II & Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Ðảm nhiệm những chức vụ cao tột như vậy mà người vẫn sống một cuộc sống bình dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng thấy những loại sách học hỏi khác nhau. Chuẩn Tướng Hai cũng nổi tiếng là vị Tướng thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các cấp dưới quyền hết mực, thậm chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đã trở thành huyền thoại về Ðại Tá Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân, đầu năm 1968 đã cùng vài sĩ quan đáp phi cơ C123 ra tận chiến trường Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận từng chiến hào tiền tuyến thăm hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Ðoàn 37 Biệt Ðộng Quân, dưới những cơn mưa pháo rền trời của địch.

Năm 1974 định mệnh đã đưa Chuẩn Tướng Hai về làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh để tên tuổi của người lưu tại nghìn thu trong sử sách, bằng cái chết hào hùng mà đã làm địch quân kinh hoàng. Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản, mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải là người thân cận hay thuộc phe phái của ông Thiệu, điều đó cho thấy uy tín của người rất lớn. Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ chối và cương quyết ở lại sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai trong ngày cuối cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi trong văn phòng Tư Lệnh chờ quân địch đến.

Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và chiến binh thuộc cấp trở về với gia đình, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại bảo vệ vị chủ tướng của họ. Vì họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ Ðồng Tâm, hoặc nếu có bàn giao thì cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn hai mươi năm, không lý do gì người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng tiến vào Ðồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin được tiếp quản căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị đòi hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó, ông không muốn bàn chuyện nào khác. Tình hình rất căng thẳng, hai bên giương súng ghìm nhau. Mãi lâu sau mới có một người gõ của xin vào rụt rè tự nhận là sư đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên sĩ quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ dàng, nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Ðể cho địch biết, rằng muốn chiếm được nước Nam thì họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đã uống thuốc độc tự sát trong văn phòng Tư Lệnh.

Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam, những chiến sĩ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, suốt đời tận tụy với nước non, đã hiến dâng cho tổ quốc những giọt máu đỏ thắm tinh khôi cuối cùng của mình.

Tên tuổi và tấm gương chiến đấu của những vị thần tướng ấy mãi mãi lưu lại trong sử sách Việt Nam và được dân tộc Việt Nam ngàn đời phụng thờ hương khói.

Phạm Phong Dinh
hoanghoa
Posts: 2277
Joined: Wed Jun 06, 2007 11:50 pm
Contact:

Post by hoanghoa »

Xin bấm vào đây để nghe bài đọc

Ba và Tôi
Tác giả: Bích Phượng
Giọng đọc: Trân Phương & Vĩnh Thiên



Image


Lòng mẹ thương con như biển Thái bình dạt dào
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào
Lời ru êm ái như đồng lúa chiều rì rào
Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu
Lòng mẹ đã ấp ủ đời con thơ cho luôn êm thắm, và tình yêu thương của mẹ đã khéo nắn con nên một đứa trẻ ngoan, biết yêu lại, cũng biết kính sợ. Lòng mẹ đã là nơi ghi dấu cho con biết bao là kỷ niệm đầy lưu luyến!

Tôi nhớ có lần người bạn học cũ của tôi lại nêu lên câu hỏi thuộc về tâm lý xã hội là tại sao trên thế giới hình ảnh người mẹ lại dịu dàng, đẹp đẽ bao phủ cả không gian của văn chương và âm nhạc cho dù hình ảnh của người cha cũng đẹp đẽ và thiêng liêng không kém, nếu chiếu theo sự tương quan của lý thuyết âm dương. Với riêng tôi, tôi còn nhớ mãi hình ảnh cha tôi dìu dắt tôi, cõng tôi trên vai Người, nâng bước cho tôi đi qua từng đoạn đường đời từ khi nằm trong nôi đến ngày khôn lớn trưởng thành thì tình cha dành cho con cái là một mối quan hệ thiêng liêng, trân quý. Thượng đế đã tạo ra cha bằng những gi ưu tú và tinh hoa của thế gian này để cho cha có thể đem đến cho con sức bảo vệ vững chắc của núi rừng, của biển cả; để cha luôn là nắng ấm, là mùa xuân, là niềm tin của đời con:

Thương đế đã lấy núi cao hùng vĩ
Vẻ uy nghi lộng lẫy của rừng xanh
Tia nắng ấm của mặt trời mùa hạ
Ngày im lặng của biển cả trong lành

Tình cao thượng của thiên nhiên tạo hóa
Một vòng tay an ủi của đêm vàng
Sự thông thái qua tuổi đời từng trải
Sức vô biên của đôi cánh đại bàng

Nỗi hân hoan của mùa xuân buổi sáng
Niềm tin yêu mạnh mẽ của mầm non
Sự kiên nhẫn cho thời gian vĩnh cửu
Gia đình luôn lo lắng sự sống còn

Những đức tính Thượng đế đều gom lại
Đến khi nào thấy đủ mới thôi mà
Một kiệc tác đã thành công khéo léo
Ngài dịu dàng nhân ái đặt tên « Cha »


(Những gì đã làm thành người cha
-Hải đà chuyển ngữ)
Phải, cha là kết tình của những gì hoàn mỹ nhất…Hình ảnh cha không gần gũi bằng hình ảnh của mẹ nhưng cha luôn là chiếc bóng âm thầm bên cạnh đời con, sẳn sàng đỡ nâng con trong mỗi lần con trượt chân vấp ngã, hay mỗi lần con va chạm với đời ê chề mỏi mệt…Còn gì hạnh phúc và sung sướng nào hơn là trong lúc con đau buồn và yếu đuối nhất, con được áp đầu vào ngực cha để tìm lại hơi ấm của tình thương, để tay cha vuốt nhẹ mái tóc con thơ và được nghe cha nói « hãy cố gắng lên đi con, mọi việc rồi sẽ qua mau… », để cha truyền cho con thêm sức mạnh và nghị lực để con vượt qua bao nguy nan gian khó…
Cha là tất cả trong con,
Là thày dạy dỗ cho con nên người
Là người bạn thiết vui chơi,
Là gương mẫu mực sáng soi vô bờ
Là lòng độ lượng bao la
Là người anh cả chẳng hà nệ chi…


(Cha là tất cả trong con-
Vương Ngọc Long chuyển ngữ)
Hình ảnh của Ba trong tôi là như thế đó…Từ khi tôi cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày hôm nay, Ba luôn là tất cả trong tôi. Người là người thày dạy dỗ cho tôi thành người hữu dụng cho xã hội, cho tôi biết thế nào là sống với: lễ, nhân, tín, nghĩa, hiếu, trung…Ba còn dạy cho tôi thấy được cái quan trọng của : cơ, mưu, trí, dũng…, thấy được bốn chữ yêu thương và bao dung là nền tảng của cuộc đời.

Image Image


Ba tôi luôn là thần tượng và là người hùng của tôi trong mọi lãnh vực. Khi tôi nhìn ba tôi trong bộ đồ dù oai nghiêm hay trong chiếc áo blouse trắng, tôi đều thấy trong lòng tràn dâng nhiều cảm xúc. Vì đứng ở phương diện nào, Người cũng cho tôi thấy sự dũng cảm, sự kiên cường, sự cố gắng…Dũng cảm trước những đòn tấn công của địch quân hay dũng cảm khi phải băng bó những vết thương rách nát của thịt da; kiên cường trước làn tên mũi đạn của quân thù hay kiên cường trước những thi hài của đồng đội mình vừa nằm xuống mà chính tay mình phải liệm xác người bạn thân đã từng cùng chia sẻ bao ngọt bùi cay đắng của đời quân ngũ với mình:
Anh xuống cùng tôi trên trận này
Hờn lên khóe mắt, súng cầm tay
Ai ngờ trong đợt xung phong ấy
Anh gục khi nào, anh chẳng hay.


Các bạn đưa anh đến chỗ tôi
Mày còn dựng ngược, vuốt cho xuôi
Súng anh tôi giữ mang về cất
Sửa lại nhung y đẫm máu rồi.

Anh bị vết thương bên trái đầu
Chắc rằng anh chết chẳng nghe đau
Lau đi trên mặt bao đất, máu
Băng lại đầu anh, băng trắng phau.

Đưa xác anh không sẳn lá cờ
Tôi đành tẩm liệm với poncho
Vải dầu che nắng mưa khi trước
Nay bó thân anh đã cứng đờ.

Tôi tiễn anh về một chuyến bay
Mang theo tang tóc chất vơi đầy
Hồn anh theo chuyến tàu bay ấy
Hay vẫn dật dờ, phảng phất đây


Tường Vi (1) – Thương Tiếc

(1)" Tường Vi "là ký hiệu của Ba tôi trong quân ngũ
Và sau những vết thương lòng còn rỉ máu đó, Ba tôi lại phải cố gắng vượt qua cái yếu đuối và nhược chí của chính mình để tiếp tục bước tới, tiếp tục diện kiến và giành giựt với tử thần từng mạng sống cho các thương bệnh binh của mình…Rồi những chiều từ hành quân trở về, Người lại vội vàng thay chiếc áo chinh y để khoác lên người chiếc áo blouse trắng, đi theo đoàn y tế xuống những vùng nông thôn mà chuẩn bệnh cho các dân nghèo. Lúc đó tôi còn nhỏ lắm…Trong ánh mắt của cô bé lên mười, tôi đã không còn nhìn cuộc đời qua cặp kính màu hồng nữa. Tôi đã nhìn thấy vết thương tàn khốc của chiến tranh từ năm tôi lên tám. Sau đó, tôi theo ba tôi về các vùng sâu để chăm sóc sức khỏe của đồng bào dân cư sống có bữa đói bữa no . Mỗi lần tôi nhìn ba tôi dịu dàng chích từng mũi kim vào các em thơ mà miệng vẫn nói đùa để cho các em không còn đau và sợ…
"Áo trắng một trời mơ
Ba đứng trong sân nắng mới lên rực rỡ
lời nhắn nhủ dạt dào
thầy yêu kính thân trao
"Nầy các con...
...Lương Y như từ mẫu...,"


(Ba - Vũ thị Thiên Thư)
Ba tôi qua từng cử chỉ nhẫn nại đối với các em thơ đã dạy tôi sao có tấm lòng « lương y như từ mẫu », và tôi cũng biết rằng tương lai mình rồi đây sẽ làm gì. Giờ đây, mỗi lần tôi chăm sóc cho các bệnh nhân của mình, tôi cũng như Ba tôi ngày xưa lúc nào cũng phải mang lòng dũng cảm, kiên cường, cố gắng, nhẫn nại và dịu dàng…
Con vẫn cùng ba những quãng đường
Tay bàn tay nắm ngõ yêu thương
Những năm bé tí ba bồng bế
Những chuyến vào thăm trọ học đường…


(Đêm nghe đoàn xe lửa – Cát Biển)
Tuy tôi là chị cả trong nhà, nhưng có lẽ vì thể chất tôi yếu đuối mong manh và có lẽ vì tôi là một « tiểu Tường Vi » cũng đa sầu, đa cảm, cũng yêu văn chương nghệ thuật, và âm nhạc như Ba tôi cho nên tôi lúc nào cũng được Ba tôi yêu thương một cách riêng. Trận chiến trở nên khốc liệt sau mùa Hè đỏ lửa 1972. Ngày ấy, Ba tôi sau thảm cảnh của « Đại lộ kinh Hoàng », được lệnh dời căn cứ về Hiệp Khánh- Phú Bài, Huế. Thành phố thơ mộng và cổ kính này có sức quyến rũ kỳ diệu với bố con tôi. Những giây phút hiếm hoi mà tôi được ở bên Ba tôi ngoài Huế thiệt tuyệt vời. Những buổi chiều trên cầu Tràng Tiền, những đêm trăng về nghe câu hò mái đẩy trên bến sông Hương, những ngày bách bộ bên bờ hồ Tịnh Tâm…Những ngày tháng đó Ba tôi đã cho tôi thấy quê hương mình đẹp lắm, mỹ miều lắm, nên thơ lắm…
Quê hương là chiếc áo dài tha thướt
Vẩn vơ bay theo mỗi bước con về
Là chiếc nón bài thơ che nghiêng mái tóc
Đôi guốc học trò rộn rã đường quê

Quê hương là những ngày nắng ấm
Trải lụa vàng trên đồng lúa xôn xao
Là những đêm trăng giòng sông lấp lánh
Vẳng vọng ai hò tiếng hát bay cao…


(Nói với con đôi điều về quê hương-Quang Huỳnh)

Nhưng quê hương tôi dần dần từ Huế vào tới Sàigòn chìm trong khói lửa điêu tàn. Tôi nhìn Ba tôi vầng trán ngày càng đăm chiêu hơn. Vận nước điêu linh khiến lòng người chiến sĩ mang nhiều uất hận:
Hàn giang khói lạnh sương mờ ảo
Vi vút rừng thông tiếng suối reo
Có người tráng sĩ bên sông vắng
Nặng nợ giang sơn một mái chèo…

… « Bảy nổi ba chìm vận núi sông
Trắng mắt dã tràng khóc biển Đông
Được thời, chấu đạp, xe nhào đổ
Mắt vận, cọp nằm vuốt gẫy long » …


(Biển đắng hoang vu- Vương Ngọc Long)
Để rồi một buổi trưa tháng tư đổ lệ đó, người chiến sĩ như bao bằng hữu của mình ngậm đắng nuốt cay cúi đầu cho định mệnh. Sài gòn thất thủ ! Ngày đó, tôi đã một lần suýt mất đi người cha thân yêu của mình. Vì Ba tôi là một chiến sĩ Nhảy Dù, thà chết vinh hơn sống nhục nhưng Người quả thật rất can đảm, Ba tôi đã đắn đo và quyết định giữ mạng sống mình lại cho đàn con thơ dại và vì một lời hứa thiêng liêng với Mẹ tôi trước Thiên Chúa. Để rồi từ mùa xuân năm ấy :
Xuân huyền nhớ thuở đời tàn
Mẹ ta dầu dãi tảo tần nuôi con
Cha già cải tạo đầu non
Giao thừa mắt Mẹ lệ mòn phương nao ?


(Biển đắng hoang vu- Vương Ngọc Long)
Những năm tháng Ba tôi bị tù đày thật hãi hùng. Mỗi lần theo Mẹ tôi đi thăm nuôi Ba tôi, tôi nghẹn ngào đau xót nhìn thân thể Ba tôi ngày càng tiều tụy xanh xao. Từ một người chiến sĩ Dù hiên ngang nơi sa trường giờ phải bị những nhục mạ sỉ vã bởi những người bằng tuổi xấp xỉ con mình…Ôi, bao cay đắng đoạn trường mà Ba tôi phải cưu mang vì hai chữ yêu thương vợ hiền và con thơ :
Cha đi từ thuở đời tàn
Tay xiềng chân xích võ vàng chua cay
Xót xa khắc khoải lưu đày
Khung sàn ngục thất, hồn gầy guộc, câm


(Cha đâu- Vương Ngọc Long)
Bốn câu thơ này làm tôi chạnh nhớ đến một bài hát mà tôi đã nghe hôm nào…Lời ca thấm thía một nỗi buồn sâu sắc đã làm cho tôi không cầm được nước mắt, vì đó là hình ảnh còn in dấu trong tôi trong những năm tháng Ba tôi thân lưu đày:
Ngày con ra đời núi rừng cha sống lưu đầy
Một thân nuôi con, me nuôi con quên mất tuổi xuân
Dòng sữa khô thay bằng nước mắt
Mẹ đã nuôi con theo ngày tháng
Cuộc sống u buồn, nhưng mẹ chẳng lời oán than!

Ngày thôi theo ngày, năm rồi năm tháng trôi theo
Mẹ trông ngóng cha, nhưng tin cha tin vẫn mờ xa
Tuổi ấu thơ con là đêm tối, chờ ánh dương soi chờ hơi ấm
Chờ đến bao giờ, bao giờ mẹ gần bên cha

Ôi trách ai kia,
Nỡ lòng làm phân ly đời nhau trong lúc xuân xanh,
Ôi bóng câu qua thềm
Nước trôi qua cầu, chờ nhau tím cả đời nhau


(Rồi 30 năm qua - Nhật Ngân)
Rồi ngày Người ra tù và đi tìm tự do để cho chúng tôi có một tương lai tươi đẹp hơn, là một lần nữa tôi lại rời xa vòng tay thâm tình của Ba tôi. Chuyến đi đó lần đầu tiên Ba tôi đã bỏ tôi ở lại, vì quá thương tôi…Vì sợ đứa con gái yếu ớt của mình không chịu được sự dập vùi của bão giông và hải tặc. Người đã gạt lệ ra đi bỏ lại mấy mẹ con tôi trong một đêm mưa gió bão bùng:
Đêm nay đêm tối trời anh bỏ quê hương
Ra đi trên chiếc thuyền
Hy vọng vượt trùng dương
Em đâu đâu có ngờ đêm buồn
Bỏ lại em cay đắng thật thương
Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non.

Anh phải bỏ đi thắp lên ngọn lửa hy vọng
Anh phải bỏ đi để em còn sống
Anh phải rời xa mẹ Việt Nam đau đớn
Quê mình rồi đây em có đợi chờ
Anh tạm rời xa nước non mình yêu kiều
Ôi người thân yêu người quen hàng xóm
Mong vượt biển Đông mà lòng anh tan nát
Núi mờ mờ xa ôi ngọn núi ở quê hương!


