Nguyễn Ngọc Huy:
Một chính trị gia có tính thực tiễn
Lê Quế Lâm
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy lúc sinh thời và khi mất đi, đã được người đời ca tụng là “người quốc sĩ, nhà trí thức uyên bác, danh nhân thời đại, Gandhi Việt Nam, vị lương sư khả kính, nhà biên khảo công phu, nhà thơ đầy ấp tình yêu nước, chính trị gia lỗi lạc, nhà vận động đầy thuyết phục, diễn giã hùng biện, nhà tranh đấu bất chấp hiểm nguy và sau hết là một chiến sĩ can trường đã chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng”. Nay nhân ngày giỗ lần thứ 17 của ông, tôi xin nói thêm: Giáo sư còn là một người làm chính trị có tính thực tiễn, mà hình như chưa có người lãnh đạo nào của đất nước có được đức tính này. Ông nhạy cảm với tình thế và biết cách hành sử thích hợp để thực hiện hoài bão đối với quốc gia dân tộc.
Năm 1967, khi thụ ủy liên danh Bông Lúa ứng cử vào Thượng nghị viện. Ông Hà Thượng Nhân, chủ nhiệm báo Tiền Tuyến đã hỏi ông “Nếu chúng tôi không lầm thì trước đây anh là một nhân vật chủ chốt của Đại Việt. Anh có thể cho biết tại sao bây giờ anh trở thành TTK Phong trào QGCT hay không? Ông trả lời “Vâng anh nói đúng. Tôi vốn là người của Đại Việt. Ngày trước cũng như bây giờ. Nhưng cuộc đời thường ấm lạnh, nên con người muốn sống còn phải ăn ở cho đúng thời tiết. Danh xưng thì cũng như cái áo mặc bên ngoài. Cốt là sự sống bên trong. Tôi thì dù áo mặc như thế nào chăng nữa, vẫn là người Đại Việt. (Lô Răng, Hạc vàng bay mất, Gs Nguyễn Ngọc Huy –Nhà chí sĩ thời đại, Tr. 228)
Chủ nghĩa Dân tộc sinh tồn: Năm 1945 ông gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng do nhà cách mạng Trương Tử Anh sáng lập. Chủ nghĩa dân tộc sinh tồn là nền tảng của đảng Đại Việt được đảng trưởng TTA phác họa từ những năm 1930, có lẽ không ngoài mục đích vì một nước Đại Việt hùng mạnh. Theo các đảng viên ĐV kỳ cựu, lý thuyết Dân tộc sinh tồn đượm màu sắc chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, một chủ thuyết dân tộc cực đoan. Lý tưởng này đã được các nước Đức Ý Nhật Nga thực hiện với chủ nghĩa Quốc xã Đức, Phát xít Ý, Quân phiệt Nhật và CS Nga. Theo đó, một dân tộc muốn hùng mạnh và phát triển cần có một lãnh tụ đầy đủ quyền uy, người dân phải ghép mình vào khuôn khổ kỷ luật với một thể chế độc tài. Hitler đưa ra thuyết “siêu nhơn”, theo đó những công trình vĩ đại, những hành vi anh dũng đều là công trạng của những cá nhân chớ không phải của quần chúng. Họ phủ nhận nhân cách con người, hủy diệt tự do cá nhân. Lãnh tụ được tôn sùng như thần thánh, con người lệ thuộc và phục vụ quốc gia một cách tuyệt đối theo ý muốn của lãnh tụ. Tinh thần của các chủ nghĩa trên có thể tóm lại trong câu “duy quốc độc tôn”, lấy quốc gia làm cứu cánh cho mọi hành động của con người.
Năm 1939, Hitler sát nhập Áo vào Đức, thôn tính Tiệp Khắc…Còn Nhật đánh sụm ách thống trị thực dân trên toàn cỏi Á đông để thực hiện chiêu bài Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Riêng Stalin và Mao Trạch Đông dựa vào khẩu hiện của Marx “Vô sản các nước đoàn kết lại” còn có tham vọng mở rộng chủ nghĩa Đại Nga, Đại Hán thành thế giới đại đồng. Ý định này được lãnh tụ CSVN ông Hồ Chí Minh tán đồng qua câu thơ khi ông đến thăm đền Trần Hưng Đạo ở Vạn Kiếp: “Bác đưa một nước qua nô lệ. Tôi dắt năm châu đến đại đồng”.
Các chủ nghĩa trên của Đức, Ý, Nhật đã bị phá sản hoàn toàn khi Thế chiến II chấm dứt. Với kế hoạch Marshall, HK đã chi một số tiền khổng lồ để phục hồi kinh tế Tây Âu kể cả nước bại trận. Mục tiêu của HK là thực thi dân chủ, điểm này phải gắn liền với việc phát triển kinh tế, kiến tạo những điều kiện xã hội và chính trị giúp các nước tự do tồn tại và duy trì hòa bình thế giới. Nhờ đó, chỉ trong vòng hai thập niên, Đức Ý Nhật đã trở thành những quốc gia tự do dân chủ với nền kinh tế phát triển, ngang hàng với các nước từng đánh bại họ, họp thành khối bát cường tức các nước có nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới. Trong khi đó, Liên Xô và các nước Đông Âu khước từ sự giúp đỡ của HK, họ hình thành hệ thống XHCN thế giới kình chống với TGTD trong chiến tranh lạnh, kéo dài gần nửa thế kỷ. Cuối cùng chế độ độc tài này cũng phải sụp đổ theo vết xe lịch sử.
