CUỘC TRÙNG PHÙNG HI HỮU.
Nguyễn Định
I
NHỮNG CUỘC TÌM KIẾM VÔ VỌNG
- Chúc mừng cô gia nhập vào Biomedical Research của chúng tôi. Khi nào cô có thể đi làm được?
- Dạ em cần về công ty cũ báo cho họ biết, có thể cho em 2 tuần để thu xếp được không?
- Vâng, nếu có trở ngại cô cho tôi biết nhé.
- Dạ, Xin cám ơn anh nhiều lắm. Chào anh.
Chờ cho người con gái bước ra khỏi phòng, anh ngồi xuống, băn khoăn tự hỏi, không biết mình còn quên điều gì chưa dặn cô ta không, và còn sót điều gì chưa làm? Sao mình lại có cảm giác hồi hộp và bâng khuâng? Nhìn khuôn mặt cô ta rất quen và dường như thân thiết lắm, không hiểu mình gặp cô ta ở đâu, High School, hay lúc còn học Bio. Anh mở lại hồ sơ, đọc thêm một lần nữa Resume của cô gái, Thái, Thủy-Vi, tốt nghiệp Master of Biomedical Sciences tại DMU (Des Moines University,Iowa) . . . không phải Tiểu bang mình đã học, vậy thì đã gặp cô ta ở đâu. Lúc phỏng vấn, hai ba lần Thuận định hỏi, nhưng rồi lại quên, mà cũng e ngại, sợ qúa đường đột gây ngộ nhận.
Giữ chức vụ này đã 5 năm, Thuận đã interview nhiều người, anh hết sức né tránh những ngộ nhận không cần thiết, nhất là khi phải interview đồng hương của mình, dù có ý muốn nâng đỡ, cũng chỉ ngấm ngầm và để trong lòng, nhưng đây là lần thứ nhất anh có cảm giác này. Đọc mức lương đề nghị, anh như một cái máy, để mức lương tối đa cho phép phỏng vấn viên, anh nghĩ, cô ta thật xứng đáng được như thế.
Những suy nghĩ về cô gái làm anh bận rộn và quên mất cả thời gian, cho đển khi tiếng điện thoại reo lên, anh mới biết là đã đến giờ, mở cặp da, bỏ hồ sơ vào và ra về, mà tâm hồn cứ quẩn quanh trong ý nghĩ "không biết có còn sót điều nào chưa bảo cô ấy không, thôi để cô ta đi làm rồi mình sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành là đã gặp cô ta ở đâu, có khi là đi lễ Chủ nhật gặp được không chừng” .
Về đến nhà, lúc ngồi ăn cơm, Thuận kể cho vợ anh nghe về cuộc phỏng vấn một người con gái Việt Nam và những tình cảm mơ hồ, lạ lùng trong anh, anh thú nhận là giờ này vẫn còn hình dung ra khuôn mặt và dáng dung của cô ấy, anh biết rất rõ ràng, tình cảm ấy không phải là loại tình cảm nam nữ, nhưng thực sự anh lại không hiểu.
- Có gì đâu, ngày nào cô ấy đi làm thì anh hỏi chuyện cô ấy là được rồi, hay anh lại muốn em giúp? Tại anh nhạy cảm thôi, em hiểu anh đang nghĩ tới điều gì, bên nội hay bên ngoại phải không? Đâu phải là lần đầu anh suy nghĩ viễn vong như thế chứ. Nhưng anh không có em gái mà.
- Thì đành như vậy, nhưng anh lại sợ mình vụng về không khéo léo lại gây hiểu lầm.
- OK, đến ngày đó em tới ăn trưa với anh, rồi giã như tình cờ em gặp cô ấy, chúng ta hỏi chuyện xã giao được không?
- Được vậy thì tốt lắm.
- Nhưng mà cô ấy chắc là dễ thương, duyên dáng, mặn mà lắm phải không? Nếu không làm sao ông chồng em lại tơ vương đến như thế.
- Dạo này hình như tiếng Việt của em giỏi hơn nhiều, nói chuyện nghe văn hoa bóng bẩy quá, phải như ngày xưa em học Văn chương hay Nhân chủng học thì dễ nổi tiếng lắm đó.
- Anh không nhớ các cụ dạy sao, văn chương xứ người làm sao ví von súc tích như văn chương của mình được chứ, này nhé, em có thể diễn tả cô ấy của anh như là, mặt trái Soan, môi trái tim, mũi dọc dừa, mắt bồ câu, mày lá liễu, má đồng tiền, mà lại thêm cái cằm chẻ nữa thì là thần tiên rồi còn gì. Hay anh lại muốn cô ấy có đôi “mắt mơ huyền”, co' nụ cười “Mai nở”, có đôi chân “cỏ bằng”, và dáng đi thướt tha như liễu rũ bên song.