(Đêm chôn dầu vượt biển- Châu Đình An)
Ngày cả nhà được đoàn tựu với Ba tôi là ngày hạnh phúc nhất của đời tôi. Tôi đã nhìn những giọt nước long lanh trong mắt của Ba tôi khi Người ôm mẹ con chúng tôi vào lòng…Ba tôi đã độc hành trên một quãng đường thật dài, thật chông gai, thật hãi hùng, thật đoạn trường để cho chúng tôi có được như ngày hôm nay…
Thương cha bao độ bể dâu
Tình nhà, nợ nước, đêm thâu mỏi mòn…


(Cha mãi mãi trong con- Vũ Hối)
Tôi thương Ba tôi, mái tóc đã pha màu bụi sương của thời gian, nhưng Người vẫn chưa ngơi nghỉ. Cả cuộc đời của Ba tôi sống cho quê hương đất nước, một quê hương đất nước tự do và thanh bình. Cũng như bao nhiều người cha Việt Nam ở khắp mọi nơi trên thế giới này, tâm nguyện của Ba tôi là
Này nhé con quê huơng là tất cả,
Là ngọn rau, tấc đất, mái nhà tranh,
Giọng nói, câu hò, nụ cười, khóe mắt …
Và biết bao điều con gặp ở chung quanh.

Hãy nhớ nghe con giữ thơm quê mẹ;
Bằng cố gắng bây giờ phấn đấu vươn lên.
Tuổi trẻ con là tương lai dân tộc;
Ta sẽ về dựng lại nước non xưa.


(Nói với con đôi điều về quê hương
-Quang Huỳnh)
Ngày hôm nay, nhân dịp lễ Vinh danh Hiền Phụ, con viết những dòng hoài niệm về Ba và con, từ con gái của Ba vốn yếu đuối, thường nhõng nhẽo và rất bướng bỉnh… để Ba suốt đời lúc nào cũng phải lo lắng ưu tư vì đứa con đa sầu đa cảm của Ba. Con cám ơn Ba đã hướng dẫn, khuyến khích và nung đúc cho con tình yêu văn chương, thưởng lãm nghệ thuật và thưởng thức âm nhạc. Con cám ơn Ba đã yêu thương, đùm bọc và chiều chuộng con cái suốt cả cuộc đời. Cha muôn đời vẫn là vì sao cao quý trên nền trời bao la để những áng thơ con đi tìm, dù thơ về cha không nhiều như thơ cho mẹ, nhưng những vần thơ vẫn sống thực ru cha niềm thương nhớ hay niềm an ủi vô biên…Con cám ơn Ba vì Ba vẫn còn hiện hữu với chúng con. Lòng con tràn dâng muôn vàn cảm xúc vô biên khi đọc những lời thơ sầu muộn thương tâm của những người con không còn cái may mắn như con có Ba hạnh phúc trong đời sống, như những dòng thơ của nhà thơ Vũ Hoài Mỹ trong « Nén hương lòng »

"Sáng nay chim hót điệu bùi ngùi
Ánh nắng bình minh kém vẻ tươi
Vạn vật cỏ cây buồn giỗ Bố
Lòng con thổn thức giọt sầu rơi.

Về vùng kỷ niệm tuổi thơ ngây
Hạnh phúc nuôi con lớn tháng ngày
Theo Bố gót hồng khi chớm mỏi
Triền vai Bố ngọt giấc con say..."


hay trong những lời thương nhớ của nhà thơ Nguyên Khang trong bài « Khóc cha »
Đêm nay sống vui vầy bên Bố
Cuộc hàn huyên tâm mở niềm vui
Tươi sao rạng rỡ nụ cười
Hả hê tâm nguyện, thỏa lời nhớ mong

Chợt biến mất cơn lòng mộng tưởng
Nỗi xuyến xao dư hưởng lo âu
Bên mi ướt đẫm giọt sầu
Thương Cha trăm tuổi, sợ câu giã từ !

Mang tâm tưởng , con liền trở giấc
Mượn vần thơ tải tấc lòng son
Gửi trao tâm nguyện hiếu tròn
Dẫu cha xa vắng, mãi còn nhớ thương !
Hay những lời tiếc thương mà nhà thơ Việt Hải đã viết cho cha mình :
Hôm nay ngày lễ cha
Mong nhớ về cha yêu
Tôi nhớ ông thật nhiều
Trong tôi niềm thao thức
Ký ức như hôm nào
Cha tôi bao bóng hình
Cho tôi lời khôn lớn

Hôm nay ngày lễ cha
Tôi bước đi thật buồn
Cha ơi mình xa vắng
Tôi đeo loài hoa trắng
Cay đắng tràn bờ mi
Cô đơn nhìn góc phố
Nắng lung linh chợ đời

Hôm nay ngày lễ cha
Tôi bước về nghĩa trang
Không gian trời hiu quạnh
Nắng nhạt cuối chân mây
Mây trôi bay biền biệt
Ngày Cha về xứ Phật
Con, ngàn giọt lệ rơi...
Những dòng cuối này gởi về Ba yêu quí, con nguyện xin Chúa luôn luôn ban phước lành cho Ba Mẹ sống đời hạnh phúc bên nhau, và nhất là cho con và các em vui sướng được cài đóa hồng đỏ thắm trên áo và được viết những dòng thơ thâm tình cho Ba. Con xin mượn những vần thơ trong « Trên đỉnh yêu thương» của cha Nguyễn Tầm Thường để dâng lời nguyện
chúc bình an cho Ba…
Con là một cánh hoa
Mà Cha là người trồng
Khi biển đời gió lộng
Cha ấp ủ yêu thương…

Con xin cám ơn Cha
Bằng sương sớm ban mai
Con xin tạ ơn mãi
Bằng hoa lá trên đồi
Chỉ mình Cha mà thôi
Bằng tất cả hy sinh
Đã yêu con trọn tình.
Con gái cưng của ba.


****************************
Bích Phượng
Paris, Fête des Pères 2006
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

NHỮNG MẢNH ĐỜI BẤT DIỆT
Tarin65
Image
Lynh Cao chụp ảnh lưu niệm với vi Anh Nguyễn Văn Cử và Đại Tá Hoa kỳ gốc Nhật người đã bỏ công giúp nhiều cưu SQ QLVNCH đến định cư bên xứ sở tự do
.

Những ngày 6, 7, và 8-5-2005 vừa qua đã là một sự kiện lịch sử đối với những người hoa tiêu khu trục của KQVN chúng ta. Buổi đại hội này đã được chuẩn bị từ lâu, cả năm trời. Dù rằng không tham dự đại hội, Mệ cũng đã nhận xét:"Các anh làm kỷ quá ha!". Vì là người đưa tin nên chúng tôi được anh Lê văn Thặng phóng tin mỗi khi cần, nhờ đó, được vinh hạnh là người biết trước và biết đầy đủ những gì ban tổ chức đại hội muốn làm.

Ngày dự lễ thành hôn của con trai trưởng nam của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, tôi ghé tai hỏi nhỏ chị Nguyễn Văn Tường, phu nhân cố Đại Tá Nguyễn Văn Tường, Sư Đoàn Phó Sư Đoàn 3 Không Quân, và chị Lê Ngọc Duệ, phu nhân cố Đại Tá Lê Ngọc Duệ, Tư Lệnh Không Đoàn 23, hỏi các chị có đi dự ngày 30 năm hội ngộ của gia đình khu trục chúng ta không? Chúng tôi không kể siết sự vui mừng khi nhận thấy trên vẻ mặt của các chị niềm hân hoan khi nhận tin này. "Đi thì thích lắm rồi, nhưng có được mời không rồi hãy tính". Anh Thặng đồng ý, tôi báo ngay cho các chị ấy rõ. Ngày hôm sau, lại nhận điện thoại của chị Duệ cho biết thêm còn có chị Biện(từ Houston), phu nhân cố Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Biện, Phi Đội Trưởng Phi Đội B-57 đồn trú tại Đà Nẵng, và còn có chị Võ Văn Sĩ(từ Phoenix), phu nhân cố Đại Tá Võ Văn Sĩ, Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 63 Chiến Thuật, hai người này cũng muốn đi. Tôi đề nghị anh Thặng gửi thêm giấy mời cho các chị. Các chị vui mừng gửi phiếu ăn và chi phiếu ngay. Sau đó, chúng tôi được biết là danh sách đã đủ số 550 chỗ ngồi và không nhận thêm nữa. Nếu có những ai vẫn còn muốn tham dự buổi họp mặt này thì chỉ có thể dự vào ngày Thứ Sáu 6-5-2005 theo từng đơn vị, ngày 7-5-2005 thì phải ăn tối bên ngoài và vào chơi với chúng ta trong đại sãnh sau 9 giờ tối. Điều đó nói lên sự nôn nức của mọi người, già , trẻ, có cặp có đôi, hay là lẽ bạn, ai cũng muốn đến dự. Chúng tôi cũng được biết anh Nguyễn Thanh Tòng sẽ sang dự, dẫn theo phu nhân là một người Pháp 100%, nhưng luôn chiều chồng, theo chồng để hợp đoàn cùng người Việt chúng ta, và hơn mọi người, chị ấy đã mặc "áo dài" truyền thống của chúng ta. Tôi biết anh Tòng lần đầu tiên ở Trường Khu Trục Mecknès, khi chỉ có hai chúng tôi là người Việt, lần đầu tiên nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt sau nhiều năm nói tiếng Pháp nên chúng tôi đều cà-lăm tơi bời. Đối với chúng tôi, lần hội ngộ này với anh Tòng là sau đúng 47 năm từ ngày anh bỏ xứ ra đi trong hợp đoàn 4 người mà nay thì Lưu Văn Đức và Phạm Phú Quốc không còn nữa. Cũng vì anh Tòng mà có một số bạn bè đồng khóa 1 phi công Nha Trang (1951-52) cũng đã đến dự, như NT Vũ Văn Ước chẳng hạn. Anh Phạm Long Sửu cũng tốt nghiệp Khóa 1 phi công tại Nha Trang, sau đó đã sang học tại trường Salon và trường khu trục Mecknès, đã từng bay phản lực vào các năm 1957, mà là loại phản lực chiến đấu như Vampire V và Ouragan. Hổn danh của anh, theo tôi nghĩ, là do nơi phổi anh to. Hồi ở Biên Hòa bay Bearcat, anh em bảo nhau, anh Sửu không cần radio, nói chúng ta đều nghe rõ. Chúc mừng anh Sửu luôn giữ được sức khỏe tốt dù nay tuổi đã 80 rồi. Anh chị Vũ Thượng Văn dù rất bận ở Washington D.C. vào trưa ngày 7-5-2005, cũng cố gắng đến kịp lúc để vui vầy với chúng ta. Tôi cũng rất là vui khi gặp lại ông bạn già Hà Xuân Vịnh, một đàn anh đồng môn và cũng là người thả bay cho tôi trên F-8F Bearcat ở Biên Hòa năm 1957.

Già này nói quanh nói quẩn để nói lên sự háo hức trước khi đến dự. Già này mà còn hăng như thế, huống hồ các bạn trẻ hơn. Tính đi tính lại, số người tham dự là 550 người, trong số đó chỉ có một số rất ít không thuộc gia đình khu trục, tôi đoán chừng 20 người mà thôi. Một cuộc họp mặt lớn lao chưa từng thấy của anh em khu trục, có lẽ vì chúng ta đã quen hợp đoàn, nên hể có người dẫn đầu hô lên vào hợp đoàn sát cánh thì chúng ta đều có mặt, không cần phải nhắc nhở. Chẳng những người già người trẻ đều đến, mà những người không được khỏe mấy cũng đã đến. Tôi đã nhận ra ngay anh Trương Đăng Lượng, đồng khóa với Phạm Phú Quốc, là một trong số 13 người hoa tiêu khu trục đầu tiên lái F-8F tại Việt Nam, tuy đã bị tai biến mạch máu não nhiều năm, nhưng anh thường xuyên có mặt ở họp mặt bô lão, và hôm nay, anh chắc phải đến cùng anh em chúng ta. Đến để thấy lại huy hiệu Phượng Hoàng của Phi Đoàn 514, và nhất là cái tên Thần Hổ của anh cũng vẫn còn nguyên si. Thân chào Phi Đội Trưởng Thần Hổ. Một anh mà tôi chỉ vừa biết trong trại Nam Hà là anh Nguyễn Văn Bé, rất tiếc là nay anh không còn khỏe 100% như trước, nhưng cũng còn mát lắm, chỉ cần đi bộ đều đều là có ngày sẽ khỏe trở lại.

Chúng ta đã nhanh nhẩu hợp đoàn, không phải chỉ quen theo tiếng gọi, không chỉ vì chúng ta là những hoa tiêu có kỷ cương nhất, nhưng vì bản chất chúng ta, như anh Lại Quốc Ấn trình bày. Khi nhìn vào danh sách những người tham dự, chúng tôi rất mừng mà thấy được, phần đông chúng ta đều mang phi tuần viên suốt đời của chúng ta tham dự. Tôi rất hãnh diện được xếp vào hàng ngủ các anh chị đó, và xin khoe với các bạn, như tôi đã nhắc NT Dương Thiệu Hùng, hỏi anh có nhớ chúng tôi đã lấy nhau được bao năm rồi không? Bốn mươi tám năm chẳn, nghĩa là còn 2 năm nữa để chúng tôi mừng 50 năm thành lập đơn vị tí hon của chúng tôi. Những ai còn đủ vợ đủ chồng là một hạnh phúc mà bề trên ban cho chúng ta. Chứ ai có thể tự hào mình bay giỏi nên mới sống đến ngày nay? Biết bao nhiêu bạn của chúng ta đã vắng bóng trong những tấm ảnh kỷ niệm. Và các chị đã sống ra sao rồi. Đó là lý do đã có nhiều giọt lệ tuông trào, không làm sao cầm lại được. Khi anh chị Thặng làm lễ đã đành. Sau đó, mỗi lần gọi đến tên một người đã khuất, hình ảnh của anh ấy hiện lên màn ảnh, và nếu chị có mặt nơi đó, hai hàng lệ đã chảy dài xuống má. Không ai quên được họ!!! không có chiến sĩ nào đã chết thật trong lòng chúng ta, huống chi trong tâm khảm của người phối ngẫu. Những nét trầm buồn của buổi họp là những tiếng nấc dấu kín từ lâu, nay mới được thoát ra để giải phóng u sầu của người mãi sống đơn côi thờ chồng nuôi con. Anh Thặng có hỏi anh em, ai chụp được tấm ảnh nào có giọt lệ rơi trên má sẽ có thưởng...nhưng tiếc thay, hôm đó, ánh sáng quá mờ để cho những giọt lệ âm thầm tuông ra, lăn theo má, ướt cả áo mà chẳng ai chụp được.

Không khí buổi hội bớt phần căng thẳng nhờ màn hài hướt của hai anh em của NT Dương Thiệu Hùng và KQ Dương Thiệu Chí. Yêu cầu hai chàng làm ơn phổ biến bản kịch này cho cả làng thưởng thức.

Thêm vào đó, Hắc Ưng 540 cũng có một bài thơ, tựa đề

30 Năm...Tình Hạnh Ngộ

Thân Tặng

Toàn Thể Cánh Gió Khu Trục
Không Lực Việt Nam Cộng Hòa
Ngày Hạnh Ngộ Sau 30 Năm
San Jose, California 05/07/05


30 năm...Cảnh đàn tan lạc nhạn
Đời đổi thay theo thế sự thăng trầm
Kiếp tha hương lê đôi gót mỏi mòn
Lòng trĩu nặng Tình KHÔNG GIAN - TỔ QUỐC...

Có những đêm nhìn vầng trăng lệ khóc
Nhớ đường mây ngang dọc một thuở nào
Giữa muôn ngàn tinh tú vạn vì sao
Giờ xếp cánh lòng buồn đau nuối tiếc!

Vào buổi sáng nắng vàng trời xanh biếc
Nhớ làm sao thuở tung cánh vẫy vùng
Ta hiên ngang mang kiếp sống hào hùng
Suốt ngày đêm lấy gió mây làm bạn.

Giờ còn đâu? Không gian xưa trống vắng
Trời còn xanh phiêu dạt áng mây trôi?
Gió vi vu vang cung điệu hắt hiu
Lòng ta nhớ con tàu xưa trời cũ!

Đâu đồng đội?...Tám hướng trời muôn ngả
Dù cách xa tim nhung nhớ tình xưa
Mơ ước Ngày Hạnh Ngộ được cùng nhau
Tay bắt mặt mừng, buồn vui chia xẻ...

30 năm...Thời gian qua...Tình nhớ!
Mái tóc phong sương đen trắng hòa màu
Đậm tháng ngày lưu lạc sống niềm đau
Cho số phận Quê Hương và Dân Tộc.

Phượng Ly Nguyễn Tiến Thành
09-09-04@08:25

Qua câu chuyện này, chúng tôi có ý kiến như sau:chúng ta nên có một bài hát tập thể, loại vui cười, chỉ cần viết lời vào là có thể hát được cho vui trong những ngày hội. Một bài hát như thể chỉ cần 4 câu, tiếp theo 4 câu điệp khúc mà ai cũng phải hát, còn mấy câu trên thì do một người xướng cũng đủ rồi. Để làm một thí dụ, chúng tôi xin kèm theo một bài hát vui của trường Salon ở cuối bài này để các bạn tham khảo. Chúng tôi tin rằng trong chúng ta chắc chắn có người biết soạn nhạc, còn bất cứ ai cũng có thể soạn lời để đưa vào, chỉ có hay hay dở mà thôi. Được vậy, mỗi khi hội họp, chúng ta sẽ cùng nhau hát xướng cho vui, vui vì mọi người đều hát được, ít nhất là phần điệp khúc.