Sau khi Gorbachev tuyên bố đặt Đảng CS Liên Xô ra ngoài vòng pháp luật và từ chức Tổng Bí thư đảng, tổng thống Cộng Hòa Nga Yelsin tuyên bố với đài ABC trực tiếp từ Hoa Kỳ: “Chủ nghĩa Cộng sản là một thảm kịch cho dân tộc chúng tôi. Kinh nghiệm lịch sử cho phép chúng tôi kết luận một cách quả quyết rằng mô thức xã hội chủ nghĩa đã thất bại”. Không may cho dân tộc, VN lại là địa bàn chính của cuộc xung đột này.
Từ chủ nghĩa Dân tộc sinh tồn đến chủ nghĩa Quốc gia khoa học.
Năm 1945, cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước diễn ra trong bối cảnh vô cùng thuận lợi khi Thế chiến II vừa chấm dứt. Trong chiến tranh, TT Hoa Kỳ Roosevelt luôn khuyến cáo hai đồng minh Anh Pháp phải thay đổi chính sách thuộc địa, vì đó là mầm móng của chiến tranh và là nhược điểm của các nước Tây Phương. Do đó, Anh Pháp quyết định, sau khi thu hồi các thuộc địa, họ sẽ thương lượng với những người bản xứ và trao trả độc lập cho các thuộc địa để duy trì ảnh hưởng của mình như là hai trụ cột trong 5 thành viên thường trực Hội đồng Bào An LHQ. De Gaulle đưa ra Tuyên ngôn 24/3/1945 hứa sẽ cho các nước Đông Dương được tự trị trong khối Liên hiệp Pháp. Trong thời Pháp thuộc, VN chia làm ba phần: Nam Kỳ là đất thuộc địa, Trung Kỳ là đất tự trị và Bắc Kỳ là đất bảo hộ. Khi TC II chấm dứt, Pháp không có thực lực ở Đông Dương nên Đồng minh giao cho Trung Hoa vào giải giới quân Nhật ở Bắc vĩ tuyến 16, còn phần đất phía Nam do quân Anh tạm phụ trách.
Ngày 6/9/1945 lực lượng hoàng gia Anh do tướng Gracey cầm đầu đến Sàigòn. Đến nơi ông ta thảo luận ngay vấn đề Nam Bộ với Ủy viên Cộng hòa Pháp Cedile và đại diện Việt Minh Phạm ngọc Thạch. Ông yêu cầu VM giải giới lực lượng dân quân cách mạng, giao cho Nhật trách nhiệm ổn định trật tự, duy trì an ninh để hai bên Việt Pháp đàm phán.
Các đảng phái Quốc gia phản đối VM thông đồng với giặc Pháp phản bội quyền lợi dân tộc. Cuộc đàm phán Pháp Việt bất thành vì lập trường hai bên trái nghịch nhau. Phía VM đòi Pháp nhìn nhận độc lập, còn Pháp thì chủ trương tái lập trật tự, lưu lại chủ quyền của Pháp rồi mở cuộc trưng cầu dân ý xác định chủ quyền Nam Bộ, sau đó sẽ thành lập Liên bang ĐD như tuyên ngôn 24/3. Ngày 21/9/45 Cedile ra lịnh tấn công tái chiếm các công sở và khám lớn Sàigòn. Đêm hôm sau, VM rút khỏi Sàigòn, ra lịnh đồng bào tản cư với lời đe dọa “ai còn ở lại Sàigòn là Việt gian sẽ bị bắt và trừng trị”. Trên đường dân chúng tản cư, VM sát hại khá nhiều những phần tử đối lập. Chiến tranh Việt Pháp thực sự bùng nổ tại Nam bộ.
Tại Bắc bộ, giữa tháng 9/1945, 18 vạn quân Trung Hoa do Lư Hán và Tiêu Văn lãnh đạo vào giải giới Nhật. Lúc bấy giờ có hai lực lượng Cách mạng VN được TH ủng hộ là Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc). Hai lực lượng này tiến vào miền Bắc chậm mất 21 ngày, khi VM tạm thời đặt xong hệ thống chánh quyền các cấp. Trước sự việc đã rồi, Tiêu Văn đề nghị HCM cải tổ chánh phủ lâm thời, dành nhiều bộ và chức vụ cho Việt Cách và Việt Quốc. Ngày 19/11/45, Việt Minh, Việt Cách và Việt Quốc đồng ý chấm dứt xung đột thành lập chánh phủ liên hiệp quốc gia, thống nhất quân đội, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Ngày 2/3//1946 Quốc hội khai mạc gồm 300 đại biểu VM, 50 đại biểu VQ và 20 đại biểu VC, chánh phủ liên hiệp ra đời.
Trong lúc đó, tại trụ sở LHQ, Pháp và Trung Hoa thỏa thuận một số trao đổi quyền lợi đưa đến Hiệp ước Pháp Hoa được ký ngày 28/2/1946. Theo hiệp ước này, Pháp trả lại TH các nhượng địa mà triều đình Mãn Thanh giao cho Pháp hồi thế kỷ trước. Để đổi lại, quân Pháp sẽ thay quân Trung hoa ở Bắc vĩ tuyến 16. Đầu tháng 3/1946, Sainteny đại diện chánh phủ Pháp đến Hànội thảo luận với Chính phủ VNDCCH về việc thay quân TH và tương lai chính trị VN.