Thuận lắc đầu nhìn vợ.
Anh lập gia đình đã hơn 15 năm, có hai đứa con gái,nhưng tình cảm vợ chồng lúc nào cũng thân ái mặn nồng, đúng như câu các cụ bảo "vợ chồng lúc nào cũng tương kính như tân”. Có những lúc ngồi buồn một mình, nghĩ tới ba mẹ, anh vẫn thầm tiếc không có cơ hội đáp đền ơn sinh thành dưỡng dục của ba mẹ, những tình cảm ấy, anh đem dành hết cho ba má nuôi anh. Tuy là người bản xứ, nhưng giữa anh và ba má nuôi, thật rất gần gủi và thân thiết không khác gì ruột thịt, có lẽ tại từ những ngày đầu anh côi cút, lạc loài, và bơ vơ, được ba má nuôi chăm sóc dưỡng dục, đã cho anh một ấn tượng hoàn hảo về hai ông bà, và làm cho anh trở nên gần gủi với người bản xứ thực sự. Nhất là thời gian anh còn ở tiểu học, lúc nào cũng được má nuôi đưa đón đến trường. Ngày anh tốt nghiệp đại học, ba má nuôi ôm hôn anh trước sân trường làm anh xúc động đến rơi nước mắt, và hình ảnh ấy, anh còn nhớ mãi đến bây giờ, cho nên khi ông bà còn sinh tiền, vào những ngày lễ như ThanksGiving, Christmas, anh luôn luôn đem vợ con về ở chơi một hay hai ngày với ba má, làm cho ông bà cũng rất hãnh diện và thực sự vui vẻ. Liên tiếp hai năm, ba mất rồi má cũng mất, tinh thần anh đã suy sụp thấy rõ, rất may là có được vợ anh và các con , anh mới tìm thấy một điểm tựa tinh thần, vì anh luôn luôn coi ba má nuôi anh như ngôi nhà ẩn náu mỗi khi anh đau khổ hay buồn phiền trong đời, anh luôn luôn kể cho má nuôi anh nghe những chuyện không vui của mình, và tình cảm má con nhờ đó đã gần gủi thân thiết như cật ruột. Tấm lòng cưu mang và dưỡng dục của ba má, anh biết không có cách nào đền trả, đành chỉ biết ghi nhớ trong lòng.
Nghĩ tới những câu của vợ, anh lại nhớ cô giáo dạy tiếng Việt, đã cắt nghĩa sự ví von của tiếng Việt mà người ngoại quốc khi nghe, sẽ cứ tưởng là những câu hoa ngôn khen thưởng. Mắt mơ huyền là mắt mờ hay mù, (vì mơ huyền mờ!), cười Mai nở, Mai là con khỉ, nở là đẻ. Mặt con khỉ bình thường vốn đã nhăn rồi, đến khi đẻ chắc là nhăn hết chổ nói. Chân cỏ bằng là chân cẳng bò, cẳng con bò thon, tròn, dài ra sao thì ai cũng đã biết. Cho nên trong trường Việt ngữ, cô Nga là cô giáo được học trò yêu mến nhất, và lớp của cô cũng đông học trò nhất. Thuận và vợ anh cũng quen nhau từ lớp Việt ngữ này và cả hai giữ tình cảm ấy cho đến ngày kết hôn. Bây giờ không biết cô Nga ra sao. Thoảng chốc mà đã mấy chục năm, Thuận thấy mình như đã già đi nhiều lắm, giã như được gặp lại ba mẹ chắc gì ba mẹ đã nhận ra mình, mà mình cũng làm sao nhận ra ba mẹ. Nghĩ tới điều này, lòng Thuận như mang một khối đá, và ngực như ai bó chặt, dù vợ đã căn dặn anh nhiều lần là không được để tinh thần căng thẳng quá, nếu không sẽ hệ lụy đến tim mạch, rất phiền phức, vì có lần anh đã phải nằm bệnh viện vì tình trạng này, đó là thời gian ba má nuôi anh theo nhau bỏ anh về nơi yên nghĩ.