Tóm lại, theo ý kiến riêng tôi thì Đại Hội Khu Trục Kỳ này thành công ngoài sức tưởng tượng. Phượng Hoàng Nâu cũng đồng ý điểm đó, và anh đã phát biểu như sau:

"Tôi thật xúc động khi nhìn lại các anh trong dịp dự ngày Đại Hội Khu Trục."Dung nhan mùa hè" của các anh có thay đổi, nhưng tâm hồn các anh vẫn như thuở nào, ngày chúng mình vẫn còn sát cánh hợp đoàn để diệt loài "cộng nô".

Và anh cám ơn anh chị Thặng và anh em KQ/Bắc Cali.

Còn nhiều người cũng đã phát biểu tương tự, nhất là các anh thuộc Thần Báo 530 và các anh thuộc Khóa 72B/526. Các anh đều hãnh diện có dịp hội ngộ trong một buổi Đại Hội lớn lao như thế này.

Cũng có người cho ý kiến xây dựng như sau:

Chắc có phần vui trong những ngày tiền phi ở các đơn vị rồi, nên cái vui của ngày đại hội không quân bình nổi với cái trầm buồn.

Đại hội được tổ chức ở nhiều địa điểm khác nhau, mà ở cái city San Jose này thì đường sá cong queo dễ sợ. Thế mà không có được một bản đồ chỉ dẫn để đi khỏi bị lạc. Hay là khu trục quen bay cao độ thấp không cần bản đồ???

Nhưng điều mà chúng ta có thể khẳng định là Đại Hội lần này chứng tỏ tinh thần anh em khu trục bất diệt, người chiến sĩ dù sống dù chết vẫn được mọi người quan tâm đến. Hoan hô ngày đại hội thành công.

Tarin65
Last edited by khieulong on Wed Jun 20, 2007 8:14 pm, edited 1 time in total.
vuphong
Posts: 2753
Joined: Sun Jun 03, 2007 12:31 am
Contact:

Post by vuphong »

Vũ Văn Ước: “đưa người ta, không đưa qua sông”
Giao Chỉ – San Jose 2006, Jul 09, 2006

Cali Today News - Lịch sử không phải chỉ là chuyện 4,000 năm trước. Đôi khi, lịch sử ngồi bên cạnh ta. Hãy hỏi thăm, lịch sử sẽ trả lời, bởi vì mỗi cuộc đời là một câu chuyện lịch sử.


[left]http://img.photobucket.com/albums/v283/ ... anuoc2.gif[/left]

Câu chuyện phi công già Vũ Văn Ước đưa đám ma Pilốt Air “Marốc” Mai Văn Hạnh ngay tại Orange County mấy năm trước đã làm tôi mất ngủ. Câu thơ của Thâm Tâm vốn là lời than thở của ái tình mà sao lại vận vào chuyện đưa đám tang chiến hữu. Mai Văn Hạnh từ Pháp qua chơi Hoa Kỳ, chết ngày 31 tháng 8-2001, hưởng thọ 73 tuổi.

“Đưa người ta, không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.”

Nhưng mà Vũ Văn Ước là ai? Mai Văn Hạnh là ai?

Thưa quý vị, nếu quý vị tuổi trẻ tài cao sẽ không biết chuyện anh em chúng tôi. May ra quý vị xồn xồn và thất thập bất lão mới biết danh tiếng các bạn chúng tôi. Ai là người ra đi và ai là người đưa đám.

Mai Văn Hạnh là Pilot Không Quân Việt Nam từ thời kỳ sĩ quan quốc gia còn đeo lon gạch vàng và mặc quần xoọt trắng. Thời thế thay đổi, các sĩ quan trẻ của Không Quân như Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh đi Tây từ sớm. Các bác phần đông ở lại Paris lấy vợ đầm đẻ con lai. Cả mẹ lẫn con đều mắt xanh, tóc vàng sợi nhỏ. Lê Quốc Túy xuất quân chỉ có cặp lon chuẩn úy nhưng sau này lại thành lãnh tụ. Còn Mai Văn Hạnh, ra trường thiếu úy gốc Tây lai sau này theo tướng Hinh về Pháp.

Nếu ở Việt Nam tài hoa như Mai Văn Hạnh có thể lái Air Việt Nam. Nếu ở Pháp khéo xoay sở có thể lái Air France. Nhưng bác Hạnh vợ đầm quay ra làm phi công hàng không dân sự cho Air Marốc và Air Algérie. Chuyện thật mà cứ như đùa.

Sau 30 tháng 4-1975, hai chàng cựu Không Quân Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp lại trở thành các tay anh hùng chống cộng thứ thiệt. Họp với lãnh tụ sinh viên Trần Văn Bá, anh em tổ chức Mặt Trận Thống Nhất tìm đường Phục Quốc. Dân Việt chống cộng ở Paris tuy không nhiều, nhưng đã nói là làm. Lê Quốc Túy ở lại lo đầu cầu. Trần Văn Bá về Đông Nam Á xâm nhập miền Tây theo ghe thuyền từ Cam Bốt, Thái Lan. Chiến khu ba biên giới có 300 chiến binh đã thực sự lọt cả vào ngả Cà Mau, Minh Hải cả trăm tay súng.

Mai Văn Hạnh từ biệt vợ con về bằng máy bay qua Tân Sơn Nhất mang thông hành quốc tịch Pháp. Việc lớn chưa thành thì Bá bị bắt ở miền Tây và Hạnh bị bắt ngay tại Sài Gòn. Lê Quốc Túy lửa đốt trong lòng, chạy đôn chạy đáo ở Paris. Đảng viên bị bắt rất nhiều người kể cả em ruột của Túy là Lê Quốc Quân.

Phiên tòa xử tại Sài Gòn ngày 17 tháng 2-1976 trong nhà quốc hội cũ trên đường Catinat, Cộng sản bắc cả loa ra ngoài cho dân chúng ngồi coi. Dân “Ngụy” Sài Gòn ngồi cả ngày dài chờ đợi. Từng khuôn mặt đau thương nước mắt khóc thầm chảy xuống con đường Tự Do cũ. Tiếng thở dài giữ trong lồng ngực. Hình ảnh Video một thời vẫn còn được lưu giữ ở hải ngoại qua nhiều hãng truyền hình quốc tế. Khi bản án tử hình và chung thân đọc lên, một người hô to “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm.” Công an lấy tay bịt mồm. Hình ảnh hào hùng và đau thương vẫn còn thấy rõ.

Ngồi xem TV tại Quận Cam, Vũ Văn Ước tưởng chừng trái tim tan vỡ. Ngày xưa, Ước và Hạnh là bạn cùng bay trên vùng trời bao la. Bây giờ ngồi đó bất lực nghe tin bạn bị lên án tử hình.

Đó là chuyện Pilốt Air Marốc Mai Văn Hạnh.



[left]http://img.photobucket.com/albums/v283/ ... anuoc2.gif[/left]Bây giờ là chuyện Pilot Air nhà binh của bác Vũ Văn Ước. Ông Ước vào Không Quân từ 1951, khóa sĩ quan đầu tiên học tại Nha Trang. Từ máy bay bà già, bay lạnh cẳng cô đơn trên trời Bắc Việt rồi đến bay trực thăng, khu trục và phản lực.

Vũ Văn Ước trở thành sĩ quan phi công trẻ của Việt Nam duy nhất được bổ nhiệm ra Bắc vào đầu thập niên 50, lúc quân ta còn làm việc với Không Quân Pháp.

Tuy phải thuyên chuyển về Bắc nhưng dù sao anh sĩ quan trẻ cũng là một lần trở lại quê nhà để có dịp kết duyên với một cô gái hàng Đào, người mà chàng Pilot hào hoa vẫn còn chung thủy cho đến ngày nay.

Chuyện đời Không Quân ái tình thì lăng ba vi bộ, còn máy bay thì cũng bị rớt đôi ba lần. Cả hai chuyện đều không nhớ hết. Đối với Vũ Văn Ước chuyện tình ái và bay bổng là chuyện ngày xưa.

Thời kỳ đó, gia đình bên ngoại có một ông anh vợ tên là Phạm Văn Thường bỏ nhà ra đi biệt tích bên trời Âu từ lúc còn thiếu niên. Phần ông Vũ Văn Ước sau Geneve 54 đem vợ Hà Nội vào Sài Gòn rồi gửi trọn một đời cho Không Quân Việt Nam. Đó cũng là giai đoạn chia tay với bạn Không Quân Mai Văn Hạnh. Tình bay bổng thắm thiết nhưng rồi mỗi người theo một phương trời.

Sau hơn 20 năm chinh chiến, ông Đại tá Vũ Văn Ước có lần bay phi vụ Bắc phạt ra Vĩnh Linh vào thời kỳ làm chỉ huy trưởng Liên đoàn Tác chiến. Sau, ông về làm tư lệnh Không đoàn 62 tại Nha Trang. Không đoàn này cải tổ thành Sư đoàn 2 Không quân đảm trách toàn thể không phận Vùng 2 Chiến Thuật. Ông là tư lệnh đầu tiên của SĐ2KQ được một thời gian chưa kịp gắn sao, thì về làm Đại tá Giám đốc Bộ chỉ huy Hành quân Không quân tại Sài Gòn.

Trong thời gian ở miền Nam có chuyện gia đình đặc biệt éo le đã xảy ra mà sau này mới biết. Số là người anh vợ lưu lạc giang hồ từ Pháp về Việt Nam nay đã thành Đại tá Phạm Văn Thường thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Hai đại tá Không Quân và Bộ Binh đã từng có lúc bắt tay nhau mà không biết có liên hệ chặt chẽ chừng nào. Ông Thường bỏ nhà ra đi từ nhỏ tưởng gia đình thất lạc hay là còn ở ngoài Bắc. Cô em gái là vợ Đại tá Ước thì tưởng là ông anh đã chết từ lâu ở phương trời Âu Á. Hai công tử Hà Nội bắt tay nhau ở Sài Gòn mà cứ như người xa lạ.

Vật đổi sao rời, tháng 4-1975, gia đình Đại tá Ước di tản và định cư tại Westminster. Đại tá Thường ở lại, đi tù cải tạo và sau đó vượt biên rất muộn phải ở lại trại tỵ nạn Đông Nam Á trong nhiều năm dài.

Sau cùng ông Thường qua Mỹ hoàn toàn cô đơn, được một hạ sĩ quan người Việt gốc Hoa, trước làm thợ điện cho ông thầy, nhận bảo lãnh. Chú hạ sĩ quan ngày xưa nay là chủ tiệm vàng cư ngụ tại thị xã Westminster.

Rồi vào một buổi chiều buồn, Giao Chỉ tôi được tin, chiến hữu Phạm Văn Thường chết tại Quận Cam. Thân quyến không có một người. Anh em Tổng Tham Mưu cũ họp nhau đưa đám Đại tá Thường về nơi vĩnh cửu. Sau lễ hỏa thiêu, tro tàn để tại nghĩa trang Quận Cam.

Tôi đọc bài điếu văn than cho phần số của ông đại tá già chết cô đơn không người thân nhỏ lệ bên linh cữu. Sau đó báo tin về cho vợ con tại quê nhà.
Và cũng tại Sài Gòn, thân quyến của ông Thường ở Hà Nội có dịp liên lạc được với vợ con. Đường giây nối qua cô em gái là vợ ông Đại tá Ước ở Westminster. Khi ông bà Ước tìm được ông đại diện Giao Chỉ ở Bộ Tổng Tham Mưu thì chỉ còn một đường ra thẳng nghĩa trang mà làm lễ cầu siêu.

Đất nước điêu linh, chiến tranh chia cắt. Hai anh em Bắc Kỳ cùng ở Sài Gòn 20 năm mà không biết để gặp nhau. Đất nước Hòa Bình, quốc gia thống nhất, mà sao cả hai anh em đều phải bỏ nước lưu lạc đất khách quê người. Cùng cư ngụ ở thành phố Westminster nhỏ bé bằng bàn tay trên 10 năm không gặp nhau. Sau khi ông anh đã chết thì cô em gái ngồi xe lăn mới được ông em rể đẩy ra nghĩa trang thăm nơi yên nghỉ sau cùng.

Bà Ước bị đau đã phải ngồi xe lăn trên 10 năm nay. Nếu ở nhà thì bà có thể xoay sở lấy, khi cần ra ngoài thì có Pilot Vũ Văn Ước lái xe lăn.

Trong hơn 10 năm qua, chàng Pilot già dọc ngang không biết trên đầu có ai, nay đã thành một tay đầu bếp và nội trợ số một của miền Nam California. Bài ca hay nhất chàng hát mỗi buổi tối là bài “Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây.”

Cuộc đời của bác Ước nhà ta tưởng chừng sẽ không còn nhiều bể dâu thiên hạ sự, nào ngờ lại có dịp gặp lại bạn xưa Mai Văn Hạnh.

Số là các anh chàng Phục Quốc từ Pháp về Việt Nam bị án tử hình thì Trần Văn Bá cùng các tử tội khác đều đã bị xử bắn vào 8 tháng 1-1985. Riêng Mai Văn Hạnh vào giờ chót vì là công dân Pháp được tổng thống và chính phủ can thiệp nên chỉ ở tù. Sau cùng đã được trả tự do về Pháp.

Chuyện sống chết của Mai Văn Hạnh quả thật hết sức đặc biệt. Sau khi bản án tử hình công bố, hai cô con gái lai của bố Mai Văn Hạnh đã hết lòng đấu tranh cho sinh mạng của cha. Các cô con gái hoàn toàn không biết việc ông Hạnh về nước bị bắt. Vẫn tưởng cha còn bay cho hàng không Algérie. Cho đến khi TV Pháp chiếu phiên xử án.

Chính phủ, quốc hội, báo chí và các hãng hàng không dân sự đều lên tiếng xin Hà Nội tha cho Mai Văn Hạnh.

Cuối năm 84, Hà Nội vẫn cương quyết từ chối.

Vào đêm giao thừa 1985, tổng thống Pháp đọc bản văn chúc mừng quốc dân năm mới đã yêu cầu toàn dân cầu nguyện cho một người Pháp sắp bị Hà Nội xử tội tử hình.
Tám ngày sau, trong khám Chí Hòa, cộng sản bắn ba tử tội. Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch.

Bá là con nhà cách mạng Trần Văn Văn đã bị ám sát chết tại Sài Gòn trước 1975. Lê Quốc Quân là em của Lê Quốc Túy. Và Hồ Thái Bạch là người đã cất tiếng hô “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm” trong phiên tòa. Riêng Mai Văn Hạnh xuống án chung thân khổ sai và được thả tự do sau vài năm.

Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, cũng như biết bao nhiêu số mệnh của các anh hùng cứu quốc, vợ con chung thủy có thể đợi chờ và cũng có thể không chờ đợi mãi mãi. Nhân một chuyến du hành từ Pháp qua Mỹ, Mai Văn Hạnh bây giờ lại cô đơn gặp chiến hữu Vũ Văn Ước tại Quận Cam. Anh em đã ca bài “Tha hương ngộ cố tri – Xa quê gặp bạn cũ.”

Bẵng đi vài tuần lễ, chợt có chú em của Hạnh điện thoại báo cho bác Ước biết là anh Hạnh đã đi rồi.

Đi đâu? Vũ Văn Ước hỏi lại. Người em trả lời: “Anh Mai Văn Hạnh đã chết rồi.” Đành rằng đã có sống là phải chết. Có sinh là có tử. Nhưng con người đã bị cộng sản Hà Nội lên án xử tử mà không chết, lẽ nào đi chơi Hoa Kỳ lại lăn ra chết. Nhưng đó là sự thật. Ông Ước tạm biệt bà vợ đang ngồi xe lăn, tất tả chạy đi đưa đám ma Mai Văn Hạnh.

Đám ma người anh hùng Không Quân Phục Quốc hết sức thê lương và trống vắng. Nhưng theo đúng ý nguyện người quá cố dặn lại chú em. Xin ai đừng hỏi vợ con thân quyến đâu cả. Sẽ không ai trả lời. Bạn bè có thể rất đông nhưng không cho ai biết. Đồng bào có thể rất đông nhưng không cho ai hay. Di hài đem hỏa thiêu nằm trong quan tài bằng bìa cứng. Đặt trên chiếc xe đẩy. Không có lá quốc kỳ thì làm gì còn nói đến lễ phủ cờ. Vàng hương cũng chẳng có. Một vài người thân hữu xa gần lốc thốc đi theo. Người anh hùng sống đã vô danh và chết cũng vô danh.

Đại tá Vũ Văn Ước đã từng là Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân trong vùng trời lửa đạn. Ngày xưa tuần nào mà chẳng có ngày đi đưa đám phi công và chiến hữu. Nhưng đám ma quân đội là phải lễ nghi quân cách đâu ra đấy. Bây giờ sống ở xứ sở văn minh hùng cường, phương tiện thiếu gì. Thế mà trở đi trở lại, có đám ma ông anh vợ hết sức cô đơn thì ông lại đến muộn. Còn đám ma bạn thân một thời bay bổng từ Á châu đến Âu châu, nay trời tạo cơ duyên hạ cánh lần chót ở Hoa Kỳ thì lễ an táng cực kỳ đạm bạc.