Các lãnh tụ Việt Quốc và Việt Cách kịch liệt phản đối Việt Minh đàm phán với Pháp, họ đòi “thắng hay là chết, chớ nhất định không điều đình”. Cuối cùng, ông HCM ký Hiệp ước Sơ bộ 6/3, Pháp công nhận nước VNDCCH là một nước tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chánh riêng và là một thành phần của Liên bang ĐD thuộc khối LHP. Riêng Nam bộ tạm thời do Pháp quản lý để chờ trưng cầu ý dân. Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý này. Cuộc đàm phán sau đó cũng bất thành. Đến cuối năm 1946, HCM ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, chấm dứt hoàn toàn mọi nổ lực nhằm giải quyết vấn đề VN bằng thương thuyết hòa bình.
Nỗi bất hạnh bắt đầu đổ lên đầu dân tộc, khởi đầu 30 năm chiến tranh, phát xuất từ sự mất đoàn kết vì mối bất đồng về đường lối đấu tranh giành độc lập. HCM giành được chánh quyền và đứng ra thương thuyết với Pháp là phù hợp với chủ trương của Đồng minh. Trong khi các lãnh tụ phe Quốc gia với lập trường cứng rắn “thắng hay chết, chớ nhất định không điều đình”, lên án VM phản bội dân tộc. Ông Hồ khôn ngoan khi thương thuyết với Pháp, ông dựa vào lập trường cứng rắn của phe Quốc gia, đòi Pháp phải thừa nhận VN độc lập và thống nhất đất nước ngay, nhằm chứng tỏ ông không phải là người phản bội dân tộc. Pháp chưa thể đáp ứng tức khắc đòi hỏi của VN, HCM liền phát động chiến tranh.
Lòng yêu nước cuồng nhiệt của phe Quốc gia đã giúp HCM thực hiện con đường của QTCS: giương ngọn cờ chống thực dân đế quốc, phát động phong trào giải phóng dân tộc sau Thế chiến II. Phe QG trở thành kẻ tử thù của CS, mối hận thù Quốc Cộng ngày càng phát triển trong suốt 60 năm qua. Rất nhiều người Quốc gia và nhóm Đệ tứ tranh đấu đã bị CS sát hại ngay trong những năm đầu kháng chiến
Trước khi chánh phủ liên hiệp tan vỡ, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, một số lãnh tụ phe Quốc gia chạy sang Hồng Kông, thành lập Mặt trận Quốc gia. Họ ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại và khuyên ông ta lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập thông qua con đường thương lượng với Pháp. Hai năm sau, Hiệp ước Elysée ra đời (8/3/1949). Pháp chính thức nhìn nhận VN là một quốc gia độc lập thống nhất thuộc khối LHP, có chủ quyền ngoại giao và nội trị, có quân đội và tư pháp riêng. Tuy nhiên chủ quyền thực sự vẫn còn nhiều hạn chế vì tình trạng chiến tranh với VM. Ngày 24/4/1949 Hội đồng Đại biểu Nam Kỳ bỏ phiếu chấp nhận sáp nhập Nam Kỳ vào Quốc gia VN. Quyết nghị được Quốc hội Pháp thông qua. Quốc gia VN chính thức ra đời ngày 1/7/1949.
Sáu tháng sau, Mao Trạch Đông chiến thắng Hoa Lục và công nhận nước VNDCCH, tiếp theo là Liên Xô và các nước CS Đông Âu. Tháng Hai 1951, chính cương của Đảng Lao động VN được Đại hội toàn quốc của đảng lần thứ II thông qua xác nhận “Việt Nam là tiền đồn phe Xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”. Đầu tháng Hai 1950, HK và các nước Tây phương công nhận Quốc gia VN. Khi đắc cử tổng thống, Eisenhower tuyên bố chiến tranh ĐD không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “chiến tranh giữa QTCS và TGTD”.
Đất nước đã chính thức trở thành nơi đọ sức của hai hệ thống chánh trị xã hội đối lập hình thành sau TC II. Cuộc chiến có nguy cơ bùng nổ lớn khiến các cường quốc quyết định chia cắt VN, hồi tháng 7/1954 tại Genève, để bảo vệ hòa bình thế giới.
Sau HĐ Genève 1954, tình thế Miền Nam vô cùng thuận lợi: đất nước hòa bình và độc lập hoàn toàn. Tháng 11/1956, Mao Trạch Đông nói với giới lãnh đạo CSVN: “Tình trạng nước VN bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ…Nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”. Tháng 7/1957, Mao còn nói thêm: “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải giữ vĩ tuyến 17…Thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt”. Còn LX, vì quyền lợi quốc gia, từ 1956 Khrushchev chủ trương hòa hoãn với Mỹ qua chiêu bài chung sống hòa bình. LX không những từ chối lời yêu cầu của Hànội đòi phải tổ chức tổng tuyển cử, mà còn đề nghị thu nhận cả hai miền Nam Bắc vào LHQ với lý do: ở VN có hai chánh quyền riêng biệt tồn tại. Riêng HK, họ coi MNVN như là thí điểm của sự phồn thịnh và dân chủ ở Á châu. Từ 1955, HK bắt đầu viện trợ kinh tế, giáo dục và kỹ thuật nhằm tạo sự phồn thịnh cho NVN, giúp phần đất này có điều kiện đi vào con đường không cộng sản với một chánh quyền có khả năng phát triển đất nước theo chiều hướng tự do.
