HOA MAI
Trần Tuấn Mẫn
Hoa mai đẹp. Ở miền Nam chỉ thấy có mai vàng, thật hiếm có mai trắng và thật hiếm thấy mai trắng nở hoa. Hoa vàng thì nhiều, rất nhiều, năm cánh, sáu bảy cảnh, hoặc mới đây có hoa mười lăm mười bảy cánh, vàng đậm, vàng tươi, rực rỡ trong ngày Xuân và thiêng liêng như hồn Xuân vậy. Người trồng mai nếu không tính toán kỹ thì có thể mai nở trước Tết hoặc sau Tết. Vậy nếu để tự nhiên, hoa mai sẽ nở vào lúc nào?
Nguyễn Gia Thiều có câu thơ nói về mai:
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai
Gió đông là gió mùa Đông hay gió Xuân (mùa xuân thuộc phương đông, đông phong là gió xuân)? Vịnh hoa mai, vua Lê Thánh Tông viết:
Đa thiểu Quỳnh lâm Xuân tín tảo
Phong tiền thác lạc ngọc thiên chu.
(Bao mấy rừng Quỳnh tin xuân sớm
Tung bay trước gió ngọc ngàn cây)
Tin Xuân sớm nghĩa là vào lúc đang đông, vậy là hoa mai nở vào cuối đông.
Nhưng hoa mai mà các thi nhân ngày xưa ca tụng là mai trắng hay mai vàng? Tôi nghĩ là miền Bắc không có mai vàng vì đến nay tôi vẫn nghe nhiều người nói như thế. Được biết trước kia ở ngoại ô Hà Nội có xã Hoàng Mai và xã Bạch Mai, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, lại có bệnh viện Bạch Mai. Vậy mai trắng hẳn là có ở đất Bắc nhưng mai vàng liệu có ở Hoàng Mai hay nơi nào khác?
Vua Lê Thánh Tông bảo hoa mai là “thanh hương diễm sắc” (hương nhẹ nhàng, sắc mỹ lệ) và có câu “nguyệt hạ phù hương nhập mộng vô” (Dưới nguyệt, hương vào cõi mộng không – bài Mai hoa thi, Quỳnh Uyển Cửu Ca). Mai ở đây là mai trắng, vì bài họa của Thân Nhân Trung có hai câu:
Cô xạ thiên tiên tiết tháo cô
Phục phi tố luyện, bội minh châu
(Tiết tháo tột cùng, tiên núi Cô
Khoác y lụa trắng, ngọc ngời phô)
Lụa trắng (tố luyện) nhằm trỏ sắc hoa, còn hương thì nhẹ nhàng thanh thoát, cho nên sách Tỳ Nhã bảo: “Mai ưu ư hương, đào ưu ư sắc” (Mai ưu thắng do mùi hương, đào ưu thắng do màu sắc). Mùi hương tinh khiết này được Thôi Nhật Dụng nhắc đến:
Khúc trì đài sắc băng tiền dịch
Thượng uyển mai hương tuyết lý phiêu
(Rêu nơi ao Khúc in băng lạnh
Mai chốn vườn Vua ngát tuyết trong)
Nguyễn Trãi cũng ca tụng sự thanh khiết của hoa mai kèm với hình ảnh tuyết trắng:
Ái mai, ái tuyết, ái duyên hà
Ái duyên tuyết bạch, mai thanh khiết.
(Yêu mai, yêu tuyết bởi vì sao
Bởi vì tuyết trắng, mai thanh khiết.)
(Ức Trai thi tập, Đề Hoàng Ngự sử Mai Tuyết hiên)
Bà Huyện Thanh Quan nêu lên hình ảnh đẹp của rừng mai bát ngát:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có khoảng 20 câu thơ nhắc đến mai. Trong bộ tam tùng, trúc,mai, mai được xem là của mùa đông cùng với tùng, trúc. Trong bộ tứ mai, lan, cúc, trúc, mai lại đại diện cho mùa xuân. Mai được rất nhiều nhà thơ nói đến theo tính ước lệ, nhằm trỏ sự mảnh mai, tinh khiết, thanh cao hoặc nhằm trỏ người phụ nữ đẹp. Các thi sĩ nước ta ngày xưa vẫn thường tả mai theo ước lệ, lấy ý tưởng và hình ảnh mai của Trung Hoa để đưa vào thơ mình. Thế nhưng lắm khi cùng một tên hoa mà hoa ở Trung Quốc lại khác hoa ở Việt Nam, như trường hợp hoa mẫu đơn, hải đường, đỗ quyên, dương liễu… Hoa mai thì sao? Cứ xem tranh Tàu vẽ hoa mai ta thấy toàn là hoa trắng, giống với hoa mai trắng ở nước ta, dù cánh hoa có vẻ lớn hơn.
Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị nói về mai như sau: 1) Cây hoa có màu trắng hay vàng, cuối Đông nở hoa, lại chua thêm tiếng Pháp: Variéte de rosacées aux fleurs odorantes (thuộc loại hoa hồng, hoa có mùi thơm), và 2)Cây mơ,chua thêm tiếng Pháp: Prunier. Tra thêm chữ Mơ, ta thấy: cây thuộc loại mận, quả có vị chua (Abricotier). Tra đến chữ Mận: cây thuộc loại mơ, quả ăn được (Prunier). Thế là lại trở về mơ và có thêm mận và các từ abricoter, prunier. Abricotier và prunier của tiếng Pháp đồng nghĩa với apricot và prune của tiếng Anh. Tân tiêu chuẩn Anh Hán từ điển giải thích: cây apricot có trái màu vàng, có hột, có bà con với cây hạnh (chữ hạnh là chữ Hán chua thêm để giải thích từ plum). Tra chữ Plum: chỉ cho những loại quả có hạt và cây có quả ấy (lại có chua thêm các từ chữ Hán: mai, lý). Bây giờ ta lại trở về từ mai, lại có thêm từ lý! Hẳn ai cũng có lần gặp phải sự lẩn quẩn như thế này khi dò lần theo từ điển! Đang đi tìm mai lại gặp mận, mơ, lý, hạnh! Từ điển Webster giải thích: plum là một loại cây cao hoặc cây bụi, trái da mịn, có hình cầu hay hình trứng, mọng nước và có hạt hình chữ nhật; apricot là loại trái có hình trứng, màu cam, cây thuộc vùng ôn đới, trái có vị giống như đào (peach), mận (prune).
Các từ điển trên đều giải thích mai là loại cây có quả. Từ điển Từ Hải ghi: Mai là loại cây lớn; lại bảo: Mai là loại cây rụng lá, nở hoa vào đầu xuân, có hai loại đỏ và trắng. Loại trắng thì khi mới nở hoa có màu lục, cũng là loại lục ngạc mai (hoa mai có đài màu lục). Sau khi rụng lá, cây sinh hoa, (cánh) hoa hình trứng mà nhọn, viền răng cưa. Quả có vị chua, sau tiết lập hạ thì chín. Trái mới sinh có màu xanh, khi chín thì vàng.
Hán Việt tự điển của Thiều Chửu thì ghi: “Mai: cây mơ, đầu mùa xuân thì nở hoa, có hai loại trắng và đỏ”. Cây mơ cũng có hoa trắng như hoa mai nở vào đầu xuân; vậy có phải mai là mơ? Có lẽ thế nên ở Hà Nội, gần Bạch Mai có chợ Mơ. Trái mơ rất quen thuộc với người miền Bắc, trái mơ ngâm đường làm thức uống rất tốt. Kinh Thi lại có câu: “Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai” (nếu cần hòa và canh, chỉ có mai ngâm muối (là ngon nhất).
Thiền sư Pháp Thường đắc pháp với ngài Mã Tổ qua câu “Tức tâm là Phật”, về tu ở núi Đại Mai, nơi có nhiều mai, nhân đó mới có hiệu là Đại Mai. Về sau Mã Tổ sai một vị Tăng đến dò hỏi Sư. Vị Tăng bảo rằng Mã Tổ không còn dạy rằng “Tức tâm là Phật” nữa, mà lại dạy “Chẳng phải tâm chẳng phải Phật”. Sư nói: “Lão già này cứ làm người ta mê loạn, không biết đến bao giờ mới thôi. Mặc cho các người “Chẳng phải tâm chẳng phải Phật”, ta đây cứ “Tức tâm tức Phật”. Nghe vị Tăng trở về thuật lại, Mã Tổ khen: “Quả mai đã chín” (Mai tử thục dã) – Xem Mã Tổ ngữ lục. Quả mai ở đây hẳn là quả mơ!
Hãy trở lại với hoa mai. Bài kệ của Đại sư Mãn Giác (1052-1069) đời Lý có hai câu kết rất nổi tiếng:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Trước sân, đêm trước một cành mai).