Có lẽ số của Pilot Air Marốc Mai Văn Hạnh là số của người tử tội sống thêm. Vì vậy, cái chết của ông cũng chỉ khá hơn bạn Phục Quốc Trần Văn Bá bị vùi dập sau loạt đạn xử án tử hình tại bức tường đẫm máu trong trại giam Chí Hòa.

Đó là lý do tại sao câu chuyện đi đưa đám ma người anh hùng Phục Quốc của bác Vũ Văn Ước đã làm tôi mất ngủ. Nhưng rồi nói lại cho cùng, tang lễ linh đình để mà làm gì. Không lẽ đã là đồng chí của Trần Văn Bá nhưng may mắn sống thêm được 20 năm, Mai Văn Hạnh đâu phải chỉ chờ đợi một đám tang huy hoàng hơn người tử tội chiến hữu một thời.

Đành phải coi như Pilot già Vũ Văn Ước đại diện toàn thể Không Quân Việt Nam tiễn đưa Mai Văn Hạnh. “Đưa người ta, không đưa qua sông. Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng.”

Nhưng ông Ước nhân chuyện đám ma còn nhắc lại biết bao nhiêu là hy sinh gian khổ của các bạn thân một nhà toàn Pilot. Mai Văn Hạnh có các em là Mai Văn Hiền, Mai Văn Hải đều là không quân và đều đã hy sinh.

Nhà họ Bùi có Bùi Quang Các, Bùi Quang Ninh và Bùi Quang Đài cũng đều là dân bay bổng và đã không còn nữa. Chết hết trong chiến tranh. Nhà họ Dương có Dương Thiệu Hùng, Dương Thiệu Cường và Dương Thiệu Ân thì hai anh đã hy sinh chỉ còn em ở Florida.

Ông Ước nói rằng, như vậy không quân chúng tôi hy sinh trước 75 và lại còn có các bạn tiếp tục đánh sau 75. Vậy Bộ Tổng Tham Mưu của các ông đã thấy đủ tài liệu để ghi lại chưa? Vâng thưa bạn, tin tứ như thế là quá đủ rồi.

Hình như tôi đã kể cho quý vị một câu chuyện quá buồn. Bây giờ xin chữa lại.
Pilot Air nhà binh Vũ Văn Ước năm trước bị đau tim đã Email loan báo đi bốn phương trời. “Cầm bằng gửi gió cho mây ngàn bay.” Chàng đã xa con số 70 và gần con số tám chục rồi. Bây giờ đi đâu mà chẳng được. Nhưng rồi Email lại tới tấp loan báo tin bác vẫn KA RA OK.

Mỗi khi bác lên San Jose, Pilot phản lực Vũ Văn Ước đều khoe chuyện tề gia nội trợ, săn sóc cho vợ hiền làm cho cánh đàn ông ở San Jose hết sức vất vả bởi vì không thể nào theo kịp. Ông kể thành tích nấu cơm, rửa bát rồi ông ca tụng đàn bà nên mỗi chuyến viếng thăm của bác Ước thì quý bà chào đón nhưng lại là cơn ác mộng của quý ông.

Nhưng vào ngày 23 tháng 7-2006, chúng tôi vẫn can đảm mời Pilot già Vũ Văn Ước lên tham dự 30 năm hội ngộ tại Kobe. Ông sẽ hát bài ở đời “Không có gì đẹp bằng tình yêu hai chúng ta,” ông sẽ đưa em trên “Đường về Việt Bắc.”

Ôi, người phi công anh dũng muôn đời đã dành trọn vẹn phần cuối của kiếp phù du với 13 năm qua lái xe lăn cho vợ. Hơi thở tình yêu cuối đời sẽ cho ông sống mãi trăm năm.

Giao Chỉ – San Jose 2006
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Ông Thầy
Người viết Sapy Nguyễn Văn Hưởng
Tôi rời đất nước ra đi vào cuối tháng 7 năm 1976 rồi qua Mỹ định cư tại thành phố San Diego từ năm 1977. Tuy sống ở một nơi có đông đồng hương, lại gần Little Saigon, thủ phủ người Việt Tỵ Nạn. Nhưng đối với các sinh hoạt hội đoàn tôi chỉ là người đứng bên lề, mặc dù trong lòng lúc nào cũng thao thức nghĩ về quê hương đất nước. Rồi không hiểu sao, khi hay tin các cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Bộ Binh Thủ Đức San Diego ngồi lại bàn tính việc thành lập hội trong năm 2001, tôi lại đến tham dự và sau đó ghi danh xin gia nhập để chính thức trở thành một hội viên. Cũng trong phiên họp ấy, lòng tôi bùi ngùi xúc động, ngây ngất ngắm nhìn một vài anh em gọn gàng trong bộ quân phục ka ki vàng đi phép ngày nào, trên cầu vai lóng lánh hai chiếc Alpha bóng lộn. Quân phục số hai là bộ quần áo tôi ngắm nghía nhiều nhất, ngắm đến mấy tuần lễ liên tiếp. Cho đến một ngày, tôi mừng đến phát run lên khi được mặc nó trên người để đi nhận tấm giấy phép xuất trại lần đầu, sau sáu tuần lễ huấn nhục. Giờ tôi lại muốn mặc lại nó, để được quay về quá khứ, sống với đồi Tăng Nhơn Phú, với Vũ Đình Trường, với những giờ phép ngắn ngủi lang thang nơi Sàigòn hoa lệ và cả với những đêm dài nằm trong nhà giam 301...

Buổi họp tan, tôi đem luôn những giây phút ngây ngất ấy về nhà. Rồi theo lời bạn bè chỉ dẫn, tôi đi lùng tìm mua bộ quân phục số hai. Nhưng khi đứng trước rừng quân phục trong một cửa hiệu bán quân trang quân dụng, tôi lại lưỡng lự. Màu xanh ô liu bộ quân phục người lính Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa mà tôi mặc mỗi ngày, trong suốt cuộc đời lính; cũng quyến rũ, làm tôi phân vân không biết nên chọn bộ nào để khoác lên người sau hơn một phần tư thế kỷ tự tay cởi bỏ nó ra. Tuy ngôi trường Thủ Đức, nơi khắc ghi một dấu ấn đậm nét trong tôi, nhưng tôi sống ở đó chỉ vỏn vẹn mười sáu tuần lễ. Còn với bộ quân phục màu ô liu và huy hiệu Sét Miền Tây Sư Đoàn 21 Bộ Binh, theo tôi những hơn sáu năm dài. Nghĩ vậy, nên tuy đã là thành viên của hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức, một hội đoàn duy nhất mà tôi gia nhập sau gần nửa cuộc đời sống lưu vong nơi thành phố San Diego hiền hòa này, tôi lại quyết định mua cho mình bộ quân phục trây di.
Khoác bộ trây di lên người, tôi đứng nhìn ngắm mình trong gương thật lâu. Tôi thấy tôi đúng là một Tân Khóa Sinh. Rồi hình ảnh đoàn xe GMC, chở gần một ngàn Khóa Sinh Dự Bị Sĩ Quan Khóa 1/69 từ Quang Trung lên Thủ Đức ngày nào ngời sáng lên trong tâm thức tôi, còn bên tai, văng vẳng những khúc quân hành được mọi người đồng loạt hát vang trên suốt đoạn đường di chuyển. Cả khóa tôi đều tưởng phải ra Đồng Đế học tiếp giai đoạn hai. Nên khi nhận tin, được lên Thủ Đức, được ở sát cạnh Thủ Đô Sàigòn thì mọi người đều hớn hở vui mừng. Lúc đoàn xe qua khỏi cổng chính tiến vào khuôn viên nhà trường, niềm vui dâng cao thêm, làm tiếng hát, tiếng vỗ tay càng rộn ràng hơn. Tiếng hát chợt ngưng bặt lúc đoàn xe sửa soạn dừng lại nơi Vũ Đình Trường. Mọi người trố mắt nhìn ngắm khoảng một trung đội Sinh Viên Sĩ Quan, mặc đồng phục ka ki vàng thẳng nếp, giày máp bóng lộn, alpha sáng chói, đang nhịp nhàng hùng dũng đều bước. Đoàn quân dừng lại bên cạnh những chiếc GMC vừa đỗ lại. Cả toán quân nhanh chóng tỏa ra đứng ngay phía sau xe, rồi đồng loạt chào đón chúng tôi bằng những tiếng thét kinh hồn, thúc dục mọi người mau chóng nhảy xuống xe. Những tiếng thét làm tôi khiếp đảm. Tôi tuy không được nghe tiếng hét danh tướng Trương Phi bên cầu Trường Bản, nhưng tôi nghĩ Trương Phi hét to lắm cũng chỉ tương đương với tiếng thét các Cấp Trưởng dằn mặt chúng tôi vào những giờ phút đầu hội ngộ với ngôi trường Thủ Đức. Bầu không khí “hắc ám” phủ kín đoàn xe, làm lịm tắt ngay mọi nỗi vui mừng hớn hở. Riêng tôi, chưa kịp vác túi quân trang lên vai đã gặp ngay một Cấp Trưởng đứng nghiêm chỉnh trước mặt bảo trình diện. Tôi những tưởng sau chín tuần lễ thụ huấn căn bản quân sự ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung xong là đương nhiên đã trở thành một Sinh Viên Sĩ Quan. Nên tôi dơ tay lên chào Cấp Trưởng rồi ha to trình diện:
- Sinh Viên Sĩ Quan Nguyễn Văn Hưởng...
Tôi nói chưa dứt câu, Cấp Trưởng đã dõng dạc hô to hơn cắt ngang lời tôi:
- Ai gắn Alpha cho anh mà anh dám tự xưng là Sinh Viên Sĩ Quan? Ra làm cho tôi 20 cái bơm.
Như một cái máy, tôi đáp lại:
- Tuân lệnh!
Lời tôi nói chỉ là một phản xạ tự nhiên, chớ tôi đâu hiểu hình phạt “bơm” là gì. Thấy tôi ngơ ngác, vẫn đứng trong tư thế nghiêm, Cấp Trưởng chống tay xuống theo tư thế hít đất, vừa nhấp nhô lên xuống vừa hét to:
- Bơm là làm như vầy này. Hiểu chưa!
Nhìn Cấp Trưởng “biểu diễn” tôi mới hiểu ra “bơm” là gì. Thế là tôi chống hai tay xuống đất bơm lên bơm xuống thi hành lệnh. Kể từ đó tôi yêu tiếng bơm ngắn gọn gợi hình hơn tiếng hít đất thường dùng.
Ngay cái giây phút đầu hội ngộ ấy, chẳng phải riêng tôi, mà ai cũng bị phạt, mỗi người mỗi kiểu, người thụt dầu, người nhảy xổm, người bò, người trườn...Chúng tôi như biến thành những con chuột nhũn ra trước tiếng thét kinh hoàng của đàn mèo cấp trưởng. Thi hành lệnh phạt xong chúng tôi như bầy vịt xách túi quân trang, sắp ngay hàng thẳng lối để đàn anh phân chia đại đội. Khi hàng ngũ đã chỉnh tề. Một Cấp Trưởng hùng dũng đứng trước hàng quân dõng dạc tuyên bố:
- Kể từ giờ phút này các anh chính thức gia nhập hàng ngũ Tân Khóa Sinh Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức. Các anh đang ở trong giai đoạn huấn nhục, kéo dài đúng sáu tuần lễ. Trong suốt thời gian này, các anh phải tuân hành tuyệt đối mọi mệnh lệnh do các Sĩ Quan Cán Bộ, Sinh Viên Sĩ Quan khóa đàn anh ban ra. Là Tân Khóa Sinh, các anh như người không tên tuổi. Tôi cho các anh đúng năm phút, tháo gỡ hết các bảng tên được may trên áo ra. Các anh hiểu rõ chưa?
Tất cả đều đồng loạt hô to:
- Rõ!
Tiếng rõ vừa dứt, mọi người hối hả mở túi quân trang lục tìm dao kéo, lưỡi lam...rồi giúp nhau cắt hết các bảng tên may trên miệng túi áo mình. Vài phút ngắn ngủi sau, cả khoá tôi ai cũng trở thành người vô danh tiểu tốt.
Những giây phút đầu tiên được các đàn anh dàn chào dằn mặt nơi Vũ Đình Trường, làm tôi nhớ mãi. Trong lúc đó, nếu có một ai đến hỏi tôi, người tôi sợ nhất trên đời này là ai, tôi không ngần ngại trả lời ngay: Đó là các Cấp Trưởng. Còn hạng người tôi “thù” nhất cũng chính là các Cấp Trưởng. Tôi “thù” họ tận xương tận tủy, quyết sống để bụng, chết mang theo. Nhưng chỉ vài tháng sau. Lịch sử lại tái diễn. Khi trên cầu vai, trên cổ áo tôi được gắn lên “con cá”, rồi được cắt cử đi làm Cấp Trưởng hù dọa, nạt nộ đàn em mình. Đến lúc đó tự nhiên “mối thù” ấy tan biến trong tôi. Cho đến bây giờ, đã hơn ba mươi lăm năm không còn phải bơm, phải bò, phải móc chân lên tường, phải bị phạt dã chiến...nhưng hình ảnh thời Tân Khóa Sinh vẫn không nhạt phai trong tôi. Tôi xem đó là thời gian tôi được cung cấp thêm bản lãnh, lấy đi cái mặc cảm yếu đuối sợ sệt có sẵn trong tôi, giúp tôi nhận ra mình có đủ khả năng đương đầu với mọi khó khăn, nguy hiểm, sóng gió... Trường học trang bị cho tôi kiến thức, còn trường Bộ Binh Thủ Đức đem đến cho tôi sức mạnh, niềm tin, can đảm...và đưa tôi lao thẳng vào đời.

Hình ảnh hôm đầu tiên lên Thủ Đức, nay tôi lại nhìn thấy nó trong tấm gương trước mặt. Bởi bộ quân phục tôi mới mua về cũng không có bảng tên, không phù hiệu. Tôi chợt mỉm cười với mình rồi bước ra khỏi phòng cho bà xã nhìn ngắm lại “người hùng” năm xưa, rồi tôi năn nỉ ỉ ôi nhờ thêu cho một bảng tên lên trên túi áo. Bà nhà tôi cũng muốn đồng hành cùng chồng quay về dĩ vãng, nên đi tìm kim chỉ thêu ngay tấm bảng tên cho tôi. Thế là hơn một giờ sau, mặc lại chiếc áo lên người, tôi thấy mình như đã vượt qua giai đoạn huấn nhục, không còn là một Tân Khóa Sinh nữa.
Ngắm lại mình trong gương, tôi cảm thấy như vẫn còn thiêu thiếu một cái gì. Liếc ngang liếc dọc, quay tới quay lui một lát, tôi nhận ra, trên cổ áo không còn những bông mai nở đẹp. Tôi chau mày phân vân tự hỏi: “Có nên gắn những bông mai ngày cũ lên cổ áo hay không?”. Tôi biết, chỉ cần nhờ một tiếng là tôi có ngay. Ngày xưa chính tay nhà tôi nắn nót thêu lên cho tôi những bông mai ấy. Đắn đo suy nghĩ mãi, cuối cùng tôi quyết định, chỉ đóng vai người lính trơn.
Cầm trong tay huy hiệu “Cư An Tư Nguy” của trường Bộ Binh Thủ Đức mà lòng tôi lại mơ đến một phù hiệu có vệt sét vàng ở ngay trung tâm, tỏa lan thành 21 nhánh màu xanh hy vọng. Làm sao tôi có được huy hiệu Sét Miền Tây của Sư Đoàn 21 Bộ Binh??? Nhưng thôi, có còn hơn không! Tôi tự nhủ với lòng như vậy. Rồi huy hiệu Cư An Tư Nguy được nhà tôi may lên tay áo. Tôi thấy vẻ đẹp mình được “nâng cấp”, ngắm thêm một lát nữa, tôi tưởng như mình vừa được thuyên chuyển về trường làm cán bộ hay huấn luyện viên.
Tuy đã quyết định không mang lon lá trên cổ áo, nhưng điều ấy vẫn còn trăn trở trong tôi. Sự việc này mãi cho đến hôm đi họp thường niên, bầu lại ban chấp hành mới cho hội Thủ Đức San Diego niên khóa 2003 – 2005, mới chấm dứt hẳn trong tôi. Hôm ấy, tôi thấy có vài đồng môn đeo lon trên cổ áo. Nhìn họ, tôi nhận ra quyết định trước đây của tôi là đúng.

Giải quyết việc đeo lon lá trên bộ quân phục xong, tôi lại nghĩ đến việc đeo lon lá nơi cửa miệng. Mãi cho đến bây giờ, sau gần ba mươi năm chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tan rã. Mỗi lần anh em đồng đội ngày xưa gặp lại nhau, việc xưng hô dường như mỗi người mỗi ý. Có người vẫn gọi nhau bằng cấp bậc, chức vụ cũ, có người gọi nhau theo tuổi tác...Với tôi, việc này đúng hay sai là “tùy người đối diện”. Tiện đây tôi xin chia sẻ với các bạn đồng môn một vài việc đã xảy ra với tôi, để giải tỏa bớt những đá sỏi trong lòng.