Được ưu thế về thiên thời và địa lợi, nhưng MN lại thiếu yếu tố nhân hòa vì ông Diệm không hiểu rõ tình thế đặc biệt của đất nước để chiêu hiền đãi sĩ. Lực lượng vũ trang Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên là các đoàn thể yêu nước nổi lên trong thời kháng chiến chống Pháp. Họ từng hợp tác với VM và bị CS chèn ép tiêu diệt, nên khi QGVN ra đời, một số ra hợp tác có điều kiện với chánh quyền quốc gia. Một số khác vừa chống Pháp nhưng đôi khi hợp tác giai đoạn và nhận vũ khí của Pháp để chống VM. Ngoài ra còn có một đại bộ phận nhân dân đã tham gia kháng chiến vì lòng yêu nước. Chiến tranh chấm dứt, trên 80 ngàn cán bộ VM tập kết ra Bắc. Người ra đi cũng như người thân ở lại, đều hi vọng ngày đoàn tụ, sau cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước dự trù tổ chức năm 1956. Vì thế họ tham gia các phong trào đòi hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đó là tình cảm chân thành. Nhưng ông Diệm coi những ai từng theo VM, những ai tham gia các phong trào đòi hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử đều là CS hoặc tay sai CS, phải bị trừng phạt.
Trong thời gian ngắn, ông Diệm đã biến MN từ một vùng đất hỗn loạn về chánh trị, trở thành một quốc gia có chủ quyền được trên 50 quốc gia trên thế giới thừa nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Đó là thành tựu đáng kể, nhưng ông không tranh thủ lòng dân, tạo thế nhân hòa. Thiếu điều kiện này, MN không thể ổn định để phát triển đất nước vững mạnh, hầu tồn tại lâu dài như hai nước đồng cảnh ngộ là Tây Đức và Nam Hàn. Trái lại, còn đào sâu thêm mối hận thù, giúp CS khuấy động gây ra chiến tranh.
Để phát động cuộc chiến tranh mới, ông HCM lại lợi dụng nhiệt tình yêu nước của nhân dân, nêu ra nghĩa vụ dân tộc, giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thực dân mới của HK. Người nông dân với bản chất yêu nước nên họ có cảm tình với MTGP. Họ cho rằng mặt trận là một phong trào yêu nước, lãnh đạo cuộc chiến đấu giành độc lập chớ không nghĩ rằng đó là một tổ chức do CS dựng lên để thôn tính MN. Cương lĩnh MT không hề tuyên truyền cho CNCS, chỉ hô hào đấu tranh giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ tay sai của Mỹ, thành lập chánh quyền dân chủ độc lập và trung lập ở MN.
Nhóm Caravelle gồm 18 nhân sĩ tiến bộ đã ý thức được hiểm họa này. Tháng 4/1960 họ đã gởi bản tuyên ngôn kêu gọi TT Diệm “gấp rút thay đổi chính sách để cứu vãn tình thế, bảo vệ chế độ cộng hòa và sự sống còn của quốc gia”. Đại sứ Mỹ Durbrow cũng bắt đầu áp lực TT Diệm cải tổ chính sách và chế độ. Diệm cho rằng Durbrow đã vượt quá quyền hạn một đại sứ, muốn trở thành cố vấn tối cao của chính phủ nên ông không muốn tiếp xúc và thảo luận với y nữa. Mối giao tiếp hai bên càng căng thẳng từ sau cuộc đảo chính của đại tá Nguyễn Chánh Thi, mà ông Diệm đoan quyết là do HK chủ xướng. Diệm bắt đầu trấn áp những người bất đồng chính kiến với ông. Ông Diệm càng độc tài, CS càng lớn mạnh, áp lực của Mỹ càng gia tăng, cuối cùng là cuộc đảo chánh 1/11/1963.