Thuận còn một nỗi niềm, mà không cách nào anh có thể chia xẻ với vợ mình, đành chỉ âm thầm chịu đựng. Không phải Thuận cố chấp hay phong kiến, hay tiêm nhiễm nền đạo học cũ. Nhưng Thuận vẫn không thấy vui vẻ khi nghĩ tới ba mẹ và em, về người nối dõi cho giòng họ Thái của ba. Nếu ba mẹ và em đã chết, quả là giòng họ Thái đành đứt đoạn, Thuận thấy mình có lỗi với ba mẹ và ông bà nội hay tổ tiên. Tư tưởng này cứ nhậm gấm tâm hồn Thuận mỗi khi nhìn vợ con vui vẻ bên nhau, rồi Thuận tự hỏi mình, khi ta đi rồi còn gì lưu lại mai sau, và tâm hồn như trũng xuống ngậm ngùi.
*
Thuận vượt biển đến Mỹ năm 1978, lúc đó Thuận chỉ mới 8 tuổi, được một gia đình người bản xứ không có con nhận nuôi và đón tại phi trường, khi Thuận vừa từ đảo đến. Thuận không nhớ gì về gia đình mình, ngoài tấm hình được bọc plastic, luồn trong lưng quần mà lúc ra đi mẹ Thuận đã để vào, tấm hình ấy gồm có ba mẹ Thuận, Thuận và một người em trai nhỏ hơn Thuận 3 tuổi, mặt sau của tấm hình có ghi là: Thái Ngọc Trác (1947), Chung thị ngọc Hân (1953), Thái Ngọc Thuận (1970), và Thái ngọc Trị (1973).
Ba má nuôi của Thuận đã kể cho Thuận nghe về tai nạn của chiếc tàu chở Thuận và 48 người khác vượt biển, bị lạc đường trên biển, hết lương thực và nước uống, rất nhiều người đã chết vì đói và khát, chỉ còn Thuận và 5 người khác gồm 3 trẻ em còn sống sót. Đó là những gì Thuận biết về chuyến vượt biển của mình, những người sống sót đó là ai, hiện nay ở đâu anh không hề biết. Ba má nuôi của Thuận cũng đã dùng tấm hình ấy để hỏi thăm tin tức về gia đình Thuận ở các cộng đồng người Việt trên đất nước này, hay hầu hết các nước Pháp, Anh, Canada, Úc ... nhưng không hề nhận được một tin tức nào trong 30 năm nay.
Thuận rất muốn về Việt Nam để tìm lại gia đình, nhưng không biết phải bắt đầu tìm từ chổ nào, hỏi thăm những người hàng xóm cũ, hay hỏi tin tức từ quê của ông bà nội ngoại. Điều không may là lúc ra đi Thuận chưa đầy 8 tuổi, đầu óc non nớt đó không thể nhớ được nơi Thuận đã ở, ngoài con đường Phan Chu Trinh mà Thuận như mang máng nhớ, còn lại chỉ là những hình ảnh mơ hồ. Thuận chỉ biết nhà của gia đình anh ở rất gần chợ, từ nhà có thể đi bộ đến một Tiệm may, gần đó là những quán xá như tiệm chè, quán kem, và vườn sau của nhà là một cây mai rất nhiều cành, mà Thuận nhớ hàng năm khi Tết đến, mẹ vẫn thường hay cắt nhánh đem vào chưng bàn thờ hay là cắm ở phòng khách, ngoài ra Thuận không còn nhớ được gì nữa. Bác Khôi ở cạnh nhà Thuận, hàng xóm mà Thuận thường chui qua vườn sau để cùng chơi đùa với Lân và chị Cúc, cũng đã dọn đi sau khi Sài gòn bị chiếm. Rất nhiều những gia đình khu Thuận ở đã bỏ đi hay bị đuổi khỏi nhà. Ngày Thuận ra đi, căn nhà bác Khôi và chị Cúc đã bị một gia đình bộ đội dọn vào, và gia đình bác Khôi ra sao cũng không nghe mẹ nhắc đến, chính vì thế mà hàng xóm của Thuận đã toàn là những người lạ không ai tiếp xúc .
Còn về gia đình nội, ngoại thì Thuận chỉ nhớ trước đây ông bà nội ở Đà Lạt, mất miền Nam, gia đình nội và các cô chú nghe mẹ nói về Phước Tuy và đã mất tin tức liên lạc. Bên ngoại còn cậu Tuấn, đi tù, cậu Hưng đã vượt biên, nhưng không liên lạc được, còn dì Út thì lên ở với gia đình Thuận và đi cùng chuyến tàu với Thuận nhưng đã chết vì đói và khát. Đó là lý do mà Thuận không về Việt Nam để tìm kiếm.