Hay tin ông Đơn Vị Trưởng cuối cùng của tôi được sang Mỹ theo chương trình HO sau hơn 10 năm bị tù cải tạo. Từ San Diego tôi chạy lên Los Angeles thăm ông ngay. Bởi mặc thường phục nên tôi không thể giơ tay lên chào kính ông, mà chỉ đưa tay ra bắt rồi lên tiếng hỏi thăm ông:
- Thiếu Tá dạo này có khỏe không?
Giọng ông rầu rầu nửa như mỉa mai, nửa như chua xót bảo tôi:
- Tôi xin anh đừng xưng hô bằng cấp bậc với tôi như ngày trước nữa, giờ chúng ta xem nhau như anh em đi cho thân mật.
Ngay trong giây phút đầu gặp gỡ, tôi không biết phải xưng hô với ông làm sao cho phải đạo. Lời chào hỏi trong giây phút ngỡ ngàng, là lời thốt ra tự nhiên, hoàn toàn không có chuẩn bị trước. Nhưng sau khi “nhận lệnh” thay đổi cách xưng hô, tôi thấy hơi xốn xang đôi chút, rồi càng về sau càng thoải mái hơn cho cả ông Đơn Vị Trưởng lẫn tôi. Sự chuyển đổi này cũng không làm giảm sút sự tôn kính cá nhân ông trong tôi mà nó còn tăng thêm nhờ sự thân thiết, nhờ mất đi khoảng cách giữa cấp chỉ huy và người thuộc cấp. Ngày xưa, sự tôn kính rất có thể phát sinh ra từ cặp lon trên cổ áo, từ chức vụ ông đảm nhận. Giờ đây những thứ ấy mất đi và được thay bằng sự tôn trọng lẫn nhau, bằng những kỷ niệm: “sống chết có nhau là huynh đệ chi binh”

Về thăm quê hương lần nào tôi cũng ghé lại Bạc Liêu, nơi tôi đóng quân ngày trước để tìm lại anh em cùng đơn vị. Dù đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, các chiến hữu tôi bây giờ mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người, mỗi cuộc sống khác nhau. Nhưng kỷ niệm, tâm tình những ngày sống bên nhau thì hoàn toàn không thay đổi. Nó là những bảo vật nằm sâu kín trong lòng mà không ai có thể đụng chạm tới để vứt bỏ nó đi được. Nói chuyện với nhau, tôi cảm nhận được, cái tình nghĩa bây giờ còn đậm đà hơn cả ngày trước rất nhiều.

Chuyến về nước trong dịp Tết Quý Mùi 2003, tôi dọ hỏi mãi mới có được địa chỉ Phan Thành Nghiệp, người binh sĩ thân cận với tôi ngày nào. Nghiệp ở thật sâu trong ruộng, nên tôi phải ghi chép kỹ lưỡng từng lời người chỉ dẫn đường đến nhà Nghiệp, để mong tìm đến đúng nơi. Từ ngoài tỉnh Cà Mau, tôi thuê Honda ôm đi tìm Nghiệp. Người lái xe phải dừng xe hỏi thăm đường năm lần bảy lượt mới đưa tôi đến đúng nơi. Lúc xuống xe, nhìn vào trong nhà, tôi thấy một ông già hom hem ngồi hướng mắt trông ra bờ kinh. Nhìn kỹ ông ta thêm, tôi nhận ra đó chính là Nghiệp, tự nhiên niềm đau xót dâng lên ngập lòng tôi. Nghiệp hơn tôi vài tuổi, chỉ mới ngoài sáu mươi thôi mà nom như ông cụ. Đến bên Nghiệp, tôi lên tiếng hỏi để thử xem Nghiệp có nhận ra tôi không:
- Anh có phải là Sáu Nghiệp không?
- Đúng rồi! Mà cậu hỏi tui có chuyện chi không?
Vậy là Nghiệp không nhận ra tôi. Khi xưa tôi cân nặng không đến 50 ký lô, nay đã hơn 75, thì làm sao Nghiệp nhận ra cho được. Tôi vẫn cố hỏi thêm:
- Bộ anh không nhớ tôi sao?
Quan sát tôi thêm một chặp nữa, Nghiệp lắc đầu:
- Tui không quen biết cậu!
Nghe giọng Nghiệp, tôi đoán Nghiệp tưởng tôi là công an đến điều tra việc gì. Để gây ngạc nhiên và nhân tiện “hù dọa” Nghiệp một chút cho vui trong ngày đầu hội ngộ, tôi hỏi tiếp:
- Có phải ngày trước anh đi lính trên Bạc Liêu không?
Nghiệp tỏ vẻ hơi hốt hoảng, lính quýnh trả lời:
- Đúng, nhưng hồi đó tui bị bắt quân dịch.
Tôi nghiêm nét mặt làm như người đang thẩm vấn:
- Anh cho tôi biết ai là Tiểu Đoàn Trưởng của anh?
- Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Thẩm.
- Ai là Trưởng Ban Một?
- Thiếu Úy Lê Văn Đào.
- Trưởng Ban Hai?
- Thiếu Úy Nguyễn Văn Hưởng.
Tôi cười bảo Nghiệp:
- Anh nhìn kỹ tôi xem có giống Thiếu Úy Hưởng không?
Mắt Nghiệp hơi kém nên nheo lại, ghé mặt sát gần thêm, cố nhìn kỹ tôi thêm một lần nữa, rồi xác quyết:
- Cậu không phải là Thiếu Úy Hưởng, ông Hưởng tạng người ốm cao, có đeo kính nhốp.
Ngày trước mắt tôi cận thị, nay đã mổ mắt nên Nghiệp không tìm thấy cái kính nhốp trên gương mặt tôi. Biết Nghiệp không tài nào nhận ra, nên tôi nói nghiêm chỉnh trở lại:
- Tôi là Hưởng đến thăm anh đây, tôi không nói giởn chơi đâu, anh cố nhìn và nhớ lại xem.
Nghiệp lại tiếp tục nhìn ngắm tôi. Bỗng nhiên anh nhảy dựng lên, vỗ mạnh vào vai tôi nói như hét:
- Đúng rồi, tôi nhìn ra “Ông Thầy” rồi, nhờ cái nhân trung này nè. “Ông Thầy” dạo này mập quá làm sao tôi nhìn ngay ra cho được, còn cái kính nhốp “Ông Thầy” đâu rồi???...
Nghiệp cứ thao thao bất tuyệt hỏi hết chuyện này đến chuyện khác, Nghiệp nói như muốn tuôn ra tất cả những điều chất chứa trong lòng. Nghiệp cứ nói, cứ hỏi nhưng tôi không thể nào chen vào ngắt lời được. Tôi nghĩ sự hiện diện của tôi trong căn nhà lá này đã đủ để trả lời cho mọi câu Nghiệp hỏi. Nghĩ vậy nên tôi đứng im nhìn Nghiệp, để mặc Nghiệp nói gì thì nói, để mặc cho lòng tôi bồi hồi thổn thức. Nghiệp dứt lời, đứng nhìn tôi đăm đăm, tôi thấy đôi giọt lệ lăn trên má nhăn nheo của Nghiệp. Để cho niềm xúc động lắng xuống, Nghiệp mới bảo người nhà rót nước mời khách, rồi kêu vợ con ra “trình diện” tôi.
Nghiệp kể tôi nghe những gian truân sau ngày quê hương hoàn toàn lọt vào tay người Cộng Sản. Người vợ trước của Nghiệp mất gần hai chục năm nay, Nghiệp cưới vợ sau để có người hủ hỉ lúc tuổi già. Nhưng hủ hỉ thiếu kế hoạch nên lại có thêm mấy đứa con nheo nhóc. Nhìn đám con Nghiệp tôi lắc đầu. Nhìn lên bàn thờ, đã gần Tết mà chưa có mâm hoa quả nhang đèn bày ra. Nhìn lên cái mái căn chòi lá, vài tia nắng xuyên qua làm tôi chóa mắt. Câu hát “giúp đỡ lẫn nhau là huynh đệ chi binh” lại vang lên trong tôi. Tôi rủ Nghiệp cùng vợ con ra chợ xã sắm sửa Tết. Nhìn mấy đứa con Nghiệp vui tươi, hớn hở, rạng rỡ xúng xính trong bộ quần áo mới khiến tôi thấy được ngày Tết năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Tôi bảo Nghiệp cứ tự nhiên mua sắm, miễn làm sao cho cả nhà có một cái Tết ấm cúng no đủ là được. Lúc sắp ra về, đứa con gái Nghiệp lại nắm tay tôi thủ thỉ:
- “Ông Thầy” ơi! Mua cho con đôi bông tai được hông?
Nghe vậy Nghiệp vội la con:
- “Ông Thầy” mua cho tụi mày gần hết cái chợ rồi còn đòi hỏi gì nữa!
Đứa bé lấm lét bỏ đi. Tôi vẫy gọi nó lại rồi bảo:
- Để “Ông Thầy” mua cho con đôi bông tai.

Tôi kể chuyện đi thăm người chiến hữu Phan Thành Nghiệp ra đây không phải để quảng cáo lòng “hào hiệp” của mình. Tất cả những gì tôi làm được cho Nghiệp cùng gia đình, tôi đã được đền trả gấp bội rồi. Hôm ấy tôi hết sức vui sướng, khi nhìn gương mặt con cái Nghiệp tươi cười rạng rỡ, khi thấy nàng Xuân đã hiện diện trong căn nhà Nghiệp qua những bộ quần áo mới, qua mâm hoa quả, nhang đèn trên bàn thờ...và nhất là hai tiếng “Ông Thầy” Nghiệp gọi tôi, con Nghiệp gọi tôi. Hai tiếng “Ông Thầy” này không xa lạ gì với mỗi người lính. Nhưng từ hôm đến thăm Nghiệp, tôi mới cảm nhận hết cái hay ho của nó. Qua cách xưng hô này, tôi và Nghiệp vẫn giữ được tình xưa nghĩa cũ, tránh được cách xưng hô theo lối cũ không còn hợp thời. Chúng tôi có thể nói chuyện thoải mái trước mặt nhau, trước mặt mọi người, kể cả trước mặt người Cộng Sản mà vẫn không bị một trở ngại nào. Tuy hai tiếng “Ông Thầy” đối với tôi thật hay, nhưng câu ông bà ta dạy vẫn luôn là kim chỉ nam cho mọi người: “Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

Phóng sự đặc biệt ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 Tháng Sáu:

Harry Trần Ngọc Huế, một chiến binh anh dũng và trung thành
Sunday, June 17, 2007


Image
Bàn tay chỉ còn hai ngón nguyên vẹn của Harry Trần Ngọc Huế và những tấm huy chương

Image
Harry Trần Ngọc Huế: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết.”



Bài và hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt

FALLS CHURCH, Virginia (NV) - “Harry Trần Ngọc Huế là một chiến binh lỗi lạc và ông đã phải trả giá đắt cho sự trung thành với tổ quốc mình trong cuộc chiến Việt Nam.” Ðó là lời mà Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ James Webb (Dân Chủ-Virginia) viết cho người cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) này trong một bức thư đề ngày 4 Tháng Tư vừa qua.


Qua một người bạn giới thiệu, tôi được gặp người đàn ông mà nhiều người trong Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong đó có Thượng Nghị Sĩ Webb, từng là bộ trưởng Bộ Hải Quân, gọi là “anh hùng của những anh hùng (Hero of the Heroes).”


Tướng cao to, khỏe mạnh, mặc dù tuổi đã ngoài 60, bàn tay trái chỉ còn hai ngón nguyên vẹn, cộng với một vài vết thẹo trên khuôn mặt và phía dưới cằm, ít ai ngờ rằng, con người này đã từng vào sinh ra tử biết bao lần, nhất là cuộc chiến lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh và Ðại Nội Huế, hồi Tết Mậu Thân 1968.


Vì những hành động anh hùng của mình, ông Harry Trần Ngọc Huế đã được Hoa Kỳ tặng thưởng một huy chương “Ngôi Sao Bạc” (Silver Star) và một huy chương “Ngôi Sao Ðồng” (Bronze Star). Ngoài ra, ông cũng được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương cùng nhiều huy chương cao quý khác.

Harry là tên các cố vấn Mỹ đặt cho ông.


Cuộc tái chiếm Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh


Là đại đội trưởng Ðại Ðội Hắc Báo, lực lượng tổng trừ bị của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh QLVNCH, Trung Úy Trần Ngọc Huế đã khôn khéo và dũng cảm chỉ huy trận chiến một mất một còn với quân đội Bắc Việt để lấy lại quyền kiểm soát Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1, nơi đầu não chỉ huy tái chiếm lại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.

Người cựu chiến binh này kể: “Lúc đó, Ðại Ðội Hắc Báo của chúng tôi là Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (Fast Reaction Forces) đóng tại sân bay Thành Nội. Ðêm đó là mùng một Tết và quân đội Bắc Việt đã tấn công nhà đèn, Thiết Ðoàn 7 Thiết Giáp, Phú Văn Lâu, Tòa Hành Chính Tỉnh và Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1. Ngoài đường phố tràn ngập lính Bắc Việt, phi trường bị pháo kích dữ dội...”

Ông kể tiếp: “Chúng tôi có 6 trung đội, sau khi bố trí quân, tôi về nhà nghỉ. Một lúc sau, thấy pháo dữ dội quá, tôi trở dậy, mặc đồ lính đi. Trong đêm tối, tôi thấy đặc công Bắc Việt đi hàng hàng lớp lớp ngoài đường.”

“Lúc đó, tôi rất lưỡng lự, không biết có nên đi hay không vì con gái đầu lòng của tôi mới sinh được một tháng. Tôi có thể trở về nhà với vợ con, nhưng nghĩ lại trách nhiệm của người lính và một chỉ huy. Hơn nữa, nếu nước mất nhà tan, thì chưa chắc gia đình tôi yên ổn. Thế là tôi tiếp tục đi phía sau họ để đến phi trường,” người anh hùng này kể tiếp.

Khi đến sân bay, theo lời ông kể, đặc công Bắc Việt đã tiếp cận bộ chỉ huy Ðại Ðội Hắc Báo của TrungÚy Huế.

“Họ chiến đấu rất hăng say. Họ mặc quần đùi, đeo súng AK bá xếp. Tuy nhiên, các anh em Hắc Báo đã dũng cảm chiến đấu và đánh bật đối phương ra khỏi phi trường. Chúng tôi cứu được hai lính thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, lúc đó có nhiệm vụ bảo vệ phi trường, khỏi tay quân địch,” ông Huế kể tiếp.

Sau đó, đơn vị Hắc Báo lại được lệnh của Trung Tá Ngô Văn Chung, trưởng phòng 3, Sư Ðoàn 1, qua giải cứu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, đang bị địch vây hãm.

“Liền đó, tôi nghe trên điện đàm tiếng Trung Tá Chung nói: Ðây là lệnh của mặt trời (ẩn danh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Nếu không thi hành sẽ bị đưa ra tòa án mặt trận”. Ông Huế kể.

Qua hệ thống vô tuyến chỉ huy, ông Huế cũng nghe được lệnh của Trung Tá Chung ra lệnh cho Thiết Ðoàn 7, đồn trú tại An Cựu, đưa xe tăng sang cứu Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn.

“Tuy nhiên, Trung Tá Chí, thiết đoàn trưởng Thiết Ðoàn 7 Thiết Giáp, cho sư đoàn biết là hiện tại bộ chỉ huy của ông đang bị pháo và đặc công uy hiếp nặng nề,” ông Huế kể tiếp.

Sau khi ổn định tình hình, Trung Úy Huế tập trung anh em Hắc Báo lại và ban lệnh hành quân kế tiếp.

Ông kể: “Tôi nói với anh em rằng, một nửa đại đội phòng thủ phía Nam sông Hương đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và tôi đã mất liên lạc. Nay Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn đang bị vây hãm, tình thế thập tử nhất sinh, tất cả đều trông cậy vào Hắc Báo chúng tôi. Vì sự sống còn của anh em và gia đình, vì sự sống còn của đồng bào và thành phố, chúng tôi quyết phải đánh, dù bất cứ giá nào.”

Sau khi nghe đại đội trưởng Huế nói, tất cả đều hô to “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” và “Huế ơi, có chúng tôi đây!”

“Ðó là lời thề của các chiến sĩ Hắc Báo trước khi xung trận,” cựu đại đội trưởng Hắc Báo cho biết tiếp.

Nhờ sống ở Huế lâu và rất rành đường đi nước bước trong thành phố, nên ông Huế dễ dàng dẫn quân luồn lách qua những ngả đường, đến nơi mà địch hoàn toàn không biết.

Người cựu chiến binh QLVNCH này say sưa kể: “Khi đến bên này Cầu Kho, tôi thấy bên kia cầu, gần cổng chính vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, địch đang lúc nhúc đào công sự, chuẩn bị tấn công. Bên trong bộ tư lệnh không thể nào ra được. Ngoài nhân viên Việt Nam còn có một số cố vấn Mỹ trong đó. Nếu bộ tư lệnh mà bị chiếm là coi như rắn mất đầu. Thế là chúng tôi phải dốc toàn lực đánh một mất một còn với địch.”

Theo ông Huế, Hắc Báo là đơn vị đầu tiên của Sư Ðoàn 1 có súng M16, được coi là tối tân nhất lúc đó. Họ cũng sử dụng súng phóng hỏa tiễn M72, đại liên 30ly và đại bác 57ly không giật.

“Từ bên này cầu, tôi cho bố trí ba khẩu đại liên bắn trực xạ làm quân địch rối loạn. Cùng lúc đó, chúng tôi dùng cả lựu đạn khói làm địch không thấy đường. Sau khi hy sinh một tiểu đội, chúng tôi chiếm lại cầu và mở đường vào bên trong bộ tư lệnh,” ông Huế kể tiếp như vậy.