Ba tháng sau, một số sĩ quan cấp tá thuộc đảng Đại Việt tổ chức chỉnh lý để đưa Lãnh tụ Đại Việt là Bs Nguyễn Tôn Hoàn từ Pháp về làm thủ tướng… Nhưng tướng Nguyễn Khánh lợi dụng cơ hội dành chức thủ tướng, Bs Hoàn -Phó thủ tướng đặc trách bình định, Bs Phan Huy Quát (Đại Việt miền Bắc) và ông Hà Thúc Ký (Đại Việt miền Trung) làm tổng trưởng Ngoại giao và Nội vụ. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Chính trị học tại Paris, trở về nước tham chính với chức vụ Đổng lý văn phòng Phó Thủ tướng đặc trách bình định. Bất mãn thái độ võ biền của Nguyễn Khánh, ông Hà Thúc Ký muốn đảo chánh lật đổ Khánh… Nhưng Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Gs Nguyễn Ngọc Huy lại thấy rằng đảng Đại Việt chưa đủ thực lực để chi phối chính trường nên cần phải tạm thời hợp tác với tướng Khánh, nắm lấy cơ quan “bình định nông thôn” để phát triển đảng viên, bành trướng thế lực, tiêu diệt hạ tầng cơ sở Việt Cộng trước đã, rồi sẽ nắm lấy chánh quyền qua một cuộc bầu cử cho danh chánh ngôn thuận. Vì quan điểm và chủ trương dị biệt, ông Hà Thúc Ký tách rời khỏi đảng, thành lập đảng mới lấy tên là Đại Việt Cách mạng, còn nhóm Nguyễn Tôn Hoàn và Nguyễn Ngọc Huy cải tổ đảng và đổi tên là Tân Đại Việt. (Đỗ Mậu, Máu lửa Quê hương tôi, 1987, Tr.839-40)
Chủ nghĩa Quốc Gia khoa học và Phong trào Quốc gia Cấp tiến:
Nhìn lại giai đoạn lịch sử 1945-1964, đất nước chiến tranh rồi chia cắt, nhân tâm ly tán, đồng bào lầm than chỉ vì sự xung khắc của những khuynh hướng đều vì mục tiêu quốc gia dân tộc… Nhưng lại mù quáng độc đoán, cực đoan, hẹp hòi. Do đó khi về nước tham chính, Gs Nguyễn Ngọc Huy cố khai triển thuyết dân tộc sinh tồn của đảng trưởng Trương Tử Anh thành chủ nghĩa quốc-gia khoa học để xây dựng một nước Đại Việt hùng mạnh. Theo giáo sư, sự sinh tồn của mỗi cá nhân cũng như của tập thể dân tộc phải tùy thuộc vào qui luật phát triển, phù họp với xu thế chung và đặc trưng của dân tộc, chớ không thể cưỡng ép sự sinh tồn bằng ý muốn cá nhân của người lãnh đạo. Nó phải xuất phát từ lòng dân, ý nguyện của dân, khởi xướng từ dân lên chớ không phải từ lãnh tụ xuống. Không thể xem quốc gia như là một thực thể thiêng liêng mà con người phải phụng sự một cách mù quáng. Trái lại quốc gia là một tổ chức đặt ra để giúp sự sinh tồn của con người. Nếu con người phải phụng sự quốc gia, đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết thì đó là vì quyền lợi quốc gia là quyền lợi của tất cả mọi người. Thuyết dân tộc sinh tồn đòi hỏi sự đoàn kết hợp tác và khoan dung giữa các lực lượng kết thành dân tộc. Mối giao tiếp giữa các lực lượng dân tộc dựa trên cơ sở tôn trọng dân chủ tự do, thượng tôn pháp luật. Bản chất của chế độ dân chủ là phải chấp nhận những thế lực đối kháng với nền dân chủ và tìm cách thuyết phục nó chớ không phải tiêu diệt nó.
Chiến thắng bị bỏ lỡ: Ngay từ đầu, Việt Minh và Việt Cộng sau này đã khống chế được nông thôn. Nơi đây đã cung cấp cho họ một nguồn nhân lực dồi dào để thực hiện chiến tranh du kích. Muốn thắng cuộc chiến này, phải tranh thủ người nông dân, tách họ khỏi sự kiểm soát của CS, mở cho họ thấy những triển vọng tốt đẹp hơn về tương lai. Phải tranh thủ dân bằng cách tìm hiểu họ muốn gì để thực hiện những ý nguyện của họ. Chính vì thế mà Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Gs Nguyễn Ngọc Huy đặt trọng tâm vào việc “bình định nông thôn”. Nhưng vì tình trạng chiến tranh, người dân nông thôn chưa hình dung được thế nào là sự phồn thịnh và dân chủ của Mỹ? Họ chỉ thấy bom đạn Mỹ vì nhiều vùng nông thôn là khu vực oanh kích tự do. Mãi đến sau biến cố Tết Mậu Thân, VNCH mới có thời cơ thuận lợi để tranh thủ “con tim và khối óc” người nông dân.
Các trận tổng công kích hồi Tết Mậu thân và các đợt tấn công trong năm 1968, gây cho Cộng quân những tổn thất nặng nề: 289 ngàn cán binh tử thương. Họ không còn lực lượng để khống chế địa bàn chiến lược nông thôn, phải rút chạy sang biên giới Miên. Đây là thời kỳ quật khởi của VNCH, chánh phủ ban hành lệnh tổng động viên, QLVNCH ngày càng gia tăng quân số để đảm nhận trách nhiệm phòng thủ và yểm trợ chương trình bình định nông thôn. HK bắt đầu rút quân và kết thúc chiến tranh tại bàn đàm phán.