Lắm người nghĩ rằng bài kệ trên là một bài thơ xuân, thậm chí là bài thơ vịnh hoa mai. Hai câu trên thường được in trên thiệp chúc Tết, bằng chữ Hán, thảo tự hoặc bằng “thư pháp” chữ Việt, có kèm tranh vẽ hình chụp một cành hoa mai vàng rực rỡ.
Theo Thiền uyển tập anh, Đại sư Mãn Giác tịch vào tháng 11 (năm 1096). Trước lúc Sư tịch, đồ chúng tụ tập quanh Sư, hẳn là ai cũng sầu thương. Sư đọc bài kệ thị tịch:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Xuân đi, trăm hoa rụng; Xuân đến, trăm hoa nở; Sự việc cứ qua trước mắt; Tuổi già đến trên đầu;…). Rõ ràng là nhân đồ chúng buồn thương vì Sư sắp tịch, Sư khuyên họ chớ buồn vì đời là vô thường, đó là lý tự nhiên. Xuân đi, xuân đến, hoa nở, hoa rụng ở đây không nhằm trỏ riêng mùa xuân mà chỉ giống như trăng tròn, trăng khuyết, mây tụ, mây tán, hết nắng lại mưa… đều là những biểu hiện tính vô thường, tự nhiên. Điều cần thiết là mọi người hãy cố gắng tu tập để nhận rõ cái chân tâm thường trụ của mình, đó là bản lai diện mục, pháp tính, Phật tính,… không hề tăng giảm, không hề tiêu mất.
Đêm trước một cành mai là sao? Đã bảo là xuân tàn hoa rụng hết, sao lại còn một cành mai? Sư tịch vào tháng 11, khi hoa mai chưa nở; khi xuân đến mai nở chỉ trong vài ngày, không lẽ xuân tàn vẫn còn hoa mai? Và nếu còn thì có ý nghĩa gì đâu? Không lẽ Sư khuyên mọi người hãy vui vì còn mấy bông hoa trên cành? Thế thôi sao? Cành mai ở đây là một cành của cây mai, không có hoa vì hoa đã rụng rồi; nhưng khả năng nở hoa, cái tính nở hoa của cành vẫn còn đó, không mất đi đâu cả, nó sẽ đơm hoa khi thời tiết nhân duyên đến, cũng như Phật tính vẫn có sẵn ở mỗi người, sẽ thể hiện vào một lúc nào đó thuận hợp. Có lẽ đây mới là cốt lõi của bài kệ.
Vì là bài kệ ứng khẩu, cũng như nhiều thiền sư khác, ngài Mãn Giác không cố ý làm thơ cho hay, ngài chỉ chợt nhớ, chợt nghĩ đến một ý tưởng, một hình ảnh cũ nào đó và ngài đưa vào bài kệ. Có lẽ ngài nhớ đến hai câu thơ trong bài ngũ ngôn tứ tuyệt Tảo mai của Hòa thượng Tề Kỷ đời Đường:
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai
(Thôn trên dày tuyết phủ
Đêm trước nở cành mai)
Cành mai của Tề Kỷ là cành mai nở sớm (tảo mai) trong đám tuyết dày cuối đông; cành mai của Mãn Giác là cành mai chỉ có lá, hoa đã rụng từ lâu vì bấy giờ xuân đã tàn. Cành mai của ngài Tề Kỷ thật đẹp đẽ, thanh khiết; cành mai của ngài Mãn Giác thật đầm ấm, vỗ về, lạc quan, tràn đầy hy vọng.
Những ngày cuối năm… Tôi vẫn thường quây quần với vài ba người bạn bên bàn với những tách cà phê đen đậm. Đám bạn bè cũ năm nọ với câu chuyện hoa mai đã tứ tán, nói theo kinh Bổn sinh, họ đã đi theo nghiệp của họ: đi làm ăn xa, bận bịu với công việc, nằm bệnh với tuổi già, không còn trên đời nữa hay đang hóa thân trong một kiếp sống mới…
Ly cà phê cạn, buồn tênh. Tuổi đời vẫn thêm, lắm khi không uống cạn hết ly đen, tôi vẫn mong mời rủ hay được mời rủ, cùng bằng hữu uống cà phê. Thì ra cái “sự cà phê” trong tôi vẫn còn đó. Xuân sắp đến, sẽ rực rỡ mai vàng, ai sẽ cùng tôi bên ly đắng?