Người đầu tiên Trung Úy Huế gặp khi vào bên trong bộ tư lệnh là Trung Tá Trần Văn Cẩm, tham mưu trưởng sư đoàn. Trung Tá Cẩm liền chỉ cho đại đội trưởng đại đội Hắc Báo biết nơi địch quân đang chiếm đóng trong khu vực. Ðó là khu vực Ðại Ðội 1 Quân Y Sư Ðoàn, bệnh xá và câu lạc bộ.

“Không chần chờ, tôi cho lệnh chiến đấu,” ông Huế kể.

Ðơn vị Hắc Báo dùng lựu đạn đi đến tấn công từng phòng, giết và bắt một số tù binh một cách dễ dàng.

“Chiến thuật của Hắc Báo lúc đó là cận chiến nhằm bắt sống tù binh để khai thác. Nếu không được mới dùng lựu đạn tấn công,” ông Huế cho biết như vậy.

Tôi hỏi: “Làm sao mà đặc công có thể thoát bãi mìn để vào được bên trong bộ tư lệnh nhiều thế?”

“Ðó là một cái lỗ thoát nước. Ðó chính là nơi mà đặc công bò vào,” ông trả lời.

“Sau khi chiếm cửa hậu phía Bắc của thành Mang Cá, tôi thấy một cảnh hãi hùng. Ðịch đang bò lê bò càng dọc theo bên ngoài bờ thành. Thế là các khẩu đại liên của Hắc Báo cứ thế mà ‘quét’ vào. Cuộc chiến bắt đầu từ 10 giờ sáng mà mãi đến 3 giờ chiều mới kết thúc,” ông Trần Ngọc Huế nói.

Ông nói tiếp: “Lúc đó, chúng tôi chiến đấu với tinh thần sống tự do hay là chết.”

Ngay sau đó, ông đã được tặng thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc (Gallantry Cross with Silver Star) do chính Tướng Creighton Abrams, tư lệnh Các Lực Lượng Quân Ðội Hoa Kỳ tại Việt Nam, gắn lên ngực áo. Cũng trong dịp này, ông được lên đại úy và chính Tướng Ngô Quang Trưởng gắn lon cho ông.
Image

Ngày 19 Tháng Sáu, 1969, Ngày Quân Lực VNCH, ông Trần Ngọc Huế được thăng cấp thiếu tá.


Viên ngọc của “Huế”

Sinh ra và lớn lên tại Huế, cái tên Trần Ngọc Huế của ông còn có nghĩa là “hòn ngọc của Huế xuất phát từ nhà Trần.”

Năm 12 tuổi ông đã vào trường Thiếu Sinh Quân. Sau khi đậu tú tài, chàng thanh niên Trần Ngọc Huế vào trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, khóa 18. Ra trường năm 1963, ông được điều ngay về Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.

Kể từ năm 1969, ông lần lượt làm tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 1/3, 5/2 và 2/2 thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.

Tháng Ba, 1971, Tiểu Ðoàn 2/2 của ông cùng với các tiểu đoàn khác, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Ngô Văn Chung, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 2, được điều động tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiệm vụ đột kích bằng trực thăng vận vào mục tiêu chiến lược Tchepone, Nam Lào. Theo kế hoạch, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm và kiểm soát mục tiêu chính của cuộc hành quân, ông Huế sẽ được Tướng Phạm Văn Phú đáp trực thăng xuống gắn lon trung tá và tiểu đoàn của ông sẽ được lệnh hành quân về phía Tây Nam Lào, giải vây cho hai tiểu đoàn 3/3 và 4/3.

Sau khi giải vây được cho tiểu đoàn bạn, Tiểu Ðoàn 2/2 lại bị địch bao vây.

Ông Huế kể: “Lúc đó, pháo bắn vào dữ quá. Tôi bị thương nặng nơi mặt, đầu và cổ. Ban chỉ huy ra lệnh mở đường mau rút lui. Anh em đòi khiêng tôi rút lui, nhưng tôi không chịu. Tôi không muốn anh em bị thiệt hại vì mang tôi đi. Chúng tôi xuống 600 người nhưng chỉ thoát được 50 người. Toàn bộ số còn lại bị bắt hoặc hy sinh. Ðó là ngày 21 Tháng Ba, 1971.”

Sau đó, ông Huế được anh em khiêng đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh về tới Vĩnh Linh. Phía địch quân đưa ông lên xe lửa và mang ra nhốt tại nhà tù Hỏa Lò. Vài tháng sau, ông bị đưa lên nhốt ở các trại tại Sơn Tây, Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Lạng Sơn và Cao Bằng.

Ông Huế kể tiếp: “Sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết hôm 27 Tháng Giêng, 1973, theo quy định, địch phải thả tôi. Lúc đó, tôi đang ở Kỳ Cùng thì địch đưa về Hà Tây. Sau đó, họ đưa tôi cùng một số anh em khác vào bờ sông Thạch Hãn để trao trả tù binh. Nhưng tự nhiên địch chia chúng tôi ra làm hai nhóm, nhóm bị bắt tại các nơi khác và nhóm bị bắt ở Lào. Lúc đó, tôi đã mường tượng một điều gì đó không tốt.”

“Các anh bị bắt ở Lào là thuộc quyền Mặt Trận Lào Yêu Nước,” một cán bộ Bắc Việt nói với ông Huế như vậy, theo lời kể của ông.

Ông kể tiếp: “Thế là họ đưa chúng tôi về ngã ba Ðường Thành, Hà Nội, và giam tiếp. Chúng tôi phản đối bằng cách tuyệt thực và cạo đầu. Thế là chúng còng tay và đánh đập chúng tôi. Sau đó, chúng tôi bị đưa đi Yên Bái và nhốt cách ly. Kế đến, chúng lựa ra 11 người đầu não, trong đó có tôi, đưa lên nhốt ở Cao Bằng.”

“Năm 1974, chúng tôi bị đưa về Nghĩa Lộ làm trại cải tạo chuẩn bị đón thêm tù binh. Sau đó, chúng tôi lại bị đưa trở lại về Yên Bái để làm đường chiến lược Tây Bắc,” cựu tù binh cộng sản này kể tiếp.

Năm 1978, khi Việt Nam rục rịch chiến tranh với Trung Quốc, ông Huế lại bị đưa về Nam Hà. Ðến Tháng Tư, 1982, ông được chuyển về Hàm Tân. Tháng Bảy, 1983, ông được thả.

Về Sài Gòn, ông bị quản thúc tại gia trong nhiều năm cho đến năm 1991, ông sang Hoa Kỳ diện cựu sĩ quan chế độ cũ.


Cuộc sống mới tại Hoa Kỳ
Image

Hồi ở Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 2 của Sư Ðoàn 1, ông Huế có một người bạn thân là David Wiseman, lúc đó là cố vấn Mỹ. Ông Wiseman cũng từng bị thương ba lần tại Việt Nam và rất cảm kích tinh thần chiến đấu của người bạn Trần Ngọc Huế.

Sau năm 1975, ông David Wiseman không biết người bạn của mình sống chết ra sao. Ông cầm tấm hình của ông Huế đi khắp vùng thủ đô Washington D.C. và đưa cho mọi người xem. Mỗi lần ông đưa tấm hình ra, ông đều nhận được một cái lắc đầu.

Cho đến một hôm, ông Wiseman tham dự một buổi tiệc gây quỹ của Hội Gia Ðình Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tại Virginia và gặp ông Ngô Ðức Am, em rể của bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch hội.

Thật là may mắn cho ông Wiseman vì ông Am chính là người ở chung trại tù với ông Huế.

Sau khi xem tấm hình, ông Am cho ông Wiseman biết ông Huế vẫn còn sống ở Việt Nam. Thế là ông Wiseman tìm cách liên lạc với ông Huế.

Việc đầu tiên là ông Wiseman gởi cho ông Harry một bức thư ngắn trong đó kèm theo năm tờ giấy $20.

Bức thư chỉ có vài hàng: “Harry, tôi biết anh còn sống. Tôi đã tìm anh 20 năm nay. Tôi sẽ tìm mọi cách đưa anh sang Mỹ. Nếu anh qua Mỹ tôi sẽ giúp. Nếu anh muốn ở lại, tôi sẽ gởi tiền về giúp. Anh còn thích hút thuốc Salem không?”

Khi đến Hoa Kỳ năm 1991, chính ông Wiseman là người ra đón gia đình ông Huế tại phi trường Washington National Airport. Sau đó, ông Wiseman lo mướn nhà cho gia đình ông Huế, giúp mua sắm một số vật dụng cần thiết.

Image
Bộ bàn ăn mà ông David Wiseman tặng hồi gia đình ông Huế mới sang Mỹ
Image
Chiếc áo đơn vị Hắc Báo, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, của ông Harry Trần Ngọc Huế.

Theo ông Huế cho biết, ông Wiseman đã qua đời cách đây bốn năm.


Kể từ khi biết Harry đến Hoa Kỳ, các cố vấn Mỹ, mà nhiều người sau này trở thành bạn thân và coi Harry như anh em ruột, gọi điện thoại và đến thăm tới tấp. Ai cũng muốn giúp ông ổn định cuộc sống mới.

Năm 1994, nhờ bạn bè giúp đỡ, cựu chiến binh Trần Ngọc Huế và ba cô con gái, Coco, Vicky và Elly, vào làm cho ngân hàng Navy Federal Credit Union cho đến nay.


Một người lính đầy danh dự

Dù trong hoàn cảnh nào, cựu chiến binh Harry Trần Ngọc Huế luôn giữ được khí tiết và danh dự của một người lính QLVNCH. Vì thế, ông được nhiều người rất kính nể.

“Mỗi người có một cách sống riêng. Bản thân tôi luôn sống với danh dự của một quân nhân QLVNCH. Người ta (các cố vấn Mỹ) đã bỏ quê hương sang giúp mình thì mình phải giúp họ hoàn thành nhiệm vụ. Sống với họ phải sống xứng danh quân đội VNCH. Vì thế, tôi có những cảm tình rất khó tin với các cố vấn Mỹ,” ông Huế chia sẻ như vậy.

Ông Ned Devereaux, cố vấn cũ và từng bị thương với ông cố vấn Wiseman và ông Huế ngày 8 Tháng Mười Một, 1970, cho biết: “Khi tôi gặp Harry lần đầu tiên, tôi biết ngay ông là một người lính chuyên nghiệp, một sĩ quan chuyên nghiệp, một người mà khi ra lệnh tôi sẽ theo ngay, không thắc mắc. Harry đã làm tôi cảm thấy mình là một thành viên trong gia đình quân đội của ông. Những gì ông làm đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ dễ dàng.”

“Nếu phải viết một câu về Harry, tôi sẽ viết, Harry thật sự là một anh hùng, một người trung thành với tổ quốc, cấp trên, gia đình và binh sĩ của mình và tôi coi Harry như một người anh em cùng huyết thống và thật sự kính nể ông,” ông Devereaux viết như vậy trong email gởi cho tôi.

Ông Thái Quang Ty, một trung sĩ Hắc Báo tham gia trận đánh lấy lại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, đang sống tại thành phố Atlanta, Georgia, kể: “Anh Huế là một chỉ huy tài giỏi và mưu lược. Lúc tôi ở cùng đơn vị với anh, Hắc Báo đánh đâu thắng đó, chưa thua một trận nào. Ở mỗi trận đánh, anh đều quan sát trước địa hình trước khi giàn quân. Các chỉ huy khác thường xua binh sĩ đi trước, riêng bản thân anh lúc nào cũng đi sát binh sĩ. Chính vì vậy làm cho tinh thần anh em hăng say.”

Qua điện thoại, ông Richard Weyand, cố vấn đại đội Hắc Báo từ năm 1967 đến 1969 và hiện sống tại thành phố Kenosha, Wisconsin, nói: “Harry là người dấn thân nhất cho cuộc chiến. Cách chỉ huy của ông, sự trung thành của ông và sự can đảm của ông làm tôi tự hào khi được làm việc với ông trong hai năm trời.”

Một cố vấn khác của đơn vị Hắc Báo, ông William Bolt, hiện là trung tướng hồi hưu sống tại thành phố Columbia, South Carolina, kể qua điện thoại: “Trong một trận đánh tại phía Nam thành phố Huế vào cuối năm 1968, chính ông Harry đã cõng ông Richard Weyand ra sau khi ông này bị thương trong một bãi mìn. Harry quả thực là một người can đảm. Ông là một người yêu nước và là người hy sinh nhiều nhất cho đất nước của ông mà tôi được biết.”

Khi Giáo Sư Sử Học Andrew Wiest, trường đại học University of Southern Mississippi, chuẩn bị viết tác phẩm “Vietnam's Forgotten Army, Heroism and Betrayal in the ARVN,” ông vô tình biết được Harry Trần Ngọc Huế qua ông Jim Coolican, cựu Ðại Tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và là cố vấn của ông Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.

Giáo Sư Wiest kể: “Tôi sang thăm Việt Nam năm 2000 và thấy rất nhiều. Một điều tôi ít thấy nói đến là QLVNCH. Về Mỹ tôi quyết định viết một cuốn sách về đề tài này. Trong lúc nghiên cứu tìm tài liệu, nhiều người cho tôi biết phải tìm và viết về Harry Trần Ngọc Huế. Thế là tôi nhờ cựu cố vấn Jim Coolican giúp tôi.”

“Tôi nghĩ Harry là một biểu tượng xứng đáng nhất của Việt Nam và Hoa Kỳ. Cũng như bao nhiêu người khác sau chiến tranh, đến Hoa Kỳ với hai bàn tay trắng. Giờ đây, cả ba cô con gái của ông đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định. Harry đã thực hiện được giấc mơ Mỹ của mình,” giáo sư này nói tiếp.

Ông kết luận: “Harry là người yêu nước nhất mà tôi gặp từ trước đến nay.”

Vào Tháng Mười Một tới đây, Giáo Sư Andrew Wiest sẽ cho ra mắt tác phẩm nêu trên.
Image
khieulong
Posts: 3555
Joined: Sat Jun 02, 2007 9:30 pm
Contact:

Post by khieulong »

MẶT TRẬN XUÂN LỘC - (4-1975)
Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng của một quân đội bị phản bội
HỒ ĐINH - Nguyên Tiểu Đoàn 1- Trung Đoàn 43 Sư Đoàn 18 BB. KBC 4424

Image
Trung Đoàn 43 BB là một trong những đơn vị kỳ cựu của QLVNCH, thoát thay từ Trung Đoàn 404 bộ binh của Sư Đoàn 5 Khinh chiến. Năm 1974, Tiểu Đoàn 2/43 và Tiểu Đoàn 1/52 của Sư Đoàn 18 BB được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương trước Quân Đội với thành tích hạ nhiều tăng 54 và chiến xa PT 76 của Bắc quân tại Bến Cát (Bình Dương). 2 xe tăng T54 và 76 được lái về làm kiểng trong khuôn viên của Dinh Độc Lập cho đến ngày đổi đời 1-5-75 mới được dời.

Riêng Tiểu Đoàn 1/43 lại là đơn vị chủ lực quân đầu tiên đến trấn đóng tại tỉnh Long Khánh từ đầu năm 1964 khi thành phố Xuân Lộc lúc đó còn nhỏ xíu, buồn hiu với bao nhiêu nỗi bực dọc mùa nắng thì bụi bay đỏ người, trái lại, mùa mưa sình lầy trơn trợt. Muổi mòng, đĩa vắt không thiếu, nhưng đổi lại dân chúng địa phương hiền lành, hiếu khách, đặc biệt các em nữ sinh miền đất đỏ đồn điền rất đỏm dáng và thích lính miền xa.

Năm 1966, Sư Đoàn 10 được thành lập với 3 Trung Đoàn nguyên biệt lập. Trung Đoàn 43 BB, Trung Đoàn 52 và Trung Đoàn 48. Tướng Lữ Lan, ông Tướng có tiếng là tham nhũng nhất nước, được làm Tư Lệnh Sư Đoàn. Có lẽ vì mang số 10 bù, xui xẻo nên cuối năm 1966 Tiểu Đoàn 1/43 đã gần như bị tan hàng khi kịch chiến với 2 Trung Đoàn CS Bắc việt tại xã Võ Xu quận Võ Đắc (Bình Tuy) nên phải trở về tái trang bị và huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn (Dục Mỹ). Sau đó Sư Đoàn 10 được đổi danh hiệu là 18 BB. Vị Tư Lệnh cuối cùng là Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, là vị Tướng đã cùng với 2 phụ tá: Đại tá Lê Xuân Mai (Tư Lệnh phó Sư Đoàn 18 ) và Đại tá BĐQ Phạm Văn Phúc, chỉ huy phòng tuyến thép Xuân Lộc từ rạng sáng 8-4 cho đến khi được lệnh rút quân ngày 21-4.

Cuộc chiến đấu thần thánh của những người lính miền đất đỏ Long Khánh trong lúc đất nước sắp sụp đổ thật ra cũng chỉ là cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội, trên phần đất còn lại của người Việt Nam, cố níu kéo, gìn giử để dân tộc có chỗ cắm dùi, nhưng cuối cũng những người lính trên đã thất bại não nề vì bị cấp lãnh đạo tối cao bán đứng, đồng minh phản bội, trí thức toa rập kẻ thù, trù dập, đuổi xô và đâm sau lưng chí mạng. Thật não nùng thay.

"Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao năm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế, bóng tà dương...