Trong chiến dịch Phượng Hoàng, VNCH đã đánh bật hạ tầng cơ sở CS khỏi nông thôn. Từ 1969 đến 1971, đã có 21 ngàn cán bộ hạ tầng cơ sở bị giết, hơn 46 ngàn bị bắt hoặc ra hồi chánh. Tình hình an ninh được vãn hồi mau chóng. Lúc bấy giờ Sir Robert Thompson với tư cách cố vấn đặc biệt được Nixon cử sang VN để nhận định tình hình tại chỗ. Trong phúc trình, Thompson nhấn mạnh rằng ông ta “có thể đến nhiều vùng ở nông thôn MN một cách bình yên, những nơi mà trước đây đã nằm dưới quyền kiểm soát của VC rất nhiều năm”. (R.Nixon, The Real War, P. 117)
Tình hình an ninh ở nông thôn từng bước được vãn hồi, luật “Người cày có ruộng” ra đời. Người nông dân MN đã thực sự làm chủ mảnh đất mà họ đã đổi bằng chính mạng sống của họ. Sắc luật 26/3 (1970) dành cho những người trực canh được làm chủ mảnh ruộng mà họ đang canh tác. Đa số những tiểu điển chủ mới này là những nông dân đã bám ruộng, bám làng trong suốt những năm chiến tranh, con cháu họ đã bị CS bắt xung vào du kích và bộ đội, phần lớn đã bị hy sinh. Với phân bón máy cày và máy bơm được nhập cảng ồ ạt, với giống lúa Thần nông cho nhiều năng suất, với chánh sách nâng đỡ gíá lúa và miễn thuế 3 năm của chánh phủ, hầu hết nông dân trở thành phú nông hoặc tiểu điền chủ. Máy cày và các loại nông cơ đã thấy nhan nhản trên đồng ruộng MN. Chỉ riêng tỉnh An Giang đã có đến 25 ngàn máy cày đủ loại, từ thứ nhỏ 7 mã lực đến thứ lớn 60 đến 80 mã lực. (Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của VNCH, Nhóm Nghiên cứu Sử Địa, Montreal, 1979, Tr.86)
Song song với chương trình “Người cày có ruộng” đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn MN… HK còn xúc tiến công trình điện khí hóa nông thôn phối hợp với việc tái thiết và canh tân hệ thống cầu cống xa lộ toàn MN. Xa lộ nối liền Sàigòn với các tỉnh miền Trung kéo dài tới Quảng Trị. Xa lộ nối liền Sàigòn với Bình Long, Tây Ninh, Vũng Tàu và các tỉnh Hậu Giang. Các khu kỹ nghệ, các công trình đầu tư xây dựng mọc lên khắp nơi. Tất cả những nỗ lực trên minh chứng cho sức mạnh và chánh nghĩa của người Quốc gia nhằm phục vụ cho cuộc tuyển cử thực hiện quyền tự quyết của nhân dân MN sẽ được đề cập đến trong bản hiệp định Paris và xa hơn nữa trong cuộc tuyển cử thống nhất đất nước.
Đầu năm 1969, sau khi VNCH tham gia hòa đàm Paris, Phong trào Quốc gia Cấp tiến ra đời do Gs Nguyễn Văn Bông -Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh làm Chủ tịch và Gs Nguyễn Ngọc Huy là Tổng thư ký. Đây là một tân chánh đảng có nhiều đảng viên là sĩ quan và công chức cao và trung cấp. Đặc biệt, số sinh viên tốt nghiệp Quốc gia Hành chánh, là học trò Gs Bông và Huy hiện đang làm Phó quận, vì thế họ có khả năng nắm được xã ấp. Ngoài ra Phong trào còn có một số dân cử thuộc khối Dân quyền trong Quốc hội. Trong hồi ký, cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tiết lộ, lúc bấy giờ “Hoa Kỳ muốn có một chánh phủ dân sự để đấu tranh chính trị với CS, do đó HK đang ủng hộ Gs Nguyễn Văn Bông ở chức vụ thủ tướng”. Ông Cẩn còn cho biết trong một buổi tiếp tân ngoại giao đoàn, một nhân vật Tòa Đại sứ HK đề nghị ông giúp Gs Huy, đảng trưởng Tân Đại Việt thành lập một tân chánh đảng. (Đất nước tôi, Tr.198-99)
Trong khi đó, các lãnh tụ MTGPMN nhận thấy lực lượng vũ trang của họ gần như tan rã, địa bàn chiến lược nông thôn đã bị quân đội Quốc gia kiểm soát. Vì thế họ không đồng ý chủ trương của Hànội là “vừa đánh vừa đàm” để từng bước củng cố lại thực lực, chủ yếu là quân miền Bắc xâm nhập. Tại bàn hòa đàm Paris, MTGP đưa ra đề nghị: “Công việc miền Nam do nhân miền Nam quyết định, không có sự can thiệp của bên ngoài”. Nhờ đó, đã khai thông các bế tắc đưa cuộc đàm phán đến thành công. HĐ Paris ra đời, HK rút hết quân khỏi MN, nhân dân MN sẽ quyết định công việc nội của họ thông qua cuộc tổng tuyển cử tự do có quốc tế giám sát. Sau đó, theo tinh thần điều 15 của HĐ: “Việc thống nhất nước VN sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam VN, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài”.
Sau khi HĐ Paris ra đời, từ 19/3/1973, hai phái đoàn VNCH và Cộng Hòa MNVN đã gặp nhau tại hội nghị La Celle Saint Cloud để bàn vấn đề thành lập Hội đồng Quốc Gia Hòa Giải hòa hợp dân tộc. Đây là cơ quan gồm ba thành phần ngang nhau đứng ra tổ chức cuộc tổng tuyển cử để nhân dân MN quyết định tương lai chính trị MN. Chánh phủ VNCH khăng khăng đòi CSBV phải rút hết quân về Bắc, sau đó tổ chức tổng tuyển cử bầu tổng thống và HĐHGDT. Tổng thống và HĐHGDT sẽ quyết định thể chế mới cho Miền Nam. Chánh phủ Cách mạng lâm thời bác bỏ đề nghị đó, họ không chịu thảo luận những vấn đề nào không được ghi trong văn bản ký kết. Họ đề nghị hai bên chọn người tham gia HĐHGDT như hiệp định qui định, để tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và Quốc hội này sẽ soạn thảo hiến pháp cho MNVN. (Nguyễn Khắc Ngữ, Sđd, Tr. 155)
TT Nixon cũng mong muốn VNCH thi hành hiệp định, thành lập HĐHGDT nhân dịp TT Thiệu viếng thăm HK hồi đầu tháng 4/1973. Nixon cam kết sẽ viện trợ đầy đủ cho VNCH mỗi năm 1800 triệu mỹ kim về quân sự và 800 triệu để yểm trợ cho những kế hoạch kinh tế dài hạn sau chiến tranh. Quốc hội không chấp nhận viện trợ để tiếp tục chiến tranh.