Với tất cả phương tiện mà Thuận biết và có thể, Thuận đã dùng hết, để hỏi thăm tin gia đình trên các tiểu bang của nước Mỹ hay là tìm đến Canada, theo sự chỉ dẫn của một vị đại tá, nguyên Trưởng phòng II của Quân Đoàn II, "Hãy bắt đầu từ đơn vị ít người nhất, như các Liên đoàn, Sư đoàn, Bộ Tư lênh. Từ nước gần nhất, đến nước xa xôi . . . “ và Thuận đã tìm đến Canada, gặp một vị đại tá Hải Quân, Chủ tịch liên Hội người Việt, Ông cư ngụ ở một thành phố ngoại ô của Thủ đô Canada, thành phố Nepean, rồi gặp vị Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân tại Ottawa, nhưng không ai biết tin tức về gia đình anh. Anh lại lần lượt tìm liên lạc với các liên đoàn, như Liên đoàn 21, 22 Biệt động Quân, Liên đoàn 6 BDQ, Liên đoàn công Binh, Liên đoàn Quân Y, các bệnh viện từ Duy Tân, Nguyễn Huệ, đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, các Phòng I của các Sư đoàn Vùng Hỏa tuyến, đến 22, 23, 18, 25, 7, 9... Sư đoàn Dù, TQLC, nhưng chỉ là những cuộc tìm kiếm vô vọng.
Cách đây vài năm, anh nghe vị cựu Chỉ Huy Trưởng LD 72 Quân Y kể chuyện về đời sống ở Úc, anh đã tìm cách làm quen với những người ở Úc và quen được một ông cụ mà ngày xưa có con làm Phó tỉnh Gia định và Giám sát viện, từ đó, anh liên lạc được với các sở ANQD, Hành Chánh TC, các Trung Tâm HCTV Tiểu khu , và kết quả vẫn là câu "Trời Phật nhất định sẽ không phụ lòng hiếu thuận của cháu đâu, rồi có ngày cha con mẹ con lại đoàn tụ"
Anh thất vọng, bỏ cách thức tìm kiếm từ các đơn vị Quân đội, và quay về với đầu mối cũ mà ba má nuôi anh từng tìm, đó là các Trại tù Cải tạo, từ Bắc chí Nam. Anh được tiếp xúc với rất nhiều người tù Cải tạo, chứng kiến cuộc sống của họ, những vất vả và cố gắng của họ làm anh ngậm ngùi và xúc động, những lúc như vậy, anh lại thầm nghĩ đến ba mẹ, "nếu ba mẹ còn sống, con sẽ không để ba mẹ vất vả đâu".
Vào năm cuối của Biomedical scientist, Thuận nghe tin có một vị Linh mục ở nhà tù Trại Đưng, Thanh Hóa, biết tin về một Sĩ quan tên Trác, trốn trại bị Việt cộng bắn chết, Thuận đã bỏ nửa chừng để bay đi Nouvelle Calédonie (Tân đảo), nơi cha Stanislas Cosca Hoa đang làm cha xứ, để hỏi thăm tin tức,
- Thưa cha con là Thái Ngọc Thuận, ở xa đến xin gặp cha để hỏi về tin của ba con là Thái ngọc Trác, đây là hình của gia đình chúng con.
- Hình mờ quá, tôi nhìn không rõ, nhưng mà tôi cũng không biết gì về ông cụ đâu. Ai nói cho anh biết tin này?
- Một người quen ở Tân Tây Lan nói cho con, nhưng họ cũng không biết đích xác, họ chỉ bảo con viết thư hỏi tin tức ở cha mà thôi.
- Thật là tội nghiệp, lòng của con Chúa sẽ biết. Đã đến đây thì hãy ở vài ngày coi cho biết Tân Đảo, người Việt ít có ai đi du lịch tới nơi này.
- Thưa cha ở đây có bao nhiêu giáo dân.
- Chừng hơn 500 người, nhưng lòng tin kính Chúa thì rất sốt sắng . . .
Thuận rời Giáo xứ Nouméa Kitô Vua mà lòng mang đầy nỗi tuyệt vọng mênh mong.