(Thơ Nguyễn Bá Trạc)

Image
T-54 của VC bị các chiến SĐ 18 bắn hạ
Sau này viết về mặt trận Long Khánh tháng 4-75, người thương cũng như kẻ thù VNCH đều cùng chung quan điểm, khi bầy tỏ sự khen ngợi và lòng cảm phục người lính Miền nam. Chính Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tư Lệnh quân đội nhân dân Bắc việt đã viết trong tác phẩm "Đại thắng mùa Xuân 1975" rằng: "Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẩm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6, 7, 341 của ta đã phải tấn công trong thành phố nhiều lần, nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung Đoàn 43 của địch. Các đơn vị pháo của ta đã sử dụng nhiều hơn số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ..." Còn O. Tood, người ký giả Pháp thân cộng đã viết trong "Cruel April, the fall of Saigon" như sau: "Tinh thần binh sĩ QLVNCH tại Xuân Lộc rất cao, Hệ thống truyền tin rất tốt. Các đơn vị Dù và BĐQ đã đến. Con đường Sàigòn được khai thông. Trực thăng tải thương đang hoạt động. Các sĩ quan của QLVNCH đang gọi pháo binh và không yểm rất chính xác, nhanh chóng, tình trạng chiến đấu của họ gần giống như lúc còn quân đội Mỹ yểm trợ..." Nhưng ý nghĩa và cảm động nhất là báo cáo của Tướng X. Smith, Trưởng phòng Tùy viên Quân sự (DAO) lên Tham Mưu Trưởng Liên Quân Mỹ: "Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QLVNCH đã chứng tỏ quyết tâm và anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gấp nhiều lần...". Tướng Smith, với lương tâm của một người lính, không khách sáo và hào nhoáng như miệng lưỡi của chính khách, đã gỡ lại một phần nào danh dự của QLVNCH trước đám trí thức da trắng, da màu đa sự.

I - BỐI CẢNH VNCH TỪ SAU HIỆP ĐỊNH BALÊ 1973 TỚI LÚC MẤT NƯỚC:

Trước khi thỏa hiệp Balê được ký kết ngày 10-10-1972, trong một cuộc hành quân tại Quảng Trị, QLVNCH đã khám phá một hầm bí mật và tịch thu được một bản thảo của hiệp định CHẤM DỨT CHIẾN TRANH và VÃN HỒI HÒA BÌNH tại VIỆT NAM, cùng các kế hoạch của Bắc việt nhằm dành dân lấn đất của VNCH. Điều này chứng tỏ Mỹ đã cấu kết với CS Bắc việt để bán đứng Miền Nam đúng như sự nhận xét của tờ The New York Time ngày 1-5-1975.

Từ đầu đến cuối, người Mỹ tham chiến tại VN với những mục đích có lợi cho họ, và theo Kenneth Galbraith, chủ tịch hội các kinh tế gia Hoa Kỳ viết trong "The age of uncertainly" thì Mỹ đến VN để:

- Thử thách và tiêu thụ vũ khí của Mỹ.
- Làm tác động các sinh hoạt của kinh tế Mỹ.

Đô đốc Sharp, nguyên Tư Lệnh các lực lương Mỹ tại Thái Bình Dương, sau khi chấm dứt chiến tranh Đông Dương lần 2 (1955-1975), năm 1978 đã thố lộ sự thật trong tác phẩm "Strategy for defeat" như sau: "Hiệp định Hòa bình Balê ngày 27-1-73 mà Mỹ chấp thuận và bắt buộc VNCH thi hành, không phải là một cộng thức hòa bình. Theo đó CS Bắc việt không còn sợ Mỹ can thiệp nên tự do xâm lăng Nam Việt Nam mà không bị chế tài..."

Sau năm 1973, đường mòn Hồ Chí Minh biến thành xa lộ đất. Nhiều đơn vị từ Bắc bổ sung vào Nam như Trung đoàn 263 tên lửa phòng không và hỏa tiễn SA-2. 3000 cán bộ công an Bắc việt đến nắm quyền sinh sát tại các vùng vừa lấn chiếm. Một hệ thống ống dẫn dầu hơn 5000 cây số chạy từ Bắc xuống Quảng Trị, xuyên qua cao nguyên Trung phần tới Lộc Ninh, song song với ống dẫn dầu cũ có sẵn từ Vinh chạy đến thung lũng A Shaw. Nhiều lần các thám thính cơ của Không quân Việt Nam đã phát hiện từng đoàn xe của Bắc việt trên xa lộ đất, nhưng bị Mỹ tìm mọi cách ngăn chặn không cho VNCH oanh tạc, và chính quyền VNCH cũng không dám phản đối vì Nixon đã đe dọa "sẽ cắt hết tiền viện trợ".
Tại Mỹ, từ 1971 đến 1973, nền kinh tế và tài chánh đang bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, cán cân thương mại bị thâm thủng nhiều. Mỹ 2 lần liều cho phá giá đồng Mỹ kim. khiến cho các đồng minh của Mỹ đều phải thay đổi hệ thống tiền tệ riêng để khỏi phải chết chìm theo Mỹ. Còn các nhà tư bản thì nhanh chân rút vốn đưa ra ngoại quốc đầu tư, gây cảnh thất nghiệp, tưới dầu thêm cho mồi lửa phản chiến đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đang hoành hành bốc cháy dữ dội khắp nơi trên đât Mỹ.

Vì vậy, hồi tháng 8-73, Quốc hội Mỹ ra đạo luật cấm xử dụng ngân khoản yểm trợ quân sự cho các nước Đông Dương. Tháng 10-73 lại ban hành luật War Power Art hạn chế quyền hạn của Tổng Thống Mỹ. Hai đạo luật trên vừa cho phép CS Bắc việt toàn quyền xâm lăng VNCH, vừa bảo đảm Mỹ sẽ không can thiệp vào VN trở lại, đã khiến cho Hànội bất chấp lệnh quan thầy Trung Cộng, họp hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ 21, ra lệnh tổng tấn công cưỡng chiếm Miền Nam.

Tại Sàigòn, Tổng Thống Thiệu lại tiếp tục chơi trò gian lận bầu cử lưu manh, hạ tiện, tương lai đất nước sắp nguy khốn vì tham nhũng, bất công, thù trong giặc ngoài, khiến cho hậu phương nát bét, lòng người bất phục, tạo cơ hội tốt cho sự thành công dễ dàng của Bắc việt sau này.

Image
Thiên Thần Mũ Đỏ luôn luôn được dân chúng ủng hộ.
Em bé đang chỉ điểm nơi VC lẩn trốn

3-4-74, Thượng viện Mỹ biểu quyết cắt giảm viện trợ của Nam Việt Nam.
11-4-74, Bắc việt tràn ngập trại Tống Lê Chân (Bình Long) do Tiểu đoàn 92 BĐQ của Trung tá Lê Văn Ngôn, khóa 25 sĩ quan Đà Lạt trấn giữ trong 510 ngày bị vây hãm.
7-8-74, Quận Thường Đức, tỉnh Quảng Nam thất thủ.
9-8-74, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ Watergate, mang theo xuống mồ những lời hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu về viện trợ, can thiệp v.v..., khi Ford lên thay thế đã không đếm xỉa gì tới.

Đầu năm 1975, Binh đoàn 301 Bắc việt gồm các Sư đoàn 3, 7 với tăng, đại pháo tấn công Phước Long do Sư đoàn 5 BB và BĐQ trấn giữ. Phước Long lọt vào tay Bắc việt ngày 6-1-75 vì không có quân tiếp viện. Trước sự vi phạm trắng trợn và láu cá của CS, Hoa Kỳ chỉ phản ứng lấy lệ, bằng chứng là Ford không đề cập gì đến tình trạng nguy khốn của Nam Việt Nam trong bài diễn văn nhậm chức trước Quốc hội Mỹ ngày 5-1-75, đã vậy, theo B. Palmer Jr. trong "The 25 years war American's Military Role in Vietnam" xuất bản năm 1984, thì ít ngày sau Ford lại họp báo để dứt khoát là Mỹ chấm dứt can thiệp vào VN. Đây là lý do bằng vàng ròng, khiến CS Bắc việt hồ hởi tổng tấn công cưỡng chiếm Miền Nam.

Rồi chiến dịch 275 mở màn, 2 giờ sáng 10-3-75, Bắc việt tấn công thủ phủ Ban Mê Thuộc của Cao nguyên Trung phần, và thành phố đã mất sau 2 ngày giao tranh đẩm máu, ác liệt giữa Cộng quân và đơn vị trú phòng gồm có Trung đoàn 53 Sư đoàn 23 BB và Tiểu đoàn 21 BĐQ, Địa phương quân và các đơn vị yểm trợ của Sư đoàn 23 BB. Thù trong, giặc ngoài, Mỹ bỏ rơi, trí thức a dua đâm sau lưng lính, khiến Tổng Thống Thiệu mất trí, điên loạn đề ra chiến lược "đầu bé đít to", ra lệnh bỏ Cao nguyên, bỏ dân chúng, bỏ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân cho CS, rút tăng, pháo, chủ lực quân về bảo vệ Duy ên hải bằng con đường máu Liên Tỉnh Lộ 7 Phú Bổn - Phú Yên ngày 14-3-75, được chỉ huy bởi bọn Tướng, Tá bất tài, bất lực, tham quyền, sợ chết. Rồi kế đó lại bỏ Quảng Trị, Huế, ngày 20-3-75, khiến cho bao nhiêu người dân vô tội chết uổng trong khi di tản, làm hủy diệt tất cả các lực lượng Pháo binh, Chiến xa M 48, 41, M113 của Quân đoàn I, II. Ba (3) Sư đoàn 1, 3, 23 tan hàng, 200 máy bay các loại bị bỏ lại tại các phi trường Huế, Đà Nẳng, Pleiku, cộng với 100 chiến xa, 900 đại bác không được phá hỏng. Các Sư đoàn 2, 22, TQLC, Sư đoàn 1, 2, 6 Không quân, 1 Lữ đoàn Dù, 11 Liên đoàn BĐQ, các Liên đoàn Công binh, Truyền tin, Tiếp vận v.v... bị tổn thất quá nửa quân số. Tổng Thống Thiệu chỉ trong 1 phút quyết định tại Cam Ranh trước các Tướng Viên, Khiêm, Quang, Phú, đã làm mất 2/3 lãnh thổ và làm tan rã 1/2 lực lượng VNCH.

II MẶT TRẬN XUÂN LỘC:

Image
Nhảy Dù đang tấn công mục tiêu

Sau ngày 1-4-75, Quân đoàn II chỉ còn lại Ninh Thuận, Bình Thuận, nên được sát nhập vào Quân đoàn III. Phan Rang và Xuân Lộc trở thành 2 cửa ngỏ để Cộng sản Bắc việt vào Sàigòn bằng quốc lộ 1 và 20.

Xuân Lộc là Tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh, được Tổng Thống Diệm thành lập từ năm 1957 bằng cách cắt bớt phần đất của tỉnh Biên Hòa, mục đích định cư đồng bào Việt, Mường, Nùng, Thái di cư năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3457 cây số vuông, đất đai phần lớn là núi thấp, đồi cao, rừng thưa và đồn điền cao su. Long Khánh chiếm một vị trí chiến lược quan trọng, vì là ngã ba của 2 quốc lộ 1 và 20. Cửa ngỏ từ Miền Trung, Miền Cao nguyên vào Sàigòn chỉ cách nhau 80 cây số, do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai bảo vệ phi trường Biên Hòa và Thủ đô. Xuân Lộc lại nằm trên đường giao liên giữa chiến khu C và D của VC với các mật khu Mây Tào, Cù Mi, Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy, con đường mạch máu mà Bắc việt dùng để nhận tiếp tế, bổ sung quân và tiếp liệu bằng đường biển. Vì vậy, từ lâu Sư đoàn 18 BB đã được bố trí tại Tỉnh này để ngăn chận.

Để cắt đứt đường rút quân của VNCH từ 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, Bắc việt tấn công quận Định Quán do Tiểu đoàn 2/43 trấn giữ, và trong khi đang giao tranh đẩm máu, Không quân VN đã thả 2 trái bom 500 cân Anh vào vị trí của quân ta tại núi Đất, khiến gần 20 người chết và bị thương, trong đó có cả vị Tiểu đoàn trưởng. Còn Định Quán mất ngày 17-3.

Để tấn công Long Khánh, Bắc việt đã tung vào chiến trường này Quân đoàn 4, gồm 3 Sư đoàn 6, 7, 341 và các đơn vị có sẵn của Quân khu 7. Thiếu tướng CS Hoàng Cầm là Tư Lệnh. Chính ủy là Thiếu tướng Hoàng Thế Hiệp. Trận chiến đẩm máu đã đồng loạt xảy ra tại 3 phòng tuyến: ngã ba Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc và Gia Rai (nằm tiếp cận giữa Bình Tuy-Long Khánh). Phía VNCH có Sư đoàn 18 BB (các Trung đoàn 43, 48, 52), lực lượng ĐPQ, NQ Tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm: Trung đoàn 8 (Sư đoàn 5 BB), Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên đoàn 7 BĐQ, 2 Tiểu đoàn Pháo binh, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù và toàn bộ Lữ đoàn 1 Dù với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Sư đoàn 4 Không quân VN từ phi trường Cần Thơ phụ trách không yểm chiến thuật. Tất cả các lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo (Tư Lệnh Sư đoàn 18 BB) và 2 phụ tá tài giỏi, uy tín: Đại tá Tư lệnh phó Lê Xuân Mai và Tỉnh trưởng Long Khánh Đại tá Phạm Văn Phúc BĐQ, mới về thay Trung tá Lê Ánh Nguyệt hồi tháng 3-75.

Image
Thiên Thần Mũ Đỏ chuẩn bị tiến chiếm mục tiêu


Chiến trường Long Khánh gồm cả 3 mặt trận chính: Mặt trận ngã ba Dầu Giây di Trung đoàn 52 và 1 Thiết đoàn Chiến xa trấn giữ. Mặt trận núi Chứa Chan, Gia Rai do Liên đoàn 7 BĐQ và Trung đoàn 48 BB. Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43 BB và các Tiểu đoàn ĐPQ bảo vệ. BTL hành quân của Tướng Lê Minh Đảo được đặt tại Quận đường Xuân Lộc, mé ngã ba Tân Phong - Long Giao được bảo vệ bởi các đơn vị trừ bị của Sư đoàn, Pháo binh và 1 Thiết đoàn Chiến xa.

Thế rồi vào lúc 5 giờ rưỡi sáng ngày 9-4, khi vạn vật bắt đầu bằng một ngày mới, chim chóc rời tổ kiếm ăn, dân chúng dọn hàng ra chợ, các tín đồ Thiên Chúa Giáo đi lễ sớm tại các nhà thờ, các loa phóng thanh của Ty Thông tin Xuân Lộc mở đầu bằng các bài hát trữ tình thương lính... thì cũng là lúc Bắc việt nã hàng ngàn quả pháo đủ loại vào thành phố, đa số rớt vào chợ, nhà thờ và nhà của dân chúng, khiến cho người dân vô tội chết và bị thương như rạ vì trận pháo kích kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ với hơn 300 trái đạn liên tục không hết, nên dân chúng không biết chạy đâu để trốn tránh tử thần.

8 giờ Bắc việt tấn công vào thành phố nhưng bị chận lại bởi Trung đoàn 43 BB và Tiểu đoàn 3/4 ĐPQ Long Khánh nên phải chém vè sau khi bỏ lại tại chỗ 100 tử thi. Nhiều T54, PT76 bị hạ khắp nơi bời các hỏa tiễn M72 và các phản lực cơ A37, F5 của Không quân.

Ngày 10-4, Cộng quân trở lại tấn công Xuân Lộc với 2 Sư đoàn 6, 2 và các Trung đoàn chiến xa, khắp các mặt trận Đông, Tây, Nam, Bắc thành phố, từ tòa Thị chính đến sân bay, nơi nào Cộng quân cũng sử dụng quân số cấp Trung đoàn. Cuộc chiến kéo dài trong nhiều ngày, cả hai phía dành giựt từng ngôi nhà, phòng tuyến để sống. Không quân VN đã yểm trợ tích cực và hữu hiệu cho các đơn vị dưới đất bằng các phản lực cơ tối tân F5E, góp phần tiêu diệt số lớn Cộng quân. Trung đoàn 43 BB mặc dù đã bị Cộng quân cắt ra từng đơn vị nhỏ, nhưng vẫn tiếp tục chống trả mãnh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất như Văn Tiến Dũng đã phải xác nhận trong tác phẩm Mùa Xuân Đại Thắng.

Qua đến ngày 4 của cuộc chiến, Lữ đoàn I Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù từ Miền Trung về, được lệnh tăng cường cho Xuân Lộc. Tất cả các trực thăng của 2 Sư đoàn 3, 4 Không quân, gồm 100 trực thăng bán phản lực HUIB đã thả hơn 2000 quân Dù từ Trảng Bom vào trận địa, các Pháo đội Dù cũng được trực thăng Chinook chuyển vận đến Bộ chỉ huy Hành quân đóng kề BTL Sư đoàn 18 BB. Hai Tiểu đoàn Dù đầu tiên đã nhảy xuống đầu địch để chiếm lại Bảo Định trên quốc lộ 1, nơi 2 Trung đoàn thuộc Công trường 6 đang tập trung tấn công BTL Sư đoàn 18 BB tại Tân Phong. Một Tiểu đoàn Dù khác nhảy xuống chiếm lại vườn cây của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ. Ngoài ra các Tiểu đoàn khác nhảy vào Xuân Lộc đẻ giải vây cho các Tiểu đoàn ĐPQ và BCH Tiểu Khu Long Khánh.