Gs Huy là thành viên phái đoàn VNCH tại đàm phán Paris năm 1969-1970 và tại La Celle Saint Cloud năm 1973, ông đã thấy MTGP thành tâm muốn cùng chánh phủ Sàigòn sớm giải quyết vấn đề MN một cách êm đẹp, nếu không MN sẽ lọt vào tay CSBV. Ông bày tỏ sự lạc quan trong buổi tường trình về diễn tiến hòa đàm tại Bá Lê trước các đại diện dân cử tại Dinh Độc Lập hồi đầu 1970. Ông tin tưởng hòa bình sẽ đến và VNCH sẽ phải ngồi cùng bàn với MTGP để nói chuyện về tương lai chánh trị MN. Ts Phan văn Song tiết lộ, hồi cuối năm 1972, ông có đến gặp Gs Huy trình bày dự án thành lập Trường Đại học Quản trị và Kinh Thương Minh Trí. Trong dịp này, “Chú Ba nói rất nhiều, phân tích tình hình chính trị và tin tưởng miền Nam sẽ còn, trong một thể chế nào chưa biết, nhưng người miền Nam phía VNCH và người miền Nam phía Việt Cộng có thể nói chuyện để xây dựng miền Nam, vì vậy một cơ sở giáo dục Đại Học sẽ là nơi xây dựng tương lai của VNCH và cũng của Phong trào Quốc gia Cấp tiến và Đại Việt”. (Nhớ Chú Ba Huy, Gs NNH, Nhà chí sĩ thời đại, Sđd, Tr.183)
Từ khi hòa đàm Paris khai diễn đến khi HĐ Paris ra đời, hầu như các khuynh hướng chính trị tại miền Nam từ những người CS cấp tiến thuộc MTGPMN, đến Lực lượng thứ ba, những người chủ trương Hòa giải dân tộc, kể một số lớn quân nhân công chức trong chánh quyền quốc gia, các đảng phái đối lập tại quốc hội… đều mong muốn hòa bình và kỳ vọng VNCH sẽ thắng CS bằng con đường chánh trị. Nhưng bất hạnh cho dân tộc, ý nguyện lớn của đông đảo đồng bào bị người lãnh đạo độc tài độc đoán cản trở. HĐ Paris mang lại thắng lợi cho cả ba bên VN: hòa bình, dân chủ tự do và thống nhất đất nước. HK chấm dứt trách nhiệm. Đây là thời điểm thuận lợi để phe Quốc gia gặt hái thắng lợi. Nhưng ông Thiệu lại muốn tiếp tục chiến tranh để tiêu diệt đến người CS cuối cùng. HK rút khỏi miền Nam, nhưng hãy cung cấp vũ khí để VNCH tiếp tục chiến đấu. Viện trợ nhiều thì giữ nhiều, viện trợ ít thì giữ ít. Thử hỏi người lính miền Bắc vì bạo lực thúc đẩy, buộc họ lao vào cuộc chiến như những con thiêu thân, chả lẽ người Quốc gia cũng mù quáng, người lính Cộng hòa cùng người lính miền Bắc ôm nhau tự sát bằng súng đạn hay sao?
Điều đau đớn của cả dân tộc là nếu hiệp định Paris được thi hành, ý nguyện của toàn dân thắng, miền Nam đã có dân chủ tự do và phồn vinh vì nơi đây là chiếc tủ kính trưng bày sự phồn vinh và nền tự do của Mỹ. Rồi đất nước cũng sẽ thống nhất, trễ lắm cũng cùng thời điểm với nước Đức hồi năm 1989. Trái lại, hiệp định không được thi hành, đất nước thống nhất -song dân chủ tự do thì không biết đến ngày nào mới có. Nhưng có điều rõ rệt là kinh tế ngày càng tụt hậu. Năm 1975, Sàigòn ngang hàng với Bangkok, đến năm 1992, Việt Nam tụt lại sau Thái Lan 20 năm và nay năm 2007, VN phải cần 40 năm nữa mới đuổi kịp Thái Lan. Đó là những nhận xét của lãnh tụ Singapore Lý Quang Diệu.
Kết luận: Sau biến cố 30/4/1975, trên bước đường lưu vong, Gs Nguyễn Ngọc Huy thành lập LMDCVN và Ủy ban Quốc tế Yểm trợ VN tự do. Đây là hai di sản quí báu mà ông để lại cho người đồng chí thân cận Nguyễn Đình Huy làm cơ sở thành lập Phong trào thống nhất dân tộc và xây dựng dân chủ hồi năm 1993. Phong trào chủ trương xóa bỏ hận thù, dấn thân vào cuộc đấu tranh mới mà đối tượng cần phải bị tiêu diệt là nạn chia rẽ và nghèo khổ: đó là hai kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc hiện nay. Muốn chấm dứt tê nạn này, phong trào chủ trương: “phải thiết lập một định chế dân chủ và để nhân dân phán xét ai đúng ai sai qua các cuộc bầu cử tự do, chớ không ai có quyền tự ban cho mình là chân lý”.
Mười bốn năm sau, năm 2007, người CS “cấp tiến” Võ Văn Kiệt khẳng định ông là một “người quốc gia yêu nước đi theo chủ nghĩa cộng sản”. Ông cho biết “Thật ra, hồi chúng tôi mới giác ngộ đi theo cách mạng, lý tưởng thế giới đại đồng mạnh mẽ lắm. Nhưng từ khi làm cách mạng đến bây giờ, tôi tự hào là đã chiến đấu vì lợi ích dân tộc, vì lợi ích đất nước”. Lời nói trên của người CS “cấp tiến” khiến đồng bào nhớ lại câu nói của người Quốc gia “cấp tiến” Nguyễn Ngọc Huy trong quyển Chủ nghĩa Dân tộc sinh tồn: “Nếu người dân phải phụng sự quốc gia, đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết thì đó là vì quyền lợi quyền lợi quốc gia là quyền lợi của tất cả mọi người”. Đồng bào tha thiết kêu gọi những lãnh tụ Đảng CSVN đã đặt lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước lên trên hết, thì xin quý vị nhớ lại lời hứa của ông HCM “sẽ đặt quyền lợi của giai cấp dưới quyền lợi của dân tộc” khi ông kêu gọi toàn dân tham gia Mặt trận Việt Minh. Đảng CS cũng đã từng giải tán (11/11/1945) vì lý do “để củng cố nền độc lập nước nhà, cần liên hiệp các đảng phái không phân biệt giai cấp, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên quyền lợi của đảng và giai cấp”.
Hiện nay, ai cũng thấy rõ, kẻ thù nguy hiểm nhất của đất nước là sự chia rẽ và nghèo khổ. Chia rẽ là nguyên nhân đưa đến nghèo khổ. Cuộc xung đột “quốc cộng” đã tạo ra chia rẽ, gây biết bao thảm họa cho dân tộc. Ông Trần Bạch Đằng, một người CS cấp tiến- đã khẳng định “cái gọi là quốc cộng chưa cáo chung –nó còn sống tận hôm nay -1992- và sẽ còn sống lâu hơn nữa”. Nghĩa là sự chia rẽ và nghèo khổ còn dài dài. Để đưa đất nước tiến lên, Đảng CSVN hãy có một quyết định lịch sử, tuyên bố “sứ mạng giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà của Đảng CSVN đã hoàn tất, Đảng tuyên bố giải tán”.
Đất nước tụt hậu quá sâu rồi, Chỉ có con đường hòa giải mới đoàn kết được đồng bào trong ngoài nước, vào công cuộc phát triển kinh tế. Muốn hòa giải, phải xóa bỏ ngay ranh giới quốc cộng. Xin ông Kiệt nói thẳng: chúng tôi là ngườì quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc, còn các anh quốc gia theo chủ nghĩa quốc gia. Từ nay, chúng ta đều là người quốc gia theo chủ nghĩa quốc-gia dân-tộc, nói gọn là quốc-dân, chớ không còn quốc-cộng nữa. Tôi sẽ vận động Quốc hội, xóa bỏ ngay điều 4 trong Hiến pháp quy định “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.
Mong ông Kiệt và những lãnh tụ Đảng CS xuất thân từ MTGPMN trước đây, có một hành động hòa giải cụ thể với chánh giới HK và Người Việt tự do ở hải ngoại bằng lời tuyên bố: Việt Nam không những tôn trọng nhân quyền, tự do tôn giáo, mà còn “Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia” và “Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và tự do kinh doanh” như điều 11 của HĐ Paris 1973. Vì đó là cam kết của một thành viên MTGPMN chúng tôi -bà Nguyễn Thị Bình với Bộ trưởng Ngoại giao của Mỹ, VNDCCH và VNCH hồi năm 1973. Bản hiệp định đã được năm hội viên Thường trực Hội đồng Bảo An trong đó có Liên Xô và Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố tán thành trước sự hiện diện của ông TTK/ LHQ. Hiện nay bà Bình là thành viên duy nhất còn sống trong số bốn đại diện ký kết hiệp định lịch sử này. Bà phải được chứng kiến sự thực thi HĐ trước khi vĩnh viễn nằm xuống.
Rồi đây, Việt Nam sẽ cất cánh trong cuộc vùng vẫy mới, chạy đua cùng các thành viên khác của WTO. Việt Nam có đầy đủ tiềm lực xây dựng một nước Việt Nam mới (Tân Đại Việt) hùng mạnh nhất trong lịch sử, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, dân chủ tự do gắn liền với đất nước phồn vinh, toàn dân hạnh phúc, chớ không phải một Đại Việt dựa trên một cá nhân tài giỏi và một thể chế độc tài.
(Kỷ niệm ngày giỗ thứ 17 cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy 28/7/2007)
Lê Quế Lâm