Trở về Thuận viết thư nhờ bà Khúc Minh Thơ giúp đỡ, rồi theo dõi Chương trình HO của các người đi tù cải tạo trở về, nhưng vẫn không tìm ra manh mối của gia đình, người thân, nội hay ngoại. Điều đáng tiếc là Thuận không biết cấp bậc của ba, đơn vị của ba, hay của cậu Tuấn, cậu Hưng, để mà dò la, cho nên đến chổ nào, hay viết thư đi đâu cũng không ai biết cách nào giúp đỡ. Hàng năm, kể từ sau khi tốt nghiệp, Thuận xông xáo vào các hoạt động của cộng đồng người Việt, nhất là của các hội Cựu Quân Nhân để làm quen hỏi thăm , nhưng câu hỏi mà Thuận luôn luôn nghe là "ba cháu cấp bậc gì, đơn vị sau cùng ở đâu?" Thuận chỉ lắc đầu không biết, có người thấy vậy còn nghi ngờ Thuận có lòng tới quấy nhiễu đã tỏ thái độ xua đuổi.
Hình ảnh cuối cùng còn rõ nhất trong đầu Thuận là buổi chiều ra đi, mẹ ôm Thuận và dì Út vừa mếu máo vừa nói, "Gia đình chỉ còn hai dì cháu, em phải lo cho cháu giúp anh chị, rồi mẹ cúi xuống hôn anh và nói, con phải nghe lời dì Út nhé" và Thuận thấy nước mắt chảy đầy trên mặt mẹ khi anh và dì Út bước lên chiếc xe ra đi. Cuộc hành trình vượt biên xảy ra như thế nào thực sự Thuận không hay biết, vì anh và nhiều người khi bước lên tàu, đã bị đưa xuống hầm tàu nằm co ro không biết ngày đêm, chỉ khi nào đói thì kêu dì Út, cho đến một ngày dì Út bảo là đã hết thức ăn, hãy cố ngủ đi, và rồi không biết bao nhiêu ngày Thuận đã mệt lã, bất tĩnh cho đến lúc được tàu vớt và đưa lên đảo, tĩnh lại, Thuận mới biết là dì đã chết, lúc đó Thuận khóc ngất đi một lần nữa, tĩnh lại, Thuận rất sơ hãi vì chung quanh toàn là những người xa lạ. Thuận nhớ mẹ vô cùng, và nhớ cả dì Út nừa, Thuận gào lên "Trả dì cho tôi, trả dì cho tôi". Những con mắt nhìn Thuận thương hại và thông cảm cho tâm trạng của một đứa nhỏ bổng nhiên thành côi cút, lạc loài giữa đám người xa lạ, và dù người ta cố dỗ dành, nhưng Thuận vẫn không hết sợ hãi và nức nở khóc đến sưng cả mặt.
Câu chuyện xảy ra đã mấy chục năm, và cơ hội tìm gặp ba mẹ và em Thuận đã gần như không nghĩ tới. Hàng năm, Thuận lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giổ cho ba mẹ và em, ngày ấy cả nhà đi lễ cầu nguyện cho gia đình, dù là bận rộn, hoặc nhằm vào ngày cuối tuần hay giữa tuần, Thuận cũng dắt vợ con đi xem lễ.
Thời gian là liều thuốc quên lãng, thời đi qua xóa mất bao tình thân ái và làm hao mòn bao cố gắng của con người, và niềm hy vọng đoàn viên chỉ còn là một giấc mơ mỗi khi tưởng nhớ tới ba mẹ và em. Điều làm Thuận thương cảm nhất là anh không còn hình dung ra được ba mình như thế nào, trong đầu óc anh khi nghĩ về ba, chỉ là hình ảnh nhạt nhòa trên tấm hình trắng đen mà mẹ trao cho lúc ra đi, và mỗi lần nhìn lại tấm hình, Thuận không làm sao kềm được cảm xúc và các con anh đã bắt gặp rất nhiều lần, những khi như vậy, bao giờ vợ anh cũng chỉ vổ về anh bằng câu nói " hãy cố quên đi, cố vui với các con, và hãy cầu nguyện cho họ, biết đâu như người ta nói, xa tận chân mây, nhưng gần lại trước mặt, nếu ba mẹ chưa mất, thế nào gia đình mình cũng có ngày đoàn tụ".
Thuận cúi xuống, hai mắt nhắm lại khi như cầu nguyện :" Ba mẹ ơi, đây là Thành phố Hy Vọng, City of Hope, con và những người làm việc ở đây lúc nào cũng mong ước đem được hy vọng đến cho từng người, và dù chỉ có một tia hy vọng nhỏ nhoi, chúng con và cả những bệnh nhân, cũng không bao giờ dám bỏ lỡ. Ba mẹ hãy chỉ cho con biết phải làm thế nào, nếu quả thật ba mẹ đã về nơi yên nghĩ, xin hãy báo mộng cho con"!
Nguyễn Định
(còn tiếp)