Tại ngã ba Dầu Giây, Cộng quân cũng đồng loạt tấn công Chiến đoàn 52 từ ngày 12-4 bằng biển người và tăng, pháo. Lần lượt các tiền đồn, phòng tuyến của Trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về tới ấp Phan Bội Châu trên quốc lộ 20 bị tràn ngập. Cuộc chiến trở nên ác liệt đẩm máu đã xảy ra chiều ngày 15-4-75 ngay tại xã Dầu Giây, ngã ba 2 quốc lộ 1 - 20, giữa Chiến đoàn 52 BB (gồm Trung đoàn 52, Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, các lực lượng ĐPQ Kiệm Tân - Long Khánh, tổng cộng khoảng 2000 người) và buộc Đoàn 4 Bắc việt trong đó có Sư đoàn Tổng trừ bị của Hà nội 341 vừa từ Thanh Hóa vào, do Trần Văn Trà vừa thay thế Hoàng Cầm chỉ huy, đã cho áp dụng chiến thuật biển người. Trong trận chiến tàn bạo, khủng khiếp này, 1 người lính VNCH đã chọi với 10 lính CS Bắc việt với tăng và pháo. Chiến đoàn 52 đã tan hàng đêm 15-4, tất cả pháo binh, thiết giáp, người, đều bị hủy diệt sau 6 ngày đêm ác chiến, 9 giờ đêm đó, khi chiếc hầm chỉ huy của Chiến đoàn bị bắn sập, Đại tá Chiến đoàn trưởng mới cho rút quân với vỏn vẹn 200 người được sống sót.

III. 2 TRÁI BOM "DAISY CUTTER" TẠI MẶT TRẬN DẦU GIÂY:

Trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Phạm Huấn sau ngày 30-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III đã cho biết, sau khi trình Bộ TTM, ông đã ra lệnh cho Không quân sử dụng 2 trái bom "DAISY CUTTER" tại ngã ba Dầu Giây trong đêm 15-4, vào vùng tập trung quân của Bắc việt ngay khi Chiến đoàn 52 BB bị tan hàng gần 10.000 quân Bắc việt cùng với chiến xa T54, đại pháo đang di chuyển trên quốc lộ 20 vừa tới ngã ba Dầu Giây đã bị hủy diệt.

Bom "DAISY CUTTER" còn được gọi là bom Con Heo hay là bom tiểu nguyên tử, có chiều dài và chiều cao gần tương đương với vận tải cơ Hercule C-130, trọng lượng là 7 tấn, vừa vỏ bọc, vừa khối thuốc 15.000 cân Anh TNT. Bom Con Heo dùng để mở bãi đáp cho cấp Sư đoàn hay lộ quân trong bất cứ địa thế nào và có hiệu quả sát hại trong vùng với đường kính là 5 dặm Anh.

10 giờ sáng ngày 16-4, Không quân VN gọi về BTL Quân đoàn III báo cáo về rừng người, chiến xa, đại pháo Bắc việt đang tập trung trong xã Dầu Giây để chuẩn bị về Sàigòn. 11 giờ cùng ngày, 2 vận tải cơ C 130 được lệnh mang 2 quả bom khổng lồ, xuất phát từ phi đạo 39 tại phi trường Tân Sơn Nhất, thả xuống vùng tập trung quân của CS, khiến cho đại quân của Hà Nội rối loạn trong 3 ngày liền và CS lại la làng rằng Mỹ đã vi phạm hiệp định Balê và B 52 đã trở lại Việt Nam.

Việc Mỹ viện trợ bom Con Heo cho VNCH cũng là chuyện khôi hài cười ra nước mắt, vì chỉ cho bom mà không co đầu đạn, cũng như bí mật được phanh phui sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm rằng: trong khoảng từ 3 giờ đến 3 giờ rưỡi sáng ngày 29-4-75, 3 chiếc C 130 của cơ quan DAO dùng để di tản người, không biết do lệnh của ai, ở đâu, đồng loạt chở vào VN 3 trái bom BLV 82, Daisy Cutter 15.000 cân Anh, rồi trong lúc các chuyên viên Mỹ, Việt đang tháo gỡ đem vào kho an toàn thì phi công Mỹ lại vô tình hay cố ý dùng điện thoại báo cáo để CS Bắc việt biết được, pháo kích vào địa điểm đang bốc dỡ. Mỹ đã tháo chạy, Nam VN sắp mất, lại đem bom đến Sàigòn làm gì, đó là bí ẩn mà các nhà quân sự Mỹ vẫn chưa chịu tiết lộ, cũng như số phận của nhưng trái bom khổng lồ trên đang ở đâu, cũng chẳng ai biết, ngoài Bắc bộ phủ.

IV. QLVNCH BỎ LONG KHÁNH:

Về việc rút bỏ Long Khánh trong khi các đơn vị chiến đấu tại đây (ngoại trừ ngã ba Dầu Giây) vẫn còn giữ nguyên được các vị trí, cũng có nhiều nguồn tin, theo những kẻ thân cận làm việc trong Dinh Độc Lập, thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi được tin Phan Rang thất thủ, các quân nhân tại đây uất ức trong cảnh gia đình ly tán, đất nước lâm nguy nên bất tuân thượng lệnh, dùng xe ủi đất và chiến xa M 113 San bằng mồ mả gia đình Tổng Thống, bởi vậy quá đau đớn trước khi bỏ ngai vàng, ông đã cho rút khỏi Long Khánh để Bắc việt mau vào Sàigòn thay thế ông, vì theo các thày tướng số mà ông tin, thì nếu ông từ chức, Nam VN không ai có thể thay thế được, trừ Cộng sản.

Image
Thiên Thần Mũ Đỏ trước giờ xuất phát


Nhưng theo lời Tướng Nguyễn Văn Toàn thì chính ông quyết định rút bỏ Long Khánh vì thấy rằng phòng tuyến này không còn được giữ lâu, hơn nữa Cộng quân sau khi bị thiệt hại nặng nề đã cho thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn bằng chiến dịch 2 với 5 Sư đoàn Biên Hòa, Phước Tuy đồng loạt với 3 Sư đoàn khác tại Tây Ninh. Vì vậy Long Khánh không còn là điểm nóng, nên tất cả các lực lương tham chiến tại đây phải rút lui về Biên Hòa để lập phòng tuyến mới.

Qua 12 ngày ác chiến đẩm máu, tuyến thép Xuân Lộc vẫn đứng vững dù Phan Rang đã thất thủ 17-4, Phan Thiết mất đêm 18-4, Bình Tuy bỏ ngỏ, giờ đây Xuân Lộc là vùng giới tuyến của đất nước. Tin thắng trận của Sư đoàn 18, Lữ đoàn 1 Dù, BĐQ, Thiết giáp, ĐPQ, Lôi hổ và Không quân tới tấp bay về Sàigòn như những gáo nước lạnh tạt vào mặt bọn nhà báo, nhà văn, ký giả, trí thức ngoại quốc và VN, khiến chúng không có cách nào hơn để bóp méo sự thật, xuyên tạc, nên cũng cúi đầu kính phục tinh thần bất khuất của người VN, bởi vì đây là chiến thắng vĩ đại cuối cùng của QLVNCH trước khi bị rã ngũ.

10 giờ sáng ngày 20-4-75, lệnh bỏ Long Khánh được ban hành bởi Tư Lệnh Sư đoàn 18 BB, tất cả các lực lượng tại đây dùng Liên tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Long, Long Giao về Phước Tuy với 3 cánh quân Sư đoàn 18 BB, Tiểu khu Long Khánh và ĐPQ, Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù.

Trong cuộc lui quân này, Lữ đoàn 1 Dù bị thiệt thòi và nguy hiểm nhất vì là đơn vị đoạn hậu, đang chống trả với Cộng quân, 2 bên còn đang giao tranh ác liệt tại Bảo Định thì 7 giờ tối 20-4 có lệnh rút quân, trong khi thương binh và tử thi lính chưa được di tản. Nhưng tất cả đã phải bỏ lại như năm nào tại Hạ Lào, bởi vì đối với người còn sống, đoạn đường xác người hơn 40 cây số trong rừng cao su đen nghịt để ra quốc lộ 1, là các cửa địa ngục phải vượt qua. Tất cảthảm trạng trên đều là những oan khiên bi thiết của người lính VNCH.

9 giờ tối, các Tiểu đoàn Dù mới tới quốc lộ 1 và một hoạt cảnh cảm động đã diễn ra, tất cả các con chiên của các xóm đạo Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn hai bên vệ đường để theo chân lính di tản. Thì ra người lính VNCH trong suốt cuộc chiến 20 năm trời đó, xác thực, luôn luôn là kẻ giữ nhà, giúp dân. Tình quân dân thắm thiết chỉ được nhắc tới trong những lúc cùng khốn, cực nguy. Cộng sản Hà Nội đã biết được cái ưu điểm này của người lính Miền Nam, nên không ngớt quấy phá, xuyên tạc, đầu độc bằng cách cho cán binh trà trộn giả làm lính VNCH trong những lúc rối loạn, chẳng hạn như Tết Mậu Thân, Mùa Hè đỏ lửa 72, 55 ngày cuối cùng, để bêu xấu bằng cách cướp của, hãm hiếp dân. Vịn vào đó, một số trí thức VN viết trường thiên lịch sử tiểu thuyết kể tội lính... Cũng như gần đây Dương Thu Hương và tạp chí Đại Trường, một người là văn sĩ bộ đội Cộng sản, một kẻ là cựu sĩ quan biệt phái Miền Nam, cũng trở lại đề tài cũ rích trong việc nói xấu kẻ ngã ngựa, những người bị thua trận, nhưng càng lúc càng được nhiều người trong thế giới văn minh cảm phục khi khám phá ra cái giá trị tinh thần xứng đáng của họ, đúng như lời Trần Bạch Đằng đã viết trong Kiến thức Ngày nay số 138 phát hành ngáy 1-5-94: "Đối với dân tộc Việt Nam, chiến tranh là điều bất đắc dĩ, xa xưa cũng như hiện tại, chỉ khi nào sự sinh tồn của dân tộc, chủ quyền Quốc gia bị đe dọa, người Việt Nam mới cầm vũ khí để tự vệ".

Mấy chục cây số đường rừng bị bỏ hoang trên Liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Đức Thành, Long Lễ về Bà Rịa không phải là chuyện bình thường của một đoàn quân có dân chúng lẫn lộn, bởi vậy ngay trong đêm rút quân 20-4-75, Trung tá Lê Quang Định, Tiểu khu phó Tiểu khu Long Khánh đã bị tử thương vì nhiều loạt B 40 của Cộng quân trong khi đang di chuyển.

Lữ đoàn 1 Dù rút lui sau cùng, chỉ riêng Tiểu đoàn 3 Pháo binh được di chuyển trên đường lộ với đại đội Trinh sát Dù, các Tiểu đoàn tác chiến đều mở đường bọc sâu trong rừng.

4 giờ sáng ngày 21-4-75, tại ấp Quí Cả, gần ranh giới Long Khánh - Phước Tuy, Tiểu đoàn 3 Dù và đại đội Trinh sát Dù đã bị 2 Tiểu đoàn CS Bắc việt phục kích. Pháo đội C và Trung đội Trinh sát bảo vệ, hầu hết bị thương vong trước biển người tấn công. Cánh quân đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù cũng đụng độ nặng với CS tại thung lũngGia-rai, dưới chân núi Cam Tiêm. Ngoài những thiệt hại kể trên, cuộc rút quân tên Liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn toàn kết quả tốt đẹp. Sư đoàn 18 BB được chỉ định về phòng thủ mặt Đông Thủ đô, từ Tổng kho Long Bình đến kho đạn Thành Tuy Hạ, tiếp cận với các lực lượng của Trường Bộ binh Thủ Đức. Trướng Thiết giáp và Lữ đoàn 1 Dù có trách nhiệm bảo vệ quốc lộ 15, từ Long Thành về Bà Rịa. Tất cả chiến đấu với giặc cho đến khi ông Dương Văn Minh ra lệnh bỏ súng, tan hàng vào lúc 11 giờ 30 mới chấm dứt. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Bộ chỉ huy của SĐ18 BB đóng bản doanh sát căn cứ Hải Quân Cát Lái, ngày ngày nhìn thấy thiên hạ bỏ chạy bằng tàu, thuyền, ông và các sĩ quan, binh lính dưới quyền cũng có thể bỏ chạy dễ dàng, nhưng họ đã ở lại, và sau ngày 1-5-75, cái giá máu mà Tướng Đảo đã phải trả là sự đầy ải, hành hạ, chịu tủi nhục trong các trại tù từ Nam, Trung ra đến tận biên giới Việt-Lào-Hoa, cho đến đầu thập niên 90, ông vẫn còn bị Cộng sản hành hạ tại trại Z 30D, Long Khánh.

Cuộc chiến đã tàn phai theo năm tháng, nhưng đồng bào trong nước vẫn không có tự do để thở, cơm áo để ăn mặc và tình trạng đói rách càng ngày càng thê thảm. Thì ra:

"Đất nước điêu tàn, giải phóng thành ra vô ích, Đồng bào rách nát, lãnh đạo quả thị bất nhân".

Ngày nay, ai có dịp được xuôi ngược trên những miền quê hương lửa khói xa xưa, từ cổng Nam của thị trấn Hố Nai đến Bầu Cá, Trảng Bom, Hưng Lộc, ngã ba Dầu Giây lên Cao nguyên, xuôi Miền Trung v.v... không hiểu họ có còn nhớ chăng những ngày lao đao lận đận của đất nước vào tháng 4-75. Cũng chính tại đây, người Miền Nam VN trước sự lộng hành trơ trẽn, bất nhân, bất nghĩa, vô nhân đạo của Cộng sản Miền Bắc, đã thực sự phẫn nộ nên đứng lên cùng họ tử chiến lần cuối cùng trong 12 ngày. Trong khi tại Hà Nội, Đảng ngồi đứng không yên, chờ tin thắng trận. Cùng thời gian đó, tại Sàigòn, hàng hàng lớp lớp lãnh đạo, quan quyền, nhà giàu, kẻ có thế lực tiếp nối di tản, thì tại các mặt trận khắp tỉnh Long Khánh, người Việt trong 2 quân đội thù nghịch, ăn xương uống máu lẫn nhau. Họ từng phút từng giây tắm dưới bom đạn, lội trên máu thịt con người, dành nhau từng bức tường cháy, đống gạch vụn, mái nhà xiêu, đến các công thự phòng thủ để giữ mạng. Tội nghiệp và thê thảm nhất vẫn là dân chiến nạn Miền Nam. Chạy loạn từ các vùng bị giặc chiếm như Đà Lạt, Di Linh, Định Quán, Kiệm Tân về, hoặc xa hơn là Phan Thiết, La Gi, Võ Đắt, Tánh Linh. Tất cả cùng với dân chúng Long Khánh chịu chung số phận của những con cá nằm giữa thớt, dao, bởi đạn bom vô tình từ trên trời rớt xuống, khiến cho:

"Đống xương vô định đã cao bằng đầu..." bởi tử thi của gần mười mấy ngàn người vừa dân vừa lính VNCH, bộ đội Cộng sản Bắc việt. Bỗng dưng thấy u uất, ngậm ngùi khi vô tình được đọc bài Lương Tây Hành của Trần Đào tiên sinh thời Hậu Hán:

"Thê tảo hung nô bất cố thân Ngũ thiên điều cẩm tăng hồ cầm Khả liên vô định hà biên cốt Do thị xuân khuê mộng lý nhân".

Toàn bài cổ thi nói lên tâm trạng người chiến sĩ lúc ra đi, thề quét sạch rợ hung nô, không tiếc đến thân mình. 5000 chiến sĩ mặc chiến bào bằng da chim điêu đã vĩnh viễn chôn xác nơi đất Hồ Thương thay nắm xương tàn của những người vì nước, nằm xuống bên cạnh con sông Vô Định, nơi cực bắc tỉnh Cam Túc đã rã mục lâu rồi. Vậy mà họ vẫn còn là người trong mộng của những thiếu phụ chốn phòng khuê. Nhưng còn người lính Miền Nam thì sao? Thê thảm và bi thiết lắm, bởi họ là kẻ bị bại trận, người sống thì vào tù, người bị thương thì ôm hận với những ngày tàn lụi hẩm hiu và kẻ đã chết cũng chẳng được yên mồ.

Cuối tháng 5-75, cố Tổng bí thư Lê Duẫn vào Sàigòn, ông tuyên bố: "Chiến tranh chấm dứt, không có kẻ thắng người bại". Nhưng ông lại không chịu nói tiếp rằng: "Chỉ có chúng tôi: Cấp lãnh đạo tối cao Miền Bắc và chính quyền cũ Miền Nam (những người đã ra đi) là thắng lợi vênh vang".

Hai mươi năm qua rồi, tóc xanh thành tóc bạc, bạn bè thân thương một còn chín mất, lưu lạc khắp ngàn phương. Cái mộng mơ năm nào được:

"Ngày mai rồi có ngày nào
Cười vui theo gót ai vào Thăng Long..."

(thơ của Vũ Tấn Hoan)

đã tan biến theo mây khói, giờ chỉ còn biết:

Nghiêng bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một Hồ Trường
Hồ Trường! Hồ Trường!
Ta biết rót về đâu?!

(thơ Nguyễn Bá Trạc)

HỒ ĐINH
Post Reply

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests